Khái niệm, nguồn gốc ra đời của triết học, vấn đề cơ bản của triết học; Khái niệm, nguồn gốc ra đời của Triết học Mác-Lênin.

Triết học là hệ thống tri thức lý luận chung nhất của con người về thế giới, về vị trí,vai trò của con người trong thế giới ấy. Triết học nghiên cứu về các câu hỏi chung vàcơ bản về sự tồn tại, kiến thức, giá trị, lý trí, tâm trí và ngôn ngữ. Những câu hỏi nhưvậy thường được đặt ra là vấn đề cần nghiên cứu hoặc giải quyết. Phương pháp triếthọc bao gồm đặt câu hỏi, thảo luận phê bình, lập luận hợp lý và trình bày có hệ thống.Tài liệu giúp bạn tham khảo ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem.

lOMoARcPSD| 45438797
1. Khái niệm, nguồn gốc ra đời của triết học, vấn đề cơ bản của triết học; Khái
niệm, nguồn gốc ra đời của Triết học Mác-Lênin.
- Triết học là hệ thống tri thức lý luận chung nhất của con người về thế giới, về vị trí,
vai trò của con người trong thế giới ấy. Triết học nghiên cứu về các câu hỏi chung và
cơ bản về sự tồn tại, kiến thức, giá trị, lý trí, tâm trí và ngôn ngữ. Những câu hỏi như
vậy thường được đặt ra là vấn đề cần nghiên cứu hoặc giải quyết. Phương pháp triết
học bao gồm đặt câu hỏi, thảo luận phê bình, lập luận hợp lý và trình bày có hệ thống.
- Về nguồn gốc, triết học ra đời ở cả phương Đông và phương Tây từ khoảng thế kỷ
VIII đến thế kỷ VI TCN, tại các quốc gia văn minh cổ đại như: Hy Lạp, Ấn Độ, Trung
Quốc.
- Ở phương Tây, khái niệm triết học lần đầu tiên xuất hiện tại Hy Lạp với tên gọi
φιλοσοφία (philosophia) có nghĩa là “"love of wisdom” - “tình yêu đối với sự thông
thái” bởi nhà tư tưởng Hy Lạp cổ đại mang tên Pythagoras. Với người Hy Lạp, triết
học mang tính định hướng đồng thời cũng nhấn mạnh khát vọng tìm kiếm chân lý của
con người.
- Ở Trung Quốc, thuật ngữ triết học được bắt nguồn từ chữ triết và được hiểu là sự truy
tìm bản chất của đối tượng, là trí tuệ, sự hiểu biết sâu sắc của con người. Còn tại Ấn
Độ, darshanas (triết học) lại mang hàm ý là tri thức dựa trên lý trí, là con đường suy
ngẫm để dẫn dắt con người đến với lẽ phải.
- Nói tóm lại, ngay từ đầu, dù cho ở phương Đông hay phương Tây, triết học cũng đều
là hoạt động tinh thần biểu hiện khả năng nhận thức, đánh giá ca con người. Tồn tại
với tư cách là một hình thái ý thức xã hội.
2. Thế giới quan và các hình thức cơ bản của thế giới quan; Các hình thức phát
triển của chủ nghĩa duy vật, chủ nghĩa duy tâm trong lịch sử triết học; Phương pháp
biện chứng và phương pháp siêu hình.
- Các hình thức cơ bản của thế giới quan:
- + Thế giới quan huyền thoại là thế giới quan có nội dung kết hợp một cách tự nhiên
(không tự giác) giữa thực và ảo.
- + Thế giới quan tôn giáo là thế giới quan có niềm tin mãnh liệt vào sức mạnh của lực
lượng siêu nhiên đối với thế giới, đối với con người, được thể hiện thông qua hoạt
động có tổ chức để suy tôn, sùng bái các lực lượng siêu nhiên
- + Thế giới quan triết học là hệ thống những quan điểm có tính khái quát về thế giới về
vai trò của con người đối với thế giới thông qua hệ thống các khái niệm, phạm trù,
qui luật.
- Các hình thức phát triển của chủ nghĩa duy vật, chủ nghĩa duy tâm trong lịch sử triết
học.
- Chủ nghĩa duy vật là một trong những trường phái triết học lớn trong lịch sử, bao
gồm trong đó toàn bộ các học thuyết triết học được xây dựng trên lập trường duy vật
trong việc giải quyết vấn để cơ bản của triết học: vật chất là tính thứ nhất, ý thức hay
tinh thần chỉ là tính thứ hai của mọi tồn tại trong thế giới; cũng tức là thừa nhận và
lOMoARcPSD| 45438797
minh chứng rằng: suy đến cùng, bản chất và cơ sở của mọi tồn tại trong thế giới tự
nhiên và xã hội chính là vật chất.
Trong lịch sử triết học, chủ nghĩa duy vật đã phát triển qua ba hình thức - trình độ cơ
bản, đó là:
- + Chủ nghĩa duy vật chất phác với hình thức điển hình của nó là các học thuyết triết
học duy vật thời cổ ở Ấn Độ, Trung Quốc và Hy Lạp.
- + Chủ nghĩa duy vật siêu hình với hình thức điển hình của nó là các học thuyết triết
học duy vật thời cận đại (thế kỷ XVII-XVIII) ở các nước Tây Âu (tiêu biểu là chủ
nghĩa duy vật cận đại nước Anh và Pháp).
- + Chủ nghĩa duy vật biện chứng do C. Mác và Ph. Ăngghen sáng lập từ giữa thế kỷ
XIX.
- Trong lịch sử, chủ nghĩa duy tâm có hai hình thức cơ bản là chủ nghĩa duy tâm chủ
quan và chủ nghĩa duy tâm khách quan. Chủ nghĩa duy tâm chủ quan thừa nhận tính
thứ nhất của ý thức con người. Trong khi phủ nhận sự tồn tại khách quan của hiện
thực, chủ nghĩa duy tâm chủ quan khẳng định mọi sự vật, hiện tượng chỉ là "phức hợp
những cảm giảc" của cá nhân. Chủ nghĩa duy tâm khách quan cũng thừa nhận tinh thứ
nhất của tinh thần, ý thức nhưng tinh thần, ý thức ấy là tinh thần khách quan, ý thức
khách quan có trước, tồn tại độc lập với giới tự nhiên, với con người và thể hiện dưới
nhiều tên gọi khác nhau, như: "ý niệm tuyệt đối", "tinh thần tuyệt đối" hay "lý tính thế
giới", v.v.
- Phương pháp biện chứng và phương pháp siêu hình.
- Phương pháp siêu hình là phương pháp:
- + Nhận thức đối tượng ở trạng thái cô lập, tách rời đối tượng ra khỏi các chỉnh thể
khác và giữa các mặt đối lập nhau có một ranh giới tuyệt đối.
- + Nhận thức đối tượng ở trạng thái tĩnh tại; nếu có sự biến đổi thì đấy chỉ là sự biến
đổi về số lượng, nguyên nhân của sự biến đổi nằm ở bên ngoài đối tượng.
- Phương pháp siêu hình làm cho con người “chỉ nhìn thấy những sự vật riêng biệt mà
không nhìn thấy mối liên hệ qua lại giữa những sự vật ấy, chỉ nhìn thấy sự tồn tại của
những sự vật ấy mà không nhìn thấy sự phát sinh và sự tiêu vong của những sự vật
ấy, chỉ nhìn thấy trạng thái tĩnh của những sự vật ấy mà quên mất sự vận động của
những sự vật ấy, chỉ nhìn thấy cây mà không thấy rừng”.
- Phương pháp siêu hình bắt nguồn từ chỗ muốn nhận thức một đối tượng nào trước hết
con người cũng phải tách đối tượng ấy ra khỏi những mối liên hệ và nhận thức nó ở
trạng thái không biến đổi trong một không gian và thời gian xác định. Song phương
pháp siêu hình chỉ có tác dụng trong một phạm vi nhất định bởi hiện thực không rời
rạc và ngưng đọng như phương pháp này quan niệm.
- Phương pháp biện chứng là phương pháp:
lOMoARcPSD| 45438797
- + Nhận thức đối tượng ở trong các mối liên hệ với nhau, ảnh hưởng nhau, ràng buộc
nhau.
- + Nhận thức đối tượng ở trạng thái vận động biến đổi, nằm trong khuynh hướng
chung là phát triển. Đây là quá trình thay đổi về chất của các sự vật, hiện tượng mà
nguồn gốc của sự thay đổi ấy là đấu tranh của các mặt đối lập để giải quyết mâu
thuẫn nội tại của chúng.
- Như vậy phương pháp biện chứng thể hiện tư duy mềm dẻo, linh hoạt. Nó thừa nhận
trong những trường hợp cần thiết thì bên cạnh cái “hoặc là… hoặc là…” còn có cả cái
“vừa là… vừa là…” nữa; thừa nhận một chỉnh thể trong lúc vừa là nó lại vừa không
phải là nó; thừa nhận cái khẳng định và cái phủ định vừa loại trừ nhau lại vừa gắn bó
với nhau.
- Phương pháp biện chứng phản ánh hiện thực đúng như nó tồn tại. Nhờ vậy, phương
pháp tư duy biện chứng trở thành công cụ hữu hiệu giúp con người nhận thức và cải
tạo thế giới.
- Sự đối lập giữa phương pháp biện chứng và phương pháp siêu hình trong lịch sử triết
học chủ yếu về mặt nguyên tắc và phương pháp nhận thức thế giới khách quan. Trong
việc nghiên cứu của khoa học tự nhiên, thì vấn đề phân chia thế giới hiện thực thành
các thuộc tính, bộ phận, hệ thống tĩnh tại và tách rời nhau đều là những điều kiện cần
thiết cho nhận thức khoa học. Nhưng sẽ không đúng, nếu từ đó rút ra kết luận cho
rằng phép siêu hình là thế giới quan khoa học và đúng đắn nhất. Cần phải phân biệt
một bên là phương pháp trừu tượng hoá tạm thời cô lập sự vật và hiện tượng khỏi mối
liên hệ chung, tách khỏi sự vận động và phát triển để nghiên cứu chúng, với một bên
là phép siêu hình với tư cách là thế giới quan của triết học.
3. Quan điểm của Triết học Mác-Lênin về vật chất, các hình thức tồn tại của vật
chất (vận động); Nguồn gốc, bản chất, kết cấu của ý thức; Mối quan hệ biện chứng
giữa vật chất và ý thức.
- Quan điểm của triết học Mac-Lênin về vật chất: Lênin cho rằng vật chất là một phạm
trù triết học dùng để chỉ thực tại khác quan được đem lại cho con người trong cảm
giác, được cảm giác chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm
giác.
lOMoARcPSD| 45438797
- + Trước hết vật chất là cái tồn tại khách quan bên ngoài ý thức của con người và
không phụ thuộc vào ý thức. Đây chính là nội dung quan trọng nhất của quan điểm về
vật chất. Không phải là khi con người ý thức được một cái gì đó thì nó là vật ch ất mà
v ật chất là cái đã tồn tại một cách khách quan, như là trước khi các nhà vật lý tìm ra
các tia phóng xạ thì chúng đã tồn tại rồi,…
- + Thứ hai là con người có thể cảm giác được sự tồn tại khách quan của vật chất. Nếu
cái gì đó mà con người không thể cảm giác được thì nó không phải là vật chất, vật
chất nó luôn tồn tại trước ý thức của con người nhưng con người luôn có thể cảm giác
được nó.
- + Thứ ba là ý thức của con người chỉ là sự phản ánh thế giới hiện thực. Những điều
kiện vật chất cụ thể, hoàn cảnh cụ thể mà nó quyết định tới việc hình thành lên ý thức
của con người.
- Ăngghen định nghĩa: “Vận động hiểu theo nghĩa chung nhất, - tức được hiểu là một
phương thức tồn tại của vật chất, là một thuộc tính cố hưữ của vật chất – thì bao gồm
tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí
đơn giản cho đến tư duy”
- Theo quan niệm của Ăngghen: vận động không chỉ thuần túy là sự thay đổi vị trí
trong không gian mà là “mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ”, vận
động “là một phương thức tồn tại của vật chất, là một thuộc tính cố hữu của vật chất”
nên thông qua vận động mà các dạng cụ thể của vật chất biểu hiện sự tồn tại cụ thể
của mình; vận động của vật chất là tự thân vận động; và, sự tồn tại của vật chất luôn
gắn liền với vật chất.
- Dựa trên thành tựu khoa học trong thời đại mình, Ăngghen đã phân chia vận động
thành năm hình thức cơ bản: vận động cơ học, vận động vật lý, vận động hóa học,
vận động sinh học và vận động xã hội.
- Nguồn gốc của ý thức
- Ý thức có hai nguồn gốc là nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội.
- Nguồn gốc tự nhiên
- Nguồn gốc tự nhiên của ý thức được thể hiện qua sự hình thành của bộ óc con người
hoạt động của bộ óc đó cùng với mối quan hệ giữa con người với thế giới khách
quan; trong đó, thế giới khách quan tác động đến bộ óc con người tạo ra quá trình phản
ánh sáng tạo, năng động.
lOMoARcPSD| 45438797
- Về bộ óc người: Ý thức thuộc tính của một dạng vật chất tổ chức cao bộ óc
người, là chức năng của bộ óc, là kết quả hoạt động sinh lý thần kinh của bộ óc. Bộ óc
càng hoàn thiện, hoạt động sinh thần kinh của bộ óc càng hiệu quả, ý thức của
con người càng phong phú và sâu sắc. Điều này lý giải tại sao quá trình tiến hóa
của loài người cũng quá trình phát triển năng lực của nhận thức, của duy tại
sao đời sống tinh thần của con người bị rối loạn khi sinh thần kinh của con người
không bình thường do bị tổn thương bộ óc.
- Về mối quan hệ giữa con người với thế giới kch quan tạo ra quá trình phản ánh năng
động, sáng tạo: Quan hệ giữa con người với thế giới khách quan quan hệ tất yếu
ngay từ khi con người xuất hiện. Trong mối quan hệ này, thế giới khách quan, thông
qua hoạt động của các giác quan đã tác động đến bộ óc người, hình thành nên quá trình
phản ánh.
- Phản ánh sự tái tạo những đặc điểm của dạng vật chất này dạng vật chất khác
trong quá trình tác động qua lại lẫn nhau giữa chúng. Những đặc điểm được tái tạo ở
dạng vật chất chịu sự tác động bao giờ cũng mang thông tin của dạng vật chất tác động.
Những đặc điểm mang thông tin ấy được gọi là cái phản ánh. Cái phản ánh và cái được
phản ánh không tách rời nhau nhưng không đồng nhất với nhau. Cái được phản ánh là
những dạng cụ thể của vật chất, còn cái phản ánh chỉ là đặc điểm chứa đựng thông tin
của dạng vật chất đó (cái được phản ánh) ở một dạng vật chất khác (dạng vật chất nhận
sự tác động).
- Phản ánh thuộc tính của tất cả các dạng vật chất, song phản ánh được thể hiện dưới
nhiều hình thức. Những hình thức này tương ứng với quá trình tiến hóa của vật chất.
- Phản ánh vật lý, hóa học hình thức thấp nhất, đặc trưng cho vật chất sinh. Phản
ánh vật lý, hóa học thể hiện qua những biến đổi về cơ, lý, hóa khi sự tác động qua
lại lẫn nhau giữa các dạng vật chất sinh. Hình thức phản ánh này mang tính thụ
động, chưa có định hướng lựa chọn của vật nhận tác động.
- Phản ánh sinh học hình thức phản ánh cao hơn, đặc trưng cho giới tự nhiên hữu sinh.
Tương ứng với quá trình phát triển của giới tự nhiên hữu sinh, phản ánh sinh học được
thể hiện qua tính kích thích, nh cảm ứng, phản xạ. Tính kích thích phản ứng của
thực vật động vật bậc thấp bằng cách thay đổi chiều hướng sinh trưởng, phát triển,
thay đổi màu sắc, thay đổi cấu trúc…khi nhận sự tác động trong môi trường sống. Tính
cảm ứng là phản ứng của động vật có hệ thần kinh tạo ra năng lực cảm giác, được thực
hiện trên cơ sở điều khiển của quá trình thần kinh qua cơ chế phản xạ không điều kiện,
khi có sự tác động từ bên ngoài môi trường lên cơ thể sống.
- Phản ánh tâm là phản ứng của động vật có hệ thần kinh trung ương được thực hiện
trên cơ sở điều khiển của hệ thần kinh qua cơ chế phản xạ có điều kiện.
- Phản ánh năng động sáng tạo là hình thức phản ánh cao nhất trong các hình thức phản
ánh, nó chỉ được thực hiện ở dạng vật chất có tổ chức cao nhất, có tổ chức cao nhất là
lOMoARcPSD| 45438797
bộ óc người. Phản ánh năng động, sáng tạo được thực hiện qua quá trình hoạt động sinh
thần kinh của bộ não người khi thế giới khách quan tác động lên các giác quan của
con người. Đây là sự phản ánh có tính chủ động lựa chọn thông tin, xử lý thông tin để
tạo ra những thông tin mới, phát hiện ý nghĩa của thông tin. Sự phản ánh sáng tạo năng
động này được gọi là ý thức.
- Nguồn gốc xã hội
- Nguồn gốc hội của ý thức lao động ngôn ngữ. hai yếu tố này vừa nguồn
gốc, vừa là tiền đề của sự ra đời ý thức.
- Lao động là quá trình con người sử dụng công cụ tác động vào giới tự nhiên nhằm thay
đổi giới tự nhiên cho phù hợp với nhu cầu của con người; là quá trình trong đó bản thân
con người đóng vai tmôi giới, điều tiết sự trao đổi vật chất giữa mình với giới tự
nhiên. Đây cũng qúa trình làm thay đổi cấu trúc thể, đem lại dáng đi thẳng bằng
hai chân, giải phóng hai tay, phát triển khí quan, phát triển bộ não,… của con người.
Trong quá trình lao động, con người tác động vào thế giới khách quan làm cho thế giới
khách quan bộc lộ những thuộc tính, những kết cấu, những quy luật vận động của nó,
biểu hiện thành những hiện tượng nhất định mà con người thể quan sát được. Những
hiện tượng ấy, thông qua hoạt động của các giác quan, tác động vào bộ óc người, thông
qua hoạt động của bộ não con người, tạo ra khả năng hình thành nên những tri thức nói
riêng và ý thức nói chung.
- Như vậy, sự ra đời của ý thức chủ yếu do hoạt động cải tạo thế giới khách quan thông
qua quá trình lao động.
- Ngôn ngữ hệ thống n hiệu vật chất chứa đựng thông tin mang nội dung ý thức.
Không có ngôn ngữ, ý thức không thể tồn tại và thể hiện.
- Sự ra đời của ngôn ngữ gắn liền với lao động. Lao động ngay từ đầu đã mang tính tập
thể. Mối quan hệ giữa các thành viên trong lao động nảy sinh họ nhu cầu phải
phương tiện để biểu đạt. Nhu cầu này làm ngôn ngữ nảy sinh phát triển ngay trong
quá trình lao động. Nhờ ngôn ngữ con người đã không chỉ giao tiếp, trao đổi còn
khái quát, tổng kết đúc kết thực tiễn, truyền đạt kinh nghiệm, truyền đạt tư tưởng từ thế
hệ này sang thế hệ khác.
- Như vậy, nguồn gốc trực tiếp quan trọng nhất quyết định sự ra đời và phát triển của ý
thức lao động. Sau lao động đồng thời với lao động ngôn ngữ; đó hai chất
kích thích chủ yếu làm cho bộ óc vượn dần dần chuyển hóa thành bộ óc người, khiến
cho tâm lý động vật dần dần chuyển hóa thành ý thức.
- Bản chất của ý thức.
lOMoARcPSD| 45438797
- Ý thức là sự phản ánh năng động, sáng tạo thế giới khách quan vào bộ óc con người;
là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.
- Tính chất năng động, sáng tạo của sự phản ánh ý thức được thể hiện khả năng hoạt
động tâm sinh của con người trong việc định hướng tiếp nhận thông tin, chọn lọc
thông tin, xử lý thông tin, lưu giữ thông tin trên sở những thông tin đã có nó
thể tạo ra những thông tin mới và phát hiện ý nghĩa của thông tin được tiếp nhận.
Tính chất năng động, sáng tạo của sự phản ánh ý thức còn được thể hiện quá trình
con người tạo ra những giả tưởng, giả thuyết, huyền thoại,.. trong đời sống tinh thần
của mình hoặc khái quát bản chất, quy luật khách quan, xây dựng các hình tưởng,
tri thức trong các hoạt động của con người.
- Ý thức hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan nghĩa là: ý thức hình ảnh về
thế giới khách quan, hình ảnh ấy bị thế giới khách quan quy định cả về nội dung, cả về
hình thức biểu hiện nhưng không còn y nguyên như thế giới khách quan đã
cải biến thông qua lăng kính chủ quan của con người. Theo Mác: ý thức “chẳng qua
chỉ vật chất được di chuyển vào trong đầu óc con người được cải biến đi trong
đó”.
- Ý thức một hiện tượng hội mang bản chất hội. Sự ra đời tồn tại của ý
thức gắn liền với hoạt động thực tiễn, chịu sự chi phối không chỉ của các quy luật sinh
học mà chủ yếu là của các quy luật xã hội, do nhu cầu giao tiếp xã hội và các điều kiện
sinh hoạt hiện thực của xã hội quy định. Với tính năng động, ý thức đã sáng tạo lại hiện
thực theo nhu cầu của thực tiễn xã hội.
- Kết cấu của ý thức
- Ý thức kết cấu cực kỳ phức tạp. nhiều ngành khoa học, nhiều cách tiếp cận, nghiên
cứu về kết cấu của ý thức.
- Theo các yếu tố hợp thành
- Theo cách tiếp cận này, ý thức bao gồm ba yếu tố cơ bản nhất là: tri thức, tình cảm
ý chí, trong đó tri thức là nhân tố quan trọng nhất. Ngoài ra ý thức còn có thể bao gồm
các yếu tố khác như niềm tin, lí trí,…
- Tri thức là toàn bộ những hiểu biết của con người, là kết quả của quá trình nhận thức,
là sự tái tạo lại hình ảnh của đối tượng được nhận thức dưới dạng các loại ngôn ngữ.
- Mọi hoạt động của con người đều có tri thức, được tri thức định hướng. Mọi biểu hiện
của ý thức đều chứa đựng nội dung tri thức. Tri thức là phương thức tồn tại của ý thức
lOMoARcPSD| 45438797
và là điều kiện để ý thức phát triển. Theo Mác: “phương thức mà theo đó ý thức tồn tại
và theo đó một cái gì đó tồn tại đối với ý thức là tri thức”.
- Căn cứ vào lĩnh vực nhận thức, tri thức thể chia thành nhiều loại như tri thức về tự
nhiên, tri thức về hội, tri thức nhân văn. Căn cứ vào trình độ phát triển của nhận
thức, tri thức thể chia thành tri thức đời thường tri thức khoa học, tri thức kinh
nghiệm và tri thức lý luận, tri thức cảm tính và tri thức lý tính,…
- Tình cảm những rung động biểu hiện thái độ con người trong các quan hệ. Tình cảm
một hình thái đặc biệt của sự phản ánh hiện thực, được hình thành từ sự khái quát
những cảm xúc cụ thể của con người khi nhận sự tác động của ngoại cảnh. Tình cảm
biểu hiện phát triển trong mọi lĩnh vực đời sống của con người; một yếu tố phát
huy sức mạnh, một động lực thúc đẩy hoạt động nhận thức thực tiễn. Lênin cho rằng:
không tình cảm thì “xưa nay không không thể sự tìm tòi chân ”; không
tình cảm thì không có một yếu tố thôi thúc những người sản nửa sản, những
công nhân và nông dân nghèo đi theo cách mạng.
- Tùy vào từng đối tượng nhận thức sự rung động của con người về đối tượng đó trong
các quan hệ mà hình thành nên các loại tình cảm khác nhau, như tình cảm đạo đức, nh
cảm thẩm mỹ, tình cảm tôn giáo,…
- Ý chí khả năng huy động sức mạnh bản thân để vượt qua những cản trở trong quá
trình thực hiện mục đích của con người. Ý chí được coi mặt năng động của ý thức,
một biểu hiện của ý thức trong thực tiễn ở đó con người tự giác được mục đích ca
hoạt động nên tự đấu tranh với mình để thực hiện đến cùng mục đích đã lựa chọn.
thể coi ý chí là quyền lực của con người đối với mình; nó điều khiển, điều chỉnh hành
vi để con người hướng đến mục đích một cách tự giác; cho phép con người tự kìm
chế, tự làm chủ bản thân quyết đoán trong hành động theo quan điểm niềm tin
của mình. Giá trị chân chính của ý chí không chỉ thể hiện ở cường độ của nó mạnh hay
yếu mà chủ yếu thể hiện ở nội dung, ý nghĩa của mục đích mà ý chí hướng đến. Lênin
cho rằng: ý chí là một trong những yếu tố tạo nên sự nghiệp cách mạng của hàng triệu
người trong cuộc đấu tranh giai cấp quyết liệt nhằm giải phóng mình, giải phóng nhân
loại.
- Tất cả các yếu tố tạo thành ý thức có mối quan hệ biện chứng với nhau song tri thức là
yếu tố quan trọng nhất; phương thức tồn tại của ý thức, đồng thời nhân tố định
hướng đối với sự phát triển và quyết định mức độ biểu hiện của các yếu tố khác
- Theo chiều sâu của nội tâm
- Tiếp cận theo chiều sâu của thế giới nội tâm con người, ý thức bao gồm tự ý thức, tiềm
thức, vô thức.
Tự ý thức:
lOMoARcPSD| 45438797
- Trong quá trình nhận thức thế giới xung quanh, con người đồng thời cũng tự nhận thức
bản thân mình. Đó chính tự ý thức. Như vậy, tự ý thức cũng ý thức, là một thành
tố quan trọng của ý thức, nhưng đây là ý thức về bản thân mình trong mối quan hệ với
ý thức về thế giới bên ngoài. Nhờ vậy con người tự nhận thức về bản thân mình như
một thực thể hoạt động có cảm giác có duy, có các hành vi đạo đức và có vị trí trong
xã hội. Những cảm giác của con người về bản thân mình trên mọi phương diện giữ vai
trò quan trọng trong việc hình thành tự ý thức. Con người chỉ tự ý thức được bản thân
mình trong quan hệ với những người khác, trong quá trình hoạt động cải tạo thế giới.
Chính trong quan hệ xã hội, trong hoạt động thực tiễn xã hội và qua những giá trị văn
hóa vật chất và tinh thần do chính con người tạo ra, con người phải
tự ý thức về nh để nhận bản thân mình, tự điều chỉnh bản thân theo các quy tắc,
các tiêu chuẩn mà xã hội đề ra.
- Tự ý thức không chỉ là tự ý thức của cá nhân mà còn là tự ý thức của cả hội, của một
giai cấp hay của một tầng lớp xã hội về địa vị của mình trong hệ thống những quan hệ
sản xuất xác định, về tưởng lợi ích chung của xã hội mình, của giai cấp mình, hay
của tầng lớp mình.
Tiềm thức:
- những hoạt động tâm tự động diễn ra bên ngoài sự kiểm soát của chủ thể, song
lại có liên quan trực tiếp đến các hoạt động tâm lý đang diễn ra dưới sự kiểm soát của
chủ thể ấy. Về thực chất, tiềm thức những tri thức chủ thể đã được từ trước
nhưng đã gần như trở thành bản năng, thành kỹ năng nằm trong tầng sâu của ý thức
chủ thể, ý thức ới dạng tiềm tàng. Do đó, tiềm thức thể chủ động gây ra các
hoạt động tâm nhận thức chủ thể không cần kiểm soát chúng một cách trực
tiếp. Tiềm thức vai trò quan trọng cả trong hoạt động tâm hàng ngày của con
người, ctrong tư duy khoa học. Trong tư duy khoa học, tiềm thức chủ yếu gắn với các
loại hình duy chính xác, với các hoạt động duy thường được lặp đi lặp lại nhiều
lần. ở đây tiềm thức góp phần giảm sự quá tải của đầu óc trong việc xử khối lượng
lớn các tài liệu, dữ kiện, tin tức diễn ra một cách lặp đi lặp lại mà vẫn đảm bảo được độ
chính xác và chặt chẽ cần thiết của tư duy khoa học.
Vô thức:
- thức những trạng thái tâm chiều sâu, điều chỉnh sự suy nghĩ, hành vi, thái
độ ứng xử của con người mà chưa có sự tranh luận của nội tâm, chưa có sự truyền tin
bên trong, chưa có sự kiểm tra, tính toán của lý trí.
- thức biểu hiện thành nhiều hiện tượng khác nhau như bản năng ham muốn, giấc
mơ, bị thôi miên, mặc cảm, sự lỡ lời, nói nhịu, trực giác… Mỗi hiện tượng ấy có vùng
hoạt động riêng, vai trò, chức năng riêng, song tất cả đều một chức năng chung
giải tỏa những ức chế trong hoạt động thần kinh vượt ngưỡng nhất những ham
muốn bản năng không được phép bộc lộ ra thực hiện trong quy tắc của đời sống
lOMoARcPSD| 45438797
cộng đồng. góp phần lập lại thế cân bằng trong hoạt động tinh thần của con người
mà không dẫn tới trạng thái ức chế quá mức như ấm ức, “libiđo”…
- Như vậy, thức vai trò tác dụng nhất định trong đời sống hoạt động của con
người. Nhờ vô thức mà con người tránh được nh trạng căng thẳng không cần thiết khi
làm việc “quá tải”. Nhờ thức chuẩn mực con người đặt ra được thực hiện một
cách tự nhiên… vậy, không thể phủ nhận vai tcái thức trong cuộc sống, nếu
phủ nhận vô thức sẽ không thể hiểu đầy đủ và đúng đắn về con người.
- Tuy nhiên không nên cường điệu, tuyệt đối hóa thần thức. Không nên coi
thức hiện tượng tâm lập, hoàn toàn ch khỏi hoàn cảnh hội xung quanh
không liên quan đến ý thức. Thực ra, thức thức nằm trong con người ý
thức. Giữ vai trò chủ đạo trong con người là ý thức chứ không phải vô thức. Nhờ có ý
thức mới điều khiển được các hiện tượng thức hướng tới chân, thiện, mỹ. thức
chỉ là một mắt khâu trong cuộc sống có ý thức của con người.
| 1/10

Preview text:

lOMoAR cPSD| 45438797
1. Khái niệm, nguồn gốc ra đời của triết học, vấn đề cơ bản của triết học; Khái
niệm, nguồn gốc ra đời của Triết học Mác-Lênin.
- Triết học là hệ thống tri thức lý luận chung nhất của con người về thế giới, về vị trí,
vai trò của con người trong thế giới ấy. Triết học nghiên cứu về các câu hỏi chung và
cơ bản về sự tồn tại, kiến thức, giá trị, lý trí, tâm trí và ngôn ngữ. Những câu hỏi như
vậy thường được đặt ra là vấn đề cần nghiên cứu hoặc giải quyết. Phương pháp triết
học bao gồm đặt câu hỏi, thảo luận phê bình, lập luận hợp lý và trình bày có hệ thống.
- Về nguồn gốc, triết học ra đời ở cả phương Đông và phương Tây từ khoảng thế kỷ
VIII đến thế kỷ VI TCN, tại các quốc gia văn minh cổ đại như: Hy Lạp, Ấn Độ, Trung Quốc.
- Ở phương Tây, khái niệm triết học lần đầu tiên xuất hiện tại Hy Lạp với tên gọi
φιλοσοφία (philosophia) có nghĩa là “"love of wisdom” - “tình yêu đối với sự thông
thái” bởi nhà tư tưởng Hy Lạp cổ đại mang tên Pythagoras. Với người Hy Lạp, triết
học mang tính định hướng đồng thời cũng nhấn mạnh khát vọng tìm kiếm chân lý của con người.
- Ở Trung Quốc, thuật ngữ triết học được bắt nguồn từ chữ triết và được hiểu là sự truy
tìm bản chất của đối tượng, là trí tuệ, sự hiểu biết sâu sắc của con người. Còn tại Ấn
Độ, darshanas (triết học) lại mang hàm ý là tri thức dựa trên lý trí, là con đường suy
ngẫm để dẫn dắt con người đến với lẽ phải.
- Nói tóm lại, ngay từ đầu, dù cho ở phương Đông hay phương Tây, triết học cũng đều
là hoạt động tinh thần biểu hiện khả năng nhận thức, đánh giá của con người. Tồn tại
với tư cách là một hình thái ý thức xã hội.
2. Thế giới quan và các hình thức cơ bản của thế giới quan; Các hình thức phát
triển của chủ nghĩa duy vật, chủ nghĩa duy tâm trong lịch sử triết học; Phương pháp
biện chứng và phương pháp siêu hình.

- Các hình thức cơ bản của thế giới quan:
- + Thế giới quan huyền thoại là thế giới quan có nội dung kết hợp một cách tự nhiên
(không tự giác) giữa thực và ảo.
- + Thế giới quan tôn giáo là thế giới quan có niềm tin mãnh liệt vào sức mạnh của lực
lượng siêu nhiên đối với thế giới, đối với con người, được thể hiện thông qua hoạt
động có tổ chức để suy tôn, sùng bái các lực lượng siêu nhiên
- + Thế giới quan triết học là hệ thống những quan điểm có tính khái quát về thế giới về
vai trò của con người đối với thế giới thông qua hệ thống các khái niệm, phạm trù, qui luật.
- Các hình thức phát triển của chủ nghĩa duy vật, chủ nghĩa duy tâm trong lịch sử triết học.
- Chủ nghĩa duy vật là một trong những trường phái triết học lớn trong lịch sử, bao
gồm trong đó toàn bộ các học thuyết triết học được xây dựng trên lập trường duy vật
trong việc giải quyết vấn để cơ bản của triết học: vật chất là tính thứ nhất, ý thức hay
tinh thần chỉ là tính thứ hai của mọi tồn tại trong thế giới; cũng tức là thừa nhận và lOMoAR cPSD| 45438797
minh chứng rằng: suy đến cùng, bản chất và cơ sở của mọi tồn tại trong thế giới tự
nhiên và xã hội chính là vật chất.
Trong lịch sử triết học, chủ nghĩa duy vật đã phát triển qua ba hình thức - trình độ cơ bản, đó là:
- + Chủ nghĩa duy vật chất phác với hình thức điển hình của nó là các học thuyết triết
học duy vật thời cổ ở Ấn Độ, Trung Quốc và Hy Lạp.
- + Chủ nghĩa duy vật siêu hình với hình thức điển hình của nó là các học thuyết triết
học duy vật thời cận đại (thế kỷ XVII-XVIII) ở các nước Tây Âu (tiêu biểu là chủ
nghĩa duy vật cận đại nước Anh và Pháp).
- + Chủ nghĩa duy vật biện chứng do C. Mác và Ph. Ăngghen sáng lập từ giữa thế kỷ XIX.
- Trong lịch sử, chủ nghĩa duy tâm có hai hình thức cơ bản là chủ nghĩa duy tâm chủ
quan và chủ nghĩa duy tâm khách quan. Chủ nghĩa duy tâm chủ quan thừa nhận tính
thứ nhất của ý thức con người. Trong khi phủ nhận sự tồn tại khách quan của hiện
thực, chủ nghĩa duy tâm chủ quan khẳng định mọi sự vật, hiện tượng chỉ là "phức hợp
những cảm giảc" của cá nhân. Chủ nghĩa duy tâm khách quan cũng thừa nhận tinh thứ
nhất của tinh thần, ý thức nhưng tinh thần, ý thức ấy là tinh thần khách quan, ý thức
khách quan có trước, tồn tại độc lập với giới tự nhiên, với con người và thể hiện dưới
nhiều tên gọi khác nhau, như: "ý niệm tuyệt đối", "tinh thần tuyệt đối" hay "lý tính thế giới", v.v.
- Phương pháp biện chứng và phương pháp siêu hình.
- Phương pháp siêu hình là phương pháp:
- + Nhận thức đối tượng ở trạng thái cô lập, tách rời đối tượng ra khỏi các chỉnh thể
khác và giữa các mặt đối lập nhau có một ranh giới tuyệt đối.
- + Nhận thức đối tượng ở trạng thái tĩnh tại; nếu có sự biến đổi thì đấy chỉ là sự biến
đổi về số lượng, nguyên nhân của sự biến đổi nằm ở bên ngoài đối tượng.
- Phương pháp siêu hình làm cho con người “chỉ nhìn thấy những sự vật riêng biệt mà
không nhìn thấy mối liên hệ qua lại giữa những sự vật ấy, chỉ nhìn thấy sự tồn tại của
những sự vật ấy mà không nhìn thấy sự phát sinh và sự tiêu vong của những sự vật
ấy, chỉ nhìn thấy trạng thái tĩnh của những sự vật ấy mà quên mất sự vận động của
những sự vật ấy, chỉ nhìn thấy cây mà không thấy rừng”.
- Phương pháp siêu hình bắt nguồn từ chỗ muốn nhận thức một đối tượng nào trước hết
con người cũng phải tách đối tượng ấy ra khỏi những mối liên hệ và nhận thức nó ở
trạng thái không biến đổi trong một không gian và thời gian xác định. Song phương
pháp siêu hình chỉ có tác dụng trong một phạm vi nhất định bởi hiện thực không rời
rạc và ngưng đọng như phương pháp này quan niệm.
- Phương pháp biện chứng là phương pháp: lOMoAR cPSD| 45438797
- + Nhận thức đối tượng ở trong các mối liên hệ với nhau, ảnh hưởng nhau, ràng buộc nhau.
- + Nhận thức đối tượng ở trạng thái vận động biến đổi, nằm trong khuynh hướng
chung là phát triển. Đây là quá trình thay đổi về chất của các sự vật, hiện tượng mà
nguồn gốc của sự thay đổi ấy là đấu tranh của các mặt đối lập để giải quyết mâu
thuẫn nội tại của chúng.
- Như vậy phương pháp biện chứng thể hiện tư duy mềm dẻo, linh hoạt. Nó thừa nhận
trong những trường hợp cần thiết thì bên cạnh cái “hoặc là… hoặc là…” còn có cả cái
“vừa là… vừa là…” nữa; thừa nhận một chỉnh thể trong lúc vừa là nó lại vừa không
phải là nó; thừa nhận cái khẳng định và cái phủ định vừa loại trừ nhau lại vừa gắn bó với nhau.
- Phương pháp biện chứng phản ánh hiện thực đúng như nó tồn tại. Nhờ vậy, phương
pháp tư duy biện chứng trở thành công cụ hữu hiệu giúp con người nhận thức và cải tạo thế giới.
- Sự đối lập giữa phương pháp biện chứng và phương pháp siêu hình trong lịch sử triết
học chủ yếu về mặt nguyên tắc và phương pháp nhận thức thế giới khách quan. Trong
việc nghiên cứu của khoa học tự nhiên, thì vấn đề phân chia thế giới hiện thực thành
các thuộc tính, bộ phận, hệ thống tĩnh tại và tách rời nhau đều là những điều kiện cần
thiết cho nhận thức khoa học. Nhưng sẽ không đúng, nếu từ đó rút ra kết luận cho
rằng phép siêu hình là thế giới quan khoa học và đúng đắn nhất. Cần phải phân biệt
một bên là phương pháp trừu tượng hoá tạm thời cô lập sự vật và hiện tượng khỏi mối
liên hệ chung, tách khỏi sự vận động và phát triển để nghiên cứu chúng, với một bên
là phép siêu hình với tư cách là thế giới quan của triết học.
3. Quan điểm của Triết học Mác-Lênin về vật chất, các hình thức tồn tại của vật
chất (vận động); Nguồn gốc, bản chất, kết cấu của ý thức; Mối quan hệ biện chứng
giữa vật chất và ý thức.

- Quan điểm của triết học Mac-Lênin về vật chất: Lênin cho rằng vật chất là một phạm
trù triết học dùng để chỉ thực tại khác quan được đem lại cho con người trong cảm
giác, được cảm giác chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác. lOMoAR cPSD| 45438797
- + Trước hết vật chất là cái tồn tại khách quan bên ngoài ý thức của con người và
không phụ thuộc vào ý thức. Đây chính là nội dung quan trọng nhất của quan điểm về
vật chất. Không phải là khi con người ý thức được một cái gì đó thì nó là vật ch ất mà
v ật chất là cái đã tồn tại một cách khách quan, như là trước khi các nhà vật lý tìm ra
các tia phóng xạ thì chúng đã tồn tại rồi,…
- + Thứ hai là con người có thể cảm giác được sự tồn tại khách quan của vật chất. Nếu
cái gì đó mà con người không thể cảm giác được thì nó không phải là vật chất, vật
chất nó luôn tồn tại trước ý thức của con người nhưng con người luôn có thể cảm giác được nó.
- + Thứ ba là ý thức của con người chỉ là sự phản ánh thế giới hiện thực. Những điều
kiện vật chất cụ thể, hoàn cảnh cụ thể mà nó quyết định tới việc hình thành lên ý thức của con người.
- Ăngghen định nghĩa: “Vận động hiểu theo nghĩa chung nhất, - tức được hiểu là một
phương thức tồn tại của vật chất, là một thuộc tính cố hưữ của vật chất – thì bao gồm
tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí
đơn giản cho đến tư duy”
- Theo quan niệm của Ăngghen: vận động không chỉ thuần túy là sự thay đổi vị trí
trong không gian mà là “mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ”, vận
động “là một phương thức tồn tại của vật chất, là một thuộc tính cố hữu của vật chất”
nên thông qua vận động mà các dạng cụ thể của vật chất biểu hiện sự tồn tại cụ thể
của mình; vận động của vật chất là tự thân vận động; và, sự tồn tại của vật chất luôn
gắn liền với vật chất.
- Dựa trên thành tựu khoa học trong thời đại mình, Ăngghen đã phân chia vận động
thành năm hình thức cơ bản: vận động cơ học, vận động vật lý, vận động hóa học,
vận động sinh học và vận động xã hội.
- Nguồn gốc của ý thức
- Ý thức có hai nguồn gốc là nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội. - Nguồn gốc tự nhiên
- Nguồn gốc tự nhiên của ý thức được thể hiện qua sự hình thành của bộ óc con người
và hoạt động của bộ óc đó cùng với mối quan hệ giữa con người với thế giới khách
quan; trong đó, thế giới khách quan tác động đến bộ óc con người tạo ra quá trình phản
ánh sáng tạo, năng động. lOMoAR cPSD| 45438797
- Về bộ óc người: Ý thức là thuộc tính của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc
người, là chức năng của bộ óc, là kết quả hoạt động sinh lý thần kinh của bộ óc. Bộ óc
càng hoàn thiện, hoạt động sinh lý thần kinh của bộ óc càng có hiệu quả, ý thức của
con người càng phong phú và sâu sắc. Điều này lý giải tại sao quá trình tiến hóa
của loài người cũng là quá trình phát triển năng lực của nhận thức, của tư duy và tại
sao đời sống tinh thần của con người bị rối loạn khi sinh lý thần kinh của con người
không bình thường do bị tổn thương bộ óc.
- Về mối quan hệ giữa con người với thế giới khách quan tạo ra quá trình phản ánh năng
động, sáng tạo: Quan hệ giữa con người với thế giới khách quan là quan hệ tất yếu
ngay từ khi con người xuất hiện. Trong mối quan hệ này, thế giới khách quan, thông
qua hoạt động của các giác quan đã tác động đến bộ óc người, hình thành nên quá trình phản ánh.
- Phản ánh là sự tái tạo những đặc điểm của dạng vật chất này ở dạng vật chất khác
trong quá trình tác động qua lại lẫn nhau giữa chúng. Những đặc điểm được tái tạo ở
dạng vật chất chịu sự tác động bao giờ cũng mang thông tin của dạng vật chất tác động.
Những đặc điểm mang thông tin ấy được gọi là cái phản ánh. Cái phản ánh và cái được
phản ánh không tách rời nhau nhưng không đồng nhất với nhau. Cái được phản ánh là
những dạng cụ thể của vật chất, còn cái phản ánh chỉ là đặc điểm chứa đựng thông tin
của dạng vật chất đó (cái được phản ánh) ở một dạng vật chất khác (dạng vật chất nhận sự tác động).
- Phản ánh là thuộc tính của tất cả các dạng vật chất, song phản ánh được thể hiện dưới
nhiều hình thức. Những hình thức này tương ứng với quá trình tiến hóa của vật chất.
- Phản ánh vật lý, hóa học là hình thức thấp nhất, đặc trưng cho vật chất vô sinh. Phản
ánh vật lý, hóa học thể hiện qua những biến đổi về cơ, lý, hóa khi có sự tác động qua
lại lẫn nhau giữa các dạng vật chất vô sinh. Hình thức phản ánh này mang tính thụ
động, chưa có định hướng lựa chọn của vật nhận tác động.
- Phản ánh sinh học là hình thức phản ánh cao hơn, đặc trưng cho giới tự nhiên hữu sinh.
Tương ứng với quá trình phát triển của giới tự nhiên hữu sinh, phản ánh sinh học được
thể hiện qua tính kích thích, tính cảm ứng, phản xạ. Tính kích thích là phản ứng của
thực vật và động vật bậc thấp bằng cách thay đổi chiều hướng sinh trưởng, phát triển,
thay đổi màu sắc, thay đổi cấu trúc…khi nhận sự tác động trong môi trường sống. Tính
cảm ứng là phản ứng của động vật có hệ thần kinh tạo ra năng lực cảm giác, được thực
hiện trên cơ sở điều khiển của quá trình thần kinh qua cơ chế phản xạ không điều kiện,
khi có sự tác động từ bên ngoài môi trường lên cơ thể sống.
- Phản ánh tâm lý là phản ứng của động vật có hệ thần kinh trung ương được thực hiện
trên cơ sở điều khiển của hệ thần kinh qua cơ chế phản xạ có điều kiện.
- Phản ánh năng động sáng tạo là hình thức phản ánh cao nhất trong các hình thức phản
ánh, nó chỉ được thực hiện ở dạng vật chất có tổ chức cao nhất, có tổ chức cao nhất là lOMoAR cPSD| 45438797
bộ óc người. Phản ánh năng động, sáng tạo được thực hiện qua quá trình hoạt động sinh
lý thần kinh của bộ não người khi thế giới khách quan tác động lên các giác quan của
con người. Đây là sự phản ánh có tính chủ động lựa chọn thông tin, xử lý thông tin để
tạo ra những thông tin mới, phát hiện ý nghĩa của thông tin. Sự phản ánh sáng tạo năng
động này được gọi là ý thức. - Nguồn gốc xã hội
- Nguồn gốc xã hội của ý thức là lao động và ngôn ngữ. hai yếu tố này vừa là nguồn
gốc, vừa là tiền đề của sự ra đời ý thức.
- Lao động là quá trình con người sử dụng công cụ tác động vào giới tự nhiên nhằm thay
đổi giới tự nhiên cho phù hợp với nhu cầu của con người; là quá trình trong đó bản thân
con người đóng vai trò môi giới, điều tiết sự trao đổi vật chất giữa mình với giới tự
nhiên. Đây cũng là qúa trình làm thay đổi cấu trúc cơ thể, đem lại dáng đi thẳng bằng
hai chân, giải phóng hai tay, phát triển khí quan, phát triển bộ não,… của con người.
Trong quá trình lao động, con người tác động vào thế giới khách quan làm cho thế giới
khách quan bộc lộ những thuộc tính, những kết cấu, những quy luật vận động của nó,
biểu hiện thành những hiện tượng nhất định mà con người có thể quan sát được. Những
hiện tượng ấy, thông qua hoạt động của các giác quan, tác động vào bộ óc người, thông
qua hoạt động của bộ não con người, tạo ra khả năng hình thành nên những tri thức nói
riêng và ý thức nói chung.
- Như vậy, sự ra đời của ý thức chủ yếu do hoạt động cải tạo thế giới khách quan thông qua quá trình lao động.
- Ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu vật chất chứa đựng thông tin mang nội dung ý thức.
Không có ngôn ngữ, ý thức không thể tồn tại và thể hiện.
- Sự ra đời của ngôn ngữ gắn liền với lao động. Lao động ngay từ đầu đã mang tính tập
thể. Mối quan hệ giữa các thành viên trong lao động nảy sinh ở họ nhu cầu phải có
phương tiện để biểu đạt. Nhu cầu này làm ngôn ngữ nảy sinh và phát triển ngay trong
quá trình lao động. Nhờ ngôn ngữ con người đã không chỉ giao tiếp, trao đổi mà còn
khái quát, tổng kết đúc kết thực tiễn, truyền đạt kinh nghiệm, truyền đạt tư tưởng từ thế
hệ này sang thế hệ khác.
- Như vậy, nguồn gốc trực tiếp quan trọng nhất quyết định sự ra đời và phát triển của ý
thức là lao động. Sau lao động và đồng thời với lao động là ngôn ngữ; đó là hai chất
kích thích chủ yếu làm cho bộ óc vượn dần dần chuyển hóa thành bộ óc người, khiến
cho tâm lý động vật dần dần chuyển hóa thành ý thức.
- Bản chất của ý thức. lOMoAR cPSD| 45438797
- Ý thức là sự phản ánh năng động, sáng tạo thế giới khách quan vào bộ óc con người;
là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.
- Tính chất năng động, sáng tạo của sự phản ánh ý thức được thể hiện ở khả năng hoạt
động tâm – sinh lý của con người trong việc định hướng tiếp nhận thông tin, chọn lọc
thông tin, xử lý thông tin, lưu giữ thông tin và trên cơ sở những thông tin đã có nó có
thể tạo ra những thông tin mới và phát hiện ý nghĩa của thông tin được tiếp nhận.
Tính chất năng động, sáng tạo của sự phản ánh ý thức còn được thể hiện ở quá trình
con người tạo ra những giả tưởng, giả thuyết, huyền thoại,.. trong đời sống tinh thần
của mình hoặc khái quát bản chất, quy luật khách quan, xây dựng các mô hình tư tưởng,
tri thức trong các hoạt động của con người.
- Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan nghĩa là: ý thức là hình ảnh về
thế giới khách quan, hình ảnh ấy bị thế giới khách quan quy định cả về nội dung, cả về
hình thức biểu hiện nhưng nó không còn y nguyên như thế giới khách quan mà nó đã
cải biến thông qua lăng kính chủ quan của con người. Theo Mác: ý thức “chẳng qua
chỉ là vật chất được di chuyển vào trong đầu óc con người và được cải biến đi trong đó”.
- Ý thức là một hiện tượng xã hội và mang bản chất xã hội. Sự ra đời và tồn tại của ý
thức gắn liền với hoạt động thực tiễn, chịu sự chi phối không chỉ của các quy luật sinh
học mà chủ yếu là của các quy luật xã hội, do nhu cầu giao tiếp xã hội và các điều kiện
sinh hoạt hiện thực của xã hội quy định. Với tính năng động, ý thức đã sáng tạo lại hiện
thực theo nhu cầu của thực tiễn xã hội. - Kết cấu của ý thức
- Ý thức có kết cấu cực kỳ phức tạp. Có nhiều ngành khoa học, nhiều cách tiếp cận, nghiên
cứu về kết cấu của ý thức.
- Theo các yếu tố hợp thành
- Theo cách tiếp cận này, ý thức bao gồm ba yếu tố cơ bản nhất là: tri thức, tình cảm
ý chí, trong đó tri thức là nhân tố quan trọng nhất. Ngoài ra ý thức còn có thể bao gồm
các yếu tố khác như niềm tin, lí trí,…
- Tri thức là toàn bộ những hiểu biết của con người, là kết quả của quá trình nhận thức,
là sự tái tạo lại hình ảnh của đối tượng được nhận thức dưới dạng các loại ngôn ngữ.
- Mọi hoạt động của con người đều có tri thức, được tri thức định hướng. Mọi biểu hiện
của ý thức đều chứa đựng nội dung tri thức. Tri thức là phương thức tồn tại của ý thức lOMoAR cPSD| 45438797
và là điều kiện để ý thức phát triển. Theo Mác: “phương thức mà theo đó ý thức tồn tại
và theo đó một cái gì đó tồn tại đối với ý thức là tri thức”.
- Căn cứ vào lĩnh vực nhận thức, tri thức có thể chia thành nhiều loại như tri thức về tự
nhiên, tri thức về xã hội, tri thức nhân văn. Căn cứ vào trình độ phát triển của nhận
thức, tri thức có thể chia thành tri thức đời thường và tri thức khoa học, tri thức kinh
nghiệm và tri thức lý luận, tri thức cảm tính và tri thức lý tính,…
- Tình cảm là những rung động biểu hiện thái độ con người trong các quan hệ. Tình cảm
là một hình thái đặc biệt của sự phản ánh hiện thực, được hình thành từ sự khái quát
những cảm xúc cụ thể của con người khi nhận sự tác động của ngoại cảnh. Tình cảm
biểu hiện và phát triển trong mọi lĩnh vực đời sống của con người; là một yếu tố phát
huy sức mạnh, một động lực thúc đẩy hoạt động nhận thức và thực tiễn. Lênin cho rằng:
không có tình cảm thì “xưa nay không có và không thể có sự tìm tòi chân lý”; không
có tình cảm thì không có một yếu tố thôi thúc những người vô sản và nửa vô sản, những
công nhân và nông dân nghèo đi theo cách mạng.
- Tùy vào từng đối tượng nhận thức và sự rung động của con người về đối tượng đó trong
các quan hệ mà hình thành nên các loại tình cảm khác nhau, như tình cảm đạo đức, tình
cảm thẩm mỹ, tình cảm tôn giáo,…
- Ý chí là khả năng huy động sức mạnh bản thân để vượt qua những cản trở trong quá
trình thực hiện mục đích của con người. Ý chí được coi là mặt năng động của ý thức,
một biểu hiện của ý thức trong thực tiễn mà ở đó con người tự giác được mục đích của
hoạt động nên tự đấu tranh với mình để thực hiện đến cùng mục đích đã lựa chọn. có
thể coi ý chí là quyền lực của con người đối với mình; nó điều khiển, điều chỉnh hành
vi để con người hướng đến mục đích một cách tự giác; nó cho phép con người tự kìm
chế, tự làm chủ bản thân và quyết đoán trong hành động theo quan điểm và niềm tin
của mình. Giá trị chân chính của ý chí không chỉ thể hiện ở cường độ của nó mạnh hay
yếu mà chủ yếu thể hiện ở nội dung, ý nghĩa của mục đích mà ý chí hướng đến. Lênin
cho rằng: ý chí là một trong những yếu tố tạo nên sự nghiệp cách mạng của hàng triệu
người trong cuộc đấu tranh giai cấp quyết liệt nhằm giải phóng mình, giải phóng nhân loại.
- Tất cả các yếu tố tạo thành ý thức có mối quan hệ biện chứng với nhau song tri thức là
yếu tố quan trọng nhất; là phương thức tồn tại của ý thức, đồng thời là nhân tố định
hướng đối với sự phát triển và quyết định mức độ biểu hiện của các yếu tố khác
- Theo chiều sâu của nội tâm
- Tiếp cận theo chiều sâu của thế giới nội tâm con người, ý thức bao gồm tự ý thức, tiềm thức, vô thức.
– Tự ý thức: lOMoAR cPSD| 45438797
- Trong quá trình nhận thức thế giới xung quanh, con người đồng thời cũng tự nhận thức
bản thân mình. Đó chính là tự ý thức. Như vậy, tự ý thức cũng là ý thức, là một thành
tố quan trọng của ý thức, nhưng đây là ý thức về bản thân mình trong mối quan hệ với
ý thức về thế giới bên ngoài
. Nhờ vậy con người tự nhận thức về bản thân mình như
một thực thể hoạt động có cảm giác có tư duy, có các hành vi đạo đức và có vị trí trong
xã hội. Những cảm giác của con người về bản thân mình trên mọi phương diện giữ vai
trò quan trọng trong việc hình thành tự ý thức. Con người chỉ tự ý thức được bản thân
mình trong quan hệ với những người khác, trong quá trình hoạt động cải tạo thế giới.
Chính trong quan hệ xã hội, trong hoạt động thực tiễn xã hội và qua những giá trị văn
hóa vật chất và tinh thần do chính con người tạo ra, con người phải
tự ý thức về mình để nhận rõ bản thân mình, tự điều chỉnh bản thân theo các quy tắc,
các tiêu chuẩn mà xã hội đề ra.
- Tự ý thức không chỉ là tự ý thức của cá nhân mà còn là tự ý thức của cả xã hội, của một
giai cấp hay của một tầng lớp xã hội về địa vị của mình trong hệ thống những quan hệ
sản xuất xác định, về lý tưởng và lợi ích chung của xã hội mình, của giai cấp mình, hay của tầng lớp mình.
– Tiềm thức:
- Là những hoạt động tâm lý tự động diễn ra bên ngoài sự kiểm soát của chủ thể, song
lại có liên quan trực tiếp đến các hoạt động tâm lý đang diễn ra dưới sự kiểm soát của
chủ thể ấy. Về thực chất, tiềm thức là những tri thức mà chủ thể đã có được từ trước
nhưng đã gần như trở thành bản năng, thành kỹ năng nằm trong tầng sâu của ý thức
chủ thể, là ý thức dưới dạng tiềm tàng
. Do đó, tiềm thức có thể chủ động gây ra các
hoạt động tâm lý và nhận thức mà chủ thể không cần kiểm soát chúng một cách trực
tiếp. Tiềm thức có vai trò quan trọng cả trong hoạt động tâm lý hàng ngày của con
người, cả trong tư duy khoa học. Trong tư duy khoa học, tiềm thức chủ yếu gắn với các
loại hình tư duy chính xác, với các hoạt động tư duy thường được lặp đi lặp lại nhiều
lần. ở đây tiềm thức góp phần giảm sự quá tải của đầu óc trong việc xử lý khối lượng
lớn các tài liệu, dữ kiện, tin tức diễn ra một cách lặp đi lặp lại mà vẫn đảm bảo được độ
chính xác và chặt chẽ cần thiết của tư duy khoa học. – Vô thức:
- Vô thức là những trạng thái tâm lý ở chiều sâu, điều chỉnh sự suy nghĩ, hành vi, thái
độ ứng xử của con người mà chưa có sự tranh luận của nội tâm, chưa có sự truyền tin
bên trong, chưa có sự kiểm tra, tính toán của lý trí.

- Vô thức biểu hiện thành nhiều hiện tượng khác nhau như bản năng ham muốn, giấc
mơ, bị thôi miên, mặc cảm, sự lỡ lời, nói nhịu, trực giác… Mỗi hiện tượng ấy có vùng
hoạt động riêng, có vai trò, chức năng riêng, song tất cả đều có một chức năng chung
là giải tỏa những ức chế trong hoạt động thần kinh vượt ngưỡng nhất là những ham
muốn bản năng không được phép bộc lộ ra và thực hiện trong quy tắc của đời sống lOMoAR cPSD| 45438797
cộng đồng. Nó góp phần lập lại thế cân bằng trong hoạt động tinh thần của con người
mà không dẫn tới trạng thái ức chế quá mức như ấm ức, “libiđo”…
- Như vậy, vô thức có vai trò tác dụng nhất định trong đời sống và hoạt động của con
người. Nhờ vô thức mà con người tránh được tình trạng căng thẳng không cần thiết khi
làm việc “quá tải”. Nhờ vô thức mà chuẩn mực con người đặt ra được thực hiện một
cách tự nhiên… Vì vậy, không thể phủ nhận vai trò cái vô thức trong cuộc sống, nếu
phủ nhận vô thức sẽ không thể hiểu đầy đủ và đúng đắn về con người.
- Tuy nhiên không nên cường điệu, tuyệt đối hóa và thần bí vô thức. Không nên coi vô
thức là hiện tượng tâm lý cô lập, hoàn toàn tách khỏi hoàn cảnh xã hội xung quanh
không liên quan gì đến ý thức. Thực ra, vô thức là vô thức nằm trong con người có ý
thức. Giữ vai trò chủ đạo trong con người là ý thức chứ không phải vô thức. Nhờ có ý
thức mới điều khiển được các hiện tượng vô thức hướng tới chân, thiện, mỹ. Vô thức
chỉ là một mắt khâu trong cuộc sống có ý thức của con người.