/11
lOMoARcPSD| 61432759
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
------------------------------------------
BÀI TP LỚN
ĐỀ TÀI 1 : KHÁI NIỆM VỀ TRI THỨC VÀ VAI TRÒ CỦA TRI THỨC TRONG HOẠT ĐỘNG
THC TIỄN PHÁT TRIỂN KINH TẾ ( HOẶC KINH DOANH ) Ở VIỆT NAM HIỆN NAY.
Họ và tên
: Bùi Thị Vân Anh
Mã sinh viên
: 11235405
Lớp
: Quản trị nhân lực 65B
Viện
: Kinh tế và Quản lý nguồn nhân lực
Giảng viên hướng dẫn
: Phạm Văn Sinh
Hà Nội, ngày 2 tháng 5 năm 2024
lOMoARcPSD| 61432759
MỤC LỤC
LỜI GIỚI
THIỆU................................................................................................. .........
NỘI
DUNG................................................................................................. ....................
CHƯƠNG 1: QUAN ĐIỂM CỦA MÁC- LÊNIN VỀ TRI THỨC VÀ
VAI TRÒ CỦA TRI
THC.................................................................................................. ..........
1.1. Khái niệm tri
thức.....................................................................................................
1.2. Vai trò của tri thức trong hoạt động thực ễn..........................................................
CHƯƠNG 2: VAI TRÒ CỦA TRI THỨC TRONG PHÁT TRIỂN KINH
TẾ (HOẶC KINH DOANH ) Ở VIỆT NAM HIN
NAY................................................
2.1. Vai trò của tri thức khoa học, công nghệ trong việc nâng cao hiệu quả các nguồn
lực phát triển kinh
tế........................................................................................................
2.2. Vai trò của tri thức trong việc nâng cao nh cạnh tranh kinh tế..............................
KẾT
LUẬN.................................................................................................. ..................
TÀI LIỆU THAM
KHẢO.............................................................................................
lOMoARcPSD| 61432759
LỜI GIỚI THIỆU
Chính trị gia A.Hamilton từng nói rằng:“Trên đời không đại bằng con người,
trong con người không gì vĩ đại bằng tri thức”. Thật vậy, từ cổ chí kim không ai có th
phnhận sức mạnh làm thay đổi thế giới của tri thức. Chúng ta con người, chúng
ta được xếp vào nhóm động vật cấp cao trong mọi vật. Vì sao lại như thế? Vì con
người suy nghĩ, duy, nhận thức đặc biệt thể ếp nhận tri thức,
những thứ mà không hề xuất hiện bất loại vật nào khác. Trên khắp mặt đất, từ nơi
sa mạc đến chỗ tuyết phủ, từ người lớn đến trẻ nhỏ, khi mặt trời lên đến lúc đêm
khuya bên đèn, đều có một cuộc hành hương vĩ đại về cội nguồn của tri thức liên tc
diễn ra Tri thức sức mạnh. Ai có tri thức người đó có sức mạnh” (Lênin). Nhất
ngày nay, khi hội loài người ngày càng phát triển, thì vai trò của tri thức lại càng
được nâng cao và khẳng định được vị thế quan trọng của mình. Nắm được tầm quan
trọng của tri thức đối với sự phát triển của xã hội cũng như trong nghiên cứu và hoạt
động của sinh viên, em đã lựa chọn đề tài : “Khái niệm tri thức và vai trò của tri thức
trong hoạt động thực ễn phát triển kinh tế ở Việt Nam hiện nay”.
Qua đề tài này, em muốn cảm ơn thầy Phạm Văn Sinh, người đã giúp em
thêm những hiểu biết về triết học. Những lời giảng của thầy đã giúp em hiểu hơn về
triết học vai trò của triết học trong đời sống hội, giúp em có thêm niềm yêu thích
với môn khoa học này. Trong quá trình làm ểu luận, mặc dù đã cố gắng hết khả năng
nhưng do trình độ còn hạn chế nên vẫn không khó tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy,
em rất mong nhận được những ý kiến, đóng góp của thầy để giúp cho bài ểu luận
của em được đầu đủ, hoàn thiện hơn và bản thân em cũng thcủng cố thêm vốn
hiu biết của mình.
Em xin trân trọng cảm ơn!
lOMoARcPSD| 61432759
CHƯƠNG 1: QUAN ĐIỂM CỦA MÁC- LÊNIN VỀ TRI THỨC VÀ VAI TRÒ CỦA TRI
THC
1.1. Khái niệm tri thức.
Tri thức đã từ lâu trong lịch sử, thể nói từ khi con người bắt đầu duy thì
lúc đó có tri thức. Tthuở khai trí thức được chạm khắc trên vách đá, xương thú,
mai rùa. Khi chữ viết, con người biết lưu giữ tri thức trên vải, trên giấy. Ny nay,
người ta đã mã hóa tri thức và lưu trữ bằng các bản điện tử. Việc lưu trữ điện tử cho
phép con người lưu trữ nhanh chóng, chắc chắn hạn. Bởi nó có sức mạnh nên ở
bất cứ thời đại nào con người cũng cố gắng m kiếm những cách lưu giữ đầy đủ nhất,
chắc chắn nhất, bền lâu nhất. Con người bảo vệ tri thức như một “thanh gươm thần”,
xem nó như một báu vật thiêng liêng không thể đánh mất. Trải qua một thời gian dài
phát triển của lịch sử, cho đến những thập kỷ gần đây tri thức và vai trò của đối vi
sự phát triển kinh tế-xã hội mới được đề cập nhiều. Vy tri thức là gì?
Có rất nhiều cách định nghĩa về tri thức nhưng có thể hiểu: “Tri thức là sự hiu
biết, sáng tạo những khả năng, kỹ năng để ứng dụng (hiểu biết sáng tạo) vào
việc tạo ra cái mới nhằm mục đích phát triển kinh tế -xã hội”. Tri thức bao gồm tất cả
những thông n, số liệu, bản vẽ, tưởng tượng (sáng tạo),khả năng, kỹ năng quan niệm
về giá trị những sản phẩm mang nh tượng trưng hội khác. Tri thức vai trò rất
lớn đối với đời sống, kinh tế, xã hội.
Tri thức nhiều cấp độ khác nhau như: tri thức thông thường được hình thành
do hoạt động hàng ngày của mỗi cá nhân, mang nh chất cảm nh trực ếp, bề ngoài
rời rạc. Tri thức khoa học phản ánh trình đcủa con người đi sâu nhận thức thế
giới hiện thực.
Trong luận Mác- xít về tri thức, việc xác định vai trò đặc biệt to lớn của tầng
lớp này đối với đời sống chính trị chiếm vị trí quan trọng và thu hút sự quan tâm của
các nhà kinh điển. Trong bức thư gửi V.I.Daxulich, Ph.Ăngghen đã nói tới thái độ kiên
quyết và lòng nhiệt nh của những người tri thức dân tộc trong việc chặt đứt xiềng
xích đang giam cầm họ”, tức là nền quân chủ. Ph.Ăngghen khẳng định, “để điều hành
bộ y hành chính toàn bộ nền sản xuất hội, hoàn toàn không cần những lời nói
suông, mà cần những tri thức vững vàng” [C.Mác và Ph.Ăngghen, tập 22, tr.432].
Hiểu tầm quan trọng của trí tuệ nói chung đối với ến trình phát triển,
V.I.Lênin cho rằng, “tri thức bao hàm không chỉ các nhà trước tác, còn bao hàm tất
cả mọi người học thức, các đại biểu của những người tự do nói chung, các đại biểu
của lao động trí óc” [V.I.Lênin, tập 8,tr.372]. Quan niệm của V.I.Lênin về người trí thc
cũng rất rõ ràng:“Người tri thức đấu tranh, tuyệt nhiên không phải là bằng cách dùng
lOMoARcPSD| 61432759
thực lực theo lối y hay lối khác, bằng cách dùng những lẽ. khí của họ
chính sự hiểu biết, năng lực lòng n của nhân họ. Họ nhvào những phẩm
chất nhân để đóng góp một vai trò nào đó. Vì vy, đốivới họ, quyền được hoàn toàn
tự do biểu hin bản chất cá nhân của mình là điều kiện đầu ên để công tác được kết
quả. Với cách một bộ phận trong toàn thể, họ chphục tùng toàn thể đó một
cách miễn cưỡng, phục tùng bắt buộc, chứ không phải tự nguyện. Hchthừa nhận
kỷ luật là cần thiết đối với quần chúng, chứ không phải đối với những nhân vật được
lựa chọn. nhiên hxếp mình vào những hàng ngũ những nhân vật được lựa
chọn...” [V.I.Lênin, tập 8, tr.373].
Sau thắng lợi vĩ đại của cách mạng tháng Mười Nga năm 1917, V.I.Lênin bắt tay
vào việc y dựng và bảo vệ nhà nước Xô Viết non trẻ, thực hiện cương lĩnh quá độ đi
lên xây dựng chủ nghĩa xã hội.Trong sự nghiệp đại đó không thể không có stham
gia của tầng lớp tri thức hội chủ nghĩa; vì theo V.I.Lênin nếu “Không schđạo
của các chuyên gia am hiểu các lĩnh vực khoa học, kỹ thuật kinh nghiệm thì
không thể nào chuyển lên chủ nghĩa xã hội được”[V.I.Lênin, tập 36, tr.217]. Chủ nghĩa
hội đòi hỏi một bước ến cao về ý thức và có nh quần chúng, để tạo ra một năng
suất lao động cao n hẳn năng suất lao động của phương thức sản xuất hội bản
chủ nghĩa; dựa trên cơ sở những kết quả mà chủ nghĩa tư bản đã được.
Trong tưởng của V.I.Lênin đã nhiều lần chỉ ra rằng trong cách mạng hội chủ
nghĩa nếu giai cấp công nhân chính đảng của nó, lôi kéo nh đạo được tri thức,
phát huy tài năng trí tucủa họ vào mọi công việc cách mạng thì cách mạng mới có
thể phát triển nhanh chóng, đnhững tổn thất do thiếu tri thức và hiệu quả của mọi
công việc mới được nâng cao không ngừng. Cũng từ thc n lịch sử mà V.I.Lênin đã
rút ra một kết luận khoa học nh định hướng cho tương lai Trước sự liên minh
của các đại biểu khoa học, giai cấp vô sản và giới kỹ thuật, không một thế lực đen tối
nào đứng vững được” [V.I.Lênin, tập 40, tr.218]. Thực tế cũng cho thấy những kiến
thức khoa học, nếu bị những kđặc quyền, những lực lượng thống trị phản động
kiềm chế sử dụng, thì strthành khí để dịch quần chúng nhân dân, hy
hoại nhân loại, cho nên cách mạng sản phải nhiệm vụ giành lại khí đó, vì sự
nghiệp giải phóng và bảo vệ con người.
1.2. Vai trò của tri thức trong hoạt động thực n.
Tri thức vai trò rất quan trọng đối với thực ễn, tác động góp phần biến
đổi thực ễn thông qua hoạt động năng động có ý thức của con người. Lý luận là kim
chnam cho mọi hoạt động và góp phần soi đường chỉ lối cho thực ễn đi đúng hướng.
V.I.Lenin đã chỉ ra vai trò quan trọng của luận “Không luận cách mạng thì không
lOMoARcPSD| 61432759
thphong trào cách mạng[V.I.Lenin, 1974 1981, tập 26, tr.30]. Tri thức luận,
thể dự kiến được sự phát triển và vận động của sự vật trong tương lai, dự báo được
những phương hướng mới cho sự phát triển của thực ễn. Lý luận khoa học làm cho
hoạt dộng của con người chủ động hơn, tự giác hơn, hạn chế được sự mẫm, tư
phát, mất phương hướng.
Tri thức đang ngày càng khẳng định vai trò to lớn của mình trong hoạt động xã
hội, là ền đề quan trọng để hình thành nên xã hội tri thức một xã hội đổi mới văn
minh và là mục êu hướng tới của nhiều quốc gia trên thếgiới hiện nay. Chúng ta đều
nhận thấy rằng, tri thức đóng một vai trò hết sức quan trọng, tri thức thể hiểu
sản phẩm đặc thù của xã hội, sự ra đời của tri thức gắn liền với sự hình thành của
hội. những câu hỏi mang nh triết học xung quanh phạm trù tri thức vẫn không
ngừng được tranh luận và chưa câu trả lời thỏa đáng nhưng trong mọi lĩnh vực kinh
tế, khoa học,chính trị... tri thức vẫn luôn được m kiếm, phát triển ngày càng tác
động to lớn đến sự phát triển của loài người. Tất cả mọi người tuy hoàn cảnh địa vị
khác nhau nhưng đều chung một hoạt động đấy hoạt động tri thứcvà thế tri
thức không còn vấn đề riêng của cá nhân đã trở thành về chung của toàn xã
hội.
Tri thức còn đem đến cho con người sức mạnh duy trì, gìn giổn định và phát
triển các giá trị đời sống một cách bền vững dài lâu. Trải qua thời gian, bằng tri thức
con người đã y dựng một hội loài người văn minh,ến bộ tột bậc. Dường như,
tham vọng khuất phục hoàn toàn hoàn cảnh sống tham vọng bất tận của con người.
Tện nghi đến ện nghi hơn nữa. Từlàm chủ đến chủ toàn cầu. Và thực tế đã
chứng minh, ngày nay, con người đã mặt hầu khắp mọi nơi trên trái đất. Tất cả
những thành tựu đó đều nhờ vào sức mạnh hạn của tri thứccó. Chúng ta hoàn
toàn thể tự hào khi nghĩ đến Issac Newton, Darwin, Lincoln, Shakespeare, Nobel,
Einstein, Hồ Chí Minh,…và biết bao tên tuổi khác. Hthc sự những người anh hùng
đại, người lính ên phong trong trận chiến đấu loại bỏ cái lạc hậu, bất công, đói
nghèo, mãi mãi xứng đáng để chúng ta ngưỡng mộ và tôn kính.
Vai trò của tri thức trong việc thực hiện những yêu cầu của xã hội cũng góp phần
trong việc thể hiện khả năng của bản thân mình ở xã hội không ngừng phát triển lớn
mạnh. Khi con người có tri thức, am hiểu sâu rộng tới mọi vấn đề hay lĩnh vực xã hội
thì dễ dàng thực hiện được những mục êu, ham muốn, ước nguyện của bản thân,
chỉ có tri thức được lấy bằng chính mồ hôi công sức thì mới mang lại được hiệu quả.
Và hiển nhiên, một xã hội với những con người thành đạt giúp xã hội phát triển không
ngừng về tri thức. Đơn giản hội được hợp thành bởi nhân, nhưng skết hợp
mang lại hiệu quả thì cần quá trình rèn luyện không ngừng đối với thế hệ trviệc học
lOMoARcPSD| 61432759
tập như nào trao đổi bản thân ra sao đtri thức nh mang lại cho xã hội sự đóng
góp hiệu quả nht.
Mỗi con người ta chỉ giống như một con kiến nhỏ nhưng nếu biết ch lũy
góp nhặt tri thức như loài kiến kia thì sẽ thêm ngày càng nhiều sức mạnh, vốn sống,
vốn hiểu biết để đối mặt với những khó khăn, thử thách trong đời. Liệu có hành trang
nào dành cho con người khi dấn thân vào cuộc sống khó khăn cần thiết hơn tri thức.
Tri thức giúp chúng ta hoàn thiện mình,dũng cảm tự n n khi tham gia vào các
hoạt động hội. Để làm giàu vốn tri thức của mình, con người thể rất nhiều
môi trường để học tập:học không chỉ trường còn qua sách vở, thầy , bè bạn,
cuộc sống như một triết gia Hy Lạp cổ đại đã nói: “Mỗi người tôi gặp đều những
điểm hay hơn tôi, đáng cho tôi học tập”
Tri thức cũng góp ếng nói của mình vào sự ổn định phát triển. Một đất nước
có người dân đạt trình độ cao về trí thức thì tỷ lệ thất nghiệp sẽ ít đi,mức sống của
người dân được cải thiện hơn, con người được hạnh phúc hơn.Xã hội n định,
không bị những tệ nạn ma túy hay vấn nạn cướp bóc, trm cướp cũng được hạn chế
hơn, nhờ vy mà đất nước trở nên văn minh và giàu đẹp hơn. Tri thức càng được coi
trọng thì nền giáo dục càng được chú trọng lên hàng đầu, góp phần xây dựng một
môi trường giáo dục lành mạnh, an toàn và cung cấp được cho đất nưc những
nhân tài đưa đất nước ngày càng lớn mạnh hơn, góp phần nâng cao vị thế trên thế
giới. Nếu bản thân mỗi công dân không có am hiểu về tri thức, tri thức trong sách
vở, tri thức trong cách sống thì xã hội sẽ duy trì như thế nào bởi tri thức được hình
thành nhờ sự ếp thu kiến thức cũng như học hỏi các kĩ năng, nhờ quá trình tri
nghiệm nên nếu như xã hội toàn là những cá nhân không có tri thức thì xã hội đó sẽ
lạc hậu, không có sự phát triển.
Một vai trò cũng rất quan trọng mà tri thức mang lại cho hội sự hội nhập
quốc tế, giao lưu học hỏi kiến thức hay những cuộc thi quốc tế. Tri thức là “nguồn tài
nguyên” giá của nhân loại vậy nên chúng ta phải có tri thức để hiểu biết về văn hóa
các nước tạo nên nền văn hóa ngày càng lành mạnh. Mỗi nhân nên những
hiu biết và biết ếp thu, sàng lọc, lựa chọn cái phù hợp và xác định mc độ ếp cận,
ếp nhận đúng đắn, hiệu quả những điều ến bộ, điều tốt đẹp của nước ngoài để từ
đó áp dụng có hiệu quả
CHƯƠNG 2: VAI TRÒ CỦA TRI THỨC TRONG PHÁT TRIỂN KINH
lOMoARcPSD| 61432759
TẾ ( HOẶC KINH DOANH ) Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Vai trò của tri thức khoa học, công nghệ trong việc nâng cao hiệu quả các
nguồn lực phát triển kinh tế.
Những năm 60 của thế kỷ XX tới nay, tri thức khoa học tăng trưởng rất lớn, sự
thẩm thấu và kết hợp lẫn nhau giữa khoa học tự nhiên và khoa học xã hội, giữa khoa
học thuật ên ến cho khoa học, thuật hiện đại trở thành một hệ thống tri
thức thống nhất với nhiều bộ môn khoa học và nhiều tầng bậc chuyên môn. Trong lịch
sử, tri thức luôn một nhân tố quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế, nhưng từ trước
đến nay chưa hề nhiều lao động tri thức như bây giờ cũng chưa từng việc
truyền tri thức nhanh như bây githông qua y nh internet. Nhìn chung,
cung cấp tri thức không gây ra cho người cung cấp sự nghèo đói mà ngược lại chia sẻ
tri thức đem lại sự giàu có. Hiện nay khi khoa học công nghệ phát triển tới trình độ
cao, đòi hỏi một trình đhọc vấn sâu rộng đối với người lao động thu hẹp nhanh
chóng ranh giới giữa lao động chân tay với lao động trí óc. Do đó, khi khoa học và công
nghệ ên ến đã thâm nhập vào mọi lĩnh vực cuộc sống hội, việc chia người lao
động thành lao động trí óc và lao động chân tay ở mọi lĩnh vực cuộc sống, dù là người
lao động giản đơn nhất dần dần được tri thức hoá. Nếu không có kiến thức nhất định
về một nghề nghiệp nào đó thì người lao động sẽ không có chỗ đứng trong hội. Ti
nhiều nước phát triển trong khi các khu vực sản xuất truyền thông đang phải liên tục
cắt giảm lượng nhân công thì những ngành thông n, dược,…lại đang trong nh trạng
khan hiếm lao động thuật tớc ngoài. Chính vậy, tri thức thực tại được coi như
một động lực thúc đẩy cho sự phát triển sc sản xuất tăng trưởng kinh tế.
Tri thức khoa học công nghệ cùng với lao động năng lực lượng sản xuất thứ
nhất là lợi thế quyết định. Trí tuệ con người được thể hiện trong tri thức khoa học và
công nghệ cùng với năng lao động cao lợi thế ý nghĩa quyết định triển vọng
phát triển của mọi quốc gia. Lịch sử phát triển hiện đại chứng tỏ rằng các lợi thế tự
nhiên (tài nguyên, nguồn nhân lực rẻ do thiếu năng, lao động giản đơn thuần tuý)
ngày càng giảm bớt vai trò trong phát triển. Trong khi đó trình độ khoa học kĩ thuật
nguồn nhân lực tri thức ngày càng đóng vai trò quyết định khẳng định trong cuộc tranh
đua - cạnh tranh phát triển. Trong nền kinh tế tri thức vừa được sử dụng để quản lí,
điều khiển, tham gia vào quá trình sản xuất như công cụ sản xuất, vừa trực ếp
thành tố trong sản phẩm nnguyên liệu sản xuất. Tri thức để xử tri thức, để làm ra
tri thức, tri thức quản lí điều hành. Còn quá sớm để dự báo những thay đổi quan hệ
sản xuất trong tương lai nhưng chắc chắn tri thức sẽ dẫn đến những thay đổi triệt để
sâu rộng trong phát triển nền kinh tế.
lOMoARcPSD| 61432759
Bên cạnh đó, tri thức trở thành nội dung chủ yếu của sản xuất, phân bố êu
dùng. Trong nền kinh tế yếu tố sản xuất quý nhất, động lực quan trọng nhất cho sự
phát triển kinh tế tri thức, lao động trình độ năng cao. Tri thức trở thành
nội dung chủ yếu của sản xuất, phân phối và tri thức. Chức năng của nền sản xuất hiện
đại là sản xuất và phân phối vật chất. Tri thức là nguồn lực hàng đầu tạo nên sự tăng
trưởng kinh tế. Sự cống hiến của tri thức và kĩ thuật đối với tăng trưởng kinh tế ngày
càng lớn, rất nhiều ngành nghề trong nông nghiệp công nghiệp đang trở thành
những ngành nghề trí tuệ. Sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học và
công nghệ hiện đại đã đang dần dần m mất chỗ đứng của người lao động giản
đơn. Điều đó cho thấy nền kinh tế ngày càng phải dựa vào chất xám” để phát triển.
Chất xám ngày càng cao, trí tuệ ngày càng sâu sắc, tri thức càng vị trí trong sản xuất,
phân bố êu dùng và không thể thiếu trong xã hội công nghiệp hoá, hiện đại hóa.
Tri thức không những vai trò sáng tạo, truyền còn vai trò truyền
thông, nguồn lực của sản xuất. Do vậy đầu phát triển tri thức đầu chủ yếu.
Điều y không có nghĩa nền kinh tế không cần vốn, nguồn tài nguyên thiên nhiên
nhân lực nữa. Trái lại, các yếu tố y về mặt giá trị còn được đầu với số ợng
đáng kể hơn, thậm chí đối với trang thiết bị máy móc công nghệ cao cần được đầu tư
với một số ợng vốn rất lớn song vốn vô hình (như thông n, kĩ năng, lao đng công
nghệ,…) còn có giá trị cao hơn gp bội trở thành yếu tố quan trọng nhất, phần vốn
bản nhất trong sự phát triển kinh tế.
2.2. Vai trò của tri thức với việc nâng cao nh cạnh tranh kinh tế.
Tri thức đóng vai trò to lớn trong việc rút ngắn khoảng cách phát triển giữa các
ớc đang phát triển các nước phát triển. Sự xuất hiện kinh tế tri thức vừa
hội vừa là thách thức đối với các nước kém và đang phát triển, trong đó có Việt Nam.
Các quốc gia kém và đang phát triển nhanh chóng ếp cận với kinh tế tri thức, thông
qua tri thức hóa các ngành công nghiệp. nông nghiệp. dịch vụ, đặc biệt sớm hình thành
các công nghệ cao để nhanh chóng đưa nền kinh tế đất nước đuổi kịp các nước phát
triển.
Vào những thời kỳ đầu, tài nguyên đất và khoáng sản đã tạo nên nguồn lực
chính cho phát triển. Công nghệ hết sức sơ khai. Con người được định giá chủ yếu
theo giá trị sức lao động cơ bắp của họ. Ngày nay, thông n và tri thức đã và đang tr
thành những đầu vào quan trọng của quá trình phát triển. Tất cả các hoạt động kinh
tế ngày càng sử dụng nhiều tri thức. Để thành công, các lĩnh vực sản xuất công nghiệp
hiện đại phụ thuộc ngày càng nhiều vào việc quản thông n liên quan đến chất
ợng, chi phí việc lập kế hoạch ng như chúng phụ thuộc vào việc quản các quá
trình sản xuất. Lĩnh vực dịch vụ là lĩnh vực có ềm năng to lớn về tạo việc làm phát
lOMoARcPSD| 61432759
triển kinh tế trong nền kinh tế thế giới nhưng dịch vụ cũng lĩnh vực dựa chyếu vào
tri thức.
Tri thức nghề nghiệp, kỹ năng, tay nghề, thói quen công nghệ… trở thành “đầu
vào” của sản xuất. Nhờ hàm lượng tri thức lớn công nghệ luôn đổi mới giá trị
sản phẩm thường tỷ suất gia tăng cao hơn nhiều so với vốn bỏ ra. Nhiều nhà tương
lai học dự báo rằng, vào đầu thế kỷ XXI, khi loài người bước vào một nền văn minh
thông n, khi tri thức phát triển hơn nữa tphương thức sản xuất scải ến hơn nhờ
công nghệ thông n (n học, viễn thông); công nghệ sinh học, công nghệ năng lượng
mới. Bấy giờ, một môi trường mới sẽ ra đời: vật ít, năng lượng ít, phế thải được xử
lý và phân tán làm cho môi trường sinh thái trởthành môi trường văn hóa
Trong sự phát triển của lực lượng sản xuất khoa học đóng vai trà ngày càng to
lớn. Sphát triển của khoa học sản xuất động lực mạnh mẽ thúc đẩy sản xuất
pháriển. Ngày nay, khoa học đã phát triển đến mức trở thành nguyên nhân trực ếp
của nhiều biến đổi to lớn trong sản xuất trong đời sống trở thành “lực lượng sản
xuất trực ếp”. Sức lao động đặc trưng cho lao động hiện đại không chỉ còn kinh
nghiệm và thói quen của họ tri thức khoa học. thể nói tri thức đặc trưng
cho lực lượng sản xuất hiên đại.
Lao động sản xuất bao giờ ng phải dựa vào tri thức nhất trong thời đại ngày
nay. Tri thức là một yếu tố nổi bật nhất trong quá trình sản xuất. Trong văn minh nông
nghiệp tsức lao động, đất đai và vốn những yếu tố của sản xuất công nghiệp, vốn,
đất đai và nhất sức lao động trở thành hàng hóa với tư cách những yếu tố quan
trọng trong sự phát triển kinh tế - xã hội, góp phần chuyển hội phong kiến thành
hội bản trong lịch sử. Còn trong kinh tế tri thức, yếu tố của sphát triển kinh tế -
xã hội không chỉ bao gồm vốn ền tệ, đất đai và dựa trên lao động đơn giản chủ
yếu dựa trên lao động trí tuệ gắn với tri thức. Như vậy tri thức trở thành yếu tố th
nhất trong hàm sản xuất thay yếu tố sức lao động,vốn ền tệ đất đai. Tri thức
thc strở thành nguồn gc động lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Nước Mỹ nói
riêng và các nước thuộc tchức OECD nói chung nhiều năm qua tăng trưởng ổn định
với tốc độ cao nhờ sự phát triển của các ngành kinh tế dựa trên tri thức như
ngành công nghệ thông n, viễn thông, vũ trụ, đầu tư, ngân hàng, tài chính, chứng
khoán, bảo hiểm... Đồng thời chuyển đầu vốn tri thức từ các ngành truyền thống
sang các ngành có hàm lượng tri thức cao. Ở các nướcnền kinh tế đang phát triển,
đầu tư càng nhiều vốn tri thức thì mang lại giá trị gia tăng càng lớn, tỷ suất lợi nhuận
càng cao. Tri thức trong kinh tế tri thức đóng vai trò quyết định sự thành công hay thất
bại của doanh nghiệp. Vốn tri thức đây bao gồm các công nhân tri thức, các nhà
quản lí tri thức, các công nghệ mới.
lOMoARcPSD| 61432759
KẾT LUẬN
Kinh tế thế giới đang bước vào một thời đại mới, một trình độ mới. Đó là trình
độ nhân tố quan trọng nhất việc chiếm hữu, phân phối nguồn trí lực việc
sáng tạo, phân phối và sử dụng tri thức trong các ngành thuật cao”. Tiêu chí chủ yếu
của nó lấy tri thức, trí óc làm yếu tố then chốt để phát triển kinh tế và tồn tại trực
ếp giống như các yếu tố sức lao động tài nguyên. Đó thời đại Tri thức đã
trthành động lực chủ yếu của sự phát triển xã hội”, “Tri thức tài nguyên bản,
Tri thức là tâm điểm của cạnh tranh và là nguồn lực dẫn dắt cho sự tăng trưởng dài
hạn”...dẫn tới những thay đổi lớn trong cách tổ chức sản xuất, cấu trúc thị trường, lựa
chọn nghề nghiệp.
Góp phần vào chiến lược phát triển kinh tế, ến nhanh trên con đường công
nghiệp hóa, hiện đại hoá chúng ta cần phải nghiên cứu tri thức, m hướng đi đúng
đắn cho nền kinh tế tri thức, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh đất nước, phù hợp với
khu vực, với thế giới và thời đại trong tổng thể các mối liên hệ, trong sự phát triển vn
động không ngừng của nền kinh tế tri thức.Nhà văn Francis Bacon đã từng nói: Tri
thức là sức mạnh”. Sau này , Lênin, một nhà Triết học, một nhà chính trị vĩ đại đã phát
triển thành: Tri thức sức mạnh. Ai tri thức người đó sức mạnh”. Vì thế hãy
đầu vào nâng cao tri thức,quản lý tri thức hiệu quả khuyến khích hợp tác, chia
sẻ kiến thức để xây dựng một nền kinh tế thông minh, linh hoạt, bền vững; góp phần
y dựng một xã hội phồn vinh, tươi đẹp.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Duy Quý (Chủ biên) (2018), “Những vấn đề luận vềchnghĩa hội
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội Việt Nam”, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
2. A.P.Septulin (2017), “Phương pháp nhận thức biện chứng, Nxb.Sách giáo khoa
Mác - Lênin, Hà Nội.
3. Nguyễn Văn Tài (Chủ biên) (2018) “Giáo trình Triết học Mác Lênin Lý luận
vận dng, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Nghị quyết Đại hội đại biểu toànquốc lần thứ
VI, Nxb. Sự tht, Hà Nội.
5. Giáo trình triết học Mac-Lênin; Bộ giáo dục đào tạo; NXB Chínhtrị Quốc gia
Sự Tht.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toànquốc lần thứ X,
Nxb. Sự thật, Hà Nội

Preview text:

lOMoAR cPSD| 61432759
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
------------------------------------------ BÀI TẬP LỚN
ĐỀ TÀI 1 : KHÁI NIỆM VỀ TRI THỨC VÀ VAI TRÒ CỦA TRI THỨC TRONG HOẠT ĐỘNG
THỰC TIỄN PHÁT TRIỂN KINH TẾ ( HOẶC KINH DOANH ) Ở VIỆT NAM HIỆN NAY. Họ và tên : Bùi Thị Vân Anh Mã sinh viên : 11235405 Lớp
: Quản trị nhân lực 65B Viện
: Kinh tế và Quản lý nguồn nhân lực
Giảng viên hướng dẫn : Phạm Văn Sinh
Hà Nội, ngày 2 tháng 5 năm 2024 lOMoAR cPSD| 61432759 MỤC LỤC LỜI GIỚI
THIỆU................................................................................................. ......... NỘI
DUNG................................................................................................. ....................
CHƯƠNG 1: QUAN ĐIỂM CỦA MÁC- LÊNIN VỀ TRI THỨC VÀ VAI TRÒ CỦA TRI
THỨC.................................................................................................. .......... 1.1. Khái niệm tri
thức.....................................................................................................
1.2. Vai trò của tri thức trong hoạt động thực tiễn..........................................................
CHƯƠNG 2: VAI TRÒ CỦA TRI THỨC TRONG PHÁT TRIỂN KINH
TẾ (HOẶC KINH DOANH ) Ở VIỆT NAM HIỆN
NAY................................................
2.1. Vai trò của tri thức khoa học, công nghệ trong việc nâng cao hiệu quả các nguồn lực phát triển kinh
tế........................................................................................................
2.2. Vai trò của tri thức trong việc nâng cao tính cạnh tranh kinh tế.............................. KẾT
LUẬN.................................................................................................. .................. TÀI LIỆU THAM
KHẢO............................................................................................. lOMoAR cPSD| 61432759 LỜI GIỚI THIỆU
Chính trị gia A.Hamilton từng nói rằng:“Trên đời không gì vĩ đại bằng con người,
trong con người không gì vĩ đại bằng tri thức”. Thật vậy, từ cổ chí kim không ai có thể
phủ nhận sức mạnh làm thay đổi thế giới của tri thức. Chúng ta là con người, chúng
ta được xếp vào nhóm động vật cấp cao trong mọi vật. Vì sao lại như thế? Vì ở con
người có suy nghĩ, có tư duy, có nhận thức và đặc biệt là có thể tiếp nhận tri thức,
những thứ mà không hề xuất hiện ở bất kì loại vật nào khác. Trên khắp mặt đất, từ nơi
sa mạc đến chỗ tuyết phủ, từ người lớn đến trẻ nhỏ, khi mặt trời lên đến lúc đêm
khuya bên đèn, đều có một cuộc hành hương vĩ đại về cội nguồn của tri thức liên tục
diễn ra vì “Tri thức là sức mạnh. Ai có tri thức người đó có sức mạnh” (Lênin). Nhất là
ngày nay, khi xã hội loài người ngày càng phát triển, thì vai trò của tri thức lại càng
được nâng cao và khẳng định được vị thế quan trọng của mình. Nắm được tầm quan
trọng của tri thức đối với sự phát triển của xã hội cũng như trong nghiên cứu và hoạt
động của sinh viên, em đã lựa chọn đề tài : “Khái niệm tri thức và vai trò của tri thức
trong hoạt động thực tiễn phát triển kinh tế ở Việt Nam hiện nay”.
Qua đề tài này, em muốn cảm ơn thầy Phạm Văn Sinh, là người đã giúp em có
thêm những hiểu biết về triết học. Những lời giảng của thầy đã giúp em hiểu hơn về
triết học và vai trò của triết học trong đời sống xã hội, giúp em có thêm niềm yêu thích
với môn khoa học này. Trong quá trình làm tiểu luận, mặc dù đã cố gắng hết khả năng
nhưng do trình độ còn hạn chế nên vẫn không khó tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy,
em rất mong nhận được những ý kiến, đóng góp của thầy để giúp cho bài tiểu luận
của em được đầu đủ, hoàn thiện hơn và bản thân em cũng có thể củng cố thêm vốn hiểu biết của mình.
Em xin trân trọng cảm ơn! lOMoAR cPSD| 61432759
CHƯƠNG 1: QUAN ĐIỂM CỦA MÁC- LÊNIN VỀ TRI THỨC VÀ VAI TRÒ CỦA TRI THỨC
1.1. Khái niệm tri thức.
Tri thức đã có từ lâu trong lịch sử, có thể nói từ khi con người bắt đầu có tư duy thì
lúc đó có tri thức. Từ thuở sơ khai trí thức được chạm khắc trên vách đá, xương thú,
mai rùa. Khi có chữ viết, con người biết lưu giữ tri thức trên vải, trên giấy. Ngày nay,
người ta đã mã hóa tri thức và lưu trữ bằng các bản điện tử. Việc lưu trữ điện tử cho
phép con người lưu trữ nhanh chóng, chắc chắn và vô hạn. Bởi nó có sức mạnh nên ở
bất cứ thời đại nào con người cũng cố gắng tìm kiếm những cách lưu giữ đầy đủ nhất,
chắc chắn nhất, bền lâu nhất. Con người bảo vệ tri thức như một “thanh gươm thần”,
xem nó như một báu vật thiêng liêng không thể đánh mất. Trải qua một thời gian dài
phát triển của lịch sử, cho đến những thập kỷ gần đây tri thức và vai trò của nó đối với
sự phát triển kinh tế-xã hội mới được đề cập nhiều. Vậy tri thức là gì?
Có rất nhiều cách định nghĩa về tri thức nhưng có thể hiểu: “Tri thức là sự hiểu
biết, sáng tạo và những khả năng, kỹ năng để ứng dụng nó (hiểu biết sáng tạo) vào
việc tạo ra cái mới nhằm mục đích phát triển kinh tế -xã hội”. Tri thức bao gồm tất cả
những thông tin, số liệu, bản vẽ, tưởng tượng (sáng tạo),khả năng, kỹ năng quan niệm
về giá trị và những sản phẩm mang tính tượng trưng xã hội khác. Tri thức có vai trò rất
lớn đối với đời sống, kinh tế, xã hội.
Tri thức có nhiều cấp độ khác nhau như: tri thức thông thường được hình thành
do hoạt động hàng ngày của mỗi cá nhân, mang tính chất cảm tính trực tiếp, bề ngoài
và rời rạc. Tri thức khoa học phản ánh trình độ của con người đi sâu nhận thức thế giới hiện thực.
Trong lý luận Mác- xít về tri thức, việc xác định vai trò đặc biệt to lớn của tầng
lớp này đối với đời sống chính trị chiếm vị trí quan trọng và thu hút sự quan tâm của
các nhà kinh điển. Trong bức thư gửi V.I.Daxulich, Ph.Ăngghen đã nói tới thái độ kiên
quyết và lòng nhiệt tình của những người tri thức dân tộc trong việc “chặt đứt xiềng
xích đang giam cầm họ”, tức là nền quân chủ. Ph.Ăngghen khẳng định, “để điều hành
bộ máy hành chính và toàn bộ nền sản xuất xã hội, hoàn toàn không cần những lời nói
suông, mà cần những tri thức vững vàng” [C.Mác và Ph.Ăngghen, tập 22, tr.432].
Hiểu rõ tầm quan trọng của trí tuệ nói chung đối với tiến trình phát triển,
V.I.Lênin cho rằng, “tri thức bao hàm không chỉ các nhà trước tác, mà còn bao hàm tất
cả mọi người có học thức, các đại biểu của những người tự do nói chung, các đại biểu
của lao động trí óc” [V.I.Lênin, tập 8,tr.372]. Quan niệm của V.I.Lênin về người trí thức
cũng rất rõ ràng:“Người tri thức đấu tranh, tuyệt nhiên không phải là bằng cách dùng lOMoAR cPSD| 61432759
thực lực theo lối này hay lối khác, mà là bằng cách dùng những lý lẽ. Vũ khí của họ
chính là sự hiểu biết, năng lực và lòng tin của cá nhân họ. Họ nhờ vào những phẩm
chất cá nhân để đóng góp một vai trò nào đó. Vì vậy, đốivới họ, quyền được hoàn toàn
tự do biểu hiện bản chất cá nhân của mình là điều kiện đầu tiên để công tác được kết
quả. Với tư cách là một bộ phận trong toàn thể, họ chỉ phục tùng toàn thể đó một
cách miễn cưỡng, phục tùng vì bắt buộc, chứ không phải tự nguyện. Họ chỉ thừa nhận
kỷ luật là cần thiết đối với quần chúng, chứ không phải đối với những nhân vật được
lựa chọn. Dĩ nhiên là họ xếp mình vào những hàng ngũ những nhân vật được lựa
chọn...” [V.I.Lênin, tập 8, tr.373].
Sau thắng lợi vĩ đại của cách mạng tháng Mười Nga năm 1917, V.I.Lênin bắt tay
vào việc xây dựng và bảo vệ nhà nước Xô Viết non trẻ, thực hiện cương lĩnh quá độ đi
lên xây dựng chủ nghĩa xã hội.Trong sự nghiệp vĩ đại đó không thể không có sự tham
gia của tầng lớp tri thức xã hội chủ nghĩa; vì theo V.I.Lênin nếu “Không có sự chỉ đạo
của các chuyên gia am hiểu các lĩnh vực khoa học, kỹ thuật và có kinh nghiệm thì
không thể nào chuyển lên chủ nghĩa xã hội được”[V.I.Lênin, tập 36, tr.217]. Chủ nghĩa
xã hội đòi hỏi một bước tiến cao về ý thức và có tính quần chúng, để tạo ra một năng
suất lao động cao hơn hẳn năng suất lao động của phương thức sản xuất xã hội tư bản
chủ nghĩa; dựa trên cơ sở những kết quả mà chủ nghĩa tư bản đã được.
Trong tư tưởng của V.I.Lênin đã nhiều lần chỉ ra rằng trong cách mạng xã hội chủ
nghĩa nếu giai cấp công nhân và chính đảng của nó, lôi kéo lãnh đạo được tri thức,
phát huy tài năng trí tuệ của họ vào mọi công việc cách mạng thì cách mạng mới có
thể phát triển nhanh chóng, đỡ những tổn thất do thiếu tri thức và hiệu quả của mọi
công việc mới được nâng cao không ngừng. Cũng từ thực tiễn lịch sử mà V.I.Lênin đã
rút ra một kết luận khoa học có tính định hướng cho tương lai “Trước sự liên minh
của các đại biểu khoa học, giai cấp vô sản và giới kỹ thuật, không một thế lực đen tối
nào đứng vững được” [V.I.Lênin, tập 40, tr.218]. Thực tế cũng cho thấy những kiến
thức khoa học, nếu bị những kẻ có đặc quyền, những lực lượng thống trị phản động
kiềm chế và sử dụng, thì sẽ trở thành vũ khí để nô dịch quần chúng nhân dân, hủy
hoại nhân loại, cho nên cách mạng vô sản phải có nhiệm vụ giành lại vũ khí đó, vì sự
nghiệp giải phóng và bảo vệ con người.
1.2. Vai trò của tri thức trong hoạt động thực tiễn.
Tri thức có vai trò rất quan trọng đối với thực tiễn, tác động và góp phần biến
đổi thực tiễn thông qua hoạt động năng động có ý thức của con người. Lý luận là kim
chỉ nam cho mọi hoạt động và góp phần soi đường chỉ lối cho thực tiễn đi đúng hướng.
V.I.Lenin đã chỉ ra vai trò quan trọng của lý luận “Không có lý luận cách mạng thì không lOMoAR cPSD| 61432759
thể có phong trào cách mạng” [V.I.Lenin, 1974 – 1981, tập 26, tr.30]. Tri thức lí luận,
có thể dự kiến được sự phát triển và vận động của sự vật trong tương lai, dự báo được
những phương hướng mới cho sự phát triển của thực tiễn. Lý luận khoa học làm cho
hoạt dộng của con người chủ động hơn, tự giác hơn, hạn chế được sự mò mẫm, tư
phát, mất phương hướng.
Tri thức đang ngày càng khẳng định vai trò to lớn của mình trong hoạt động xã
hội, là tiền đề quan trọng để hình thành nên xã hội tri thức – một xã hội đổi mới văn
minh và là mục tiêu hướng tới của nhiều quốc gia trên thếgiới hiện nay. Chúng ta đều
nhận thấy rằng, tri thức đóng một vai trò hết sức quan trọng, tri thức có thể hiểu là
sản phẩm đặc thù của xã hội, sự ra đời của tri thức gắn liền với sự hình thành của xã
hội. Dù những câu hỏi mang tính triết học xung quanh phạm trù tri thức vẫn không
ngừng được tranh luận và chưa có câu trả lời thỏa đáng nhưng trong mọi lĩnh vực kinh
tế, khoa học,chính trị... tri thức vẫn luôn được tìm kiếm, phát triển và ngày càng có tác
động to lớn đến sự phát triển của loài người. Tất cả mọi người tuy hoàn cảnh địa vị
khác nhau nhưng đều có chung một hoạt động đấy là hoạt động tri thứcvà vì thế tri
thức không còn là vấn đề riêng của cá nhân mà đã trở thành vấnđề chung của toàn xã hội.
Tri thức còn đem đến cho con người sức mạnh duy trì, gìn giữ ổn định và phát
triển các giá trị đời sống một cách bền vững dài lâu. Trải qua thời gian, bằng tri thức
con người đã xây dựng một xã hội loài người văn minh,tiến bộ tột bậc. Dường như,
tham vọng khuất phục hoàn toàn hoàn cảnh sống là tham vọng bất tận của con người.
Từ tiện nghi đến tiện nghi hơn nữa. Từlàm chủ đến bá chủ toàn cầu. Và thực tế đã
chứng minh, ngày nay, con người đã có mặt ở hầu khắp mọi nơi trên trái đất. Tất cả
những thành tựu đó đều nhờ vào sức mạnh vô hạn của tri thức mà có. Chúng ta hoàn
toàn có thể tự hào khi nghĩ đến Issac Newton, Darwin, Lincoln, Shakespeare, Nobel,
Einstein, Hồ Chí Minh,…và biết bao tên tuổi khác. Họ thực sự là những người anh hùng
vĩ đại, là người lính tiên phong trong trận chiến đấu loại bỏ cái lạc hậu, bất công, đói
nghèo, mãi mãi xứng đáng để chúng ta ngưỡng mộ và tôn kính.
Vai trò của tri thức trong việc thực hiện những yêu cầu của xã hội cũng góp phần
trong việc thể hiện khả năng của bản thân mình ở xã hội không ngừng phát triển lớn
mạnh. Khi con người có tri thức, am hiểu sâu rộng tới mọi vấn đề hay lĩnh vực xã hội
thì dễ dàng thực hiện được những mục tiêu, ham muốn, ước nguyện của bản thân,
chỉ có tri thức được lấy bằng chính mồ hôi công sức thì mới mang lại được hiệu quả.
Và hiển nhiên, một xã hội với những con người thành đạt giúp xã hội phát triển không
ngừng về tri thức. Đơn giản xã hội được hợp thành bởi cá nhân, nhưng sự kết hợp
mang lại hiệu quả thì cần quá trình rèn luyện không ngừng đối với thế hệ trẻ việc học lOMoAR cPSD| 61432759
tập như nào trao đổi bản thân ra sao để tri thức tính mang lại cho xã hội có sự đóng góp hiệu quả nhất.
Mỗi con người ta chỉ giống như một con kiến bé nhỏ nhưng nếu biết tích lũy
góp nhặt tri thức như loài kiến kia thì sẽ có thêm ngày càng nhiều sức mạnh, vốn sống,
vốn hiểu biết để đối mặt với những khó khăn, thử thách trong đời. Liệu có hành trang
nào dành cho con người khi dấn thân vào cuộc sống khó khăn cần thiết hơn tri thức.
Tri thức giúp chúng ta hoàn thiện mình,dũng cảm và tự tin hơn khi tham gia vào các
hoạt động xã hội. Để làm giàu vốn tri thức của mình, con người có thể có rất nhiều
môi trường để học tập:học không chỉ ở trường mà còn qua sách vở, thầy cô, bè bạn,
cuộc sống như một triết gia Hy Lạp cổ đại đã nói: “Mỗi người tôi gặp đều có những
điểm hay hơn tôi, đáng cho tôi học tập”
Tri thức cũng góp tiếng nói của mình vào sự ổn định phát triển. Một đất nước
có người dân đạt trình độ cao về trí thức thì tỷ lệ thất nghiệp sẽ ít đi,mức sống của
người dân được cải thiện hơn, con người được hạnh phúc hơn.Xã hội ổn định,
không bị những tệ nạn ma túy hay vấn nạn cướp bóc, trộm cướp cũng được hạn chế
hơn, nhờ vậy mà đất nước trở nên văn minh và giàu đẹp hơn. Tri thức càng được coi
trọng thì nền giáo dục càng được chú trọng lên hàng đầu, góp phần xây dựng một
môi trường giáo dục lành mạnh, an toàn và cung cấp được cho đất nước những
nhân tài đưa đất nước ngày càng lớn mạnh hơn, góp phần nâng cao vị thế trên thế
giới. Nếu bản thân mỗi công dân không có am hiểu về tri thức, tri thức trong sách
vở, tri thức trong cách sống thì xã hội sẽ duy trì như thế nào bởi tri thức được hình
thành nhờ sự tiếp thu kiến thức cũng như học hỏi các kĩ năng, nhờ quá trình trải
nghiệm nên nếu như xã hội toàn là những cá nhân không có tri thức thì xã hội đó sẽ
lạc hậu, không có sự phát triển.
Một vai trò cũng rất quan trọng mà tri thức mang lại cho xã hội là sự hội nhập
quốc tế, giao lưu học hỏi kiến thức hay những cuộc thi quốc tế. Tri thức là “nguồn tài
nguyên” vô giá của nhân loại vậy nên chúng ta phải có tri thức để hiểu biết về văn hóa
các nước và tạo nên nền văn hóa ngày càng lành mạnh. Mỗi cá nhân nên có những
hiểu biết và biết tiếp thu, sàng lọc, lựa chọn cái phù hợp và xác định mức độ tiếp cận,
tiếp nhận đúng đắn, hiệu quả những điều tiến bộ, điều tốt đẹp của nước ngoài để từ
đó áp dụng có hiệu quả nó
CHƯƠNG 2: VAI TRÒ CỦA TRI THỨC TRONG PHÁT TRIỂN KINH lOMoAR cPSD| 61432759
TẾ ( HOẶC KINH DOANH ) Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Vai trò của tri thức khoa học, công nghệ trong việc nâng cao hiệu quả các
nguồn lực phát triển kinh tế.
Những năm 60 của thế kỷ XX tới nay, tri thức khoa học tăng trưởng rất lớn, sự
thẩm thấu và kết hợp lẫn nhau giữa khoa học tự nhiên và khoa học xã hội, giữa khoa
học và kĩ thuật tiên tiến cho khoa học, kĩ thuật hiện đại trở thành một hệ thống tri
thức thống nhất với nhiều bộ môn khoa học và nhiều tầng bậc chuyên môn. Trong lịch
sử, tri thức luôn là một nhân tố quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế, nhưng từ trước
đến nay chưa hề có nhiều lao động tri thức như bây giờ và cũng chưa từng có việc
truyền bá tri thức nhanh như bây giờ thông qua máy tính và internet. Nhìn chung,
cung cấp tri thức không gây ra cho người cung cấp sự nghèo đói mà ngược lại chia sẻ
tri thức đem lại sự giàu có. Hiện nay khi khoa học công nghệ phát triển tới trình độ
cao, đòi hỏi một trình độ học vấn sâu rộng đối với người lao động và thu hẹp nhanh
chóng ranh giới giữa lao động chân tay với lao động trí óc. Do đó, khi khoa học và công
nghệ tiên tiến đã thâm nhập vào mọi lĩnh vực cuộc sống xã hội, việc chia người lao
động thành lao động trí óc và lao động chân tay ở mọi lĩnh vực cuộc sống, dù là người
lao động giản đơn nhất dần dần được tri thức hoá. Nếu không có kiến thức nhất định
về một nghề nghiệp nào đó thì người lao động sẽ không có chỗ đứng trong xã hội. Tại
nhiều nước phát triển trong khi các khu vực sản xuất truyền thông đang phải liên tục
cắt giảm lượng nhân công thì những ngành thông tin, dược,…lại đang trong tình trạng
khan hiếm lao động kĩ thuật từ nước ngoài. Chính vì vậy, tri thức thực tại được coi như
một động lực thúc đẩy cho sự phát triển sức sản xuất và tăng trưởng kinh tế.
Tri thức khoa học công nghệ cùng với lao động kĩ năng là lực lượng sản xuất thứ
nhất là lợi thế quyết định. Trí tuệ con người được thể hiện trong tri thức khoa học và
công nghệ cùng với kĩ năng lao động cao là lợi thế có ý nghĩa quyết định triển vọng
phát triển của mọi quốc gia. Lịch sử phát triển hiện đại chứng tỏ rằng các lợi thế tự
nhiên (tài nguyên, nguồn nhân lực rẻ do thiếu kĩ năng, lao động giản đơn thuần tuý)
ngày càng giảm bớt vai trò trong phát triển. Trong khi đó trình độ khoa học kĩ thuật và
nguồn nhân lực tri thức ngày càng đóng vai trò quyết định khẳng định trong cuộc tranh
đua - cạnh tranh phát triển. Trong nền kinh tế tri thức vừa được sử dụng để quản lí,
điều khiển, tham gia vào quá trình sản xuất như công cụ sản xuất, vừa trực tiếp là
thành tố trong sản phẩm như nguyên liệu sản xuất. Tri thức để xử lí tri thức, để làm ra
tri thức, tri thức quản lí điều hành. Còn quá sớm để dự báo những thay đổi quan hệ
sản xuất trong tương lai nhưng chắc chắn tri thức sẽ dẫn đến những thay đổi triệt để
sâu rộng trong phát triển nền kinh tế. lOMoAR cPSD| 61432759
Bên cạnh đó, tri thức trở thành nội dung chủ yếu của sản xuất, phân bố tiêu
dùng. Trong nền kinh tế yếu tố sản xuất quý nhất, động lực quan trọng nhất cho sự
phát triển kinh tế là tri thức, lao động có trình độ và kĩ năng cao. Tri thức trở thành
nội dung chủ yếu của sản xuất, phân phối và tri thức. Chức năng của nền sản xuất hiện
đại là sản xuất và phân phối vật chất. Tri thức là nguồn lực hàng đầu tạo nên sự tăng
trưởng kinh tế. Sự cống hiến của tri thức và kĩ thuật đối với tăng trưởng kinh tế ngày
càng lớn, rất nhiều ngành nghề trong nông nghiệp và công nghiệp đang trở thành
những ngành nghề trí tuệ. Sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học và
công nghệ hiện đại đã và đang dần dần làm mất chỗ đứng của người lao động giản
đơn. Điều đó cho thấy nền kinh tế ngày càng phải dựa vào “chất xám” để phát triển.
Chất xám ngày càng cao, trí tuệ ngày càng sâu sắc, tri thức càng có vị trí trong sản xuất,
phân bố tiêu dùng và không thể thiếu trong xã hội công nghiệp hoá, hiện đại hóa.
Tri thức không những có vai trò sáng tạo, truyền bá mà còn có vai trò truyền
thông, nguồn lực của sản xuất. Do vậy đầu tư phát triển tri thức là đầu tư chủ yếu.
Điều này không có nghĩa là nền kinh tế không cần vốn, nguồn tài nguyên thiên nhiên
và nhân lực nữa. Trái lại, các yếu tố này về mặt giá trị còn được đầu tư với số lượng
đáng kể hơn, thậm chí đối với trang thiết bị máy móc công nghệ cao cần được đầu tư
với một số lượng vốn rất lớn song vốn vô hình (như thông tin, kĩ năng, lao động công
nghệ,…) còn có giá trị cao hơn gấp bội trở thành yếu tố quan trọng nhất, phần vốn cơ
bản nhất trong sự phát triển kinh tế.
2.2. Vai trò của tri thức với việc nâng cao tính cạnh tranh kinh tế.
Tri thức đóng vai trò to lớn trong việc rút ngắn khoảng cách phát triển giữa các
nước đang phát triển và các nước phát triển. Sự xuất hiện kinh tế tri thức vừa là cơ
hội vừa là thách thức đối với các nước kém và đang phát triển, trong đó có Việt Nam.
Các quốc gia kém và đang phát triển nhanh chóng tiếp cận với kinh tế tri thức, thông
qua tri thức hóa các ngành công nghiệp. nông nghiệp. dịch vụ, đặc biệt sớm hình thành
các công nghệ cao để nhanh chóng đưa nền kinh tế đất nước đuổi kịp các nước phát triển.
Vào những thời kỳ đầu, tài nguyên đất và khoáng sản đã tạo nên nguồn lực
chính cho phát triển. Công nghệ hết sức sơ khai. Con người được định giá chủ yếu
theo giá trị sức lao động cơ bắp của họ. Ngày nay, thông tin và tri thức đã và đang trở
thành những đầu vào quan trọng của quá trình phát triển. Tất cả các hoạt động kinh
tế ngày càng sử dụng nhiều tri thức. Để thành công, các lĩnh vực sản xuất công nghiệp
hiện đại phụ thuộc ngày càng nhiều vào việc quản lý thông tin liên quan đến chất
lượng, chi phí và việc lập kế hoạch cũng như chúng phụ thuộc vào việc quản lý các quá
trình sản xuất. Lĩnh vực dịch vụ là lĩnh vực có tiềm năng to lớn về tạo việc làm và phát lOMoAR cPSD| 61432759
triển kinh tế trong nền kinh tế thế giới nhưng dịch vụ cũng là lĩnh vực dựa chủ yếu vào tri thức.
Tri thức nghề nghiệp, kỹ năng, tay nghề, thói quen công nghệ… trở thành “đầu
vào” của sản xuất. Nhờ hàm lượng tri thức lớn và công nghệ luôn đổi mới mà giá trị
sản phẩm thường có tỷ suất gia tăng cao hơn nhiều so với vốn bỏ ra. Nhiều nhà tương
lai học dự báo rằng, vào đầu thế kỷ XXI, khi loài người bước vào một nền văn minh
thông tin, khi tri thức phát triển hơn nữa thì phương thức sản xuất sẽ cải tiến hơn nhờ
công nghệ thông tin (tin học, viễn thông); công nghệ sinh học, công nghệ năng lượng
mới. Bấy giờ, một môi trường mới sẽ ra đời: vật tư ít, năng lượng ít, phế thải được xử
lý và phân tán làm cho môi trường sinh thái trởthành môi trường văn hóa
Trong sự phát triển của lực lượng sản xuất khoa học đóng vai trà ngày càng to
lớn. Sự phát triển của khoa học sản xuất và là động lực mạnh mẽ thúc đẩy sản xuất
pháttriển. Ngày nay, khoa học đã phát triển đến mức trở thành nguyên nhân trực tiếp
của nhiều biến đổi to lớn trong sản xuất trong đời sống và trở thành “lực lượng sản
xuất trực tiếp”. Sức lao động đặc trưng cho lao động hiện đại không chỉ còn là kinh
nghiệm và thói quen của họ mà là tri thức khoa học. Có thể nói tri thức là đặc trưng
cho lực lượng sản xuất hiên đại.
Lao động sản xuất bao giờ cũng phải dựa vào tri thức nhất là trong thời đại ngày
nay. Tri thức là một yếu tố nổi bật nhất trong quá trình sản xuất. Trong văn minh nông
nghiệp thì sức lao động, đất đai và vốn là những yếu tố của sản xuất công nghiệp, vốn,
đất đai và nhất là sức lao động trở thành hàng hóa với tư cách là những yếu tố quan
trọng trong sự phát triển kinh tế - xã hội, góp phần chuyển xã hội phong kiến thành xã
hội tư bản trong lịch sử. Còn trong kinh tế tri thức, yếu tố của sự phát triển kinh tế -
xã hội không chỉ bao gồm vốn tiền tệ, đất đai và dựa trên lao động đơn giản mà chủ
yếu dựa trên lao động trí tuệ gắn với tri thức. Như vậy tri thức trở thành yếu tố thứ
nhất trong hàm sản xuất thay vì yếu tố sức lao động,vốn tiền tệ và đất đai. Tri thức
thực sự trở thành nguồn gốc động lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Nước Mỹ nói
riêng và các nước thuộc tổ chức OECD nói chung nhiều năm qua tăng trưởng ổn định
với tốc độ cao là nhờ có sự phát triển của các ngành kinh tế dựa trên tri thức như
ngành công nghệ thông tin, viễn thông, vũ trụ, đầu tư, ngân hàng, tài chính, chứng
khoán, bảo hiểm... Đồng thời chuyển đầu tư vốn tri thức từ các ngành truyền thống
sang các ngành có hàm lượng tri thức cao. Ở các nước có nền kinh tế đang phát triển,
đầu tư càng nhiều vốn tri thức thì mang lại giá trị gia tăng càng lớn, tỷ suất lợi nhuận
càng cao. Tri thức trong kinh tế tri thức đóng vai trò quyết định sự thành công hay thất
bại của doanh nghiệp. Vốn tri thức ở đây bao gồm các công nhân tri thức, các nhà
quản lí tri thức, các công nghệ mới. lOMoAR cPSD| 61432759 KẾT LUẬN
Kinh tế thế giới đang bước vào một thời đại mới, một trình độ mới. Đó là trình
độ mà “ nhân tố quan trọng nhất là việc chiếm hữu, phân phối nguồn trí lực và việc
sáng tạo, phân phối và sử dụng tri thức trong các ngành kĩ thuật cao”. Tiêu chí chủ yếu
của nó là lấy tri thức, trí óc làm yếu tố then chốt để phát triển kinh tế và tồn tại trực
tiếp giống như các yếu tố sức lao động và tài nguyên. Đó là thời đại mà “Tri thức đã
trở thành động lực chủ yếu của sự phát triển xã hội”, “Tri thức là tài nguyên là tư bản”,
“Tri thức là tâm điểm của cạnh tranh và là nguồn lực dẫn dắt cho sự tăng trưởng dài
hạn”...dẫn tới những thay đổi lớn trong cách tổ chức sản xuất, cấu trúc thị trường, lựa chọn nghề nghiệp.
Góp phần vào chiến lược phát triển kinh tế, tiến nhanh trên con đường công
nghiệp hóa, hiện đại hoá chúng ta cần phải nghiên cứu tri thức, tìm hướng đi đúng
đắn cho nền kinh tế tri thức, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh đất nước, phù hợp với
khu vực, với thế giới và thời đại trong tổng thể các mối liên hệ, trong sự phát triển vận
động không ngừng của nền kinh tế tri thức.Nhà văn Francis Bacon đã từng nói: “Tri
thức là sức mạnh”. Sau này , Lênin, một nhà Triết học, một nhà chính trị vĩ đại đã phát
triển thành: “Tri thức là sức mạnh. Ai có tri thức người đó có sức mạnh”. Vì thế hãy
đầu tư vào nâng cao tri thức,quản lý tri thức hiệu quả và khuyến khích hợp tác, chia
sẻ kiến thức để xây dựng một nền kinh tế thông minh, linh hoạt, bền vững; góp phần
xây dựng một xã hội phồn vinh, tươi đẹp.
TÀI LIỆU THAM KHẢO 1.
Nguyễn Duy Quý (Chủ biên) (2018), “Những vấn đề lý luận vềchủ nghĩa xã hội
và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 2.
A.P.Septulin (2017), “Phương pháp nhận thức biện chứng”, Nxb.Sách giáo khoa Mác - Lênin, Hà Nội. 3.
Nguyễn Văn Tài (Chủ biên) (2018) “Giáo trình Triết học Mác Lênin – Lý luận và
vận dụng”, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội. 4.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Nghị quyết Đại hội đại biểu toànquốc lần thứ
VI, Nxb. Sự thật, Hà Nội. 5.
Giáo trình triết học Mac-Lênin; Bộ giáo dục và đào tạo; NXB Chínhtrị Quốc gia Sự Thật. 6.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toànquốc lần thứ X, Nxb. Sự thật, Hà Nội