





Preview text:
Khái niệm “ý niệm tuyệt đối” trong triết học Hêgen
1. Khái quát về chủ nghĩa duy tâm của Hêgen
Hêgen (1770 - 1881) là đại biểu vĩ đại nhất của triết học cổ điển Đức, đỉnh cao
của triết học tư sản và của chủ nghĩa duy tâm thế kỷ XIX.
Có nhiều người cho rằng triết học Hêgen là duy tâm, trừu tượng, thần bí, khó
hiểu, và do đó không có giá trị gì, chỉ là "đồ bỏ đi”. Họ coi khinh Hêgen, phê
phán triết học Hêgen vì tính chất duy tâm của nó. Rất bực mình và phản đối
điều đó, Mác đã cộng khai tuyên bố mình là đồ đệ của Hêgen, thậm chí còn
"thích dùng lối diễn đạt đặc trưng của Hêgen" (Lời tựa bộ "Tư bản").
Lênin, trong "Bút ký triết học", nói rằng có nhiều loại chủ nghĩa duy vật cũng
như nhiều loại chủ nghĩa duy tâm, và khẳng định: “Chủ nghĩa duy tâm thông
minh gần vớichủ nghĩa duy vật thông minh hơn chủ nghĩa duy vật ngu xuẩn".
Vả lại, trước Mác, nhưng nhà triết học nổi tiếng là duy vật của thế kỷ XVII -
XVIII ở Anh và ở Pháp cũng vẫn chỉ là duy vật nửa vời "duy vật một nữa",
nghĩa là chỉ duy vật trong lĩnh vực tự nhiên, còn trong lĩnh vực xã hội thì họ
cũng duy tâm. Hơn nữa, họ lại siêu hình, không lý giải được nguồn gốc, sự
vận động và sự phát triển của thế giới khách quan. Chính đó là một lý do
quan trọng làm cho chủ nghĩa duy vật thếkỷ XVII - XVIII bị chủ nghĩa duy tâm
của triết học Đức phủ định.
Triết học Hêgen là một thứ "chủ nghĩa duy tâm thông minh", có những "hạt
nhân hợp lý" và rất có giá trị, trở thành một trong những tiền đề trực tiếp của
chủ nghĩa Mác, được các học giả và các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đánh giá rất cao.
Plêkhanốp, một người có học vấn uyên bác, từng được Lênin tôn làm thầy,
đã đánh giá Hêgen:"Chắc chắn sẽ mãi mãi được dành một trong những địa vị
cao quí nhất trong lịch sử tư tưởng của nhân loại. Trong các khoa học mà
người Pháp gọi là "khoa tinh thần và chính trị", không có một khoa học nào là
không chịu ảnh hưởng mãnh liệt và rất phong phú của thiên tài Hêgen: "Phép
biện chứng, logic học, luật học, mỹ học, lịch sử triết học và tôn giáo - tất cả
những khoa học đó đều có một hình thức mới nhờ sự tác động của Hêgen.
2. Thành tựu của triết học Hêgen
Hêgen đã để lại cho nhân loại một di sản triết học khổng lồ với những tư
tưởng cực kỳ phong phú và sâu sắc. Ông từng nói:"Cái triết học mới nhất của
một thời đại là kết quả của hết thẩy các triết học đã có từ trước và phải bao
gồm những nguyên lý của tất cả những triết học đó". Chính ông đã thực hiện
xuất sắc yêu cầu đó với việc phân tích, phê phán các trào lưu triết học, các
triết gia trước ông và cùng thời với ông. Hệ thống triết học của Hêgen đã bao
quát nhiều lĩnh vực và phát triển nhiều tư tưởng phong phú và đặc sắc, có ý
nghĩa vạch thời đại. Vì vậy, Ph.Ăngghen đã khẳng định:"Nếu không có triết
học Đức mở đường, đặc biệt là nếu không có triết học Hêgen, thì chủ nghĩa
xã hội khoa học Đức - chủ nghĩa xã hội khoa học duy nhất chưa hề có từ
trước đến nay, sẽ không bao giờ được xây dựng nên".
Hêgen là nhà triết học duy tâm theo trường phái chủ nghĩa duy tâm khách
quan, hay chủ nghĩa duy tâm tuyệt đối. Như Lênin nhận xét, Hêgen tin tưởng
và nghĩ một cách nghiêm túc rằng chỉ có chủ nghĩa duy tâm mới là triết học,
bởivì triết học là khoa học về tư duy, cái chung, mà cái chung tức là tư tưởng.
ông cho rằng, cơ sở của hết thảy mọi sự vật tồn tại, cái bản chất sâu sắc nhất
của thế giới không phải là ý thức cá nhân, là "cái tôi" chủ quan, mà là một ý
thức nói chung nào đó rất "khách quan", tồn tại độc lập với con người, có
trước tự nhiên và có trước loài người, luôn luôn vận động và biến đổi được
ông gọi là "ý niệm tuyệt đối".
3. Vị trí của “ý niệm tuyệt đối” trong triết học Hêgen
Có thể nói, toàn bộ triết học của Hêgen xoay quanh phạm trù ý niệm tuyệt đối
và sự vận động của ý niệm tuyệt đối trong hệ thống triết học đồ sộ của ông
được trình bày theo kiểu "suy lý ba bước" (tam đoạn luận).
Hêgen cho rằng, ý niệm tuyệt đối là cái có trước tất cả mọi cái. Do có mâu
thuẫn bên trong nên ý niệm tuyệt đối có sự tự vận động từ thấp lên cao, trải
qua sự phát triển, thông qua các khái niệm, rồi lại trở về với nó với một sự
phong phú hơn (logic học). Do có sự vận động và chuyển hoá, nên ý niệm
tuyệt đối trở thành cái khác nó (tha hoá), đối lập với nó, tức là giới tự nhiên
(triết học về tự nhiên). Ý niệm tuyệt đối tiếp tục vận động về với bản thân
mình trong đời sống có ý thức của cá nhân con người và xã hội loài người và
sự hoàn thành sự vận động của nó, đạt tới đỉnh cao nhất trong hệ thống triết
học Hêgen (triết học về tinh thần).
Hêgen rất ưa thích và đề cao lối suy lý ba bước. Ông cho rằng mọi cái có lý
tính đều là một suy lý ba bước: một cái chung liên hệ với cái đơn nhất thông
qua cái riêng. Tuy nhiên, ông cũng phân biệt sự suy lý (tư duy) về sự vật với
bản thân sự vật, cho rằng sự vật không phải là một chỉnh thểgồm ba mệnh đề.
Và ông rất phản đối suy lý ba bước theo kiểu "hình thức vô ích" làm cho
người ta buồn chán như ví dụ ông nêu ra: "Tất cả mọi người đều chết, Cai-i là
một người, vậy Cai-i cũng chết”.
4. Khái quát về “ý niệm tuyệt đối” triết học Hêgen
Trong hệ thống triết học lập luận theo lối "suy lý ba bước", Hêgen đã trình bày
về sự vận động và biến hoá của ý niệm tuyệt đối một cách rất tư biện, nghĩa
là không làm cho ý niệm phù hợp với sự vật mà trái lại, làm cho sự vật phù
hợp với ý niệm… Ông cho rằng "tồn tại" là tính quy định thứ nhất của ý niệm
tuyệt đối. "Tồn tại" ở đây không phải là thế giới vật chất, cũng không phải là
sự phản ánh của thực tai vào ý thức con người, mà là khái niệm trừu tượng
của tồn tại, tức là "tồn tại thuần tuý". Tồn tại thuần tuý là tồn tại không có tính
quy định nào, không cần một tiền đề nào, không có bất cứ một nội dung nào,
không phải là sản phẩm của bất kỳ một sự trung gian nào nghĩa là đồng nhất
với hư vô thuần tuý. "Tồn tại thuần tuý và hư vô thuần tuý là cùng một cái" là
không có gì. Không có gì nhưng vẫn là một cái gì (cũng như số 0 vẫn là một
cái gì khi phân biệt với những số khác). TheoHêgen, tồn tại thuần tuý chính là
cái đang bắt đầu. "Cái đang bắt đầu là chưa tồn tại, nó chỉ hướng tới sự tồn
tại...một sự không tồn tại mà cũng đồng thời là sự tồn tại"(?). Như vậy là khái
niệm "tồn tại thuần tuý"đã chứa đựng mâu thuẫn trong bản thân nó, vì nó bao
hàm hai mặt đối lập là tồn tại và hư vô và là sự thống nhất của tồn tại và hư
vô. Do có mâu thuẫn mà nó vận động, và vận động đến mức nào đó thì dẫn
đến sinh thành, tức là chuyển hoá thành một thứtồn tại khác. "Tồn tại khác"
này có tính quy định, không còn là "tồn tại thuần tuý" hay "hư vô" nữa, mà đã
là một cái gì đó có "chất", có "lượng", được thống nhất ở trong "độ" (chú ý:
chất, lượng, độ ờ đây không phải là chất, lượng, độ của sự vật mà là các khái niệm chất, lượng).
Ý niệm tuyệt đối khi đạt tới "độ" thì nhận được một sự quy định mới, sâu sắc
hơn và cụ thể hơn, đó là khái niệm "bản chất". Trong học thuyết về bản chất,
Hêgen đã đưa ra và phân tích nhiều khái niệm quan trọng như: bản chất, hiện
tượng, bề ngoài, hiện thực quy luật… và nói về mối liên hệ giữa các phạm trù:
quy luật và bản chất, quy luật và hiện tượng, bản chất và hiện tượng, bản
chất và bề ngoài, bề ngoài và hiện tượng, khẳng định vả phủ định, tất nhiên
và ngẫu nhiên, khả năng và hiện thực, tự do và tất yếu' nguyên nhân và kết
quả… Hêgen đã trình bày nhiều vấn đề quan trọng của phép biện chứng, đặc
biệt là về mâu thuẫn. Ông coi mâu thuẫn là phổ biến, là nguồn gốc và cơ sở
của vận động, là nguyên lý của sự phát triển. Ông khẳng định: "Tất cả mọi vật
đều có tính chất mâu thuẫn trong bản thân nó...Mâu thuẫn là nguồn gốc của
tất cả mọi vận động và của tất cả mọi sức sống, chỉ trong chừng mực một vật
chứa đựng trong bản thân nó một mâu thuẫn, thì nó mới vận động, phải có
xung lực và hoạt động".
5. Ý niệm tuyệt đối là phạm trù xuất phát và trung tâm của
triết học Hêgen
Một người uyên bác và vĩ đại như Lênin, khi nghiên cứu triết học Hêgen
nhiều lúc cũng phải thốt lên: "thần bí", "cực kỷ khó hiểu và có lúc đã nói đùa:
"Biện pháp làm nhức đầu tốt nhất là đọc triết học Hêgen". Nghiên cứu triết
học Hêgen đương nhiên là phải đụng đến phạm trù "ý niệm tuyệt đối" đầy bí
hiểm. Vì vậy, trong bước đầu tìm hiểu triết học Hêgen, tôi cung mạnh dạn nêu
lên mấy nhận thức còn thô thiển của mình về ý niệm tuyệt đối của ông:
Ý niệm tuyệt đối là "khái niệm thíchhợp", có tính chân lý khách
quan. TheoHêgen, ý niệm tuyệt đối hay ý niệm trước hết là khái niệm, song
không phải mọi khái niệm đều là ý niệm. Ông phân biệt ý niệm với khái niệm
và cho rằng ý niệm cao hơn khái niệm: "Khái niệm chưa phải là khái niệm (cái)
cao nhất, cái còn cao hơn nứa là ý niệm". Khái niệm khi phát triển thành khái
niệm thích hợp thì trở thành ý niệm. Như vậy, cái "cao hơn" của ý niệm so với
khái niệm chính là sự "thích hợp", tức là sự phù hợp, sự thống nhất giữa khái
niệm và tính khách quan. Khái niệm phát triển thành khái niệm thích hợp, trở
thành ý niệm, thì chính là chân lý: "Y niệm là chân lý, vì chân lý là sự phù hợp
giữa tính khách quan và khái niệm".
Ý niệm tuyệt đối cũng là hiện thực, hay nói cách khác, hiện thực là "tồn tại
khác" của ý niệm. Hêgen đã khẳng định một cách hết sức duy tâm: "Thế giới
là tồn tại khác của ý niệm. .". Mọi hiện thực chỉ là hiện thực trong chừng mực
nó chứa đựng và biểu hiện ý niệm. Đối tượng, thếgiới chủ quan và thế giới
khách quan không những chỉ phải phù hợp nói chung với ý niệm, mà chính
bản thân chúng là sự phù hợp của khái niệm và thực tại, thực tại mà không
phù hợp với khái niệm thì chỉ là hiện tượng, chủ quan, ngẫu nhiên, tuỳ tiện,
nghĩa là không phải chân lý. Toàn bộ hiện thực, dù là cái phổ biến, cái đơn
nhất hay cái đặc thù, đều là những biểu hiện khác nhau về phạm vi và mức
độ của ý niệm tuyệt đối. Toàn bộ hiện chực cũng là ý niệm, tồn tại đơn nhất
chỉ là một mặt nào đó của ý niệm , ý niệm còn cần đến hiện thực khác như là tồn tại đặc thù.
Ý niệm tuyệt đối là "cái phổ biến", là một hình thức bao hàm và quy tụ nhiều
nội đung phong phú, được thể hiện ở mọi đối tượng, nhưng mỗi đối tượng lại
nhận thức không giống nhau. Hêgen nói rằng ý niệm tuyệt đối là cái phổ biến,
là những chân lý mà cả ông già và đứa trẻ con đều nói, nhưng đối với ông già,
những chân lý này có ý nghĩa của cả cuộc đời ông, còn đối với đứa trẻ thì chỉ
có nghĩa là một cái gì đó mà ngoài cái đó ra còn có cả một cuộc đời và tất cả
vũ trụ. "Giống như cùng một câu cách ngôn luận lý, nếu do một thanh niên nói
ra, tuy anh ta hiểu nó hoàn toàn đúng đắn, thì lại không có cùng một tầm rộng
như khi câu đó xuất phát từ miệng một người từng trải việc đời và khi nói câu
đó, người này nói lên toàn bộ sức mạnh của nội dung của nó".
Ý niệm tuyệt đối là quá trình, là phép biện chứng. Theo Hêgen, phép biện
chứng không ở trong lý trí của con người mà ở trong hiện thực khách quan,
tức là ở trong "ý niệm tuyệt đối". Ý niệm, vời tư cách là quá trình, trải qua ba
giai đoạn trong sự phát triển của nó, ý niệm tuyệt đối chứa đựng mâu thuẫn,
chứa đựng cái phủ định của chính nó, vận động từ nội dung này đến nội dung
khác, từ đơn giản đến phức tạp, do đó, ý niệm tuyệt đối là sự sống vĩnh viễn.
Chính bản thân ý niệm là phép biện chứng, đã luôn luôn tách rời và phân biệt,
cái đồng nhất vớicái khác nhau, cái chủ quan với cái khách quan, cái hữu hạn
với cái vô hạn, linh hồn với thân thể và cũng chỉ vì vậy mà ý niệm là sự sáng
tạo vĩnh viên, là sự sống vĩnh viễn và tinh thần vĩnh viễn.
Ý niệm tuyệt đối là một phạm trù triết học duy tâm của Hêgen, như Lênin đã
nhận xét: "Mọi người đều biết ý niệm của con người là gì, nhưng ý niệm mà
không có con người, hoạt động có trước con người, ý niệm trừu tượng, ý
niệm tuyệt đối, là một điều bia đặt thần học của nhà duy tâm Hêgen". Tuy
nhiên, chính Lênin cũng thấy cái "hạt nhân hợp lý", "hạt chân lý sâu sắc"
trong ý niệm tuyệt đối của triết học Hêgen, đó là phép biện chứng. Ý niệm
tuyệt đối của Hêgen có vẻ là tuyệt đối duy tâm, nhưng như Lênin đánh giá:
"Hầu như không chứa đựng một chủ nghĩa duy tâm đặc biệt nào mà chỉ có
chủ đề chủ yếu là phương pháp biện chứng và lẽ là sự trình bày hay nhất về phép biện chứng”.
6. Câu hỏi thường gặp về triết học Hegel
6.1 Chủ nghĩa duy tâm tuyệt đối của Hegel?
Hegel, một nhà triết học khác mà hệ thống của ông cũng được gọi là chủ
nghĩa duy tâm, lập luận trong tác phẩm Khoa học Logic (Wissenschaft der
Logik 1812-1814) rằng các phẩm chất hữu hạn không "có thực" một cách đầy
đủ, vì chúng phụ thuộc vào sự quyết định của các phẩm chất hữu hạn khác.
Mặt khác, "sự vô hạn" định tính lại có thể tự quyết hơn, và do đó sẽ xứng
đáng hơn để được gọi là "có thực" một cách đầy đủ. Tương tự, những sự vật
tự nhiên hữu hạn kém "thực" hơn - vì chúng kém tự quyết định hơn - so với
những thứ thuộc về tinh thần như những người có đạo đức trách nhiệm,
những cộng đồng luân lý, và Thượng đế. Do đó, học thuyết nào khẳng định
các phẩm chất hữu hạn hay các đối tượng tự nhiên là hoàn toàn có thực,
chẳng hạn chủ nghĩa duy vật, học thuyết đó đã nhầm lẫn. Hegel gọi triết học
của ông là chủ nghĩa duy tâm tuyệt đối, để đối lập với "chủ nghĩa duy tâm chủ
quan" của Berkeley và "chủ nghĩa duy tâm siêu nghiệm" của Kant và Fichte.
Khác với chủ nghĩa duy tâm của Hegel, các học thuyết này không dựa trên
phê phán về sự hữu hạn. Các nhà "duy tâm chủ nghĩa" mà triết học của họ
gần với triết học của Hegel nhất là Plato và Plotinus. Không có ai trong ba
nhà tư tưởng này liên hệ chủ nghĩa duy tâm của họ với luận đề nhận thức
luận rằng những gì ta biết là các "ý niệm" trong tâm thức của ta.
6.2 Chủ nghĩa duy tâm trong tư duy tôn giáo?
Không phải là tất cả các tôn giáo và niềm tin vào siêu nhiên đều hoàn toàn có
hình thức phản chủ nghĩa duy vật một cách rõ ràng. Ví dụ, các đức tin Ấn Độ
giáo về Brahman, Thiền của Phật giáo trung dung giữa tâm và vật, còn giáo
lý Kitô giáo dòng chính khẳng định tầm quan trọng của tính vật chất của thể
xác con người Chúa Kitô và sự cần thiết của việc tự kiềm chế khi giao tiếp
với thế giới vật chất.
6.3 Định nghĩa về chủ nghĩa duy tâm?
Chủ nghĩa duy tâm là trường phái triết học khẳng định rằng mọi thứ đều tồn
tại bên trong tinh thần và thuộc về ý thức.
Document Outline
- Khái niệm “ý niệm tuyệt đối” trong triết học Hêgen
- 1. Khái quát về chủ nghĩa duy tâm của Hêgen
- 2. Thành tựu của triết học Hêgen
- 3. Vị trí của “ý niệm tuyệt đối” trong triết học H
- 4. Khái quát về “ý niệm tuyệt đối” triết học Hêgen
- 5. Ý niệm tuyệt đối là phạm trù xuất phát và trung
- 6. Câu hỏi thường gặp về triết học Hegel
- 6.1 Chủ nghĩa duy tâm tuyệt đối của Hegel?
- 6.2 Chủ nghĩa duy tâm trong tư duy tôn giáo?
- 6.3 Định nghĩa về chủ nghĩa duy tâm?