Khái niệm “ý niệm tuyệt đối” trong triết học
Hêgen
1. Khái quát v ch nghĩa duy m ca Hêgen
Hêgen (1770 - 1881) đại biểu đại nhất của triết học cổ điển Đức, đỉnh cao
của triết học sản của chủ nghĩa duy tâm thế kỷ XIX.
nhiều người cho rằng triết học Hêgen duy tâm, trừu tượng, thần bí, khó
hiểu, do đó không giá trị gì, chỉ "đồ bỏ đi”. Họ coi khinh Hêgen, p
phán triết học Hêgen nh chất duy tâm của nó. Rất bực mình phản đối
điều đó, Mác đã cộng khai tuyên bố mình đồ đệ của Hêgen, thậm chí còn
"thích dùng lối diễn đạt đặc trưng của Hêgen" (Lời tựa bộ "Tư bản").
Lênin, trong "Bút triết học", nói rằng nhiều loại chủ nghĩa duy vật cũng
như nhiều loại chủ nghĩa duy tâm, khẳng định: “Chủ nghĩa duy tâm thông
minh gần vớichủ nghĩa duy vật thông minh hơn chủ nghĩa duy vật ngu xuẩn".
Vả lại, trước Mác, nhưng nhà triết học nổi tiếng duy vật của thế kỷ XVII -
XVIII Anh Pháp cũng vẫn chỉ duy vật nửa vời "duy vật một nữa",
nghĩa chỉ duy vật trong lĩnh vực tự nhiên, n trong lĩnh vực hội thì h
cũng duy m. Hơn nữa, họ lại siêu hình, không giải được nguồn gốc, sự
vận động sự phát triển của thế giới khách quan. Chính đó một do
quan trọng làm cho chủ nghĩa duy vật thếkỷ XVII - XVIII bị chủ nghĩa duy tâm
của triết học Đức phủ định.
Triết học Hêgen một thứ "chủ nghĩa duy tâm thông minh", những "hạt
nhân hợp lý" rất giá trị, trở thành một trong những tiền đề trực tiếp của
chủ nghĩa Mác, được các học giả các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác -
Lênin đánh giá rất cao.
Plêkhanốp, một người học vấn uyên bác, từng được Lênin tôn làm thầy,
đã đánh giá gen:"Chắc chắn sẽ mãi mãi được dành một trong những địa vị
cao quí nhất trong lịch sử ởng của nhân loại. Trong các khoa học
người Pháp gọi là "khoa tinh thần chính trị", không một khoa học nào
không chịu ảnh hưởng mãnh liệt rất phong phú của thiên tài Hêgen: "Phép
biện chứng, logic học, luật học, mỹ học, lịch sử triết học tôn giáo - tất cả
những khoa học đó đều một hình thức mới nhờ sự tác động của Hêgen.
2. Thành tu ca triết hc gen
Hêgen đã để lại cho nhân loại một di sản triết học khổng lồ với những
tưởng cực kỳ phong phú sâu sắc. Ông từng i:"Cái triết học mới nhất của
một thời đại kết quả của hết thẩy các triết học đã từ trước phải bao
gồm những nguyên của tất cả những triết học đó". Chính ông đã thực hiện
xuất sắc yêu cầu đó với việc phân tích, phê phán các trào u triết học, các
triết gia trước ông cùng thời với ông. Hệ thống triết học của Hêgen đã bao
quát nhiều lĩnh vực phát triển nhiều tưởng phong p đặc sắc, ý
nghĩa vạch thời đại. vậy, Ph.Ăngghen đã khẳng định:"Nếu không triết
học Đức mở đường, đặc biệt nếu không triết học Hêgen, thì chủ nghĩa
hội khoa học Đức - chủ nghĩa hội khoa học duy nhất chưa hề từ
trước đến nay, sẽ không bao giờ được xây dựng nên".
Hêgen nhà triết học duy tâm theo trường phái chủ nghĩa duy tâm khách
quan, hay ch nghĩa duy tâm tuyệt đối. Như Lênin nhận xét, gen tin tưởng
nghĩ một cách nghiêm túc rằng ch chủ nghĩa duy tâm mới triết học,
bởivì triết học khoa học về duy, cái chung, cái chung tức tưởng.
ông cho rằng, sở của hết thảy mọi sự vật tồn tại, cái bản chất sâu sắc nhất
của thế giới không phải ý thức nhân, "cái tôi" chủ quan, một ý
thức nói chung nào đó rất "khách quan", tồn tại độc lập với con người,
trước tự nhiên trước loài người, luôn luôn vận động biến đổi được
ông gọi niệm tuyệt đối".
3. V trí ca “ý nim tuyt đi” trong triết hc Hêgen
thể nói, toàn bộ triết học của gen xoay quanh phạm t ý niệm tuyệt đối
sự vận động của ý niệm tuyệt đối trong hệ thống triết học đồ sộ của ông
được trình bày theo kiểu "suy ba bước" (tam đoạn luận).
Hêgen cho rằng, ý niệm tuyệt đối i trước tất cả mọi cái. Do mâu
thuẫn bên trong nên ý niệm tuyệt đối sự tự vận động từ thấp lên cao, trải
qua sự phát triển, thông qua các khái niệm, rồi lại trở về với với một sự
phong phú hơn (logic học). Do sự vận động chuyển hoá, nên ý niệm
tuyệt đối trở thành i khác (tha hoá), đối lập với nó, tức giới tự nhiên
(triết học về t nhiên). Ý niệm tuyệt đối tiếp tục vận động về với bản thân
mình trong đời sống ý thức của nhân con người hội loài người
sự hoàn thành sự vận động của nó, đạt tới đỉnh cao nhất trong hệ thống triết
học Hêgen (triết học về tinh thần).
Hêgen rất ưa thích đề cao lối suy ba bước. Ông cho rằng mọi cái
tính đều một suy ba bước: một cái chung liên hệ với cái đơn nhất thông
qua i riêng. Tuy nhiên, ông cũng phân biệt sự suy (tư duy) về sự vật với
bản thân s vật, cho rằng sự vật không phải một chỉnh thểgồm ba mệnh đề.
ông rất phản đối suy ba bước theo kiểu "hình thức ích" làm cho
người ta buồn chán như dụ ông nêu ra: "Tất cả mọi người đều chết, Cai-i
một người, vậy Cai-i cũng chết”.
4. Khái quát v “ý nim tuyt đi” triết hc gen
Trong hệ thống triết học lập luận theo lối "suy ba bước", Hêgen đã trình bày
về sự vận động biến hoá của ý niệm tuyệt đối một cách rất biện, nghĩa
không làm cho ý niệm phù hợp với sự vật trái lại, làm cho sự vật p
hợp với ý niệm… Ông cho rằng "tồn tại" tính quy định thứ nhất của ý niệm
tuyệt đối. "Tồn tại" đây không phải thế giới vật chất, cũng không phải
sự phản ánh của thực tai vào ý thức con người, khái niệm trừu tượng
của tồn tại, tức "tồn tại thuần tuý". Tồn tại thuần t tồn tại không tính
quy định nào, không cần một tiền đề nào, không bất cứ một nội dung nào,
không phải sản phẩm của bất kỳ một sự trung gian nào nghĩa đồng nhất
với thuần tuý. "Tồn tại thuần tuý hư thuần tuý là cùng một cái"
không gì. Không nhưng vẫn một cái (cũng như số 0 vẫn một
cái khi phân biệt với những số khác). TheoHêgen, tồn tại thuần tuý chính
cái đang bắt đầu. "Cái đang bắt đầu chưa tồn tại, chỉ hướng tới sự tồn
tại...một sự không tồn tại cũng đồng thời sự tồn tại"(?). Như vậy khái
niệm "tồn tại thuần tuý"đã chứa đựng mâu thuẫn trong bản thân nó, nó bao
hàm hai mặt đối lập tồn tại sự thống nhất của tồn tại
vô. Do mâu thuẫn vận động, vận động đến mức nào đó thì dẫn
đến sinh thành, tức chuyển h thành một thứtồn tại khác. "Tồn tại khác"
này tính quy định, không còn "tồn tại thuần tuý" hay "hư vô" nữa, đã
một cái đó "chất", "lượng", được thống nhất trong "độ" (chú ý:
chất, lượng, độ đây không phải chất, lượng, độ của sự vật các khái
niệm chất, lượng).
Ý niệm tuyệt đối khi đạt tới "độ" thì nhận được một sự quy định mới, sâu sắc
hơn cụ thể hơn, đó là khái niệm "bản chất". Trong học thuyết về bản chất,
Hêgen đã đưa ra phân tích nhiều khái niệm quan trọng như: bản chất, hiện
tượng, bề ngoài, hiện thực quy luật… nói về mối liên h giữa các phạm trù:
quy luật bản chất, quy luật hiện tượng, bản chất hiện tượng, bản
chất bề ngoài, bề ngoài hiện tượng, khẳng định vả phủ định, tất nhiên
ngẫu nhiên, khả năng hiện thực, tự do tất yếu' nguyên nhân kết
quả… Hêgen đã trình bày nhiều vấn đề quan trọng của phép biện chứng, đặc
biệt về mâu thuẫn. Ông coi mâu thuẫn phổ biến, nguồn gốc sở
của vận động, nguyên của sự phát triển. Ông khẳng định: "Tất cả mọi vật
đều tính chất mâu thuẫn trong bản thân nó...Mâu thuẫn nguồn gốc của
tất cả mọi vận động của tất cả mọi sức sống, chỉ trong chừng mực một vật
chứa đựng trong bản thân một mâu thuẫn, thì mới vận động, phải
xung lực hoạt động".
5. Ý nim tuyt đi phm trù xut phát và trung tâm ca
triết hc Hêgen
Một người uyên bác đại như Lênin, khi nghiên cứu triết học Hêgen
nhiều lúc ng phải thốt lên: "thần bí", "cực kỷ khó hiểu lúc đã nói đùa:
"Biện pháp làm nhức đầu tốt nhất đọc triết học Hêgen". Nghiên cứu triết
học Hêgen đương nhiên phải đụng đến phạm trù niệm tuyệt đối" đầy
hiểm. vậy, trong bước đầu tìm hiểu triết học Hêgen, tôi cung mạnh dạn nêu
lên mấy nhận thức còn t thiển của mình về ý niệm tuyệt đối của ông:
Ý niệm tuyệt đối "khái niệm thíchhợp", tính chân khách
quan. TheoHêgen, ý niệm tuyệt đối hay ý niệm trước hết khái niệm, song
không phải mọi khái niệm đều ý niệm. Ông phân biệt ý niệm với khái niệm
cho rằng ý niệm cao hơn khái niệm: "Khái niệm chưa phải khái niệm (cái)
cao nhất, cái còn cao hơn nứa ý niệm". Khái niệm khi phát triển thành khái
niệm thích hợp thì trở thành ý niệm. Như vậy, cái "cao hơn" của ý niệm so với
khái niệm chính sự "thích hợp", tức sự phù hợp, sự thống nhất giữa khái
niệm tính khách quan. Khái niệm phát triển thành khái niệm thích hợp, trở
thành ý niệm, thì chính chân lý: "Y niệm chân lý, chân sự phù hợp
giữa tính khách quan khái niệm".
Ý niệm tuyệt đối cũng hiện thực, hay nói cách khác, hiện thực "tồn tại
khác" của ý niệm. gen đã khẳng định một ch hết sức duy tâm: "Thế giới
tồn tại khác của ý niệm...". Mọi hiện thực chỉ hiện thực trong chừng mực
chứa đựng biểu hiện ý niệm. Đối ợng, thếgiới chủ quan thế giới
khách quan không những chỉ phải phù hợp nói chung với ý niệm, chính
bản thân chúng sự p hợp của khái niệm thực tại, thực tại không
phù hợp với khái niệm thì chỉ hiện tượng, chủ quan, ngẫu nhiên, tuỳ tiện,
nghĩa không phải chân lý. Toàn bộ hiện thực, dù là cái phổ biến, cái đơn
nhất hay cái đặc thù, đều những biểu hiện khác nhau về phạm vi mức
độ của ý niệm tuyệt đối. Toàn bộ hiện chực cũng ý niệm, tồn tại đơn nhất
chỉ một mặt nào đó của ý niệm , ý niệm còn cần đến hiện thực khác như
tồn tại đặc thù.
Ý niệm tuyệt đối "cái phổ biến", một hình thức bao hàm quy tụ nhiều
nội đung phong phú, được thể hiện mọi đối tượng, nhưng mỗi đối tượng lại
nhận thức không giống nhau. Hêgen nói rằng ý niệm tuyệt đối cái phổ biến,
những chân cả ông già đứa trẻ con đều nói, nhưng đối với ông già,
những chân này ý nghĩa của cả cuộc đời ông, còn đối với đứa trẻ thì chỉ
nghĩa một cái đó mà ngoài cái đó ra còn cả một cuộc đời tất cả
trụ. "Giống n cùng một câu cách ngôn luận lý, nếu do một thanh niên nói
ra, tuy anh ta hiểu hoàn toàn đúng đắn, thì lại không cùng một tầm rộng
như khi câu đó xuất phát từ miệng một người từng trải việc đời khi nói câu
đó, người này nói lên toàn bộ sức mạnh của nội dung của nó".
Ý niệm tuyệt đối là quá trình, phép biện chứng. Theo Hêgen, phép biện
chứng không trong trí của con người trong hiện thực khách quan,
tức là trong niệm tuyệt đối". Ý niệm, vời cách quá trình, trải qua ba
giai đoạn trong sự phát triển của nó, ý niệm tuyệt đối chứa đựng mâu thuẫn,
chứa đựng cái phủ định của chính nó, vận động từ nội dung này đến nội dung
khác, từ đơn giản đến phức tạp, do đó, ý niệm tuyệt đối sự sống vĩnh viễn.
Chính bản thân ý niệm phép biện chứng, đã luôn luôn tách rời phân biệt,
cái đồng nhất vớicái khác nhau, cái chủ quan với cái khách quan, cái hữu hạn
với cái hạn, linh hồn với thân thể cũng chỉ vậy ý niệm sự sáng
tạo vĩnh viên, sự sống vĩnh viễn tinh thần nh viễn.
Ý niệm tuyệt đối một phạm trù triết học duy tâm của Hêgen, như Lênin đã
nhận xét: "Mọi người đều biết ý niệm của con người gì, nhưng ý niệm
không con người, hoạt động trước con người, ý niệm trừu tượng, ý
niệm tuyệt đối, một điều bia đặt thần học của nhà duy tâm Hêgen". Tuy
nhiên, chính Lênin cũng thấy cái "hạt nhân hợp lý", "hạt chân sâu sắc"
trong ý niệm tuyệt đối của triết học Hêgen, đó phép biện chứng. Ý niệm
tuyệt đối của Hêgen vẻ tuyệt đối duy tâm, nhưng như Lênin đánh giá:
"Hầu như không chứa đựng một ch nghĩa duy tâm đặc biệt nào chỉ
chủ đề ch yếu phương pháp biện chứng lẽ sự trình bày hay nhất về
phép biện chứng”.
6. u hi thưng gp v triết hc Hegel
6.1 Ch
ngh
ĩ
a duy tâm tuy
t
đố
i c
a Hegel?
Hegel, một nhà triết học khác hệ thống của ông cũng được gọi chủ
nghĩa duy m, lập luận trong tác phẩm Khoa học Logic (Wissenschaft der
Logik 1812-1814) rằng các phẩm chất hữu hạn không "có thực" một cách đầy
đủ, chúng phụ thuộc vào sự quyết định của các phẩm chất hữu hạn khác.
Mặt khác, "sự hạn" định tính lại thể tự quyết hơn, do đó sẽ xứng
đáng hơn để được gọi "có thực" một cách đầy đủ. Tương tự, những sự vật
tự nhiên hữu hạn kém "thực" hơn - chúng m tự quyết định hơn - so với
những thứ thuộc về tinh thần như những người đạo đức trách nhiệm,
những cộng đồng luân lý, Thượng đế. Do đó, học thuyết nào khẳng định
các phẩm chất hữu hạn hay các đối tượng tự nhiên hoàn toàn thực,
chẳng hạn chủ nghĩa duy vật, học thuyết đó đã nhầm lẫn. Hegel gọi triết học
của ông chủ nghĩa duy tâm tuyệt đối, đ đối lập với "chủ nghĩa duy tâm chủ
quan" của Berkeley "chủ nghĩa duy tâm siêu nghiệm" của Kant Fichte.
Khác với chủ nghĩa duy tâm của Hegel, các học thuyết này không dựa trên
phê phán về sự hữu hạn. Các nhà "duy tâm chủ nghĩa" triết học của họ
gần với triết học của Hegel nhất Plato Plotinus. Không ai trong ba
nhà tưởng này liên hệ chủ nghĩa duy tâm của họ với luận đề nhận thức
luận rằng những ta biết các niệm" trong tâm thức của ta.
6.2 Ch nghĩa duy tâm trong tư duy tôn giáo?
Không phải tất cả các tôn giáo niềm tin vào siêu nhiên đều hoàn toàn
hình thức phản chủ nghĩa duy vật một cách ràng. dụ, các đức tin Ấn Độ
giáo về Brahman, Thiền của Phật giáo trung dung giữa tâm vật, còn giáo
Kitô giáo dòng chính khẳng định tầm quan trọng của tính vật chất của thể
xác con người Chúa Kitô sự cần thiết của việc tự kiềm chế khi giao tiếp
với thế giới vật chất.
6.3
Đị
nh ngh
ĩ
a v
ch
ngh
ĩ
a duy tâm?
Chủ nghĩa duy tâm trường phái triết học khẳng định rằng mọi thứ đều tồn
tại bên trong tinh thần thuộc về ý thức.

Preview text:

Khái niệm “ý niệm tuyệt đối” trong triết học Hêgen
1. Khái quát vchnghĩa duy tâm ca Hêgen
Hêgen (1770 - 1881) là đại biểu vĩ đại nhất của triết học cổ điển Đức, đỉnh cao
của triết học tư sản và của chủ nghĩa duy tâm thế kỷ XIX.
Có nhiều người cho rằng triết học Hêgen là duy tâm, trừu tượng, thần bí, khó
hiểu, và do đó không có giá trị gì, chỉ là "đồ bỏ đi”. Họ coi khinh Hêgen, phê
phán triết học Hêgen vì tính chất duy tâm của nó. Rất bực mình và phản đối
điều đó, Mác đã cộng khai tuyên bố mình là đồ đệ của Hêgen, thậm chí còn
"thích dùng lối diễn đạt đặc trưng của Hêgen" (Lời tựa bộ "Tư bản").
Lênin, trong "Bút ký triết học", nói rằng có nhiều loại chủ nghĩa duy vật cũng
như nhiều loại chủ nghĩa duy tâm, và khẳng định: “Chủ nghĩa duy tâm thông
minh gần vớichủ nghĩa duy vật thông minh hơn chủ nghĩa duy vật ngu xuẩn".
Vả lại, trước Mác, nhưng nhà triết học nổi tiếng là duy vật của thế kỷ XVII -
XVIII ở Anh và ở Pháp cũng vẫn chỉ là duy vật nửa vời "duy vật một nữa",
nghĩa là chỉ duy vật trong lĩnh vực tự nhiên, còn trong lĩnh vực xã hội thì họ
cũng duy tâm. Hơn nữa, họ lại siêu hình, không lý giải được nguồn gốc, sự
vận động và sự phát triển của thế giới khách quan. Chính đó là một lý do
quan trọng làm cho chủ nghĩa duy vật thếkỷ XVII - XVIII bị chủ nghĩa duy tâm
của triết học Đức phủ định.
Triết học Hêgen là một thứ "chủ nghĩa duy tâm thông minh", có những "hạt
nhân hợp lý" và rất có giá trị, trở thành một trong những tiền đề trực tiếp của
chủ nghĩa Mác, được các học giả và các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đánh giá rất cao.
Plêkhanốp, một người có học vấn uyên bác, từng được Lênin tôn làm thầy,
đã đánh giá Hêgen:"Chắc chắn sẽ mãi mãi được dành một trong những địa vị
cao quí nhất trong lịch sử tư tưởng của nhân loại. Trong các khoa học mà
người Pháp gọi là "khoa tinh thần và chính trị", không có một khoa học nào là
không chịu ảnh hưởng mãnh liệt và rất phong phú của thiên tài Hêgen: "Phép
biện chứng, logic học, luật học, mỹ học, lịch sử triết học và tôn giáo - tất cả
những khoa học đó đều có một hình thức mới nhờ sự tác động của Hêgen.
2. Thành tu ca triết hc Hêgen
Hêgen đã để lại cho nhân loại một di sản triết học khổng lồ với những tư
tưởng cực kỳ phong phú và sâu sắc. Ông từng nói:"Cái triết học mới nhất của
một thời đại là kết quả của hết thẩy các triết học đã có từ trước và phải bao
gồm những nguyên lý của tất cả những triết học đó". Chính ông đã thực hiện
xuất sắc yêu cầu đó với việc phân tích, phê phán các trào lưu triết học, các
triết gia trước ông và cùng thời với ông. Hệ thống triết học của Hêgen đã bao
quát nhiều lĩnh vực và phát triển nhiều tư tưởng phong phú và đặc sắc, có ý
nghĩa vạch thời đại. Vì vậy, Ph.Ăngghen đã khẳng định:"Nếu không có triết
học Đức mở đường, đặc biệt là nếu không có triết học Hêgen, thì chủ nghĩa
xã hội khoa học Đức - chủ nghĩa xã hội khoa học duy nhất chưa hề có từ
trước đến nay, sẽ không bao giờ được xây dựng nên".
Hêgen là nhà triết học duy tâm theo trường phái chủ nghĩa duy tâm khách
quan, hay chủ nghĩa duy tâm tuyệt đối. Như Lênin nhận xét, Hêgen tin tưởng
và nghĩ một cách nghiêm túc rằng chỉ có chủ nghĩa duy tâm mới là triết học,
bởivì triết học là khoa học về tư duy, cái chung, mà cái chung tức là tư tưởng.
ông cho rằng, cơ sở của hết thảy mọi sự vật tồn tại, cái bản chất sâu sắc nhất
của thế giới không phải là ý thức cá nhân, là "cái tôi" chủ quan, mà là một ý
thức nói chung nào đó rất "khách quan", tồn tại độc lập với con người, có
trước tự nhiên và có trước loài người, luôn luôn vận động và biến đổi được
ông gọi là "ý niệm tuyệt đối".
3. Vtrí ca “ý nim tuyt đối” trong triết hc Hêgen
Có thể nói, toàn bộ triết học của Hêgen xoay quanh phạm trù ý niệm tuyệt đối
và sự vận động của ý niệm tuyệt đối trong hệ thống triết học đồ sộ của ông
được trình bày theo kiểu "suy lý ba bước" (tam đoạn luận).
Hêgen cho rằng, ý niệm tuyệt đối là cái có trước tất cả mọi cái. Do có mâu
thuẫn bên trong nên ý niệm tuyệt đối có sự tự vận động từ thấp lên cao, trải
qua sự phát triển, thông qua các khái niệm, rồi lại trở về với nó với một sự
phong phú hơn (logic học). Do có sự vận động và chuyển hoá, nên ý niệm
tuyệt đối trở thành cái khác nó (tha hoá), đối lập với nó, tức là giới tự nhiên
(triết học về tự nhiên). Ý niệm tuyệt đối tiếp tục vận động về với bản thân
mình trong đời sống có ý thức của cá nhân con người và xã hội loài người và
sự hoàn thành sự vận động của nó, đạt tới đỉnh cao nhất trong hệ thống triết
học Hêgen (triết học về tinh thần).
Hêgen rất ưa thích và đề cao lối suy lý ba bước. Ông cho rằng mọi cái có lý
tính đều là một suy lý ba bước: một cái chung liên hệ với cái đơn nhất thông
qua cái riêng. Tuy nhiên, ông cũng phân biệt sự suy lý (tư duy) về sự vật với
bản thân sự vật, cho rằng sự vật không phải là một chỉnh thểgồm ba mệnh đề.
Và ông rất phản đối suy lý ba bước theo kiểu "hình thức vô ích" làm cho
người ta buồn chán như ví dụ ông nêu ra: "Tất cả mọi người đều chết, Cai-i là
một người, vậy Cai-i cũng chết”.
4. Khái quát v“ý nim tuyt đối” triết hc Hêgen
Trong hệ thống triết học lập luận theo lối "suy lý ba bước", Hêgen đã trình bày
về sự vận động và biến hoá của ý niệm tuyệt đối một cách rất tư biện, nghĩa
là không làm cho ý niệm phù hợp với sự vật mà trái lại, làm cho sự vật phù
hợp với ý niệm… Ông cho rằng "tồn tại" là tính quy định thứ nhất của ý niệm
tuyệt đối. "Tồn tại" ở đây không phải là thế giới vật chất, cũng không phải là
sự phản ánh của thực tai vào ý thức con người, mà là khái niệm trừu tượng
của tồn tại, tức là "tồn tại thuần tuý". Tồn tại thuần tuý là tồn tại không có tính
quy định nào, không cần một tiền đề nào, không có bất cứ một nội dung nào,
không phải là sản phẩm của bất kỳ một sự trung gian nào nghĩa là đồng nhất
với hư vô thuần tuý. "Tồn tại thuần tuý và hư vô thuần tuý là cùng một cái" là
không có gì. Không có gì nhưng vẫn là một cái gì (cũng như số 0 vẫn là một
cái gì khi phân biệt với những số khác). TheoHêgen, tồn tại thuần tuý chính là
cái đang bắt đầu. "Cái đang bắt đầu là chưa tồn tại, nó chỉ hướng tới sự tồn
tại...một sự không tồn tại mà cũng đồng thời là sự tồn tại"(?). Như vậy là khái
niệm "tồn tại thuần tuý"đã chứa đựng mâu thuẫn trong bản thân nó, vì nó bao
hàm hai mặt đối lập là tồn tại và hư vô và là sự thống nhất của tồn tại và hư
vô. Do có mâu thuẫn mà nó vận động, và vận động đến mức nào đó thì dẫn
đến sinh thành, tức là chuyển hoá thành một thứtồn tại khác. "Tồn tại khác"
này có tính quy định, không còn là "tồn tại thuần tuý" hay "hư vô" nữa, mà đã
là một cái gì đó có "chất", có "lượng", được thống nhất ở trong "độ" (chú ý:
chất, lượng, độ ờ đây không phải là chất, lượng, độ của sự vật mà là các khái niệm chất, lượng).
Ý niệm tuyệt đối khi đạt tới "độ" thì nhận được một sự quy định mới, sâu sắc
hơn và cụ thể hơn, đó là khái niệm "bản chất". Trong học thuyết về bản chất,
Hêgen đã đưa ra và phân tích nhiều khái niệm quan trọng như: bản chất, hiện
tượng, bề ngoài, hiện thực quy luật… và nói về mối liên hệ giữa các phạm trù:
quy luật và bản chất, quy luật và hiện tượng, bản chất và hiện tượng, bản
chất và bề ngoài, bề ngoài và hiện tượng, khẳng định vả phủ định, tất nhiên
và ngẫu nhiên, khả năng và hiện thực, tự do và tất yếu' nguyên nhân và kết
quả… Hêgen đã trình bày nhiều vấn đề quan trọng của phép biện chứng, đặc
biệt là về mâu thuẫn. Ông coi mâu thuẫn là phổ biến, là nguồn gốc và cơ sở
của vận động, là nguyên lý của sự phát triển. Ông khẳng định: "Tất cả mọi vật
đều có tính chất mâu thuẫn trong bản thân nó...Mâu thuẫn là nguồn gốc của
tất cả mọi vận động và của tất cả mọi sức sống, chỉ trong chừng mực một vật
chứa đựng trong bản thân nó một mâu thuẫn, thì nó mới vận động, phải có
xung lực và hoạt động".
5. Ý nim tuyt đối là phm trù xut phát và trung tâm ca
triết hc Hêgen
Một người uyên bác và vĩ đại như Lênin, khi nghiên cứu triết học Hêgen
nhiều lúc cũng phải thốt lên: "thần bí", "cực kỷ khó hiểu và có lúc đã nói đùa:
"Biện pháp làm nhức đầu tốt nhất là đọc triết học Hêgen". Nghiên cứu triết
học Hêgen đương nhiên là phải đụng đến phạm trù "ý niệm tuyệt đối" đầy bí
hiểm. Vì vậy, trong bước đầu tìm hiểu triết học Hêgen, tôi cung mạnh dạn nêu
lên mấy nhận thức còn thô thiển của mình về ý niệm tuyệt đối của ông:
Ý niệm tuyệt đối là "khái niệm thíchhợp", có tính chân lý khách
quan. TheoHêgen, ý niệm tuyệt đối hay ý niệm trước hết là khái niệm, song
không phải mọi khái niệm đều là ý niệm. Ông phân biệt ý niệm với khái niệm
và cho rằng ý niệm cao hơn khái niệm: "Khái niệm chưa phải là khái niệm (cái)
cao nhất, cái còn cao hơn nứa là ý niệm". Khái niệm khi phát triển thành khái
niệm thích hợp thì trở thành ý niệm. Như vậy, cái "cao hơn" của ý niệm so với
khái niệm chính là sự "thích hợp", tức là sự phù hợp, sự thống nhất giữa khái
niệm và tính khách quan. Khái niệm phát triển thành khái niệm thích hợp, trở
thành ý niệm, thì chính là chân lý: "Y niệm là chân lý, vì chân lý là sự phù hợp
giữa tính khách quan và khái niệm".
Ý niệm tuyệt đối cũng là hiện thực, hay nói cách khác, hiện thực là "tồn tại
khác" của ý niệm. Hêgen đã khẳng định một cách hết sức duy tâm: "Thế giới
là tồn tại khác của ý niệm. .". Mọi hiện thực chỉ là hiện thực trong chừng mực
nó chứa đựng và biểu hiện ý niệm. Đối tượng, thếgiới chủ quan và thế giới
khách quan không những chỉ phải phù hợp nói chung với ý niệm, mà chính
bản thân chúng là sự phù hợp của khái niệm và thực tại, thực tại mà không
phù hợp với khái niệm thì chỉ là hiện tượng, chủ quan, ngẫu nhiên, tuỳ tiện,
nghĩa là không phải chân lý. Toàn bộ hiện thực, dù là cái phổ biến, cái đơn
nhất hay cái đặc thù, đều là những biểu hiện khác nhau về phạm vi và mức
độ của ý niệm tuyệt đối. Toàn bộ hiện chực cũng là ý niệm, tồn tại đơn nhất
chỉ là một mặt nào đó của ý niệm , ý niệm còn cần đến hiện thực khác như là tồn tại đặc thù.
Ý niệm tuyệt đối là "cái phổ biến", là một hình thức bao hàm và quy tụ nhiều
nội đung phong phú, được thể hiện ở mọi đối tượng, nhưng mỗi đối tượng lại
nhận thức không giống nhau. Hêgen nói rằng ý niệm tuyệt đối là cái phổ biến,
là những chân lý mà cả ông già và đứa trẻ con đều nói, nhưng đối với ông già,
những chân lý này có ý nghĩa của cả cuộc đời ông, còn đối với đứa trẻ thì chỉ
có nghĩa là một cái gì đó mà ngoài cái đó ra còn có cả một cuộc đời và tất cả
vũ trụ. "Giống như cùng một câu cách ngôn luận lý, nếu do một thanh niên nói
ra, tuy anh ta hiểu nó hoàn toàn đúng đắn, thì lại không có cùng một tầm rộng
như khi câu đó xuất phát từ miệng một người từng trải việc đời và khi nói câu
đó, người này nói lên toàn bộ sức mạnh của nội dung của nó".
Ý niệm tuyệt đối là quá trình, là phép biện chứng. Theo Hêgen, phép biện
chứng không ở trong lý trí của con người mà ở trong hiện thực khách quan,
tức là ở trong "ý niệm tuyệt đối". Ý niệm, vời tư cách là quá trình, trải qua ba
giai đoạn trong sự phát triển của nó, ý niệm tuyệt đối chứa đựng mâu thuẫn,
chứa đựng cái phủ định của chính nó, vận động từ nội dung này đến nội dung
khác, từ đơn giản đến phức tạp, do đó, ý niệm tuyệt đối là sự sống vĩnh viễn.
Chính bản thân ý niệm là phép biện chứng, đã luôn luôn tách rời và phân biệt,
cái đồng nhất vớicái khác nhau, cái chủ quan với cái khách quan, cái hữu hạn
với cái vô hạn, linh hồn với thân thể và cũng chỉ vì vậy mà ý niệm là sự sáng
tạo vĩnh viên, là sự sống vĩnh viễn và tinh thần vĩnh viễn.
Ý niệm tuyệt đối là một phạm trù triết học duy tâm của Hêgen, như Lênin đã
nhận xét: "Mọi người đều biết ý niệm của con người là gì, nhưng ý niệm mà
không có con người, hoạt động có trước con người, ý niệm trừu tượng, ý
niệm tuyệt đối, là một điều bia đặt thần học của nhà duy tâm Hêgen". Tuy
nhiên, chính Lênin cũng thấy cái "hạt nhân hợp lý", "hạt chân lý sâu sắc"
trong ý niệm tuyệt đối của triết học Hêgen, đó là phép biện chứng. Ý niệm
tuyệt đối của Hêgen có vẻ là tuyệt đối duy tâm, nhưng như Lênin đánh giá:
"Hầu như không chứa đựng một chủ nghĩa duy tâm đặc biệt nào mà chỉ có
chủ đề chủ yếu là phương pháp biện chứng và lẽ là sự trình bày hay nhất về phép biện chứng”.
6. Câu hi thường gp vtriết hc Hegel
6.1 Chnghĩa duy tâm tuyt đối ca Hegel?
Hegel, một nhà triết học khác mà hệ thống của ông cũng được gọi là chủ
nghĩa duy tâm
, lập luận trong tác phẩm Khoa học Logic (Wissenschaft der
Logik
1812-1814) rằng các phẩm chất hữu hạn không "có thực" một cách đầy
đủ, vì chúng phụ thuộc vào sự quyết định của các phẩm chất hữu hạn khác.
Mặt khác, "sự vô hạn" định tính lại có thể tự quyết hơn, và do đó sẽ xứng
đáng hơn để được gọi là "có thực" một cách đầy đủ. Tương tự, những sự vật
tự nhiên hữu hạn kém "thực" hơn - vì chúng kém tự quyết định hơn - so với
những thứ thuộc về tinh thần như những người có đạo đức trách nhiệm,
những cộng đồng luân lý, và Thượng đế. Do đó, học thuyết nào khẳng định
các phẩm chất hữu hạn hay các đối tượng tự nhiên là hoàn toàn có thực,
chẳng hạn chủ nghĩa duy vật, học thuyết đó đã nhầm lẫn. Hegel gọi triết học
của ông là chủ nghĩa duy tâm tuyệt đối, để đối lập với "chủ nghĩa duy tâm chủ
quan" của Berkeley và "chủ nghĩa duy tâm siêu nghiệm" của Kant và Fichte.
Khác với chủ nghĩa duy tâm của Hegel, các học thuyết này không dựa trên
phê phán về sự hữu hạn. Các nhà "duy tâm chủ nghĩa" mà triết học của họ
gần với triết học của Hegel nhất là Plato và Plotinus. Không có ai trong ba
nhà tư tưởng này liên hệ chủ nghĩa duy tâm của họ với luận đề nhận thức
luận rằng những gì ta biết là các "ý niệm" trong tâm thức của ta.
6.2 Chnghĩa duy tâm trong tư duy tôn giáo?
Không phải là tất cả các tôn giáo và niềm tin vào siêu nhiên đều hoàn toàn có
hình thức phản chủ nghĩa duy vật một cách rõ ràng. Ví dụ, các đức tin Ấn Độ
giáo về Brahman, Thiền của Phật giáo trung dung giữa tâm và vật, còn giáo
lý Kitô giáo dòng chính khẳng định tầm quan trọng của tính vật chất của thể
xác con người Chúa Kitô và sự cần thiết của việc tự kiềm chế khi giao tiếp
với thế giới vật chất.
6.3 Định nghĩa vchnghĩa duy tâm?
Chủ nghĩa duy tâm là trường phái triết học khẳng định rằng mọi thứ đều tồn
tại bên trong tinh thần và thuộc về ý thức.
Document Outline

  • Khái niệm “ý niệm tuyệt đối” trong triết học Hêgen
    • 1. Khái quát về chủ nghĩa duy tâm của Hêgen
    • 2. Thành tựu của triết học Hêgen
    • 3. Vị trí của “ý niệm tuyệt đối” trong triết học H
    • 4. Khái quát về “ý niệm tuyệt đối” triết học Hêgen
    • 5. Ý niệm tuyệt đối là phạm trù xuất phát và trung
    • 6. Câu hỏi thường gặp về triết học Hegel
      • 6.1 Chủ nghĩa duy tâm tuyệt đối của Hegel?
      • 6.2 Chủ nghĩa duy tâm trong tư duy tôn giáo?
      • 6.3 Định nghĩa về chủ nghĩa duy tâm?