KHÁI QUÁT BỐI CẢNH LỊCH SỬ | Trường Đại học Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội
Thờikìcậnđại,haycònđượcgọilàthờikìcậnđầu,đượcxácđịnhlàtừ khoảng năm 1945 đến năm 1954. Đây là giai đoạn quan trọng trong lịch sử Việt Nam, khi đất nước chứng kiến nhiều biến cố lớn như cuộc chiến Điện Biên Phủ, Hiệp định Geneva 1954 và sự chia cắt giữa Bắc và Nam Việt Nam. Tài liệu giúp bạn tham khảo và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Preview text:
KHÁI QUÁT BỐI CẢNH LỊCH SỬ
I. KHÁI QUÁT LỊCH SỬ VIỆT NAM THỜI CẬN ĐẠI
(Đoạn này là đoạn mở đầu, nên học thuộc nhé)
- Thời kì cận đại, hay còn được gọi là thời kì cận đầu, được xác định là từ
khoảng năm 1945 đến năm 1954. Đây là giai đoạn quan trọng trong
lịch sử Việt Nam, khi đất nước chứng kiến nhiều biến cố lớn như cuộc
chiến Điện Biên Phủ, Hiệp định Geneva 1954 và sự chia cắt giữa Bắc và
Nam Việt Nam. Thời kì này cũng đánh dấu sự đấu tranh quyết liệt của
dân tộc Việt Nam trong nỗ lực giành độc lập và tự do cho đất nước.
1. Sự khởi đầu của chủ nghĩa thực dân Pháp ở Việt Nam
-Vào đầu thế ký XIX, sau hơn 200 năm nội chiến, Việt Nam là một
quốc gia thống nhất, hoàn chỉnh về cương vực với nền kinh tế tự chủ,
duy trì bang giao trong khu vực và trên thế giới. Tuy vậy, một nhà nước
quân chủ chuyên chế dưới triều Nguyễn vào lúc này lại đang rơi vào tình
trạng suy thoái. Trong khi đó, nhìn rộng ra, tại thời điểm này toàn bộ
Đông Nam Á đã hoàn toàn nằm trong khu vực ảnh hưởng của chủ nghĩa
thực dân phương Tây. "Thế kỷ XIX đã mang đến một kiểu chế độ thực
dân mới cho Đông Nam Á. Những cường quốc thực dân chính - Anh, Hà
Lan, Pháp, Tây Ban Nha, Mỹ - đang tô bản đồ Đông Nam Á bằng những
sắc màu của riêng họ". Nước Việt Nam đã trở thành đối tượng xâm lược
thực dân của Pháp trong bối cảnh đó.
-Ngày 31/8/1858, liên quân Pháp - Tây Ban Nha đã nổ súng tấn công
bán đảo Sơn Trà (Đà Nẵng) mở đầu cho cuộc xâm lược này. Ở Nam Kỳ,
quân đội Pháp cũng đã tiếp tục gây hấn ở trung tâm Đồng Tháp Mười ở
Nam Kỳ và các địa phương khác ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ.Quân lính triều
đình nhà Nguyễn liên tiếp thua trận và mặc dù nhiều cuộc khởi nghĩa, bạo
động đã liên tục nổ ra vô cùng ác liệt với sự chiến đấu dũng cảm của
nghĩa quân nhưng cũng đã bị thất bại trước sự áp đảo về vũ khí hiện đại
của đội quân viễn chinh Pháp.
-Phía nhà cầm quyền triều Nguyễn đã xuất hiện xu hướng chủ hòa và
cùng với những toan tính chiến lược của phía Pháp, đã tạo nên kết cục
nhường bộ và hòa đàm. Đó là lý do của sự ra đời liên tiếp bốn bản hòa
ước giữa triều đình nhà Nguyễn và thực dân Pháp với những tên gọi khác
nhau là Hiệp ước Nhâm Tuất (tháng 6/1862), Hiệp ước Giáp Tuất
(tháng 3/1874), Hiệp ước Quý Mùi (tháng 8/1883) và Hiệp
ướcPatenôtre (tháng 6/1884) với kết cục là Nhà nước phong kiến Việt
Nam với tư cách là một nhà nước độc lập có chủ quyền, đã hoàn toàn sụp
đổ, nước Việt Nam đã trở thành thuộc địa của Pháp.
Hiệp ước Nhâm Tuất là kết quả hòa đàm giữa các đại diện cho triều
đình nhà Nguyễn là Phan Thanh Giản và Lâm Duy Thiếp (Hiệp) và đại
diện của Tư lệnh Pháp ở Nam Kỳ Bonard tại Sài Gòn vào ngày5/6/1862.
Tên gọi của Hiệp ước được đặt theo tên của năm 1862 là năm Nhâm Tuất
tính theo âm lịch. Hiệp ước bao gồm 12 điều, theo đó, phía nhà Nguyễn
cam kết nhượng đứt ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ là Gia Định, Định
Tường,Biên Hòa và đảo Côn Lôn cho Pháp; mở các của biển Đà Nẵng,
Ba Lạt, Quảng Yên cho tàu của Pháp và Tây Ban Nha tự do ra vào; nộp
chiến phí với khoản tiền 20 triệu francs.
Hiệp ước Giáp Tuất cũng được gọi theo tên của năm 1874 là năm Giáp
Tuất theo âm lịch được ký ngày 15/3 năm này gồm 22 điều với những nội
dung chính: Triều đình nhà Nguyễn thừa nhận chủ quyền của Pháp đối
với tất cả 6 tỉnh Nam Kỳ; cam kết mở cảng Thị Nại (Quy Nhơn), cảng
Ninh Hải (Hải Phòng), mở cửa Hà Nội qua sông Hồng và những nơi khác
cho người ngoại quốc được vào buôn bán, tự do kinh doanh với trách
nhiệm của phía Việt Nam về cấp đất, về khả năng tự do thuê mướn nhân
công người Việt. Phía Pháp cam kết xóa khoản nợ mà phía Việt Nam
chưa trả hết theo Hiệp ước Nhâm Tuất trước đây;Pháp thừa nhận chủ
quyền và nền độc lập của nước Đại Nam; mở Tòa Khâm sứ tại Huế - kinh
đô của nhà Nguyễn; giúp triều đình duy trì trật tự trị an, huấn luyện quân
sự, trợ giúp vũ khí; các giáo dân được tự do hành đạo và tự do truyền đạo.
Nhà Nguyễn phải cam kết thực thi một chính sách đối ngoại phù hợp với
lợi ích của Pháp và không thiết lập quan hệ ngoại giao với nước khác, trừ
quan hệ thương mại.Người Pháp hay người ngoại quốc muốn đi vào nội
địa Việt Nam phải có giấy thông hành do Pháp cấp. Các thẩm quyền về
thuế quan, quyền cấp phép cho tàu bè nước ngoài ra vào các hải cảng đều
thuộc về chính quyền thuộc địa. Bằng việc ký Hiệp ước Giáp Tuất năm
1874, Việt Nam đã thực sự trở thành đất bảo hộ của Pháp, chủ quyền đối
ngoại của nhà Nguyễn đã vào tay chính quyền thực dân Pháp.
Hai bản hiệp ước đầu tiên này giữa triêu đình nhà Nguyễn với quân đội
thực dân xâm lược có thể được gọi là những hòa ước đầu hàng của triều
đình này trước dã tâm xâm lược và áp đặt chế độ thực dân ở Việt Nam
của Pháp. Các hiệp ước đó đã ngay lập tức vấp phải sự phản ứng mạnh
mẽ của nhân dân khắp cả nước, từ Bắc chí Nam.Nhiều cuộc khởi nghĩa
đã bùng nổ với mục tiêu vừa chống thực dân Pháp xâm lược vừa chống
triều đình nha Nguyễn bán nước , đầu hàng .
Hòa ước Quý Mùi - hay còn gọi là Hiệp ước Harmand năm 1883:
-Ngày 25/8/1883, giữa đại diện triêu đình nhà Nguyễn và người đại diện
cho Chính phú Pháp là J. Harmand đã hoàn tất việc ký kết một bản hiệp
ước có tên là "Hiệp ước hòa bình", hay còn gọi là “ Hòa ước Quý Mùi ",
còn người Pháp lúc bấy giờ thì gọi đó là "Hiệp ước Hamand". Với 27
điều khoản, bản Hòa ước này có những nội dung chủ yếu như sau:
+Việt Nam được chia thành 3 kỳ với 3 chế độ pháp lý khác nhau: Nam
Kỳ có chế độ thuộc địa, Trung Kỳ có chế độ nửa bảo hộ và Bắc Kỳ có chế độ bảo hộ.
+Tại Huế, thủ đô của chế độ nhà Nguyễn, có viên Khâm sứ người Pháp
thay mặt Chính phủ Pháp bên cạnh Nhà vua của Việt Nam, có quyền vào
gặp Nhà vua vào bất cứ lúc nào xét thấy cần thiết.
+Đặt ra chức Công sứ người Pháp ở các tỉnh và thành phố lớn và các
chức sắc khác cũng do người Pháp nắm giữ tại các tỉnh nhỏ hơn;các chức
sắc Pháp có quyền kiểm soát việc tuần phòng, quản lý việt thu thuế, hải
quan; các việc thương chính, công chính ở Trung Kỳ và Bắc Kỳ cũng do người Pháp điều hành.
+Triệu hồi hết quân lính của triều đình Huế ở Bắc Kỳ và xác lập việc
đóng đồn binh của quân Pháp ở bất kỳ nơi nào khi cần thiết.
+Pháp nhận trách nhiệm "bảo vệ" triều đình chống ngoại xâm và dẹp nội loạn.
+Tất cả các quan hệ bang giao với nước ngoài đều thuộc quyền của Pháp.
Như vậy, với Hiệp ước Harmand, về cơ bản triêu đình nhà Nguyễn, đã
mất quyền tự chủ trên phạm vi nhà nước, xác lập gần như đầy đủ chế độ
bảo hộ của nước Pháp trên toàn lãnh thổ Việt Nam ,trên tất cả các mặt
kinh tế, chính trị, đối ngoại.
Hiệp ước Patenotre nam 1884:
Bản hiệp ước này do Jules Patenôtre, Đặc phái viên và Đại sứ đặc mệnh
toàn quyền của Chính phủ Pháp tại Bắc Kinh (Trung Quốc) và những
người đai diện cho triều đình nhà Nguyễn gồm các đại thần Nguyễn Văn
Tường, Phạm Thân Duật, Tôn Thất Phan ký ngày 6/6/1884 (có tên gọi
khác là Hiệp ước Giáp Thân) nhằm mục đích tiếp tục khẳng định những
nội dung của Hiệp định Harmand đã được ký trước đó chưa đầy một năm.
Ngoài những điểm mới không đáng kể bao gồm việc chuyển đổi qua lại
một số địa phận giữa Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ thì các điều khoản
của Hiệp ước này một lần nữa khẳng định lại sự thừa nhận của triều đình
Huế đối với sự bảo hộ của nước Pháp, đặc biệt là trong lĩnh vực bang
giao, trong các việc thương chính, công chính, quân sự; khẳng định lại sự
chia cắt Việt Nam thành 3 miền với 3 chế độ pháp lý khác nhau. Nói khác
đi, kể từ đây, Nhà nước phong kiến Việt Nam đã để mất chủ quyền vào
tay người Pháp, bắt đầu một chế độ thực dân - phong kiến ở Việt Nam.
2. Cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của Pháp ở Việt Nam (1897 - 1914)
-Cuộc xâm lược, chinh phục của quân đội thực dân Pháp ở Việt Nam có
thể được coi là hoàn thành vào những năm chín mươi của thế kỷ XIX mà
kết cục pháp lý của nó là những bản hiệp ước nêu trên, mặc dù trong suốt
thời gian đó đã dấy lên nhiều cuộc khởi nghĩa yêu nước của nhân dân
Việt Nam chống lại dã tâm xâm lược của thực dân Pháp và sự đầu hàng
của Triều đình nhà Nguyễn mà nổi bật nhất là phong trào Cần Vương
-Khởi đầu từ năm 1897, chính quyền thực dân Pháp đã bắt tay vào thực
hiện cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất ở Việt Nam và kết thúc vào
năm 1914, trước thềm Chiến tranh Thế giới lần thứ I. Cuộc khai thác
thuộc địa này được thực hiện trên cơ sở tư tưởng thực dân và chính sách
thuộc địa của Pháp và thông qua một loạt chương trình cụ thể của các
viên Toàn quyền Đông Dương lần lượt thay thế nhau như Paul Doumer, Paul Beau và Albert Sarraut.
3. Cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai của Pháp ở Việt Nam (từ năm
1918 đến cuối năm 1929) và những chính sách tiếp theo
Nếu như cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của chính quyền thực dân
Pháp diễn ra từ khi Pháp chiếm được Nam Kỳ cho đến thời gian kết thúc
Chiến tranh Thế giới lần thứ I, được coi là "quá trình tích lũy tư bản lần
thứ nhất", thì cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai đã từng được coi là
"quá trình tích lũy tư bản lần thứ hai"Cuộc khai thác thuộc địa lần này
được khởi đầu bằng kế hoạch của Albert Sarraut khi ông được Chính phủ
Pháp cử sang làm Toàn quyền Đông Dương nhiệm kì III ( tháng 1/1917
đến tháng 12/1919), được tiếp tục trong vòng 10 năm sau đó bởi kế hoạch
của các viên Toàn quyền tiếp theo như Maurice Long, Martial Martial
Merlin, Alexandre Varenne, nằm trong “ chính sách hợp tác “, trong đó
đáng chú ý nhất là kế hoạch của Toàn quyền Alexandre Varenne.
TỔNG KẾT LẠI, NHỮNG NĂM THÁNG CỦA THỜI KÌ CẬN ĐẠI
VN ĐÃ TRẢI QUA NHỮNG SỰ KIỆN GÌ?
Trong thời kỳ cận đại của lịch sử Việt Nam (từ khoảng năm 1945 - 1954),
đất nước đã trải qua những biến cố quan trọng, đặc biệt là trong bối
cảnh chiến tranh thế giới thứ hai và sự can thiệp của các nước lớn trong khu vực.
- Năm 1945, tại Đại hội quốc dân Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
đọc bản Tuyên ngôn độc lập, tuyên bố độc lập cho Việt Nam và thành
lập chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
- Vào năm 1946, cuộc chiến tranh đầu tiên giữa Việt Minh và Pháp đã
bùng nổ, dẫn đến cuộc chiến dài hơi với Pháp.
- Năm 1954, quân đội Việt Nam dân tộc, dưới sự lãnh đạo của Đại tướng
Võ Nguyên Giáp, đã chiến thắng quyết liệt tại Điện Biên Phủ, buộc
Pháp phải ký Hiệp định Geneva, chấp nhận chia cắt nước Việt Nam
thành hai phần Bắc - Nam.
- Hiệp định Geneva không chỉ chia cắt Việt Nam mà còn mở ra một chu
kỳ mới của sự đấu tranh giành độc lập và thống nhất đất nước.
Những sự kiện này đã định hình bước phát triển của Việt Nam trong
thời kì cận đại và là nền tảng cho những diễn biến lịch sử quan trọng sau này.
VẬY CÓ SỰ KIỆN NÀO LÀM ẢNH HƯỞNG ĐẾN PHÁP LUẬT
VÀ NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM KHÔNG?
Trong thời kỳ cận đại của lịch sử Việt Nam, có nhiều sự kiện quan trọng
đã ảnh hưởng đến pháp luật và nhà nước. Dưới đây là một số sự kiện:
1. Tuyên ngôn Độc lập: Bản Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí
Minh năm 1945 đã đánh dấu việc tuyên bố độc lập cho Việt Nam và sự
thành lập chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Đây là một hành động
quan trọng về pháp luật và nhà nước, đưa ra cơ sở pháp lý cho việc tự trị
và tự chủ của Việt Nam.
2. Các Hiệp định Geneva: Các Hiệp định Geneva năm 1954 đã ảnh
hưởng đến pháp luật và nhà nước ở Việt Nam bằng cách chia cắt đất nước
thành hai phần, mở ra giai đoạn mới trong lịch sử với sự phân chia giữa Bắc và Nam Việt Nam.
3. Cuộc chiến tranh Việt Nam: Cuộc chiến tranh Việt Nam giai đoạn sau
này (1955-1975) cũng có ảnh hưởng lớn đến pháp luật và nhà nước ở
Việt Nam, với sự tranh chấp giữa hai chính phủ và hệ thống pháp lý riêng của Bắc và Nam.
->Những sự kiện này đã góp phần định hình pháp luật và hệ thống nhà
nước ở Việt Nam trong thời kỳ cận đại, tạo ra những thách thức lớn
nhưng cũng mở ra cơ hội cho sự phát triển và thay đổi của đất nước.
II. Bối cảnh kinh tế-xã hội qua các giai đoạn của chế độ thực dân-
phong kiến ở Việt Nam
-Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, nền kinh tế tư bản chủ nghĩa tại Pháp
phát triển và chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Nhu cầu về
nguyên liệu, thị trường, nhân công ngày càng trở nên bức thiết. Sau thời
gian xâm chiếm và thôn tính toàn bộ nước ta, thực dân Pháp tiến hành áp
đặt chế cai trị chuyên chế, hà khắc và tàn bạo với những biện pháp khai
thác thuộc địa. Thực dân Pháp đã tiến hành ở Việt Nam hai cuộc khai
thác thuộc địa (lần 1: 1887-1914, lần 2: 1919-1929) không chỉ ảnh hưởng
đến tình hình chính trị, văn hóa xã hội mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng
về nền kinh tế. Đặc biệt là khi phát xít Nhật cộng trị với Pháp, Pháp -
Nhật tiến hành những chính sách về kinh tế ngày càng trở nên phức tạp
trên đất nước ta như Kinh tế chỉ huy, chính sách ruộng đất, chính sách
“Đồng hóa thuế quan” ... Những chính sách cai trị của thực dân đã ảnh
hưởng lớn đến tình hình kinh tế - xã hội Việt Nam. Về xã hội, những
chính sách trên đã làm cho mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với
đế quốc thực dân ngày càng trở nên gay gắt, độc lập dân tộc trở thành yêu
cầu cấp thiết trong xã hội. Về kinh tế, những chính sách thực dân đã làm
cho nền kinh tế Việt Nam trở nên lạc hậu, què quặt, phát triển không cân
đối, lệ thuộc nặng nề vào nền kinh tế thực dân
II. BỐI CẢNH KINH TẾ - XÃ HỘI QUA CÁC GIAI ĐOẠN CỦA
CHẾ ĐỘ THỰC DÂN – PHONG KIẾN Ở VIỆT NAM
1. Kinh tế-xã hội Việt Nam thời kỳ đầu của chế độ thuộc địa
-Ở thời kỳ này, thực dân Pháp đã không từ một thủ đoạn nào để chiếm
đoạt tài nguyên thiên nhiên, nắm các mạch máu kinh tế, muốn biến Việt
Nam thành thị trường tiêu thụ và đầu tư cho vay nặng lãi. Vì vậy, thực
dân Pháp đã thực hiện nhiều chính sách trong khai thác và bóc lột nước
ta, việc đầu tiên của chính quyền thuộc địa là thiệt lập một hệ thống tài
chính, thuế khóa mới để huy động vốn cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng
kinh tế; đầu tư vào các lĩnh vực kinh tế dựa vào lao động giá rẻ của người
bản xứ. Trong thời kỳ đầu này, chính quyền đã huy động được 2,5 tỷ
francs vốn vay từ ngân sách của Chính phủ Pháp để đầu tư vào Đông
Dương, được chủ chi vào việc xây dựng các công trình công cộng:
Đường sắt, Đường bộ, Cầu cống, Thủy lợi, Công trình thành phố, bến
cảng, công trình quân sự và dân sự, hải đăng, …
Thêm vào đó, các khoản chi cho các công trình công cộng, nguồn vốn
Chính phủ còn được dùng để trả các khoản nợ công đến hạn, đóng góp
vào chi phí quân sự của chính quốc, nuôi sống bộ máy hành chính, …
Nhân dân Đông Dương phải gánh chịu mọi phí tổn cho việc khai thác
thuộc địa của người Pháp qua hàng trăm thứ thuế mà họ phải nộp theo
những “cải cách” về thuế khóa.
Ngoài ra, trong đó cơ cấu vốn đầu tư còn có việc huy động vốn từ các quỹ
tín dụng đã hình thành ở Đông Dương lúc bấy giờ như Qũy tín dụng của
người Pháp, Qũy tín dụng nông nghiệp, vốn của các tư nhân, có lúc đạt
được con số 160 triệu francs. Hàng trăm công ty tư nhân đã ra đời trong
bối cảnh đó. Ngoài ra, còn có sự huy động vốn từ các tập đoàn tài chính lớn Pháp.
a,Xây dựng các công trình công cộng
-Chính quyền thực dân chú trọng trước hết tới các tuyến đường sắt,
đường thủy, đường bộ... nhằm vào việc kiểm soát lãnh thổ Đông Dương
về phương diện quân sự đồng thời tiến vào khai thác những có nhiều đất
đai, tìa nguyên của thuộc địa.
Tuyến Sài gòn – Mỹ Tho (1883); tuyến Hà Nội – Đồng Đăng (1902); Hà
Nội – Hải Phòng (1902); Hà Nội – Lào Cai (1906); Hà Nội – Sài Gòn (1900-1013).
-Cùng với việc xây dựng các tuyến đường sát là việc xây dựng hệ thống
đường bộ như tuyến xuyên Việt, các tuyến đường liên tỉnh. Đến năm
1913 đã có 20.000 km đường bộ được xây dựng xong.
Hà Nội – Cao Bằng; Việt Trì – Tuyên Quang; Sài Gòn – Tây Ninh.
-Ngoài các tuyến giao thông đường sắt, đường bộ thì hệ thống các tuyến
đường thủy, cầu cống kiên cố, các cảng biển, các công trình thủy lợi đã
được đầu tư xây dựng, song song với chủ trương xây dựng và chỉnh trang đô thị. kinh tế -Nông nghiệp:
+Đẩy mạnh cướp đoạt ruộng đất. Ở Bắc kỳ đến nắm 1902, có tới 182.000
hecta ruộng đất bị Pháp chiếm.
+Cà phê chiếm vị trí ưu tiên, về kinh tế chúng sinh lợi gấp 4 đến 5 lần
ngô, gấp 3 lần lúa. Vị trí tiếp theo là cao su, tập chung chủ yếu ở Nam kỳ,
nhân công được sử dụng trên các đồn điền cao su thường có số lượng lớn,
được mộ tại chỗ hay ở những nơi khác tới.
Đem lại cho tư bản Pháp những nguồn lợi khổng lồ, trái lại cũng đem
lại cho người dân Việt Nam nỗi ám ảnh về chế độ bóc lột vô hạn độ trong
khu vực đồn điền, mặc dù đã để lại những kinh nghiệm có lợi cho sự phát
triển nền nông nghiệp Việt Nam hiện đại.
-Thương nghiệp: phát triển thương mại là mục tiêu cao nhất của cuộc
khai thác thuộc địa lần thứ nhất bởi nó sẽ giúp Pháp thực hiện được ý đồ
biến Việt Nam thành thị trường tiêu thụ hàng hóa của Pháp, đồng thời
cung cấp cho Pháp những sản phẩm sinh lợi cùng những sản phẩm mà
nền kinh tế Pháp đang cần. Khác với việc buôn bán trước đây của người
bản xứ, giờ đây công việc này chỉ diễn ra với các loại hàng hóa thông
thường mà nhiều loại hình buôn bán mới ra đời và cũng khác với thói
quen buôn bán nhỏ lẻ quanh quấn trước đây; nhất là theo quan niệm
“trọng nông, ức thương”, “bế quan tỏa cảng” của triều Nguyễn, việc
buôn bán với nước ngoài, giờ đã được giới thực dân coi trọng hàng đầu
và do Chính phủ thuộc địa nắm độc quyền.
-Ngoại thương:
+sự phát triển trong thời kỳ này được thể hiện trước hết là ở sự ra đời của
các công ty thương mại lớn: Liên hiệp thương mại Đông Dương và Phi
Châu, Công ty thương mại Pháp ở Đông Dương,…
+thêm vào đó là sự tăng lên của tổng kim ngạch xuất – nhập khẩu, từ 81
triệu đồng năm 1897 tăng lên 235 triệu đồng năm 1913.
+Tuy nhiên, với mục đích độc chiếm thị trường Việt Nam, Pháp tiếp tục
áp dụng Đạo luật quan thuế năm 1892. Theo đó, hàng hóa Pháp vào Việt
Nam được miễn thuế, trong khi hàng hóa các nước khác phải đóng thuế
từ 25% đến 120% giá trị hàng hóa. -Nội thương:
+Các hoa kiều được tự do buôn bán ở Đông Dương ngay cả khi Pháp
thực hiện chính sách độc quyền (vì làm đại lý đối với hàng nhập từ nước
ngoài và đứng làm trung gian thu mua sản phẩn xuất khẩu cho các thương nhân Pháp)
+Sự giao lưu buôn bán giữa các vùng miền trở nên sôi động, nhộn nhịp
với những phương tiện vận tải ngày càng phong phú, nông hải sản từ
vùng xuôi lên miền núi, lâm thổ sản từ núi chở về xuôi, …
+Xuất hiện những loại hàng hóa đặc biệt như bất động sản, điện, nước và
nảy sinh các ngành buôn bán tương ứng: kinh doanh bất động sản, điện, nước,…
b,Văn hóa-xã hội
-Nhằm đàn áp các xu hứng văn hóa mới, ngăn chặn sự lan truyền của
những tư tưởng tiến bộ đang có xu hướng tràn ngập, chính quyền thực
dân đã thực hiện những biện pháp mạnh để củng cố vị trí độc tôn của văn
hóa thực dân, trong đó luật hóa những điều cấm kỵ có trong việc phát
hành báo chí với mục đích loại bỏ bản xứ ra khỏi những thành phần có
thể ra báo, loại bỏ mọi ấn phẩm có hại tới chính quyền thuộc địa, ngăn
cản sự xâm nhập của những tư tưởng tiên tiến vào Việt Nam. Không chỉ
báo chí mà cả các loại hình văn hóa khác muốn tồn tại được thì đều phải
thể hiện một tư tưởng chủ đạo là ca ngợi “công ơn khai hóa văn minh”
của Pháp, ủng hộ chủ nghĩa thực dân.
-Tuy vậy, với sự nỗ lực không ngừng nghỉ của các sĩ phu yêu nước như
Phạm Phú Thứ. Nguyễn Trường Tộ, Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh,…
không chỉ dừng ở lại truyền bá sách báo nước ngoài, các sĩ phu yêu nước
còn cho xuất bản nhiều tác phẩm của mình nhằm truyền bá và cổ súy cho tư tưởng cách tân.
2. Kinh tế-xã hội Việt Nam sau kết quả của cuộc khia thác thuộc địa
lần thứ hai
Do tác động của nhiều sự kiện lịch sử mới, đồng thời để khai thác thêm
nhiều nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, nguồn nhân công rẻ mạt
và nắm chặt hơn thị trường Việt Nam, trong cuộc khai thác thuộc địa lần
thứ hai, tư bản Pháp tăng cường đầu tư vào Việt Nam với qui mô và tốc
độ lớn hơn gấp nhiều lần so với thời kì trước chiến tranh. a,Nông nghiệp
-Nông nghiệp là ngành ngày càng thu hút sự đầu tư nhiều nhất của tư bản
Pháp. Cao su là mặt hàng đang được giá cao trên thị trường thế giới nên
đã thu hút các nhà tư bản Pháp đổ xô vào đầu tư kinh doanh. 95% sản
lượng cao su thu hoạch hàng năm và hầu hết khối lượng cao su xuất khẩu đều đưa sang Pháp. b.Công nghiệp
-Công nghiệp khai thác mỏ và công nghiệp chế biến lâm sản, nông sản
được chú ý phát triển.
c.Các giai cấp xã hội
-Dưới tác động của cuộc khai thác thuộc địa lần hai, sự phân hóa giai cấp
trong xã hội Việt Nam diễn ra ngày càng sâu sắc. Các giai cấp cũ (địa
chủ, phong kiến và nông dân) bị phân hoá sâu sắc hơn; những tầng lớp xã
hội mới nảy sinh trong cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất (tư sản, tiểu
tư sản) phát triển trở thành giai cấp thực sự. Giai cấp công nhân trưởng
thành từ giai cấp tự phát thành giai cấp tự giác.
-Mỗi giai cấp, mỗi tầng lớp xã hội có địa vị và quyền lợi khác nhau nên
cũng có thái độ chính trị khác nhau trong cuộc đấu tranh dân tộc và đấu
tranh giai cấp đang phát triển. Trong đó, giai cấp tiểu tư sản đã trở thành
một lực lượng quan trọng của cách mạng cùng với hai giai cấp công nhân
và nông dân là động lực chính trong cuộc cách mạng dân tộc dân chủ ở
nước ta. Bên cạnh đó, một số bộ phận khác là tư sản dân tộc và trung, tiểu
địa chủ cũng là những lực lượng cách mạng có thể tranh thủ và lôi kéo.
Ngược lại bộ phận tư sản mại bản và đại địa chủ có quyền lợi gắn liền với
đế quốc thực dân nên trở thành đối tượng của cách mạng, kẻ thù của nhân dân.
-Các cuộc khai thác thuộc địa cũng là tác nhân của sự ra đời và phát triển
của nhiều tôn giáo ở Việt Nam
3. Các trào lưu văn hóa, giáo dục, tôn giao trong thời kỳ thuộc địa
-Về văn hóa, thực dân Pháp đã thi hành một chính sách đầu độc, ngu dân
đồng thời truyền bá văn hóa và giáo dục của Pháp để phục vụ cho chính
sách thuộc địa của mình.
Mục đích nhằm nô dịch tinh thần quần chúng, biến quần chúng thành
những đám đông tư ti, khiếp nhước trước sức mạnh của nền văn minh đại
Pháp, mất tin tưởng vào khả năng và tiền đồ của dân tộc, cắt đứt mọi
truyền thống tốt đẹp, phục vụ trung thành cho quyền lợi đế quốc
-Đi cùng với ngu dân, thực dân Pháp tăng cường thực hiện chính sách đầu
độc, trụy lạc hóa đối với người dân, đặc biệt là thanh niên với mọi thủ
đoạn. Những thói hư tật xấu được chính quyền các cấp ra súc dung
dưỡng: nạn cờ bạc, uống rượu nặng đô, hút thuốc phiện,…
-Lợi dụng báo chí để tuyên truyền cho các chính sách “khai hóa”, thống
trị của chúng tại Việt Nam.
-Cùng với quá trình đầu tư tư bản của thực dân Pháp trong các cuộc khai
thác thuộc địa, mầm mống kinh tế tư bản xuất hiện ở Việt Nam và trên cơ
sở đó một số ý thức mới cũng phát triển. Những người đại biểu cho tư
tưởng mới là các sĩ phu tiến bộ, Họ là những người đi tiên phong trong
các phong trào đả phá những quan niệm phong kiến lạc hậu mà theo họ
đó là nguyên nhận của mọi sự yếu hèn và thối nát hiện thời. Tiêu biểu là
các chí sĩ Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh.
-Bắt đầu từ những năm đầu thập niên thứ hai của thế kỷ XX, một trào lưu
tư tưởng và văn hóa mới mang tính chất là một trào lưu tư tưởng yêu
nước đang được vô sản hóa theo học thuyết Mac-Lneninđã xuất hiện ở Việt Nam
Mục đích nhằm đả kích chế độ thực dân-phong kiến, thức tỉnh ý thức
về một cuộc cách mạng dân tộc-dân chủ do giai cấp vô sản lãnh đạo.
III.TỔNG QUAN VỀ THỂ CHẾ CHÍNH TRỊ VÀ NHÀ NƯỚC
1,Tổ chức chính quyền thuộc địa Pháp ở Việt Nam trước khi thiết lập
chế độ toàn quyền Đông Dương
-Sau khi đánh chiếm Bắc Kỳ và Trung Kỳ, kể từ Hiệp ước 1883 và Hiệp
ước 1884, Pháp chuyển 2 xứ này trực thuộc Bộ chiến tranh Pháp, sau đó
sang Bộ Ngoại giao, trong khi Nam kỳ vẫn trực thuộc Bộ Hải quân và
thuộc địa. Sự thống nhất này đã gây cho Pháp không ít khó khăn. Trước
tình hình đó để tăng cường, ổn định nền thống trị, đẩy mạnh khai thác
thuộc địa, Pháp đã tiến hành hoàn chỉnh và củng cố một bước mới chính quyền thuộc địa.
-Hai chính quyền song song tồn tại: chính quyền của Pháp và chính
quyền triều đình nhà Nguyễn => chế độ thực dân - phong kiến ở Việt Nam bắt đầu
-Việt Nam được chia thành 3 kỳ với 3 chế độ pháp lý khác nhau: a,Nam Kỳ
-Gồm các tỉnh từ Bình Thuận trở vào, là đất thuộc địa trực trị của Pháp.
-Đứng đầu là Thống đốc Nam kỳ ( Thủ hiến Nam kỳ). Dưới quyền là
Tổng biện lý, Giám đốc Nội chính và Chánh chủ trì. b,Trung Kỳ
-Từ Khánh Hòa đến Đèo Ngang.
-Đứng đầu là thống sứ Bắc Kỳ (Tổng Trú sứ Bắc Kỳ) c, Bắc Kỳ: -Từ Đèo Ngang trở ra
-Đứng đầu là Khâm sứ Trung kỳ ( Đại Trú sứ Trung Kỳ)
=> Mặc dù bị chia cắt thành 3 kỳ, mỗi xứ có một bộ máy chính quyền
riêng có thiết chế riêng và nhìn bề ngoài như là một mô hình nhà nước
tản quyền, nhưng thực chất bộ máy đó phụ thuộc chặt chẽ vào chính phủ
thuộc địa trung ương là chính quyền của Toàn quyền Đông Dương
2. Chế độ thuộc địa Pháp dưới chế độ Toàn quyền Đông Dương
a, Liên bang Đông Dương.
Về quy chế chính trị, toàn liên bang Đông Dương là đất thuộc địa
của Pháp. Liên bang Đông Dương gồm các xứ với những quy chế chính trị sau đây:
Lào: Chế độ “bảo hộ”
Campuchia: Chế độ “bảo hộ”
Bắc kỳ: Chế độ “nửa bảo hộ” (trừ hai thành phố Hà Nội và
Hải Phòng theo quy chế đất “thuộc địa”)
Trung kỳ: Chế độ “bảo hộ” (trừ Đà Nẵng theo quy chế đất “thuộc địa)
Nam kỳ: Chế độ “thuộc địa”
Quảng Châu Loan: Chế độ “lãnh địa thuê” hay còn gọi là đất ủy trị.
b.Toàn quyền Đông Dương Về địa vị pháp lý:
Là người thay mặt cho Nhà nước Pháp và chịu trách
nhiệm trước Nhà nước Pháp về mọi mặt ở Đông
dương, có thẩm quyền như một nguyên thủ
Toàn quyền Đông Dương chịu sự giám sát và kiểm
soát của Bộ trưởng Bộ thuộc địa Pháp Về quyền hạn:
Ra các nghị định mang tính lập pháp hoặc hành pháp ở Đông Dương.
Ân xá cho các tội phạm là người người bản xứ
Chịu trách nhiệm về quân sự
Giải tán các Hội Đồng thuộc quyền
Thành lập ngân sách, phê chuẩn thu chi
* Bộ máy thuộc Toàn quyền Đông Dương Toàn quyền Đông Dương Các thiết chế có Các cơ quan chức năng tham Quân đội Sở Hiến Binh Sở Mật thám chuyên mô mưu
* Bộ máy cai trị của Toàn quyền Đông Dương
c. Cơ quan tư pháp.
Tại 3 xứ đều có hai loại Tòa án: tòa Tây án và tòa Nam án.
- Tây Án: có thẩm quyền xét xử mọi vụ án hình sự, dân sự trừ
những vụ án phạm trọng tội mà chủ thể là người Việt và nạn
nhân là người Châu Âu, thuộc thẩm quyền của tòa đại hình.
- Nam Án: có thẩm quyền xét xử các vụ việc dân sự sự và thương mại.
- Ngoài ra còn có các tòa án binh chuyên về xét xử các vụ mà
nhà cầm quyền cho là phiến loạn.
Cuộc cải cách 19 điểm của toàn quyền Đong Dương Pirre Pasqueir đã có
những sửa đổi lớn trong lĩnh vực tư pháp:
- Tách quyền tư phpas ra khỏi bộ máy và thẩm quyền của các
công sứ ( đứng đầu tỉnh).
- Tăng vai trò của các tòa Nam Án.
Trong những năm 1919,1921,1923-1924, 1926, 1928-1929 đã có nhiều
sắc lệnh để cải cách hệ thống tòa án: các tòa án thẩm quyền chung, các
tòa án hành chính và các tòa bản xứ.
3. Những cuộc cải tổ chính quyền thuộc địa qua việc thực hiện chính
sách của các thời Toàn quyền Đông Dương
a. Thời kỳ đầu
- Chính quyền Toàn quyền Đông Dương đã nới lỏng chính sách cai trị
chỉ dùng người Pháp trong bộ máy và thay vào đó bằng chính sách hợp
tác với người bản xứ
- Thực thi chế độ “trung ương tập quyền” tập trung quyền lục tay Toàn
quyền Đông Dương và chính quyền Trung ương
=> Nhằm phục vụ đắc lực cho chương trình khai thác thuộc địa to lớn về
kinh tế vừa được vạch ra
- Paul Doumer lập ra Hội đồng cao cấp Đông Dương; Ngân sách liên
bang, các cấp; Các cơ quan quản lý chuyên môn
- Paul Doumer can thiệp vào mỗi quan hệ giữa Toàn quyền với các xứ để
hướng tập trung quyền lực vào Trung ương.
+ Nam kỳ vốn là đất thuộc địa thì bị hạn chế quyền lực và chịu sự quản lý cỉa Liên bang
+ Bắc kỳ, chức vụ Kinh lược Bắc kỳ bị bãi bỏ , đồng nghĩa với việc
tước quyền và ảnh hưởng của Triều đình tới Bắc Kỳ
+Trung kỳ,tuy vẫn duy trì chính phủ Nam triều nhưng P.Doumer
đã gia tăng số lượng người Pháp làm việc trong Bộ và Hội đồng của Triều đình
b. Thời kỳ “giải tập trung hóa” hay “tản quyền”
- Thực hiện chủ trương giảm bớt gánh nặng cho chính quyền trung ương
- Các Thống đốc, Thống sứ, Khâm sứ ở ba xứ đã được trao quyền” chịu
trách nhiệm về toàn bộ hoạt đọng kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội”
- Các cuộc “cải lương hương chính nhằm một mặt , không nắm trực tiếp
cấp làn, xã, nhưng mặt khác, chính quyền thuộc địa vẫn có thể can thiệp,
giám sát, kiểm soát về tài sản, công dideffn, công thổ, tài chính địa phương,…
- Có những chuyển biến theo hướng “dân chủ hóa” và “địa phương hóa”
hay là “phi tập trung hóa” (phân chia các nhóm chức sắc, có thiết chế tự quản, ..)
- Chủ trương mở rộng khả năng để người Việt tham gia điều hành các vấn
đề của mỗi nhóm người Đông Dương song song với chủ trương phục hoạt
lại chính quyền nhà Nguyễn để trợ giúp cho chính quyền thuộc địa=>
thay đổi chế độ trực trị bằng chế đọ bảo hộ
- Vua Bảo Đại được Toàn quyền Pierre Pasquier đưa về nước để sửa đổi chính trị
- Ngày 10/9/1932, vua Bảo Đại Khẳng định quyền lực của Nhà vua và
triều đình nhà Nguyễn, tuyên bố cải cách triều chính
4. Quân đội và bộ máy đàn áp của chính quyền thuộc địa a. Quân đội
-Là lực lượng chiếm đóng thuộc địa, vừa là lực lượng để phòng thủ lãnh
thổ thuộc địa, vừa là lực lượng đàn áp các phong trào kháng chiến của
nhân dân Đông Dương và Việt Nam.
-Quân đội thuộc địa bao gồm:
+ Quân chính quy: các đơn vị lính Pháp và lính bản xứ
+ Các đơn vị quân đội đặc biệt: Trung đoàn Pháp binh, Kỵ binh, … b. Cảnh sát
- Là lực lượng chủ yếu trong bộ máy đàn áp của chính quyền thuộc địa Pháp, gồm:
+ Lực lượng cảnh sát đặc biệt toàn Đông Dương
+ Lực lượng trợ thủ cho cảnh sát (Đoàn dân dũng)
+ Lực lượng cảnh sát người Việt ở Nam kỳ
+ Cảnh sát an ninh cấp xứ
- Từ 1917, lực lượng cảnh sát được gộp chung vào một hệ thống gồm cả
cảnh sát Pháp và cảnh sát bản xứ với 6 tiểu ban:
Tiểu ban 1: Chuyên thu nhập tin tức chính trị,kiểm soát báo chí các hiệp hội.
Tiểu ban 2: Kiểm soát người nhập cư
Tiểu ban 3: Cơ quan an ninh
Tiểu ban 4: Quản lý căn cước
Tiểu ban 5: Cảnh sát đô thị
Tiểu ban 6: An ninh quân đội
c. Hệ thống nhà tù
- Phản ánh rõ nét tính chất của bộ máy đàn áp thực dân
- Với tính chất là nhà giam, nhà pháp lý, nhà trừng giới, nhà tù Đông
Dương được thực dân Pháp trang bị hết sức tối tân với các công cụ dùng
cho các hình phạt nặng nề và hiểm độc nhất với tù nhân, đặc biệt các tù
nhân là những chiến sĩ yêu nước và cách mạng Việt Nam.
VI.Tổng quan về pháp luật
1, Pháp luật của chế độ thuộc địa trực trị
- Pháp xâm lược Việt Nam, áp đặt một chế độ chính trị thực dân –
phong kiến cho nhân dân Việt Nam, xác lập một hệ thống pháp luật
phục vụ đắc lực cho mục đích khai thác thuộc địa
- Cùng với chế độ trực trị trong thời kỳ đầu của chế độ thuộc địa là
các văn bản pháp lý dưới dạng các hiệp định song phương mà quân
đội thực dân Pháp đã ép triều đình nhà Nguyễn ký kết nhằm áp đặt
các điều kiện về chính trị,kinh tế, ngoại giao đối với Việt Nam
- Hiệp ước Nhâm Tuất ( tháng 5/ 1862)
- Hiệp ước Giáp Tuất ( 1874)
Vi phạm chủ quyền lãnh thổ Việt Nam
Tạo điều kiện mở cửa cho Pháp dẫn quân vào xâm lược Việt Nam
Việc bồi thường gây tổn hại làm cho lực lượng trong nước thêm yếu kém, nghèo đói hơn
Chứng tỏ sự nhu nhược, hèn nhát của triều đình nhà Nguyễn, bước đầu
nhà Nguyễn đầu hàng thực dân Pháp
- Những bản hiệp ước tiếp theo của thời kỳ quân đội Pháp từng bước
xâm chiếm Việt Nam và bắt đầu xác lập chế độ thuộc địa trực trị là
các hiệp ước Harmand (1883) và Hiệp ước Patenotre (1884)
- Đại đa số các văn bản thuộc lĩnh vực tổ chức quyền lực của người
dân đều do người đứng đầu nhà nước Pháp hoặc cơ quan quản lý
thuộc địa của Pháp ban hành vd:
• Sắc lệnh thành lập Liên bang Đông Dương ngày 17/10/1887
• Sắc lệnh ngày 8/1/1877 thành lập thành phố Sài Gòn
• Sắc lệnh ngày 19/5/1919 về thay đổi các cơ quan tư pháp Trung
Kỳ và về thẩm quyền của các tòa án Hà Nội, Sài Gòn
• Sắc lệnh ngày 16/2/1921 về việc thành lập các Tòa hòa giải,
Tòa án ành chính, Tòa án thương mại,...
- Các cải cách ở Đông Dương và ở Việt Nam là văn bản của các viên
Toàn quyền Đông Dương, của người đứng đầu các xứ
- Ngay sau khi Pháp xác lập chủ quyền ở 3 tỉnh miền Đông Nam Kỳ,
ngày 25/7/1864 tổng thống Pháp đã ban hành sắc lệnh về tổ chức
tư pháp tại các vùng thuộc Pháp. Theo tinh thần này, từ năm 1864
Bộ Luật Thương mại của Pháp được áp dụng ở Nam Kỳ với tính
cách là xứ thuộc địa của Pháp, năm 1888 được áp dụng ở Bắc Kỳ.
Các bộ luật hình sự, tố tụng hình sự và về tổ chức tòa án đã lần lượt
được soạn thảo và ban hành vào những năm 20 của thế kỷ XX. Các
sắc lệnh về quốc tịch, cư trú và hộ tịch đã được ban hành trong năm 1883
2, pháp luật trong thời kỳ cải cách và khai thác thuộc địa
a, bối cảnh chính trị, kinh tế - xã hội
- Nhằm tạo cơ sở pháp lý cho chính sách “ kết hợp với người bản
xứ” và tự quản làng xã, tăng cường “ trao quyền cho địa phương”.
Song song với các chủ trương và giải pháp về tổ chức, nhân sự,
chính quyền thuộc địa chủ trương cuộc “ cải lương hương chính”
theo các hướng: tân học hóa, viên chức hóa, tư sản hóa và pháp luật hóa.
- Theo đó nhiều quy chuẩn pháp lý đặt ra trong việc quản lý tài sản,
quản lý và sử dụng ngân sách,... thậm chí còn có cả một nghị định
riêng của thống sứ Bắc Kỳ ngày 12/8/1921 về lập sổ dự đoán thu chi của các làng xã
- Các quy chế pháp lý về tổ chức, nhân sự cũng được đặt ra nhằm
xác định những tiêu chuẩn, phương pháp và thủ tục lựa chọn thành
viên Hội đồng Kỳ mục, Hội đồng tộc biểu. Những quy chế này dần
được mẫu hóa bằng các nghị định của người đứng đầu cấp Kỳ
nhằm nhất thể hóa các tiêu chí, ngăn ngừa tình trạng “ phép vua
thua lệ làng” và nhu cầu nắm chắc quản trị địa phương trong tay chính quyền thuộc địa
⇨ Chủ trương hiện đại hóa các quy tắc pháp lý quản lý tổ
chức làng xã, tài sản cộng đồng, khôi phục và hiện đại
hóa các truyền thống, tập quán làng xã được dư luận
đương thời đánh giá là mặt tiến bộ và thành công của chủ
trương cải lương hương chính của chính quyền thuộc địa.
Tình hình này đã trở thành động lực to lớntrong việc ra
đời các tư tưởng pháp lý phù hợp: tư tưởng bảo vệ sở
hữu, chống độc quyền, quyền bầu cử, quyền tự do kết
giao dân sự, quyền hưởng các phúc lợi công cộng,...
⇨ Trên báo chí và công luận thời kỳ này, những khái niệm “
nền tư pháp công minh”, “ liên kết”, “ hợp tác tự do”, đã xuất hiện
b, sự ra đời của các bộ luật
- Bộ Dân luật giản yếu Nam Kỳ 1883
• Soạn thảo và có hiệu lực thi hành năm 1883 nhằm tạo cơ sở
pháp lý cho hoạt động đầu tư, dịc vụ và thương mại đã bắt đầu phát triển ở xứ này
• Phá bỏ được rào cản của các quy định hiện hành trước đó ( cụ
thể là Bộ Luật Gia Long ) đối với việc tham gia vào các quan hệ
dân sự. Bộ luật Dân sự giản yếu Nam Kỳ đã đi theo mô hình
luật dân sự Pháp, phá vỡ các rào cản pháp lý và tập quán gia
trưởng theo Nho giáo ( vd theo bộ luật Gia Long gia trưởng có
vị trí trung tâm trong quan hệ nhân thân, theo đó con cháu trong
gia đình dù ở bất kỳ độ tuổi nào nếu sống chung với gia trưởng
thì phải thuộc quyền của gia trưởng, không có tài sản riêng,
không có tự do ý chí riêng,.. . bộ luật Dân sự giản yếu Nam Kỳ
đã theo mô hình mô hình luật dân sự Pháp quy định người 21
tuổi có năng lực hành vi dân sự đầy đủ )
- Bộ luật Dân sự Bắc Kỳ năm 1931
• Bộ luật Dân sự Bắc Kỳ được mô phỏng theo Bộ luật Napeleon
1804, thậm chí có những quy định được chuyển nguyên xi. Bộ
luật đã tạo ra những chế định pháp lý mới theo hướng cách tân
và hội nhập, thúc đẩy xóa bỏ những tục lệ lạc hậu.
• Lần đầu tiên ở xứ thuộc địa, quyền cá nhân và sự bình đẳng về
pháp lý đã được nêu thành nguyên tắc: “ phàm quốc dân An
Nam đối với pháp luật đều là bình đẳng cả” ( điều 8). Bảo vệ tài
sản, bảo vệ nhân thân đã được đặt ra: “ quyền sở hữu tài sản của
mình thời không ai có thể tước bỏ được, trừ khi có việc cần
chung do pháp luật chuẩn nhận, mà tất nhiên phải dùng đến thì
không kể, nhưng khi ấy phải bồi thường trước cho xứng đáng “.
“ người và của là không ai xâm phạm được và thuộc quyền
pháp luật bảo hộ”, “ không ai có quyền được dịch sử nhân thân
người khác trái với luật phép” ( điều 9)
• Mô phỏng Bộ luật Napoleon về tổng thể, nhưng bộ Luật Dân sự
Bắc Kỳ vẫn còn những điểm khác biệt về hình thức pháp điển
hóa, trong đó, các yếu tố và chế định của luật thương mại được
xép vào đối tượng điều chỉnh chung trong bộ luật trong khi ở
chính quốc, luật dân sự và luật thương mại đã dược pháp điển hóa riêng biệt
- Bộ Hoàng Việt hình luật Trung Kỳ năm 1933
• 4/11/1933, toàn quyền Đông Dương pierre Pasquier đã ra Nghị
định chuẩn y Dụ của Bảo Đại ban hành Bộ Hoàng Việt hình luật
ở Trung Kỳ, trên cơ sở Bộ luật Gia Long được cải sửa
- Bộ luật Dân sự Trung Kỳ năm 1936
• Có tên gọi khác là Hoàng Việt Trung Kỳ hộ luật, gồm 1709
điều, về cơ bản chép lại Bộ luật dân sự Bắc kỳ năm 1931. Tuy
nhiên, do định hướng pháp điển hóa có thay đổi nên các quy
định về thương mại đã không còn là một bộ phận của bộ luật
dân sự như đã thấy trong Bộ luật Dân sự Bắc Kỳ, điều mà các
nhà lập pháp của chính quyền đã làm trước đó với việc ban
hành với hai bộ luật riêng biệt của nước Pháp là bộ luật Dân sự
1804 và bộ luật thương mại... theo hướng này, phải đến năm
1942, theo Dụ số 46 ngày 27/4, hoàng đế Bảo Đại đã ban bố bộ
luật Thương mại Trung Kỳ và Bộ Trung Kỳ hộ sự Thương sự tố Tụng pháp