Khái quát kinh tế xã hội Việt Nam qua các giai đoạn của chế độ thực dân- phong kiến
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, nền kinh tế tư bản chủ nghĩa tạiPháp phát triển và chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa.Nhu cầu về nguyên liệu, thị trường, nhân công ngày càng trởnênbứcthiết.Sauthờigianxâmchiếm vàthôntínhtoànbộnướcta,thựcdânPháptiếnhànhápđặtchếcaitrịchuyênchế,hàkhắcvàtànbạovớinhữngbiệnphápkhaithácthuộcđịa.
Preview text:
lOMoAR cPSD| 45936918 I.
Bối cảnh kinh tế-xã hội qua các giai đoạn của chế độ thực dân-
phong kiến ở Việt Nam
- Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, nền kinh tế tư bản chủ nghĩa tại
Pháp phát triển và chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa.
Nhu cầu về nguyên liệu, thị trường, nhân công ngày càng trở
nên bức thiết. Sau thời gian xâm chiếm và thôn tính toàn bộ
nước ta, thực dân Pháp tiến hành áp đặt chế cai trị chuyên chế,
hà khắc và tàn bạo với những biện pháp khai thác thuộc địa.
Thực dân Pháp đã tiến hành ở Việt Nam hai cuộc khai thác thuộc
địa (lần 1: 1887-1914, lần 2: 1919-1929) không chỉ ảnh hưởng
đến tình hình chính trị, văn hóa xã hội mà còn ảnh hưởng
nghiêm trọng về nền kinh tế. Đặc biệt là khi phát xít Nhật cộng
trị với Pháp, Pháp - Nhật tiến hành những chính sách về kinh tế
ngày càng trở nên phức tạp trên đất nước ta như Kinh tế chỉ huy,
chính sách ruộng đất, chính sách “Đồng hóa thuế quan” ...
Những chính sách cai trị của thực dân đã ảnh hưởng lớn đến tình
hình kinh tế - xã hội Việt Nam. Về xã hội, những chính sách trên
đã làm cho mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với đế
quốc thực dân ngày càng trở nên gay gắt, độc lập dân tộc trở
thành yêu cầu cấp thiết trong xã hội. Về kinh tế, những chính
sách thực dân đã làm cho nền kinh tế Việt Nam trở nên lạc hậu,
què quặt, phát triển không cân đối, lệ thuộc nặng nề vào nền kinh tế thực dân
1. Kinh tế-xã hội Việt Nam thời kỳ đầu của chế độ thuộc địa
- Ở thời kỳ này, thực dân Pháp đã không từ một thủ đoạn nào để
chiếm đoạt tài nguyên thiên nhiên, nắm các mạch máu kinh tế,
biến Việt Nam thành thị trường tiêu thụ và đầu tư cho vay nặng
lãi. Vì vậy, thực dân Pháp đã thực hiện nhiều chính sách trong
khai thác và bóc lột nước ta, việc đầu tiên của chính quyền
thuộc địa là thiệt lập một hệ thống tài chính, thuế khóa mới để
huy động vốn cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế; đầu tư
vào các lĩnh vực kinh tế dựa vào lao động giá rẻ của người bản
xứ. Trong thời kỳ đầu này, chính quyền đã huy động được 2,5 tỷ
francs vốn vay từ ngân sách của Chính phủ Pháp để đầu tư vào
Đông Dương, được chủ chi vào việc xây dựng các công trình
công cộng: Đường sắt, Đường bộ, Cầu cống, Thủy lợi, Công trình
thành phố, bến cảng, công trình quân sự và dân sự, hải đăng, …
Thêm vào đó, các khoản chi cho các công trình công cộng,
nguồn vốn Chính phủ còn được dùng để trả các khoản nợ công
đến hạn, đóng góp vào chi phí quân sự của chính quốc, nuôi
sống bộ máy hành chính, …
⇨ Nhân dân Đông Dương phải gánh chịu mọi phí tổn cho việc
khai thác thuộc địa của người Pháp qua hàng trăm thứ thuế
mà họ phải nộp theo những “cải cách” về thuế khóa.
Ngoài ra, trong đó cơ cấu vốn đầu tư còn có việc huy động còn
có việc huy động vốn từ các quỹ tín dụng đã hình thành ở Đông lOMoAR cPSD| 45936918
Dương lúc bấy giờ như Qũy tín dụng của người Pháp, Qũy tín
dụng nông nghiệp, vốn của các tư nhân, có lúc đạt được con số
160 triệu francs. Hàng trăm công ty tư nhân đã ra đời trong bối
cảnh đó. Ngoài ra, còn có sự huy động vốn từ các tập đoàn tài chính lớn Pháp.
a. Xây dựng các công trình công cộng
- Chính quyền thực dân chú trọng trước hết tới các tuyến đường
sắt, đường thủy, đường bộ... nhằm vào việc kiểm soát lãnh thổ
Đông Dương về phương diện quân sự đồng thời tiến vào khai
thác những có nhiều đất đai, tìa nguyên của thuộc địa.
Tuyến Sài gòn – Mỹ Tho (1883); tuyến Hà Nội – Đồng Đăng
(1902); Hà Nội – Hải Phòng (1902); Hà Nội – Lào Cai (1906); Hà
Nội – Sài Gòn (1900-1013).
- Cùng với việc xây dựng các tuyến đường sát là việc xây dựng hệ
thống đường bộ như tuyến xuyên Việt, các tuyến đường liên tỉnh.
Đến năm 1913 đã có 20.000 km đường bộ được xây dựng xong.
Hà Nội – Cao Bằng; Việt Trì – Tuyên Quang; Sài Gòn – Tây Ninh.
- Ngoài các tuyến giao thông đường sắt, đường bộ thì hệ thống
các tuyến đường thủy, cầu cống kiên cố, các cảng biển, các công
trình thủy lợi đã được đầu tư xây dựng, song song với chủ trương
xây dựng và chỉnh trang đô thị. b. kinh tế - Nông nghiệp:
• Đẩy mạnh cướp đoạt ruộng đất. Ở Bắc kỳ đến nắm 1902,
có tới 182.000 hecta ruộng đất bị Pháp chiếm.
• Cà phê chiếm vị trí ưu tiên, về kinh tế chúng sinh lợi gấp 4
đến 5 lần ngô, gấp 3 lần lúa. Vị trí tiếp theo là cao su, tập
chung chủ yếu ở Nam kỳ, nhân công được sử dụng trên
các đồn điền cao su thường có số lượng lớn, được mộ tại
chỗ hay ở những nơi khác tới.
⇨ Đem lại cho tư bản Pháp những nguồn lợi khổng lồ, trái lại
cũng đem lại cho người dân Việt Nam nỗi ám ảnh về chế độ
bóc lột vô hạn độ trong khu vực đồn điền, mặc dù đã để lại
những kinh nghiệm có lợi cho sự phát triển nền nông nghiệp Việt Nam hiện đại.
- Thương nghiệp: phát triển thương mại là mục tiêu cao nhất của
cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất bởi nó sẽ giúp Pháp thực
hiện được ý đồ biến Việt Nam thành thị trường tiêu thụ hàng hóa
của Pháp, đồng thời cung cấp cho Pháp những sản phẩm sinh lợi
cùng những sản phẩm mà nền kinh tế Pháp đang cần. Khác với
việc buôn bán trước đây của người bản xứ, giờ đây công việc này
chỉ diễn ra với các loại hàng hóa thông thường mà nhiều loại
hình buôn bán mới ra đời và cũng khác với thói quen buôn bán
nhỏ lẻ quanh quấn trước đây; nhất là theo quan niệm “trọng
nông, ức thương”, “bế quan tỏa cảng” của triều Nguyễn, việc lOMoAR cPSD| 45936918
buôn bán với nước ngoài, giờ đã được giới thực dân coi trọng
hàng đầu và do Chính phủ thuộc địa nắm độc quyền. - Ngoại thương:
• sự phát triển trong thời kỳ này được thể hiện trước hết là
ở sự ra đời của các công ty thương mại lớn: Liên hiệp
thương mại Đông Dương và Phi Châu, Công ty thương mại Pháp ở Đông Dương,…
• thêm vào đó là sự tăng lên của tổng kim ngạch xuất –
nhập khẩu, từ 81 triệu đồng năm 1897 tăng lên 235 triệu đồng năm 1913.
• Tuy nhiên, với mục đích độc chiếm thị trường Việt Nam,
Pháp tiếp tục áp dụng Đạo luật quan thuế năm 1892.
Theo đó, hàng hóa Pháp vào Việt Nam được miễn thuế,
trong khi hàng hóa các nước khác phải đóng thuế từ 25%
đến 120% giá trị hàng hóa. - Nội thương:
• Các hoa kiều được tự do buôn bán ở Đông Dương ngay cả
khi Pháp thực hiện chính sách độc quyền (vì làm đại lý đối
với hàng nhập từ nước ngoài và đứng làm trung gian thu
mua sản phẩn xuất khẩu cho các thương nhân Pháp)
• Sự giao lưu buôn bán giữa các vùng miền trở nên sôi
động, nhộn nhịp với những phương tiện vận tải ngày càng
phong phú, nông hải sản từ vùng xuôi lên miền núi, lâm
thổ sản từ núi chở về xuôi, …
• Xuất hiện những loại hàng hóa đặc biệt như bất động sản,
điện, nước và nảy sinh các ngành buôn bán tương ứng:
kinh doanh bất động sản, điện, nước,… c. Văn hóa-xã hội
- Nhằm đàn áp các xu hứng văn hóa mới, ngăn chặn sự lan truyền
của những tư tưởng tiến bộ đang có xu hướng tràn ngập, chính
quyền thực dân đã thực hiện những biện pháp mạnh để củng cố
vị trí độc tôn của văn hóa thực dân, trong đó luật hóa những
điều cấm kỵ có trong việc phát hành báo chí với mục đích loại bỏ
bản xứ ra khỏi những thành phần có thể ra báo, loại bỏ mọi ấn
phẩm có hại tới chính quyền thuộc địa, ngăn cản sự xâm nhập
của những tư tưởng tiên tiến vào Việt Nam. Không chỉ báo chí
mà cả các loại hình văn hóa khác muốn tồn tại được thì đều phải
thể hiện một tư tưởng chủ đạo là ca ngợi “công ơn khai hóa văn
minh” của Pháp, ủng hộ chủ nghĩa thực dân.
- Tuy vậy, với sự nỗ lực không ngừng nghỉ của các sĩ phu yêu nước
như Phạm Phú Thứ. Nguyễn Trường Tộ, Phan Bội Châu, Phan Chu
Trinh,… không chỉ dừng ở lại truyền bá sách báo nước ngoài, các
sĩ phu yêu nước còn cho xuất bản nhiều tác phẩm của mình
nhằm truyền bá và cổ súy cho tư tưởng cách tân.
2. Kinh tế-xã hội Việt Nam sau kết quả của cuộc khia thác thuộc địa lần thứ hai lOMoAR cPSD| 45936918
Do tác động của nhiều sự kiện lịch sử mới, đồng thời để khai
thác thêm nhiều nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú,
nguồn nhân công rẻ mạt và nắm chặt hơn thị trường Việt Nam,
trong cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai, tư bản Pháp tăng
cường đầu tư vào Việt Nam với qui mô và tốc độ lớn hơn gấp
nhiều lần so với thời kì trước chiến tranh. a. Nông nghiệp
- Nông nghiệp là ngành ngày càng thu hút sự đầu tư nhiều nhất
của tư bản Pháp. Cao su là mặt hàng đang được giá cao trên thị
trường thế giới nên đã thu hút các nhà tư bản Pháp đổ xô vào
đầu tư kinh doanh. 95% sản lượng cao su thu hoạch hàng năm
và hầu hết khối lượng cao su xuất khẩu đều đưa sang Pháp. b. Công nghiệp
- Công nghiệp khai thác mỏ và công nghiệp chế biến lâm sản,
nông sản được chú ý phát triển. c. Các giai cấp xã hội
- Dưới tác động của cuộc khai thác thuộc địa lần hai, sự phân hóa
giai cấp trong xã hội Việt Nam diễn ra ngày càng sâu sắc. Các
giai cấp cũ (địa chủ, phong kiến và nông dân) bị phân hoá sâu
sắc hơn; những tầng lớp xã hội mới nảy sinh trong cuộc khai
thác thuộc địa lần thứ nhất (tư sản, tiểu tư sản) phát triển trở
thành giai cấp thực sự. Giai cấp công nhân trưởng thành từ giai
cấp tự phát thành giai cấp tự giác.
- Mỗi giai cấp, mỗi tầng lớp xã hội có địa vị và quyền lợi khác
nhau nên cũng có thái độ chính trị khác nhau trong cuộc đấu
tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp đang phát triển. Trong đó,
giai cấp tiểu tư sản đã trở thành một lực lượng quan trọng của
cách mạng cùng với hai giai cấp công nhân và nông dân là động
lực chính trong cuộc cách mạng dân tộc dân chủ ở nước ta. Bên
cạnh đó, một số bộ phận khác là tu sản dân tộc và trung, tiểu
địa chủ cũng là những lực lượng cách mạng có thể tranh thủ và
lôi kéo. Ngược lại bộ phận tư sản mại bản và đại địa chủ có
quyền lợi gắn liền với đế quốc thực dân nên trở thành đối tượng
của cách mạng, kẻ thù của nhân dân.
- Các cuộc khai thác thuộc địa cũng là tác nhân của sự ra đời và
phát triển của nhiều tôn giáo ở Việt Nam
3. Các trào lưu văn hóa, giáo dục, tôn giao trong thời kỳ thuộc địa
- Về văn hóa, thực dân Pháp đã thi hành một chính sách đầu độc,
ngu dân đồng thời truyền bá văn hóa và giáo dục của Pháp để
phục vụ cho chính sách thuộc địa của mình.
⇨ Mục đích nhằm nô dịch tinh thần quần chúng, biến quần
chúng thành những đám đông tư ti, khiếp nhước trước sức
mạnh của nền văn minh đại Pháp, mất tin tưởng vào khả
năng và tiền đồ của dân tộc, cắt đứt mọi truyền thống tốt
đẹp, phục vụ trung thành cho quyền lợi đế quốc lOMoAR cPSD| 45936918
- Đi cùng với ngu dân, thực dân Pháp tăng cường thực hiện chính
sách đầu độc, trụy lạc hóa đối với người dân, đặc biệt là thanh
niên với mọi thủ đoạn. Những thói hư tật xấu được chính quyền
các cấp ra súc dung dưỡng: nạn cờ bạc, uống rượu nặng đô, hút thuốc phiện,…
- Lợi dụng báo chí để tuyên truyền cho các chính sách “khai hóa”,
thống trị của chúng tại Việt Nam.
- Cùng với quá trình đầu tư tư bản của thực dân Pháp trong các
cuộc khai thác thuộc địa, mầm mống kinh tế tư bản xuất hiện ở
Việt Nam và trên cơ sở đó một số ý thức mới cũng phát triển.
Những người đại biểu cho tư tưởng mới là các sĩ phu tiến booj,
Họ là những người đi tiên phong trong các phong trào đả phá
những quan niệm phong kiến lạc hậu mà theo họ đó là nguyên
nhận của mọi sự yếu hèn và thối nát hiện thời. Tiêu biểu là các
chí sĩ Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh.
- Bắt đầu từ những năm đầu thập niên thứ hai của thế kỷ XX, một
trào lưu tư tưởng và văn hóa mới mang tính chất là một trào lưu
tư tưởng yêu nước đang được vô sản hóa theo học thuyết Mac-
Lneninđã xuất hiện ở Việt Nam
⇨ Mục đích nhằm đả kích chế độ thực dân-phong kiến, thức tỉnh
ý thức về một cuộc cách mạng dân tộc-dân chủ do giai cấp vô sản lãnh đạo.