STT: 30
CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT VỀ SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA TIẾNG VIỆT
1. Các phương pháp cơ bản trong so sánh ngôn ngữ
a. Phương pháp so sánh loại hình
Là phương pháp nghiên cứu hướng vào hiện tại (tại một thời điểm), vào hoạt động của
kết cấu ngôn ngữ để tìm hiểu những cái giống nhau khác nhau trong kết cấu của
hai hoặc nhiều ngôn ngữ.
(Lưu ý: Kết cấu của ngôn ngữ là ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp – bộ khung của ngôn ngữ.
Về phương pháp so sánh loại hình này, thể lấy ví dụ như sau: Tiếng Anh, Nga, Pháp
giống nhau về mặt phát âm, có sự biến đổi về vỏ âm thanh; trong tiếng Việt, Hán, Thái,
khi các từ kết hợp với nhau, không sự biến đổi về mặt kết cấu về mặt ngữ âm, tôi
đang học đã học sẽ học sắp học mới học, thì động từ “học” không sự biến
đổi về vỏ ngữ âm; nhưng trong tiếng Anh, để biểu thị thời của hành động, bản thân từ
“học” sẽ có sự biến đổi. Ở đây, người ta nghiên cứu theo phương pháp này để tìm thấy
được cái giống khác nhau của hai hoặc nhiều ngôn ngữ dưới góc độ ngữ âm, từ
vựng, ngữ pháp, sau đó sẽ nhóm chúng ra thành một nhóm, mỗi nhóm sẽ được đặt một
tên gọi, tên gọi của nhóm đó hàm chứa những đặc điểm cơ bản nhất của nhóm đó.
Các điểm chung là cái sở để xếp các ngôn ngữ vào một nhóm, còn điểm riêng tiêu
chí để phân biệt các ngôn ngữ trong một nhóm)
Phân loại các ngôn ngữ theo loại hình: (Người ta lấy một đơn vị cơ sở trong ngôn ngữ
là “từ”, nghiên cứu ngôn ngữ theo góc độ loại hình. Nghĩa là, người ta nghiên cứu từ
bình diện rồi tìm ra điểm giống và khác nhau, từ đó, người ta phân ra được 4 loại hình
ngôn ngữ) o Đơn lập: Tiếng Việt (từ không biến đổi hình thái ngữ âm) o Chắp dính:
Tiếng Nhật (từ / các yếu tố cấu tạo từ dính với nhau) o Hòa kết / biến hình: Tiếng Anh,
Nga, Pháp (ý nghĩa từ vựng và ngữ pháp hòa vào nhau, vỏ ngữ âm có sự biến đổi)
o Đa tổng hợp: chiếm tương đối ít, 5% trong số 6000 ngôn ngữ; vừa giống biến
hình vừa giống chắp dính
b. Phương pháp so sánh đối chiếu
Là phương pháp tìm điểm giống nhau khác nhau của các ngôn ngữ về mặt kết cấu.
Trong đó, một ngôn ngữ là trung tâm chú ý còn ngôn ngữ kia là phương tiện nghiên
cứu. Phương pháp so sánh đối chiếu được vận dụng vào trong các bộ môn ngôn ngữ
học ứng dụng như biên soạn các từ điển song ngữ, phiên dịch, dạy và học ngoại ngữ.
c. Phương pháp so sánh lịch sử (trọng tâm)
một hệ thống các thủ pháp phân tích được dùng trong việc nghiên cứu các ngôn
ngữ thân thuộc nhằm phát hiện quy luật phát triển kết cấu của chúng kể từ các âm
các dạng thức cổ nhất đã được phục nguyên.
Xác định quan hệ cội nguồn của ngôn ngữ, quá trình phát triển của một ngôn ngữ như
thế nào.
Cách thực hiện phương pháp so sánh lịch sử:
o Chọn sự kiện (từ, hình vị) o Xác định niên đại và phục nguyên o Xác
định mức độ thân thuộc Xác định phả hệ ngôn ngữ Những lưu ý khi
so sánh lịch sử:
o Xem xét trên: ngữ âm, từ vựng, ngpháp o Tìm sự tương ứng quy
luật
o Loại bỏ từ cảm thán, từ tượng thanh, từ trùng âm ngẫu nhiên, từ vay mượn,
từ do kết quả tiếp xúc
Phả hệ ngôn ngữ: Ngữ hệ / họ Nhánh / dòng Nhóm / chi Ngôn ngữ Xác định
quan hệ họ hàng của ngôn ngữ theo các trật tự:
o Trật tự từ gần đến xa: Nhóm ngôn ngữ - nhánh ngôn ngữ - họ ngôn ngữ o
Trật tự từ xa đến gần: Họ ngôn ngữ - nhánh ngôn ngữ - nhóm ngôn ngữ
Điều kiện xác định cội nguồn ngôn ngữ:
o Tính võ đoán
o Khảo sát từ vựng cơ bản (Từ vựng cơ bản?) o Quy luật, hệ thống
Cơ sở phân loại ngôn ngữ theo cội nguồn:
o Khả năng chia tách từ một ngôn ngữ mẹ o Tính võ đoán o Biến đổi
tính hệ thống
o Biến đổi ngữ âm: quy luật, hệ thống, có lý do Lớp từ vựng cơ bản:
NGÔN NGỮ
MẸ / CƠ SỞ
NN1
NN4
NN (a)
NN (b)
NN (c)
NN5
NN6
NN2
NN7
NN8
NN9
NN3
NN10
o Những từ từ rất sớm trong lịch sử hình thành một ngôn ngữ - tộc người
nhất định, tên gọi của những thứ không thể không có, thường xuyên
được thấy, được sử dụng trong đời sống ngôn ngữ - tộc người đó. o Bao
gồm:
- Chỉ bộ phận cơ thể người.
- Những hiện tượng tự nhiên thường gặp.
- Chỉ quan hệ họ hàng thân thuộc của con người.
- Chỉ hoạt động, trạng thái cơ bản của người, động vật, tự nhiên.
- Tên gọi của động, thực vật gần gũi nhất với đời sống con người.
So sánh từ vựng tiếng Việt với tiếng Mường:
Việt
ba
bốn
bảy
bay
gạo
gái
Mường
pa
pốn
pảy
păn
cáo
cải
ca
Việt
măng
mắm
muối
may
trèo
trả
tre
Mường
băng
bẳm
bối
băl
tleo
tlả
tle
o Sự tương quan gần như hoàn toàn giữa lớp từ vựng cơ bản giữa tiếng Việt
và tiếng Mường.
o Sự khác biệt âm đầu mang tính quy luật: b – p, g – k, m – b, tr – tl.
Quan hệ thân thuộc giữa tiếng Việt và tiếng Mường.
2. Nguồn gốc của tiếng Việt
a. Các khái niệm cơ bản
Ngữ hệ (họ) ngôn ngữ: Là một tập hợp nhiều ngôn ngữ mà giữa chúng có thể xác lập
được những nét chung cho phép giải thích chúng cùng dẫn xuất từ một dạng thức cội
nguồn theo những quy luật nhất định.
Nhánh (dòng / ngành) ngôn ngữ: Là một bộ phận của họ ngôn ngữ nhất định bao gồm
những ngôn ngữ những nét giống nhau nhiều hơn một nhánh khác trong cùng một
họ.
Nhóm (chi) ngôn ngữ: Là những bộ phận ngôn ngữ nằm trong mỗi nhánh có sự gần
gũi nhau nhiều hơn so với những ngôn ngữ nằm trong nhóm khác của cùng một nhánh.
Phương ngữ: Là những vùng khác nhau của một ngôn ngữ, có những nét riêng khiến
vùng đó ít nhiều khác biệt với những vùng phương ngữ khác.
Thổ ngữ: Gồm những biến thể của một ngôn ngữ được dùng một địa phương nhỏ
hẹp trong một vùng phương ngữ nhất định. o Ví dụ: Thổ ngữ của tiếng Quảng Nam:
- “ăn” thành “en”: muối mặn – muối mẹn - “ắt” thành “éc”: tắt đèn
téc đèn, xe lắc – xa léc.
- “am” thành “ôm”: làm – lồm.
- Núa rứa lồm reng cho lột tưa hén (Nói làm sao cho lọt tai hắn)
- Hộp hùa, nghe lang ác (Họp hoài, nghe long óc)
b. Các ngữ hệ ngôn ngữ lớn trong khu vực địa ngôn ngữ Đông Nam Á
Tiếng Việt thuộc ngữ hệ / họ Nam Á, nhánh Môn – Khmer, chi / nhóm Việt Mường.
o Nhánh Môn – Khmer:
- Quan trọng nhất
- Phân bố rộng
- Bảo tồn tiếng Nam Á cổ đại (đơn tiết, không thanh) o Nhóm
Việt – Mường:
- Quan hệ cội nguồn nhất của tiếng Việt 5 ngữ htrên lãnh thổ
Việt Nam:
o Thái – Ka đai: Thái, Tày, Nùng, Giáy, Lự, Bố Y o Hán Tạng: Hoa, Sán
Chỉ, Sán Dìu, Lô Lô, Phù Lá, La Thủ, Hà Nhì, Ngái o Nam Á: Việt,
Mường, Cuối, Chứt, A Rem, Mã Liềng, A Hêu o Nam Đảo: Chăm, Chơ
Ru, Ê Đê, Gia Rai, Raglai o Mông – Dao: Hmong, Na Mèo, Dao, Pà Thẻn
5 ngữ hệ lớn trên thế giới:
o Ấn Âu: Châu Âu, Ấn Độ o Hán Tạng: Tây Tạng, Đông Á, Đông Nam Á
lục địa o Nam Á: Đông Nam Á lục địa o Nam Đảo: Tây, Bắc, Đông
Indonesia o Sê mít: Trung Đông, Ả rập Xê-út, Châu Phi c. Các giả thuyết
về nguông gốc Tiếng Việt:
Không xếp tiếng Việt vào họ Nam Á:
o Tiếng Việt thuộc họ Hán Tạng:
- một nhánh bị thoái hóa của tiếng Hán kiến của Taberd
1838: “Tiếng Việt chỉ là một nhánh bị thoái hóa của tiếng Hán”)
+ Về từ vựng: Nhiều từ gốc Hán, chiếm tỷ lệ trên 70% (ý kiến của
Cao Xuân Hạo); ví dụ: bác sỹ, thân thể, buồng / phòng, mùi
/ vị, mùa /vụ, mồ / mả / mộ
+ Về ngữ âm: Tiếng Hán tiếng Việt đều thanh điệu, biến đổi
theo quy luật (Số lượng thanh điệu tiếng Việt hiện nay gần tương ứng với hệ
thống tứ thanh của tiếng Hán thời Đường, đều có thanh điệu) - Phản biệt giả
thuyết:
+ Lớp từ Hán – Việt chủ yếu là từ văn hóa.
+ Tiếng Việt là một ngôn ngữ không có thanh điệu ở giai đoạn tiền
Việt Mường (xuất hiện thế kỷ VI)
o Tiếng Việt thuộc họ Thái:
- Ý kiến thứ 2, đáng chú ý hơn cả, cho rằng tiếng Việt một ngôn ngữ
thuộc họ ngôn ngữ Thái. Cần phải nói ngay rằng, trong số những ý kiến
không xếp tiếng Việt vào họ ngôn ngữ Nam Á thì cách lí giải cho ý kiến
này có vai trò quan trọng nhất.
- 1912, H. Maspero: “Nghiên cứu về ngữ âm lịch sử tiếng Việt. Những
phụ âm đầu”
+ Nhiều từ vựng cơ bản lẫn từ gốc Thái.
+ Về từ vựng: tiếng Việt nguồn gốc với các ngôn ngữ Môn
Khmer lẫn các ngôn ngữ Thái.
Môn – Khmer
Thái
Trăng, mưa, gió, nước
Móc (sương mù) mùa
Rú, sông
Đồng, rẫy, mỏ (đầu nguồn nước)
Mắt, chân
Lưng, bụng, ức, cằm, bi
Lúa, chim
Gạo, gà, vịt
- H. Maspero đã so sánh 185 từ tiếng Việt với các ngôn ngữ Môn Khmer
và ngôn ngữ Thái:
+ Về từ vựng: 87 từ tương ứng với các ngôn ngữ Môn Khmer
và 98 từ còn lại tương ứng với các ngôn ngữ Thái.
+ Theo khảo sát sau này thì chỉ 39 từ tương ứng với các ngôn
ngữ Môn Khmer 21 từ tương ứng với các ngôn ngữ Thái
những từ thuộc lớp từ cơ bản của tiếng Việt.
- H. Maspero kết luận: “Tiếng tiền Việt đã sinh ra từ một sự hỗn hòa của
một phương ngữ Môn – Khmer, một phương ngữ Thái và có thể của cả
một ngôn ngữ thứ ba còn chưa biết, rồi sau đó tiếng Việt đã vay mượn
một số lượng lớn những từ Hán. Nhưng cái ngôn ngữ có ảnh hưởng
quyết định để tạo ra cho tiếng Việt trạng thái của nó là chắc chắn theo ý
tôi, một ngôn ngữ Thái, và thế tôi nghĩ rằng, tiếng Việt phải được xếp
vào họ Thái”.
- A.G Haudricourt phản biệ giả thuyết của Maspero:
+ Từ vựng bản, quan hệ Việt Môn Khmer xa xưa hơn, hệ thống
hơn quan hệ Việt – Thái.
+ Những từ Maspero cho là của Thái thực chất vay mượn từ Môn –
Khmer.
+ Tiếng Việt không có thanh điệu ở giai đoạn tiền Việt – Mường.
- Về từ vựng: tiếng Việt nguồn gốc gần gũi với các ngôn ngMôn
Khmer lẫn các ngôn ngữ Thái
+ Hệ số đếm, các từ chỉ thiên nhiên, tên súc vật, cây cỏ, các từ liên
quan đến người, cách ăn phần lớn Môn Khmer. Nhưng
không có loạt nào trọn vẹn cả và trong tất cả các loạt đều có một
số từ ít nhiều gốc Hán.
+ Những từ tiếng Việt chỉ bộ phận cơ thể người có nguồn gốc
Môn – Khmer
+ Những từ tiếng Việt chỉ bộ phận cơ thể người có nguồn gốc Thái
- Về ngữ pháp: Tiếng Việt gần với tiếng Thái và khác rất xa với các ngôn
ngữ Môn – Khmer hiện nay bởi các tiếng Môn – Khmer có cơ sở sơ sài
về hình thái học, trong khi đó tiếng Việt một ngôn ngữ không giá
trị hình thái học.
- Về thanh điệu: Với Maspero, thanh điệu tiếng Việt một vấn đquan
trọng vì tiếng Việt hiện nay là một ngôn ngữ cũng có thanh điệu như các
ngôn ngữ Thái và Hán. Trong khi đó, cho đến nay, các ngôn ngữ Môn –
Khmer vẫn các ngôn ngữ không thanh điệu. o Tiếng Việt thuộc họ
Tam Đảo:
- Tác giả Bình Nguyên Lộc, tác phẩm “Nguồn gốc Lai của dân tộc
Việt Nam”
- Phản biện giả thuyết của Bình Nguyên Lộc:
+ Coi tất cả các ngôn ngmặt Đông Nam Á thuộc một họ ngôn
ngữ, họ Mã Lai.
+ Chưa phân biệt lớp từ cơ bản và lớp từ văn hóa.
+ Chưa xác định tính đều đặn của quy luật ngữ âm.
Xếp tiếng Việt thuộc họ Nam Á:
o A.G Haudricourt với các tác phẩm:
- “Vị trí của tiếng Việt trong các ngôn ngữ Nam Á” (1953)
- “Về nguồn gốc các thanh điệu của tiếng Việt” (1954)
- “Giới hạn và nối kết của ngôn ngữ Nam Á ở Đông Bắc” (1966)
Ông đề nghị phải xếp tiếng Việt vào họ ngôn ngữ Nam Á. đến bây giờ,
đây quan điểm nhận được nhiều sự đồng tình nhất. Từ lập luận của ông, ta có
thể rút ra được những cơ sở để xác định nguồn gốc của tiếng Việt.
o Về từ vựng: A.G Haudricourt đã chứng minh:
- Sau khi tiến hành khảo sát lại nhóm từ chỉ các bộ phận thể trong tiếng
Việt Maspero đã dẫn ra để làm chứng cứ trong công trình so sánh
của ông, Haudricourt đã chỉ ra rằng nhóm từ ấy về bản những từ
thuộc về Môn Khmer, chứ không phải vừa gốc Thái gốc Môn
Khmer như Maspero đã chỉ ra.
- Từ chỉ cơ thể người tương ứng, đều đặn, trọn vẹn với các ngôn ngữ Môn
Khmer.
- Còn lưu giữ vết tích của hiện tượng biến đổi hình thái cổ xưa.
Các ngôn ngữ Môn – Khmer
Các ngôn ngữ Thái
Việt
Mường
Phong
Bana
Môn
Thái
Dioi
Sui
Trốc
Klok
Klok
Kol
Khup
Hruo
Tóc
Thak
Suk
Sok
Sok
Phrom
Mắt
Mat
Mat
Mat
Mat
Ta/tha
Ta
Da
Mũi
Mui
Muic
Muh
Muh
Dan
Dan
Miệng
Meng
Meng
Bơr
Pàk
Pàk
Pàk
Lưỡi
Lai
Laic
Lpiet
Lin
Ma
Răng
Kneng
Nek
Khew
Hew
Cằm
Kăng
Kăng
Kang
Gàng
Hàng
Mya
Việt
Lúa
Gạo
Mường, Phong
Alo
Kao
Bana
Ba
Phe
Mnông
Ba
Phe
Khmer
Srù
Ngka
Môn
Sro
Sngu
Khmu
Ngo
Mgko
Khasi
Kba
Khau
Kuy
Alo
Aso
Việt
Môn
Khmer
Bana
Rơngao
Stiêng
Khạ
Chân
Jơng
Jơng
Jơng
Jeng
Zơn
Sen
Cằm
Dgăm
Kang
Kan
Găm
Kăp
Mặt
Măt
Măt
Măt
Măt
Măt
Mũi
Muh
Muh
Muh
Muh
Muh
Mu
Tóc
Sok
Săk
Sok
Sâk
Sok
o Về ngữ pháp:
- Cụ thể vấn đề cấu tạo từ bằng phương thức phụ tốt. Hiện nay, người
ta vẫn nhận thấy dấu vết của phương thức này.
- Ví dụ: giết – chết: xát hóa – giết o Về ngữ âm:
- Thanh điệu chịu sự chi phối của âm tiết kết thúc (giống nhiều ngôn ngữ
Môn – Khmer).
- Giữa thanh điệu phụ âm đầu liên quan chặt chẽ đến nhau theo
hướng các phụ âm đầu tắc vô thanh tương ứng với một thanh có âm vực
cao, còn những phụ âm đầu hữu thanh thì tương ứng với thanh điệu
âm vực thấp.
- Thanh điệu tiếng Việt có sự tương ứng với cách kết thúc âm tiết:
+ Hai thanh ngang – huyền: âm tiết mở
+ Hai thanh hỏi – ngã: âm cuối xát
+ Hai thanh sắc – nặng: âm cuối tắt yết hầu
- Chứng minh những ngôn ngữ gốc Nam Á ban đầu không có thanh điệu.
Thanh điệu trong lịch sử tiếng Việt
Đầu công nguyên
(không thanh)
Thế kỷ VI (3
thanh)
Thế kỷ XII
(6 thanh)
Ngày nay
Pa
Pa
Pa
Ba
Sla, hla
Hla
La
La
Ba
Ba
La
La
Pas, pah
Pả
Bả
Slas, hlah
Hlà
Lả
Lả
Bas, bah
Las, lah
Lớp từ vựng tiếng Việt được hợp thành từ những nguồn: o
Nam Á (trốc, chị, gái, bốn)
o Nam Đảo (đường, bụi, gục, ngó, kia, mãi, này) o Thái (bơi lội,
chó , chia chác, mặt nạ, mưa phùn, súng ống) o Hán (thảo
mộc, bác sỹ, giang sơn, mỹ nhân) o Ấn – Âu (cà rốt, ship pơ,
chào, mít tinh, ban công)
3. Phân kỳ lịch sử phát triển của tiếng Việt
1
Proto Việt (Việt – Mường)
VIII – IX
Văn ngôn: Việt, Hán cổ
Văn tự: Hán
2
Tiếng Việt tiền cổ X – XII
Văn ngôn: Việt, Hán
Văn tự: Hán
3
Tiếng Việt cổ XIII - XVI
Văn ngôn: Việt, Hán
Văn tự: Hán, Nôm
4
Tiếng Việt trung đại XII –
nửa đầu XIX
Văn ngôn: Việt, Hán
Văn tự: Hán, Nôm, Quốc ngữ
5
Tiếng Việt cận đại XIX -
1945
Văn ngôn: Việt, Hán, Pháp
Văn tự: Hán, Nôm, Pháp,
Quốc ngữ
6
Tiếng Việt hiện đại 1945 trở
lại đây
Văn ngôn: Việt
Văn tự: Quốc ngữ
4. Sự hình thành chữ Nôm
a. Thời điểm xuất hiện
Manh nha từ thế kỷ VIII đến thế kỷ IX.
Hình thành và hoàn chỉnh từ thế kỷ X đến XII.
b. Cấu tạo chữ Nôm
Hình thành bằng con đường mô phỏng và cấu tạo theo nguyên tắc chữ Hán: Vay mượn
y nguyên từ chữ Hán:
o Sử dụng cả mặt âm và nghĩa
VD: từ “tài”, “mệnh” o
Sử dụng mặt âm hoặc ngữ
VD: chữ “biệt” ghi âm “biết”, chữ “trảo” ghi nghĩa “vuốt”
Người Việt tự sáng tạo: ghép những yếu tố vốn có trong chữ Hán
VD1: yếu tố chính với phụ: mãi + dấu nháy = mới
VD2: âm kết hợp nghĩa: thảo + cổ = cỏ
c. Hướng dẫn tự học
Sơ lược về đặc điểm của chữ Nôm:
o Chữ Nôm là một thứ chữ của người Việt được hình thành trong cả một quá trình
phát triển lịch sử. Đây là loại văn tự được người Việt sáng tạo ra trên cơ sở một
loại văn tự khác – chữ Hán, dùng để ghi lại tiếng nói của mình.
o Chữ Nôm là một loại văn tự khối vuông.
o Chữ Nôm được xây dựng trên cơ sở chữ Hán, từ chất liệu đến phương thức cấu
tạo. Nhưng chất liệu Hán đây Hán Việt. Chữ Nôm thứ chữ ghi lại
tiếng nói của dân tộc ta thời kỳ tiếng Việt chưa có chữ ghi âm.
Theo cách nhìn của lịch sử tiếng Việt, sự mặt của chữ Nôm với cách một hệ
thống văn tự được sử dụng sớm nhất cũng phải từ đầu thế kỷ XI.
5. Sự sáng tạo chữ Quốc ngữ
“Việc sáng tác ra chữ Quốc ngữ chắc là một công cuộc chung của nhiều người, trong
đó có cả giáo sỹ Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha và Pháp Lan Tây. Nhưng người có công
nhất trong việc ấy là cha cố Alexandre de Rhodes vì chính ông là người đầu tiên đem
in những sách bằng chữ quốc ngữ, thứ nhất là một cuốn từ điển khiến cho người sau
có tài liệu mà học và nghiên cứu” (GS. Dương Quảng Hàm) Chữ Quốc ngữ xuất
hiện vào khoảng thế kỷ XVII.
Người công sáng tạo ra chữ Quốc ngcác giáo phương Tây cả những người
Việt Nam (quan trọng nhất là Alexandre de Rhodes)
Nguyên tắc cấu tạo chữ Quốc ngữ là
Mục đích ra đời của chữ Quốc ngữ là
Chữ Quốc ngữ manh nha:
o “Nuoecman”
o “Tui clom biet” / “Tui chiem biet” o “Con gno muon bau plom laom Hoalaon
chiam” a. Những người công sáng tạo chữ Quốc ngữ Các giáo
phương Tây:
o Christoforo Borri (1583 1632): sự “Xứ Đàng Trong” (1621) (Nhà Việt
Nam học đầu tiên). “Tiếng Việt phong phú về ngữ âm, do đó ngọt ngào êm
ái, giàu có về giọng và thanh, do đó du dương và hài hòa. Những ai có lỗ tai âm
nhạc để phân biệt sự đa dạng của các giọng thanh, thì theo tôi tiếng Việt
ngôn ngữ dễ nhất trong các ngôn ngữ”.
- Cacciam: Kẻ Chàm
- Quamgua: Quảng Nghĩa (Ngãi)
- Quignin: Quy Nhơn - Renran: Đà Rằng (Phú Yên) - Dàdèn Lùt:
Đã đến lụt.
o Francisco de Pina (1585 – 1625)
- Người đầu tiên dùng mẫu tự Latinh ghi âm tiếng Việt
- Thầy của Alexandre de Rhodes
- “Ngôn ngữ này là một ngôn ngữ có thanh, như nốt nhạc và điều
cần thiết là biết xướng âm nó đã, chỉ sau đó mới bắt đầu học chữ… cho đến
nay tôi vẫn phải nhờ một người đọc và ghi ra bằng mẫu tự Bồ Đào Nha, hầu
cho người của ta sau này thể đọc học thuộc lòng”. o Gaspar de Amarai
(1592 – 1645) o Antonio Barboso (1594 – 1645) o Onofre (1614 – 1663)
o Alexandre de Rhodes (1591 1660) từ điển Việt – Bồ - La được xuất bản tại
Rome năm 1651. Ông tập hợp, quy phạm hóa, hệ thống hóa chữ Quốc ngữ để
tạo cho nó một diện mạo thống nhất, năm 1651 xuất bản 3 tác phẩm:
- Phép giảng tám ngày
- Từ điển Việt – Bồ - La
+ Kế thừa: Từ đển Việt Bồ Từ điển Bồ - Việt (Antonio Barboso)
- Báo cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay tiếng Đông Kinh o Giáo
sĩ Pigneaux de Beshaine (1741 – 1799) và từ điển Việt – La (Tự vị An
Nam Latin)
- Ghi bằng cả chữ Nôm chữ Quốc ngữ, chỉ ghi tiếng Đàng
Trong
- Có 29.000 mục từ
- Không còn phụ âm kép: bl, tl, ml, pl o Giáo Jean Louis Taberd
(1794 – 1840): Từ điển Nam Việt Dương Hiệp tự vị (1838)
Người Việt Nam:
o Các sãi, thầy đò, quan lại nghỉ hưu, giáo dân, phiên dịch tiếng Latinh
o Bên cạnh đó còn có những hội truyền bá chữ Quốc ngữ: 5/1938 o Ban bình dân
học vụ Trung ương: 8/9/1945 b. Một vài nhận xét về chữ Quốc ngữ Điểm mạnh:
o Được viết theo nguyên tắc âm vị học o Dễ nhớ, đọc, in ấn, truyền bá
Điểm yếu:
o Một số âm vị biểu thị nhiều hơn một co chữ
- /k/ - c, k, q c: ca, co, cu, cam, cân k: ki, kê, ke (ci, cê, ce)
o Một số con chữ có nhiều vị trí trog âm tiếng
- VD: hoa, hao, ho…
- Ghi âm đệm, âm chính, âm cuối o Chữ viết còn dựa vào thói
quen
- VD: nước sôi, xã xôi, da thịt, ra đi, con trâu, châu chấu … o
Có tình trạng viết hai cách đều đúng
- VD: nước nước Mỹ, bánh bánh mỳ, lẽ - lẽ
Hướng dẫn tự học:
o Cha cố Alexandre de Rhodes:
- “Việc sáng tác ra chữ Quốc ngữ chắc một công cuộc chung
của nhiều người, trong đó cả giáo sỹ Tây Ban Nha, Bồ
Đào Nha và Pháp Lan Tây. Nhưng người có công nhất trong
việc ấy là cha cố Alexandre de Rhodes vì chính ông là người
đầu tiên đem in những sách bằng chữ quốc ngữ, thứ nhất
một cuốn từ điển khiến cho người sau tài liệu học và
nghiên cứu” (GS. Dương Quảng Hàm)
- Dạng chữ Quốc ngữ ngày nay chúng ta sử dụng so với
dạng chữ từ thời Alexandre de Rhodes đã nhiều thay
đổi.
+ con tlâu – con trâu
+ cá tlích – cá trích
+ tlêu ngươi – trêu ngươi
+ blái núi – trái núi
+ blát nhà – trát nhà
+ blan blở - trăn trở
o Pierre Pigneaux de Béhaine:
- Các nhà nghiên cứu lịch sử chữ Quốc ngữ chỉ ra rằng, người công lập
nên hệ thống dạng tự như ngày nay đang được sử dụng Pierre
Pigneaux de Béhaine (Bá Đa Lộc Bỉ Nhu) – tác giả soạn thảo bộ từ điển
“Tự vị Annam – Latinh”
- “Từ điển Việt La hay từ điển Annam Latinh (1772 – 1773) đánh dấu một
giai đoạn chính yếu trong việc hình thành chữ quốc ngữ, kể từ những
năm đầu thế kỷ XVII (1615 1621) cho tới 1651 với tác phẩm của
Alexandre de Rhodes. Với Bỉ Nhu, đã hoàn chỉnh lối viết chữ Quốc ngữ
như chúng ta có ngày nay, trừ một vài chi tiết không đáng kể” (Nguyễn
Khắc Xuyên) o Cộng đồng giáo dân người Việt Nam thời bấy giờ
vai trò đặc biệt quan trọng:
- Một sự kiện ngôn ngữ bao giờ cũng là kết quả của một hoạt động tính
xã hội, do đó sự xuất hiện của chữ Quốc ngữ chắc chắn sẽ là thành quả
của cộng đồng người sử dụng tiếng Việt.
- Cộng đồng giáo dân người Việt Nam lúc bấy giờ sẽ là những người chủ
yếu “cung cấp tư liệu tiếng Việt” cho những người như A. de Rhodes, P.
de Béhaine… xử lý khi xây dựng và hoàn thiện chữ Quốc ngữ.
- Cộng đồng này lực lượng duy nhất trong một thời gian khá dài sử
dụng thành quả của các nhà xây dựng và hoàn thiện chữ Quốc ngữ, do
đó chính họ những người “thẩm định” bổ túc cho sự hoàn thiện
như chúng ta có ngày nay.
CHƯƠNG II: NGỮ ÂM TIẾNG VIỆT
1. Âm tiết
1.1. Khái niệm âm tiết
Phân biệt âm tố, âm vị, âm tiết:
o Âm tố: đơn vị ngữ âm nhỏ nhất của lời nói, không thể phân nhỏ hơn (sản xuất
của tự nhiên, vô hạn, không đo được có bao nhiêu âm tố)
o Âm vị: đơn vị tối thiểu của hệ thống ngữ âm của một ngôn ngữ dùng để cấu tạo
phân biệt vỏ âm thanh của các đơn vị có nghĩa của ngôn ngữ
o Âm tiết: đơn vị phát âm nhỏ nhất của lời nói được thể hiện bằng một luồng
hơi, hạt nhân là nguyên âm, bao quanh là phụ âm và bán nguyên âm.
(Ví dụ, âm “a” được phát âm bởi những người khác nhau sẽ cho ra âm tố khác
nhau, hay từ một người phát âm ra những lúc khác nhau cũng sẽ cho ra những âm
khác nhau. cho những người khác nhau phát âm ra những âm “a” khác nhau,
nhưng khi nghe thì người nghe vẫn biết chắc chắn đó âm a”, nghĩa vẫn
đặc điểm chung nào đó giữa các âm tố này, khu biệt nó thành các đặc điểm, khi đó,
sẽ trở thành âm vị “a”. Trong câu “đò ơi cho tôi sang với” 6 âm tiết, được
nhận diện thông qua khoảng ngắt rất nhỏ, giữa những quãng ngắt đấy tạo ra 1 âm
tiết)
Khái niệm âm tiết: Là đơn vị phát âm nhỏ nhất của lời nói
1.2. Nhận diện âm tiết
Khi phát âm, âm tiết được đặc trưng bởi một sự căng lên rồi chùng xuống của thịt
trong bộ máy phát âm. (khu a # khua) Dựa vào:
o Thính giác: Luồng hơi, khoảng ngắt (nghe và xác định, mỗi khoảng ngắt tương
ứng với một âm tiết) (ví dụ, student có 2 khoảng ngắt, tương đương 2 âm tiết)
o Thị giác: Số nguyên âm (bao gồm cả nguyên âm đôi) (ví dụ, student 2 nguyên
âm, nên sẽ là 2 âm tiết)
1.3. Đặc điểm âm tiết tiếng Việt
Không chỉ đơn vị ngữ âm thuần túy, hầu hết đều mang nghĩa (bởi vì tiếng Việt là loại
hình ngôn ngữ đơn lập, tức mỗi dạng tồn tại của âm tiết đều ứng với một từ) o Từ
đơn (cấu tạo của nó chính là một âm tiết, mà để gọi là “từ” thì đương nhiên đơn vị đó
phải mang nghĩa)
o Gà qué, tre pheo… (từ ghép chứa các thành tố tưởng như mờ nghĩa nhưng truy
nguyên về từ cổ vẫn có nghĩa, các âm tiết “qué”, “pheo” vẫn có nghĩa và xuất
hiện trong các từ điển tiếng Việt cổ, nhưng theo thời gian, những từ này không
còn được sử dụng rộng rãi)
o Thẹn thùng, lạnh lẽo… (từ láy; trong các trường hợp từ láy trong tiếng Việt như
“lạnh lẽo”, “thẹn thùng”, 1 trong 2 yếu tố đó tưởng như không nghĩa, nhưng
vẫn sẽ có một nét nghĩa lâm thời trong trường hợp sử dụng đó để khu biệt nghĩa
của từ chứa với từ không chứa nó, nên âm tiết đó vẫn nghĩa, dụ như
lạnh # lạnh lẽo, lạnh # lạnh lùng)
o Đủng đỉnh, nhìn, cà phê (đủng đỉnh: từ láy cả 2 thành tố đều không mang
nghĩa; cà phê, bù nhìn: tổ hợp 2 thành tố ngẫu nhiên không mang nghĩa. Trong
sự tri nhận của người Việt, chúng ta hoàn toàn chấp nhận cách nói “đủng đủng
đỉnh đỉnh”, “đủng đà đủng đỉnh”, cà phê phê”, phê pháo”. Lúc bấy
giờ, các yếu tố này trong một trường hợp lâm thời nào đó hoàn toàn thể tách
ra đứng độc lập người ta hiểu nó như một đơn vị mang nghĩa độc lập. Như
vậy, lúc này, trong sự tri nhận của người Việt, nghĩa của âm tiết lúc này trở
thành nghĩa lâm thời, được chấp nhận)
Trùng với hình vị (hình vị là đơn vị cấu tạo nên từ, là đơn vị nhỏ
nhất có nghĩa, có thể là nét nghĩa về từ vựng hoặc đặc điểm ngữ
pháp, dụ “books” 2 hình vị “book” từ vựng “s”
ngữ pháp) (hiện tượng này chỉ xuất hiện trong các loại hình ngôn
ngữ đơn lập) o Âm tiết tiếng Việt = hình vị hình tiết o Books:
hình vị “s”, không có âm tiết “s” (không trùng) o Những quyển
sách: 3 hình vị, 3 âm tiết o Hình tiết: Hình vị hình thức của
một âm tiết
Tách, ngắt rõ ràng, không nối âm o Cá mú # cám ú
Ổn định về cấu trúc: 2 bậc, 5 thành phần o 2 bậc:
- Bậc 1:
+ Âm đầu, vần và thanh điệu Cấu tạo nên âm tiết
+ Quan hệ lỏng: dễ dàng tháo rời 3 bộ phận và hoán đổi vị trí của
thanh điệu với hai vị trí âm đầu vần, đảo âm đầu của âm tiết
này để ghép với vần của âm tiết kia và ngược lại
+ Minh chứng: hiện tượng láy (long lanh, lấp lánh – đu đủ), nói lái
(tiền đâu – đầu tiên), hiệp vần (thơ con cóc), “iếc” hóa (bàn biếc
gì mà lung tung thế này)
- Bậc 2:
+ Các yếu tố tạo thành bộ phận vần của âm tiết
+ Âm đệm, âm chính, âm cuối Quan hệ chặt (nhưng vẫn trường
hợp có thể phá vỡ, chẳng hạn như “đèm đẹp”)
+ Minh chứng: cách đánh vần mới
o Cấu trúc âm tiết tiếng Việt:
Bậc 1: lỏng
Bậc 2: chặt
Thanh điệu được vẽ trên sơ đồ trải dài trên toàn bộ âm tiết vì thanh điệu được xem là
một âm vị, được gọi “âm vị siêu đoạn tính”. Mỗi âm vị sẽ nh chất khúc đoạn
khác nhau, nhưng riêng thanh điệu thì khác. dụ, trong âm toán”, sở âm này được
đọc “toán” thanh điệu của âm này, tức thanh sắc không chỉ chi phối lên âm
“o”, “a” mà còn chi phối cả âm đầu “t” âm cuối “n”. Người ta gọi thanh điệu
“âm vị siêu đoạn tính” thanh điệu không có tính chất khúc đoạn giống các âm vị còn
lại.
Bài tập: Mô hình hóa một số âm tiết o Mùa
\
m
ua
zero
ua
zero
o Xuân
không dấu / thanh
ngang
x
uân
u
â
n
o Đẹp
Thanh điệu
(1)
(2)
Âm đầu
Vần
(3)
Âm đệm
(4)
Âm chính
(5)
Âm cuối
Âm tiết
tiếng Việt
Âm đầu
Vần
Âm đệm
Âm
chính
Âm cuối
Thanh
.
đ
ep
zero
e
p
o Lắm
/
l
ăm
zero
ă
m
o Nhé
/
nh
e
zero
e
zero
o Thúy
/
th
uy
u
y
zero
Bài tập: Phân tích cấu trúc âm tiết của một số âm tiết sau:
Âm tiết
Âm đầu
Âm đệm
Âm chính
Âm cuối
Thanh
hoãn
<h>
<o>
<a>
<n>
ngã
oan
tth
<o>
<a>
<n>
ngang
hàn
<h>
zero
<a>
<n>
huyền
hả
<h>
zero
<a>
zero
hỏi
Bài tập: Phân tích cấu trúc âm tiết của một số âm tiết sau:
Âm tiết
Âm đầu
Âm đệm
Âm chính
Âm cuối
Thanh
U
/ /ʔ
/zero/
/u/
/zero/
1
Già
/z/
/zero/
/a/
/zero/
2
Uể
/ /ʔ
/w/
/e/
/zero/
4
Oải
/ /ʔ
/ /ɔ
/a/
/j/
4
Uống
/ /ʔ
/zero/
/uo/
/ŋ/
5
Rượu
/ /ʐ
/zero/
/ɯɤ/
/w/
6
Ngoan
/ŋ/
/ /ɔ
/a/
/n/
1
2. Cấu trúc âm tiết
2.1. Hệ thống thanh điệu
Khái niệm: Là sự nâng cao hoặc hạ thấp “giọng nói”
trong một âm tiết, có tác dụng khu biệt vỏ âm thanh
của từ hoặc hình vị khiến cho nghĩa của các từ này
khác nhau.
Thanh điệu là âm vị siêu đoạn tính được biểu hiện trên toàn âm tiết.
Số lượng thanh điệu: 6 o Thanh 1: Ngang o Thanh
2: Huyền o Thanh 3: Ngã o Thanh 4: Hỏi
o Thanh 5: Sắc o
Thanh 6: Nặng
Tiêu chí khu biệt thanh điệu:
o Âm vực: Độ cao tương đối của âm thanh o Âm điệu: Sự biến
thiên của cao độ trong thời gian
o Đường nét: Sự đơn thuần / phức tạp, đổi hướng / không đổi,
gãy / không gãy Các nét khu biệt của thanh điệu: o Âm vực:
- la – lã – lá: cao
- là – lả - lạ: thấp o Âm điệu:
- la – là: bằng
- lã – lả - lá – lạ: trắc o Đường nét:
- lã – lả: gãy
- la – là – lá – lạ: không gãy
Ngã: cao – trắc – gãy
Sắc: cao – trắc – không gãy
Ngang: cao – bằng – không gãy
Hỏi: thấp – trắc – gãy
Huyền: thấp – bằng – không
Nặng: thấp – trắc – không
Miêu tả 6 thanh điệu tiếng Việt theo 3 tiêu
chí:
Thanh
Âm vực
Âm điệu
Đường nét
1 (ngang / không)
cao
bằng
không gãy
2 (huyền)
thấp
bằng
không gãy
3 (ngã)
cao
trắc
gãy
4 (hỏi)
thấp
trắc
gãy
5 (sắc)
cao
trắc
không gãy
6 (nặng)
thấp
trắc
không gãy
Phân bố thanh điệu trong các kiểu âm tiết: o ma mà – mã mả - má – mạ o moi –
mòi – mõi – mỏi – mói – mọi o han – hàn – hãn – hản – hán – hạn o hat – hàt – hãt –
hảt – hát – hạt
T1, T2, T3, T4 không phân bố trong âm tiết kết thúc bằng phụ âm tắc thanh /p/,
/t/, /k/ (một phần âm điệu trở thành một khoảng im lặng, làm cho trường độ của âm tiết
ngắn lại, đặc thù của các T1234 tương đối phức tạp nên cần một khoảng thời gian thích
đáng để thể thể hiện hết cái đặc thù đó). Âm tiết mở kết thúc bằng nguyên âm
nửa mở kết thúc bằng bán nguyên âm nửa khép / nửa đóng kết thúc bằng các phụ
âm /m/, /n/, /ng/ xuất hiện đủ 6 thanh điệu.
+ Âm tiết khép (kết thúc /p/, /t/, /k/): Sự thể hiện âm điệu bị hạn chế một phần
trường độ của âm tiết về cuối là một khoảng im lặng

Preview text:

STT: 30
CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT VỀ SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA TIẾNG VIỆT
1. Các phương pháp cơ bản trong so sánh ngôn ngữ
a. Phương pháp so sánh loại hình
• Là phương pháp nghiên cứu hướng vào hiện tại (tại một thời điểm), vào hoạt động của
kết cấu ngôn ngữ để tìm hiểu những cái giống nhaukhác nhau trong kết cấu của
hai hoặc nhiều ngôn ngữ.
(Lưu ý: Kết cấu của ngôn ngữ là ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp – bộ khung của ngôn ngữ.
Về phương pháp so sánh loại hình này, có thể lấy ví dụ như sau: Tiếng Anh, Nga, Pháp
giống nhau về mặt phát âm, có sự biến đổi về vỏ âm thanh; trong tiếng Việt, Hán, Thái,
khi các từ kết hợp với nhau, nó không sự biến đổi về mặt kết cấu về mặt ngữ âm, tôi
đang học – đã học – sẽ học – sắp học – mới học, thì động từ “học” không có sự biến
đổi về vỏ ngữ âm; nhưng trong tiếng Anh, để biểu thị thời của hành động, bản thân từ
“học” sẽ có sự biến đổi. Ở đây, người ta nghiên cứu theo phương pháp này để tìm thấy
được cái giống và khác nhau của hai hoặc nhiều ngôn ngữ dưới góc độ ngữ âm, từ
vựng, ngữ pháp, sau đó sẽ nhóm chúng ra thành một nhóm, mỗi nhóm sẽ được đặt một
tên gọi, và tên gọi của nhóm đó hàm chứa những đặc điểm cơ bản nhất của nhóm đó.
Các điểm chung là cái cơ sở để xếp các ngôn ngữ vào một nhóm, còn điểm riêng là tiêu
chí để phân biệt các ngôn ngữ trong một nhóm)
• Phân loại các ngôn ngữ theo loại hình: (Người ta lấy một đơn vị cơ sở trong ngôn ngữ
là “từ”, nghiên cứu ngôn ngữ theo góc độ loại hình. Nghĩa là, người ta nghiên cứu từ
bình diện rồi tìm ra điểm giống và khác nhau, từ đó, người ta phân ra được 4 loại hình
ngôn ngữ) o Đơn lập: Tiếng Việt (từ không biến đổi hình thái ngữ âm) o Chắp dính:
Tiếng Nhật (từ / các yếu tố cấu tạo từ dính với nhau) o Hòa kết / biến hình: Tiếng Anh,
Nga, Pháp (ý nghĩa từ vựng và ngữ pháp hòa vào nhau, vỏ ngữ âm có sự biến đổi)
o Đa tổng hợp: chiếm tương đối ít, 5% trong số 6000 ngôn ngữ; vừa giống biến
hình vừa giống chắp dính
b. Phương pháp so sánh đối chiếu
• Là phương pháp tìm điểm giống nhau và khác nhau của các ngôn ngữ về mặt kết cấu.
Trong đó, một ngôn ngữ là trung tâm chú ý còn ngôn ngữ kia là phương tiện nghiên
cứu. Phương pháp so sánh đối chiếu được vận dụng vào trong các bộ môn ngôn ngữ
học ứng dụng như biên soạn các từ điển song ngữ, phiên dịch, dạy và học ngoại ngữ.
c. Phương pháp so sánh lịch sử (trọng tâm)
• Là một hệ thống các thủ pháp phân tích được dùng trong việc nghiên cứu các ngôn
ngữ thân thuộc nhằm phát hiện quy luật phát triển kết cấu của chúng kể từ các âm và
các dạng thức cổ nhất đã được phục nguyên.
Xác định quan hệ cội nguồn của ngôn ngữ, quá trình phát triển của một ngôn ngữ như thế nào.
• Cách thực hiện phương pháp so sánh lịch sử:
o Chọn sự kiện (từ, hình vị) o Xác định niên đại và phục nguyên o Xác
định mức độ thân thuộc Xác định phả hệ ngôn ngữ Những lưu ý khi so sánh lịch sử:
o Xem xét trên: ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp o Tìm sự tương ứng có quy luật
o Loại bỏ từ cảm thán, từ tượng thanh, từ trùng âm ngẫu nhiên, từ vay mượn,
từ do kết quả tiếp xúc NN (a) NN4 NN (b) NN1 NN5 NN (c) NN6 NN7 NGÔN NGỮ MẸ / CƠ SỞ NN2 NN8 NN9 NN10 NN3 NN11
• Phả hệ ngôn ngữ: Ngữ hệ / họ Nhánh / dòng Nhóm / chi Ngôn ngữ Xác định
quan hệ họ hàng của ngôn ngữ theo các trật tự:
o Trật tự từ gần đến xa: Nhóm ngôn ngữ - nhánh ngôn ngữ - họ ngôn ngữ o
Trật tự từ xa đến gần: Họ ngôn ngữ - nhánh ngôn ngữ - nhóm ngôn ngữ
Điều kiện xác định cội nguồn ngôn ngữ: o Tính võ đoán
o Khảo sát từ vựng cơ bản (Từ vựng cơ bản?) o Quy luật, hệ thống
• Cơ sở phân loại ngôn ngữ theo cội nguồn:
o Khả năng chia tách từ một ngôn ngữ mẹ o Tính võ đoán o Biến đổi có tính hệ thống
o Biến đổi ngữ âm: quy luật, hệ thống, có lý do Lớp từ vựng cơ bản:
o Những từ có từ rất sớm trong lịch sử hình thành một ngôn ngữ - tộc người
nhất định, là tên gọi của những thứ không thể không có, thường xuyên
được thấy, được sử dụng trong đời sống ngôn ngữ - tộc người đó. o Bao gồm:
- Chỉ bộ phận cơ thể người.
- Những hiện tượng tự nhiên thường gặp.
- Chỉ quan hệ họ hàng thân thuộc của con người.
- Chỉ hoạt động, trạng thái cơ bản của người, động vật, tự nhiên.
- Tên gọi của động, thực vật gần gũi nhất với đời sống con người.
• So sánh từ vựng tiếng Việt với tiếng Mường: Việt ba bốn bảy bay gạo gái gà Mường pa pốn pảy păn cáo cải ca Việt măng mắm muối may trèo trả tre Mường băng bẳm bối băl tleo tlả tle
o Sự tương quan gần như hoàn toàn giữa lớp từ vựng cơ bản giữa tiếng Việt và tiếng Mường.
o Sự khác biệt âm đầu mang tính quy luật: b – p, g – k, m – b, tr – tl.
Quan hệ thân thuộc giữa tiếng Việt và tiếng Mường.
2. Nguồn gốc của tiếng Việt
a. Các khái niệm cơ bản
• Ngữ hệ (họ) ngôn ngữ: Là một tập hợp nhiều ngôn ngữ mà giữa chúng có thể xác lập
được những nét chung cho phép giải thích chúng cùng dẫn xuất từ một dạng thức cội
nguồn
theo những quy luật nhất định.
• Nhánh (dòng / ngành) ngôn ngữ: Là một bộ phận của họ ngôn ngữ nhất định bao gồm
những ngôn ngữ có những nét giống nhau nhiều hơn một nhánh khác trong cùng một họ.
• Nhóm (chi) ngôn ngữ: Là những bộ phận ngôn ngữ nằm trong mỗi nhánh có sự gần
gũi nhau nhiều hơn so với những ngôn ngữ nằm trong nhóm khác của cùng một nhánh.
• Phương ngữ: Là những vùng khác nhau của một ngôn ngữ, có những nét riêng khiến
vùng đó ít nhiều khác biệt với những vùng phương ngữ khác.
• Thổ ngữ: Gồm những biến thể của một ngôn ngữ được dùng ở một địa phương nhỏ
hẹp trong một vùng phương ngữ nhất định. o Ví dụ: Thổ ngữ của tiếng Quảng Nam:
- “ăn” thành “en”: muối mặn – muối mẹn -
“ắt” thành “éc”: tắt đèn –
téc đèn, xe lắc – xa léc.
- “am” thành “ôm”: làm – lồm.
- Núa rứa lồm reng cho lột tưa hén (Nói làm sao cho lọt tai hắn)
- Hộp hùa, nghe lang ác (Họp hoài, nghe long óc)
b. Các ngữ hệ ngôn ngữ lớn trong khu vực địa ngôn ngữ Đông Nam Á
• Tiếng Việt thuộc ngữ hệ / họ Nam Á, nhánh Môn – Khmer, chi / nhóm Việt Mường. o Nhánh Môn – Khmer: - Quan trọng nhất - Phân bố rộng
- Bảo tồn tiếng Nam Á cổ đại (đơn tiết, không thanh) o Nhóm Việt – Mường:
- Quan hệ cội nguồn nhất của tiếng Việt 5 ngữ hệ trên lãnh thổ Việt Nam:
o Thái – Ka đai: Thái, Tày, Nùng, Giáy, Lự, Bố Y o Hán Tạng: Hoa, Sán
Chỉ, Sán Dìu, Lô Lô, Phù Lá, La Thủ, Hà Nhì, Ngái o Nam Á: Việt,
Mường, Cuối, Chứt, A Rem, Mã Liềng, A Hêu o Nam Đảo: Chăm, Chơ
Ru, Ê Đê, Gia Rai, Raglai o Mông – Dao: Hmong, Na Mèo, Dao, Pà Thẻn
5 ngữ hệ lớn trên thế giới:
o Ấn Âu: Châu Âu, Ấn Độ o Hán Tạng: Tây Tạng, Đông Á, Đông Nam Á
lục địa o Nam Á: Đông Nam Á lục địa o Nam Đảo: Tây, Bắc, Đông
Indonesia o Sê mít: Trung Đông, Ả rập Xê-út, Châu Phi c. Các giả thuyết
về nguông gốc Tiếng Việt:
• Không xếp tiếng Việt vào họ Nam Á:
o Tiếng Việt thuộc họ Hán Tạng:
- Là một nhánh bị thoái hóa của tiếng Hán (Ý kiến của Taberd –
1838: “Tiếng Việt chỉ là một nhánh bị thoái hóa của tiếng Hán”)
+ Về từ vựng: Nhiều từ gốc Hán, chiếm tỷ lệ trên 70% (ý kiến của
Cao Xuân Hạo); ví dụ: bác sỹ, thân thể, buồng / phòng, mùi
/ vị, mùa /vụ, mồ / mả / mộ
+ Về ngữ âm: Tiếng Hán và tiếng Việt đều có thanh điệu, biến đổi
theo quy luật (Số lượng thanh điệu tiếng Việt hiện nay gần tương ứng với hệ
thống tứ thanh của tiếng Hán thời Đường, đều có thanh điệu) - Phản biệt giả thuyết:
+ Lớp từ Hán – Việt chủ yếu là từ văn hóa.
+ Tiếng Việt là một ngôn ngữ không có thanh điệu ở giai đoạn tiền
Việt Mường (xuất hiện thế kỷ VI)
o Tiếng Việt thuộc họ Thái:
- Ý kiến thứ 2, đáng chú ý hơn cả, cho rằng tiếng Việt là một ngôn ngữ
thuộc họ ngôn ngữ Thái. Cần phải nói ngay rằng, trong số những ý kiến
không xếp tiếng Việt vào họ ngôn ngữ Nam Á thì cách lí giải cho ý kiến
này có vai trò quan trọng nhất.
- 1912, H. Maspero: “Nghiên cứu về ngữ âm lịch sử tiếng Việt. Những phụ âm đầu”
+ Nhiều từ vựng cơ bản lẫn từ gốc Thái.
+ Về từ vựng: tiếng Việt có nguồn gốc với các ngôn ngữ Môn –
Khmer lẫn các ngôn ngữ Thái. Môn – Khmer Thái Trăng, mưa, gió, nước Móc (sương mù) mùa Rú, sông
Đồng, rẫy, mỏ (đầu nguồn nước) Mắt, chân
Lưng, bụng, ức, cằm, bi Lúa, chim Gạo, gà, vịt
- H. Maspero đã so sánh 185 từ tiếng Việt với các ngôn ngữ Môn Khmer và ngôn ngữ Thái:
+ Về từ vựng: Có 87 từ tương ứng với các ngôn ngữ Môn Khmer
và 98 từ còn lại tương ứng với các ngôn ngữ Thái.
+ Theo khảo sát sau này thì chỉ có 39 từ tương ứng với các ngôn
ngữ Môn Khmer và 21 từ tương ứng với các ngôn ngữ Thái là
những từ thuộc lớp từ cơ bản của tiếng Việt.
- H. Maspero kết luận: “Tiếng tiền Việt đã sinh ra từ một sự hỗn hòa của
một phương ngữ Môn – Khmer, một phương ngữ Thái và có thể của cả
một ngôn ngữ thứ ba còn chưa biết, rồi sau đó tiếng Việt đã vay mượn
một số lượng lớn những từ Hán. Nhưng cái ngôn ngữ có ảnh hưởng
quyết định để tạo ra cho tiếng Việt trạng thái của nó là chắc chắn theo ý
tôi
, một ngôn ngữ Thái, và vì thế tôi nghĩ rằng, tiếng Việt phải được xếp vào họ Thái”.
- A.G Haudricourt phản biệ giả thuyết của Maspero:
+ Từ vựng cơ bản, quan hệ Việt – Môn Khmer xa xưa hơn, hệ thống
hơn quan hệ Việt – Thái.
+ Những từ Maspero cho là của Thái thực chất vay mượn từ Môn – Khmer.
+ Tiếng Việt không có thanh điệu ở giai đoạn tiền Việt – Mường.
- Về từ vựng: tiếng Việt có nguồn gốc gần gũi với các ngôn ngữ Môn –
Khmer lẫn các ngôn ngữ Thái
+ Hệ số đếm, các từ chỉ thiên nhiên, tên súc vật, cây cỏ, các từ liên
quan đến người, cách ăn ở phần lớn là Môn – Khmer. Nhưng
không có loạt nào trọn vẹn cả và trong tất cả các loạt đều có một
số từ ít nhiều gốc Hán.
+ Những từ tiếng Việt chỉ bộ phận cơ thể người có nguồn gốc Môn – Khmer
+ Những từ tiếng Việt chỉ bộ phận cơ thể người có nguồn gốc Thái
- Về ngữ pháp: Tiếng Việt gần với tiếng Thái và khác rất xa với các ngôn
ngữ Môn – Khmer hiện nay bởi các tiếng Môn – Khmer có cơ sở sơ sài
về hình thái học, trong khi đó tiếng Việt là một ngôn ngữ không có giá trị hình thái học.
- Về thanh điệu: Với Maspero, thanh điệu tiếng Việt là một vấn đề quan
trọng vì tiếng Việt hiện nay là một ngôn ngữ cũng có thanh điệu như các
ngôn ngữ Thái và Hán. Trong khi đó, cho đến nay, các ngôn ngữ Môn –
Khmer vẫn là các ngôn ngữ không có thanh điệu. o Tiếng Việt thuộc họ Tam Đảo:
- Tác giả Bình Nguyên Lộc, tác phẩm “Nguồn gốc Mã Lai của dân tộc Việt Nam”
- Phản biện giả thuyết của Bình Nguyên Lộc:
+ Coi tất cả các ngôn ngữ có mặt ở Đông Nam Á thuộc một họ ngôn ngữ, họ Mã Lai.
+ Chưa phân biệt lớp từ cơ bản và lớp từ văn hóa.
+ Chưa xác định tính đều đặn của quy luật ngữ âm.
Xếp tiếng Việt thuộc họ Nam Á:
o A.G Haudricourt với các tác phẩm:
- “Vị trí của tiếng Việt trong các ngôn ngữ Nam Á” (1953)
- “Về nguồn gốc các thanh điệu của tiếng Việt” (1954)
- “Giới hạn và nối kết của ngôn ngữ Nam Á ở Đông Bắc” (1966)
Ông đề nghị phải xếp tiếng Việt vào họ ngôn ngữ Nam Á. Và đến bây giờ,
đây là quan điểm nhận được nhiều sự đồng tình nhất. Từ lập luận của ông, ta có
thể rút ra được những cơ sở để xác định nguồn gốc của tiếng Việt.
o Về từ vựng: A.G Haudricourt đã chứng minh:
- Sau khi tiến hành khảo sát lại nhóm từ chỉ các bộ phận cơ thể trong tiếng
Việt mà Maspero đã dẫn ra để làm chứng cứ trong công trình so sánh
của ông, Haudricourt đã chỉ ra rằng nhóm từ ấy về cơ bản là những từ
thuộc về Môn – Khmer, chứ không phải là vừa gốc Thái và gốc Môn –
Khmer như Maspero đã chỉ ra.
- Từ chỉ cơ thể người tương ứng, đều đặn, trọn vẹn với các ngôn ngữ Môn Khmer.
- Còn lưu giữ vết tích của hiện tượng biến đổi hình thái cổ xưa.
Các ngôn ngữ Môn – Khmer Các ngôn ngữ Thái Việt Mường Phong Bana Môn Thái Dioi Sui Trốc Klok Klok Kol Khup Hruo Tóc Thak Suk Sok Sok Phrom Mắt Mat Mat Mat Mat Ta/tha Ta Da Mũi Mui Muic Muh Muh Dan Dan Miệng Meng Meng Bơr Pàk Pàk Pàk Lưỡi Lai Laic Lpiet Lin Ma Răng Kneng Nek Khew Hew Cằm Kăng Kăng Kang Gàng Hàng Mya Việt Lúa Gạo Mường, Phong Alo Kao Bana Ba Phe Mnông Ba Phe Khmer Srù Ngka Môn Sro Sngu Khmu Ngo Mgko Khasi Kba Khau Kuy Alo Aso Việt Môn Khmer Bana Rơngao Stiêng Khạ Chân Jơng Jơng Jơng Jeng Zơn Sen Cằm Dgăm Kang Kan Găm Kăp Mặt Măt Măt Măt Măt Măt Mũi Muh Muh Muh Muh Muh Mu Tóc Sok Săk Sok Sâk Sok o Về ngữ pháp:
- Cụ thể là vấn đề cấu tạo từ bằng phương thức phụ tốt. Hiện nay, người
ta vẫn nhận thấy dấu vết của phương thức này.
- Ví dụ: giết – chết: xát hóa – giết o Về ngữ âm:
- Thanh điệu chịu sự chi phối của âm tiết kết thúc (giống nhiều ngôn ngữ Môn – Khmer).
- Giữa thanh điệu và phụ âm đầu có liên quan chặt chẽ đến nhau theo
hướng các phụ âm đầu tắc vô thanh tương ứng với một thanh có âm vực
cao, còn những phụ âm đầu hữu thanh thì tương ứng với thanh điệu có âm vực thấp.
- Thanh điệu tiếng Việt có sự tương ứng với cách kết thúc âm tiết:
+ Hai thanh ngang – huyền: âm tiết mở
+ Hai thanh hỏi – ngã: âm cuối xát
+ Hai thanh sắc – nặng: âm cuối tắt yết hầu
- Chứng minh những ngôn ngữ gốc Nam Á ban đầu không có thanh điệu.
Thanh điệu trong lịch sử tiếng Việt
Đầu công nguyên Thế kỷ VI (3 Thế kỷ XII Ngày nay (không thanh) thanh) (6 thanh) Pa Pa Pa Ba Sla, hla Hla La La Ba Ba Pà Bà La La Là Là Pas, pah Pà Pả Bả Slas, hlah Hlà Lả Lả Bas, bah Bà Pã Bã Las, lah Là Lã Lã
Lớp từ vựng tiếng Việt được hợp thành từ những nguồn: o
Nam Á (trốc, chị, gái, bốn)
o Nam Đảo (đường, bụi, gục, ngó, kia, mãi, này) o Thái (bơi lội,
chó , chia chác, mặt nạ, mưa phùn, súng ống) o Hán (thảo
mộc, bác sỹ, giang sơn, mỹ nhân) o Ấn – Âu (cà rốt, ship pơ, chào, mít tinh, ban công)
3. Phân kỳ lịch sử phát triển của tiếng Việt
Proto Việt (Việt – Mường) Văn ngôn: Việt, Hán cổ 1 VIII – IX Văn tự: Hán Văn ngôn: Việt, Hán 2
Tiếng Việt tiền cổ X – XII Văn tự: Hán Văn ngôn: Việt, Hán 3
Tiếng Việt cổ XIII - XVI Văn tự: Hán, Nôm
Tiếng Việt trung đại XII – Văn ngôn: Việt, Hán 4 nửa đầu XIX
Văn tự: Hán, Nôm, Quốc ngữ
Văn ngôn: Việt, Hán, Pháp
Tiếng Việt cận đại XIX - 5 1945 Văn tự: Hán, Nôm, Pháp, Quốc ngữ
Tiếng Việt hiện đại 1945 trở Văn ngôn: Việt 6 lại đây Văn tự: Quốc ngữ
4. Sự hình thành chữ Nôm
a. Thời điểm xuất hiện
• Manh nha từ thế kỷ VIII đến thế kỷ IX.
• Hình thành và hoàn chỉnh từ thế kỷ X đến XII. b. Cấu tạo chữ Nôm
• Hình thành bằng con đường mô phỏng và cấu tạo theo nguyên tắc chữ Hán: Vay mượn y nguyên từ chữ Hán:
o Sử dụng cả mặt âm và nghĩa
VD: từ “tài”, “mệnh” o
Sử dụng mặt âm hoặc ngữ
VD: chữ “biệt” ghi âm “biết”, chữ “trảo” ghi nghĩa “vuốt”
• Người Việt tự sáng tạo: ghép những yếu tố vốn có trong chữ Hán
VD1: yếu tố chính với phụ: mãi + dấu nháy = mới
VD2: âm kết hợp nghĩa: thảo + cổ = cỏ c. Hướng dẫn tự học
• Sơ lược về đặc điểm của chữ Nôm:
o Chữ Nôm là một thứ chữ của người Việt được hình thành trong cả một quá trình
phát triển lịch sử. Đây là loại văn tự được người Việt sáng tạo ra trên cơ sở một
loại văn tự khác – chữ Hán, dùng để ghi lại tiếng nói của mình.
o Chữ Nôm là một loại văn tự khối vuông.
o Chữ Nôm được xây dựng trên cơ sở chữ Hán, từ chất liệu đến phương thức cấu
tạo. Nhưng chất liệu Hán ở đây là Hán – Việt. Chữ Nôm là thứ chữ ghi lại
tiếng nói của dân tộc ta thời kỳ tiếng Việt chưa có chữ ghi âm.
• Theo cách nhìn của lịch sử tiếng Việt, sự có mặt của chữ Nôm với tư cách là một hệ
thống văn tự được sử dụng sớm nhất cũng phải từ đầu thế kỷ XI.
5. Sự sáng tạo chữ Quốc ngữ
“Việc sáng tác ra chữ Quốc ngữ chắc là một công cuộc chung của nhiều người, trong
đó có cả giáo sỹ Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha và Pháp Lan Tây. Nhưng người có công
nhất trong việc ấy là cha cố Alexandre de Rhodes vì chính ông là người đầu tiên đem
in những sách bằng chữ quốc ngữ, thứ nhất là một cuốn từ điển khiến cho người sau
có tài liệu mà học và nghiên cứu” (GS. Dương Quảng Hàm) Chữ Quốc ngữ xuất
hiện vào khoảng thế kỷ XVII.
Người có công sáng tạo ra chữ Quốc ngữ là các giáo sĩ phương Tây và cả những người
Việt Nam (quan trọng nhất là Alexandre de Rhodes)
Nguyên tắc cấu tạo chữ Quốc ngữ là
Mục đích ra đời của chữ Quốc ngữ là Chữ Quốc ngữ manh nha: o “Nuoecman”
o “Tui clom biet” / “Tui chiem biet” o “Con gno muon bau plom laom Hoalaon chiam” a.
Những người có công sáng tạo chữ Quốc ngữ Các giáo sĩ phương Tây:
o Christoforo Borri (1583 – 1632): Ký sự “Xứ Đàng Trong” (1621) (Nhà Việt
Nam học đầu tiên). “Tiếng Việt phong phú về ngữ âm, do đó ngọt ngào và êm
ái, giàu có về giọng và thanh, do đó du dương và hài hòa. Những ai có lỗ tai âm
nhạc để phân biệt sự đa dạng của các giọng và thanh, thì theo tôi tiếng Việt là
ngôn ngữ dễ nhất trong các ngôn ngữ”. - Cacciam: Kẻ Chàm
- Quamgua: Quảng Nghĩa (Ngãi)
- Quignin: Quy Nhơn - Renran: Đà Rằng (Phú Yên) - Dàdèn Lùt: Đã đến lụt.
o Francisco de Pina (1585 – 1625)
- Người đầu tiên dùng mẫu tự Latinh ghi âm tiếng Việt
- Thầy của Alexandre de Rhodes
- “Ngôn ngữ này là một ngôn ngữ có thanh, như nốt nhạc và điều
cần thiết là biết xướng âm nó đã, chỉ sau đó mới bắt đầu học chữ… cho đến
nay tôi vẫn phải nhờ một người đọc và ghi ra bằng mẫu tự Bồ Đào Nha, hầu
cho người của ta sau này có thể đọc và học thuộc lòng”. o Gaspar de Amarai
(1592 – 1645) o Antonio Barboso (1594 – 1645) o Onofre (1614 – 1663)
o Alexandre de Rhodes (1591 – 1660) và từ điển Việt – Bồ - La được xuất bản tại
Rome năm 1651. Ông tập hợp, quy phạm hóa, hệ thống hóa chữ Quốc ngữ để
tạo cho nó một diện mạo thống nhất, năm 1651 xuất bản 3 tác phẩm: - Phép giảng tám ngày
- Từ điển Việt – Bồ - La
+ Kế thừa: Từ đển Việt – Bồ và Từ điển Bồ - Việt (Antonio Barboso)
- Báo cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay tiếng Đông Kinh o Giáo
sĩ Pigneaux de Beshaine (1741 – 1799) và từ điển Việt – La (Tự vị An Nam Latin)
- Ghi bằng cả chữ Nôm và chữ Quốc ngữ, chỉ ghi tiếng Đàng Trong - Có 29.000 mục từ
- Không còn phụ âm kép: bl, tl, ml, pl o Giáo sĩ Jean Louis Taberd
(1794 – 1840): Từ điển Nam Việt Dương Hiệp tự vị (1838) Người Việt Nam:
o Các sư sãi, thầy đò, quan lại nghỉ hưu, giáo dân, phiên dịch tiếng Latinh
o Bên cạnh đó còn có những hội truyền bá chữ Quốc ngữ: 5/1938 o Ban bình dân
học vụ Trung ương: 8/9/1945 b. Một vài nhận xét về chữ Quốc ngữ Điểm mạnh:
o Được viết theo nguyên tắc âm vị học o Dễ nhớ, đọc, in ấn, truyền bá Điểm yếu:
o Một số âm vị biểu thị nhiều hơn một co chữ
- /k/ - c, k, q c: ca, co, cu, cam, cân k: ki, kê, ke (ci, cê, ce)
o Một số con chữ có nhiều vị trí trog âm tiếng - VD: hoa, hao, ho…
- Ghi âm đệm, âm chính, âm cuối o Chữ viết còn dựa vào thói quen
- VD: nước sôi, xã xôi, da thịt, ra đi, con trâu, châu chấu … o
Có tình trạng viết hai cách đều đúng
- VD: nước Mĩ – nước Mỹ, bánh mì – bánh mỳ, lí lẽ - lý lẽ Hướng dẫn tự học:
o Cha cố Alexandre de Rhodes:
- “Việc sáng tác ra chữ Quốc ngữ chắc là một công cuộc chung
của nhiều người, trong đó có cả giáo sỹ Tây Ban Nha, Bồ
Đào Nha và Pháp Lan Tây. Nhưng người có công nhất trong
việc ấy là cha cố Alexandre de Rhodes vì chính ông là người
đầu tiên đem in những sách bằng chữ quốc ngữ, thứ nhất là
một cuốn từ điển khiến cho người sau có tài liệu mà học và
nghiên cứu” (GS. Dương Quảng Hàm)
- Dạng chữ Quốc ngữ mà ngày nay chúng ta sử dụng so với
dạng chữ có từ thời Alexandre de Rhodes đã có nhiều thay đổi. + con tlâu – con trâu + cá tlích – cá trích
+ tlêu ngươi – trêu ngươi + blái núi – trái núi + blát nhà – trát nhà + blan blở - trăn trở
o Pierre Pigneaux de Béhaine:
- Các nhà nghiên cứu lịch sử chữ Quốc ngữ chỉ ra rằng, người có công lập
nên hệ thống dạng ký tự như ngày nay đang được sử dụng là Pierre
Pigneaux de Béhaine (Bá Đa Lộc Bỉ Nhu) – tác giả soạn thảo bộ từ điển
“Tự vị Annam – Latinh”
- “Từ điển Việt La hay từ điển Annam Latinh (1772 – 1773) đánh dấu một
giai đoạn chính yếu trong việc hình thành chữ quốc ngữ, kể từ những
năm đầu thế kỷ XVII (1615 – 1621) cho tới 1651 với tác phẩm của
Alexandre de Rhodes. Với Bỉ Nhu, đã hoàn chỉnh lối viết chữ Quốc ngữ
như chúng ta có ngày nay, trừ một vài chi tiết không đáng kể” (Nguyễn
Khắc Xuyên) o Cộng đồng giáo dân người Việt Nam thời bấy giờ có
vai trò đặc biệt quan trọng:
- Một sự kiện ngôn ngữ bao giờ cũng là kết quả của một hoạt động có tính
xã hội, do đó sự xuất hiện của chữ Quốc ngữ chắc chắn sẽ là thành quả
của cộng đồng người sử dụng tiếng Việt.
- Cộng đồng giáo dân người Việt Nam lúc bấy giờ sẽ là những người chủ
yếu “cung cấp tư liệu tiếng Việt” cho những người như A. de Rhodes, P.
de Béhaine… xử lý khi xây dựng và hoàn thiện chữ Quốc ngữ.
- Cộng đồng này là lực lượng duy nhất trong một thời gian khá dài sử
dụng thành quả của các nhà xây dựng và hoàn thiện chữ Quốc ngữ, do
đó chính họ là những người “thẩm định” và bổ túc cho sự hoàn thiện như chúng ta có ngày nay.
CHƯƠNG II: NGỮ ÂM TIẾNG VIỆT 1. Âm tiết 1.1. Khái niệm âm tiết
• Phân biệt âm tố, âm vị, âm tiết:
o Âm tố: đơn vị ngữ âm nhỏ nhất của lời nói, không thể phân nhỏ hơn (sản xuất
của tự nhiên, vô hạn, không đo được có bao nhiêu âm tố)
o Âm vị: đơn vị tối thiểu của hệ thống ngữ âm của một ngôn ngữ dùng để cấu tạo
phân biệt vỏ âm thanh của các đơn vị có nghĩa của ngôn ngữ
o Âm tiết: đơn vị phát âm nhỏ nhất của lời nói được thể hiện bằng một luồng
hơi, hạt nhân là nguyên âm, bao quanh là phụ âm và bán nguyên âm.
(Ví dụ, âm “a” được phát âm bởi những người khác nhau sẽ cho ra âm tố khác
nhau, hay từ một người phát âm ra những lúc khác nhau cũng sẽ cho ra những âm
khác nhau. Dù cho những người khác nhau phát âm ra những âm “a” khác nhau,
nhưng khi nghe thì người nghe vẫn biết chắc chắn đó là âm “a”, nghĩa là vẫn có
đặc điểm chung nào đó giữa các âm tố này, khu biệt nó thành các đặc điểm, khi đó,
nó sẽ trở thành âm vị “a”. Trong câu “đò ơi cho tôi sang với” có 6 âm tiết, được
nhận diện thông qua khoảng ngắt rất nhỏ, giữa những quãng ngắt đấy tạo ra 1 âm tiết)
• Khái niệm âm tiết: Là đơn vị phát âm nhỏ nhất của lời nói 1.2. Nhận diện âm tiết
• Khi phát âm, âm tiết được đặc trưng bởi một sự căng lên rồi chùng xuống của cơ thịt
trong bộ máy phát âm. (khu a # khua) Dựa vào:
o Thính giác: Luồng hơi, khoảng ngắt (nghe và xác định, mỗi khoảng ngắt tương
ứng với một âm tiết) (ví dụ, student có 2 khoảng ngắt, tương đương 2 âm tiết)
o Thị giác: Số nguyên âm (bao gồm cả nguyên âm đôi) (ví dụ, student có 2 nguyên
âm, nên sẽ là 2 âm tiết)
1.3. Đặc điểm âm tiết tiếng Việt
• Không chỉ là đơn vị ngữ âm thuần túy, hầu hết đều mang nghĩa (bởi vì tiếng Việt là loại
hình ngôn ngữ đơn lập, tức là mỗi dạng tồn tại của âm tiết đều ứng với một từ) o Từ
đơn (cấu tạo của nó chính là một âm tiết, mà để gọi là “từ” thì đương nhiên đơn vị đó phải mang nghĩa)
o Gà qué, tre pheo… (từ ghép chứa các thành tố tưởng như mờ nghĩa nhưng truy
nguyên về từ cổ vẫn có nghĩa, các âm tiết “qué”, “pheo” vẫn có nghĩa và xuất
hiện trong các từ điển tiếng Việt cổ, nhưng theo thời gian, những từ này không
còn được sử dụng rộng rãi)
o Thẹn thùng, lạnh lẽo… (từ láy; trong các trường hợp từ láy trong tiếng Việt như
“lạnh lẽo”, “thẹn thùng”, 1 trong 2 yếu tố đó tưởng như không có nghĩa, nhưng
vẫn sẽ có một nét nghĩa lâm thời trong trường hợp sử dụng đó để khu biệt nghĩa
của từ chứa nó với từ không chứa nó, nên âm tiết đó vẫn có nghĩa, ví dụ như
lạnh # lạnh lẽo, lạnh # lạnh lùng)
o Đủng đỉnh, bù nhìn, cà phê (đủng đỉnh: từ láy mà cả 2 thành tố đều không mang
nghĩa; cà phê, bù nhìn: tổ hợp 2 thành tố ngẫu nhiên không mang nghĩa. Trong
sự tri nhận của người Việt, chúng ta hoàn toàn chấp nhận cách nói “đủng đủng
đỉnh đỉnh”, “đủng đà đủng đỉnh”, “cà cà phê phê”, “cà phê cà pháo”. Lúc bấy
giờ, các yếu tố này trong một trường hợp lâm thời nào đó hoàn toàn có thể tách
ra đứng độc lập và người ta hiểu nó như một đơn vị mang nghĩa độc lập. Như
vậy, lúc này, trong sự tri nhận của người Việt, nghĩa của âm tiết lúc này trở
thành nghĩa lâm thời, được chấp nhận)
• Trùng với hình vị (hình vị là đơn vị cấu tạo nên từ, là đơn vị nhỏ
nhất có nghĩa, có thể là nét nghĩa về từ vựng hoặc đặc điểm ngữ
pháp, ví dụ “books” có 2 hình vị là “book” – từ vựng và “s” –
ngữ pháp) (hiện tượng này chỉ xuất hiện trong các loại hình ngôn
ngữ đơn lập) o Âm tiết tiếng Việt = hình vị hình tiết o Books:
hình vị “s”, không có âm tiết “s” (không trùng) o Những quyển
sách: 3 hình vị, 3 âm tiết o Hình tiết: Hình vị có hình thức của một âm tiết
• Tách, ngắt rõ ràng, không nối âm o Cá mú # cám ú
• Ổn định về cấu trúc: 2 bậc, 5 thành phần o 2 bậc: - Bậc 1:
+ Âm đầu, vần và thanh điệu Cấu tạo nên âm tiết
+ Quan hệ lỏng: dễ dàng tháo rời 3 bộ phận và hoán đổi vị trí của
thanh điệu với hai vị trí âm đầu và vần, đảo âm đầu của âm tiết
này để ghép với vần của âm tiết kia và ngược lại
+ Minh chứng: hiện tượng láy (long lanh, lấp lánh – đu đủ), nói lái
(tiền đâu – đầu tiên), hiệp vần (thơ con cóc), “iếc” hóa (bàn biếc
gì mà lung tung thế này) - Bậc 2:
+ Các yếu tố tạo thành bộ phận vần của âm tiết
+ Âm đệm, âm chính, âm cuối Quan hệ chặt (nhưng vẫn có trường
hợp có thể phá vỡ, chẳng hạn như “đèm đẹp”)
+ Minh chứng: cách đánh vần mới
o Cấu trúc âm tiết tiếng Việt: (1) Tha nh điệu Vần (2) Âm đầu (3) (4) (5) Âm đệm Âm chính Âm cuối Bậc 1: lỏng Âm tiết tiếng Việt Bậc 2: chặt Âm đầu Vần Thanh Âm đệm Âm chính Âm cuối
Thanh điệu được vẽ trên sơ đồ trải dài trên toàn bộ âm tiết vì thanh điệu được xem là
một âm vị, được gọi là “âm vị siêu đoạn tính”. Mỗi âm vị sẽ có tính chất khúc đoạn
khác nhau, nhưng riêng thanh điệu thì khác. Ví dụ, trong âm “toán”, sở dĩ âm này được
đọc là “toán” vì thanh điệu của âm này, tức là thanh sắc không chỉ chi phối lên âm
“o”, “a” mà còn chi phối cả âm đầu “t” và âm cuối “n”. Người ta gọi thanh điệu là
“âm vị siêu đoạn tính” vì thanh điệu không có tính chất khúc đoạn giống các âm vị còn lại.
• Bài tập: Mô hình hóa một số âm tiết o Mùa \ ua m zero ua zero o Xuân không dấu / thanh ngang uân x u â n o Đẹp . ep đ zero e p o Lắm / ăm l zero ă m o Nhé / e nh zero e zero o Thúy / uy th u y zero
• Bài tập: Phân tích cấu trúc âm tiết của một số âm tiết sau: Âm tiết Âm đầu Âm đệm Âm chính Âm cuối Thanh hoãn ngã oan tth ngang hàn zero huyền hả zero zero hỏi
• Bài tập: Phân tích cấu trúc âm tiết của một số âm tiết sau: Âm tiết Âm đầu Âm đệm Âm chính Âm cuối Thanh U / /ʔ /zero/ /u/ /zero/ 1 Già /z/ /zero/ /a/ /zero/ 2 Uể / /ʔ /w/ /e/ /zero/ 4 Oải / /ʔ / /ɔ /a/ /j/ 4 Uống / /ʔ /zero/ /uo/ /ŋ/ 5 Rượu / /ʐ /zero/ /ɯɤ/ /w/ 6 Ngoan /ŋ/ / /ɔ /a/ /n/ 1 2. Cấu trúc âm tiết
2.1. Hệ thống thanh điệu
• Khái niệm: Là sự nâng cao hoặc hạ thấp “giọng nói”
trong một âm tiết, có tác dụng khu biệt vỏ âm thanh
của từ hoặc hình vị khiến cho nghĩa của các từ này khác nhau.
Thanh điệu là âm vị siêu đoạn tính được biểu hiện trên toàn âm tiết.
• Số lượng thanh điệu: 6 o Thanh 1: Ngang o Thanh
2: Huyền o Thanh 3: Ngã o Thanh 4: Hỏi o Thanh 5: Sắc o Thanh 6: Nặng
• Tiêu chí khu biệt thanh điệu: o
Âm vực: Độ cao tương đối của âm thanh o Âm điệu: Sự biến
thiên của cao độ trong thời gian o
Đường nét: Sự đơn thuần / phức tạp, đổi hướng / không đổi,
gãy / không gãy Các nét khu biệt của thanh điệu: o Âm vực: - la – lã – lá: cao
- là – lả - lạ: thấp o Âm điệu: - la – là: bằng
- lã – lả - lá – lạ: trắc o Đường nét: - lã – lả: gãy
- la – là – lá – lạ: không gãy Ngã: cao – trắc – gãy
Sắc: cao – trắc – không gãy Ngang: cao – bằng – không gãy
Hỏi: thấp – trắc – gãy
Huyền: thấp – bằng – không Nặng: thấp – trắc – không • Miêu tả 6 thanh
điệu tiếng Việt theo 3 tiêu chí: Thanh Âm vực Âm điệu Đường nét 1 (ngang / không) cao bằng không gãy 2 (huyền) thấp bằng không gãy 3 (ngã) cao trắc gãy 4 (hỏi) thấp trắc gãy 5 (sắc) cao trắc không gãy 6 (nặng) thấp trắc không gãy
• Phân bố thanh điệu trong các kiểu âm tiết: o ma – mà – mã – mả - má – mạ o moi –
mòi – mõi – mỏi – mói – mọi o han – hàn – hãn – hản – hán – hạn o hat – hàt – hãt – hảt – hát – hạt
T1, T2, T3, T4 không phân bố trong âm tiết kết thúc bằng phụ âm tắc vô thanh /p/,
/t/, /k/ (một phần âm điệu trở thành một khoảng im lặng, làm cho trường độ của âm tiết
ngắn lại, đặc thù của các T1234 tương đối phức tạp nên cần một khoảng thời gian thích
đáng để có thể thể hiện hết cái đặc thù đó)
. Âm tiết mở kết thúc bằng nguyên âm và
nửa mở kết thúc bằng bán nguyên âm và nửa khép / nửa đóng kết thúc bằng các phụ
âm /m/, /n/, /ng/ xuất hiện đủ 6 thanh điệu.
+ Âm tiết khép (kết thúc /p/, /t/, /k/): Sự thể hiện âm điệu bị hạn chế vì một phần
trường độ của âm tiết về cuối là một khoảng im lặng