Khái quát về tác phẩm Vợ chồng A phủ | Đại học Sư Phạm Hà Nội

Khái quát về tác phẩm Vợ chồng A phủ | Đại học Sư Phạm Việt Nam với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp sinh viên tham khảo, ôn luyện và phục vụ nhu cầu học tập của mình cụ thể là có định hướng, ôn tập, nắm vững kiến thức môn học và làm bài tốt trong những bài kiểm tra, bài tiểu luận, bài tập kết thúc học phần, từ đó học tập tốt và có kết quả cao cũng như có thể vận dụng tốt những kiến thức mình đã học vào thực tiễn cuộc sống.

Họ tên: Vũ Thuỳ Linh
Lớp: 12D4
V CHỒNG A PHỦ - TÔ HOÀI
I. Mở bài:
Nhà văn Nguyễn Minh Châu đã từng viết: “Nhà văn tồn tại trên
đời để bênh vực cho những con người không ai để bênh vực.” Quả
thực, Tô Hoài đã tr thành “k nâng giấc” cho những số phận khổ đau
thảm thương ấy. Điều đó được thể hiện rõ nét sâu sắc qua tác phẩm
“V chồng A Phủ” linh hồn của truyện ngắn được kết tinh trong nhân
vật Mị. Quãng đời cực của Mị được nhà văn Tô Hoài miêu tả đầy ám
ảnh trong những trang văn đậm chất hiện thực và thấm đẫm tinh thần
nhân văn, qua đó ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn, sức sống tiềm tàng khả
năng đến với cách mạng của nhân dân Tây Bắc.
II. Thân bài
1. Giới thiệu chung
a. Tác giả
Tô Hoài (1920 - 2014) là nhà văn xuất sắc của nền văn xuôi Việt Nam
hiện đại. Ông là nhà văn sức sáng tạo dồi dào, tôn trọng sự thật. Tô
Hoài từng nói “Viết văn quá trình đấu tranh để tìm ra sự thật. Đã là sự
thật thì không tầm thường cho phải đạp đổ thần tượng trong lòng
người đọc.” Hơn 60 năm cầm bút, ông để lại gần hai trăm tác phẩm với
nhiều thể loại: tiểu thuyết, truyện ngắn, kí, kinh nghiệm sáng tác, kịch
bản điện ảnh,... Nhà văn Tô Hoài lối văn trần thuật sinh động, hóm
hỉnh dựa trên vốn từ phong phú của người từng trải duy nhãn
quang phong tục của người am hiểu văn hoá vùng miền. Nhà thơ Trần
Đăng Khoa đã từng ví: “Tô Hoài như một từ điển sống, một pho sách
sống. Ông như cuốn Bách khoa toàn thư không viện nào, không
học giả nào thể sánh được.”
b. Tác phẩm
Truyện ngắn “V chồng A Phủ” viết năm 1952, in trong tập “Truyện
Tây Bắc”, là thành quả của chuyến đi thực tế dài 8 tháng của nhà văn
khi ông cùng với bộ đội lên chiến đấu giải phóng vùng Tây Bắc. đây,
Tô Hoài đã gặp được một cặp vợ chồng du kích người Mông k về cuộc
đời của họ trong những năm tháng cực trước khi cách mạng đến. Tô
Hoài đã kể: “...Tôi không bao giờ quên được lúc v chồng A Phủ tiễn tôi
ra khỏi hốc núi làng Tà Sùa rồi cùng vẫy tay gọi theo: Chéo lù! Chéo lù!”.
Và lẽ, truyện ngắn “V chồng A Phủ” chính là một món quà tác giả
muốn đem tr lại cho những người thương ấy một kỷ niệm tấm lòng
mình. Tác phẩm vừa là một bức tranh hiện thực v số phận của bọn
chúa đất phong kiến, vừa là bài ca về sức sống và khát vọng tự do,
hạnh phúc của con người.
2. Tóm tắt tác phẩm
Trước khi về làm dâu nhà thống lý, Mị là người con gái tr trung,
xinh đẹp, hiếu hạnh và yêu đời. Mị khao khát yêu đến với tình yêu
của mình nhưng món nợ truyền kiếp từ đời cha mẹ Mị để lại, Mị trở
thành con dâu gạt nợ của nhà thống Pá Tra, bị đày ải man cả về
thể xác lẫn tinh thần. Mị trở thành một cỗ máy lao động, Mị ngày càng
lầm lũi cảm. Mùa xuân về trên mảnh đất Hồng Ngài đã làm sống
dậy sức sống tiềm tàng của Mị. Nhờ tiếng sáo, biểu tượng cho tình yêu
hạnh phúc, nhờ men rượu Mị đã thức tỉnh hoàn toàn, Mị muốn đi
chơi, muốn đến với tự do hạnh phúc nhưng bị A Sử trói đứng, sức
sống vừa trỗi dậy đã bị dập tắt đau đớn nhưng sẽ không mất hẳn
đang chờ đợi hội để bùng lên lần thứ 2, đó đêm mùa đông
mảnh đất Hồng Ngài.
3. Phân tích
a. Đoạn 1: Ai xa về dịp… bịt mắt cõng Mị đi”
Nhà văn Tô Hoài đã mở đầu truyện ngắn “VCAP” bằng điểm nhìn
của “người xa về”, tức người ngoài Hồng Ngài, lần đầu tiên việc
vào nhà thống Tra thường trông thấy một con gái. Cô con gái
ấy gây ấn tượng đặc biệt bởi lúc nào cũng trạng thái đang làm việc:
quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, cõng nước dưới khe suối lên,... Thêm
nữa là khuôn mặt của đầy ám ảnh: “cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn
rười rượi”. Những ấn tượng ban đầu v gái khiến bất ai cũng thấy
nghi hoặc bởi nhà thống nổi tiếng giàu có, nhiều nương, nhiều bạc,
nhiều thuốc phiện nhất làng thì con gái còn bao giờ phải xem cái
khổ biết khổ, buồn. Nhưng điểm nhìn thứ hai, thân phận của
Mị tr nên rõ ràng hơn. Cô không phải con gái con dâu nhà
thống lý, vợ của A Sử. Tuy nhiên, người nghèo Hồng Ngài vẫn k với
nhau rằng bố mẹ Mị nợ tiền nhà thống Tra nên đã bị bắt v làm
con dâu để gạt nợ. Thế nhưng Mị lại bị bắt về theo đúng phong tục của
người Mông, được “cúng trình ma” với nghi lễ trang trọng nhất.
Đây cách giới thiệu nhân vật tạo ra sự cuốn hút cho người đọc.
đó vừa nét tương đồng với những câu chuyện cổ k về những
người con gái hiền lành chịu cảnh đày đoạ, ngược đãi, lại vừa những
nét khác biệt bởi văn hoá, phong tục của người Mông trên núi cao Tây
Bắc. Tất cả những thuộc v Mị trong hiện tại như dự báo trước
đang sống trong những tháng ngày đầy tăm tối.
Cuộc đời của Mị như cánh hoa ban trong trẻo lại phải sống kiếp
đời trâu ngựa. Trước khi làm dâu, Mị như bông hoa rừng đẹp nhất vùng
Tây Bắc. Tô Hoài đã không miêu tả v đẹp của Mị theo những nét văn
hoá của người miền xuôi lại sử dụng duy ngôn ngữ và văn hoá
của người Tây Bắc: “Những nhà con gái, bố mẹ không thể ngủ được
tiếng chó sủa. Suốt đêm, con trai đến nhà người mình yêu, đứng thổi
sáo xung quanh vách.
Trai đứng nhẵn cả chân vách đầu buồng Mị.” Chi tiết này đã cho
người đọc thấy Mị niềm ngưỡng mộ say của những chàng trai
Hồng Ngài. Mị còn một gái tâm hồn đẹp. Tâm hồn đó được thể
hiện qua tài năng thổi sáo: “Mị uốn chiếc trên môi, thổi lá cũng hay
như thổi sáo. biết bao nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo
Mị.” Phải chăng Mị đã gửi biết bao tình cảm, biết bao khát khao vào
tiếng sáo ấy khiến vẻ đẹp trong tâm hồn nhạy cảm, trong trái tim thiết
tha yêu cuộc sống của đã thông qua tiếng sáo làm rung động,
đắm lòng người.
Không chỉ là một gái tài năng, xinh đẹp, Mị còn là một người
yêu tự do, lòng tự trọng. Cũng như nhiều gái khác, Mị khao khát
yêu đã người yêu theo sự lựa chọn của mình. Mị đã rất gay gắt
phản đối khi nghe tin thống Pá Tra đòi bắt về làm con dâu gạt nợ,
cái món nợ từ ngày “bố Mị lấy mẹ Mị không đủ tiền cưới, phải đến
vay nhà thống lí, bố của thống Pá Tra bây giờ.” Mị đã tha thiết cầu xin
bố: “Con nay đã biết cuốc nương làm ngô, con phải làm nương ngô giả
nợ thay cho bố. Bố đừng bán con cho nhà giàu.” Nhiều người cho rằng,
cái suy nghĩ “cuốc nương làm ngô giả nợ” của Mị chỉ ảo tưởng, bởi cả
bố mẹ Mị làm quần quật cả đời người còn không tr nổi, huống chi
một mình Mị. Nhưng cái gọi là “ảo tưởng” ấy lại là minh cho bản lĩnh,
cho niềm tin vào tuổi trẻ, vào sức sống mãnh liệt của gái người dân
tộc miền núi: Mị thà sống nghèo khổ, thà phải làm việc cực nhọc
được tự do, còn hơn là làm dâu cho nhà giàu phải tr thành lệ.
Có l Mị đủ thấu hiểu về cuộc sống để thấy rằng người đàn lấy
chồng nhà giàu Hồng Ngài thì một đời chỉ biết đi theo đuôi con ngựa
của chồng.
Nhưng dưới ách thống trị của bọn thực dân phong kiến, sự tàn ác
của bọn lãnh chúa thì số phận của Mị như ván bài đã định. Mặc cho Mị
ý thức hẳn hoi về cuộc sống, về thân phận của mình thì ngang trái
vẫn chụp lên cuộc đời của một màu đen tang tóc: Mị bị bắt về làm
con dâu gạt nợ nhà thống lý, làm vợ A Sử. Hai chữ “gạt nợ” nghe thật
xót xa. Mị chỉ biết khóc, “có đến hàng mấy tháng, đêm nào Mị cũng
khóc”, dường như khóc là cách duy nhất để giải toả những đau đớn
trong lòng người con gái bất hạnh ấy. Đau đớn đến tận cùng, Mị chỉ
muốn chết. Mị trốn v tìm bố với “nắm ngón trong tay”, Mị “chỉ muốn
ăn để chết”, chết rồi để thoát khỏi cuộc sống cùng quẫn này. Hình ảnh
“lá ngón” xuất hiện lần đầu tiên như một “lối thoát đen”, là lối thoát
dành cho những ai muốn chấm dứt hiện tại nghiệt ngã chứ không phải
lối thoát cho người muốn bước sang một trang mới của cuộc đời. Và sự
xuất hiện của “lá ngón” mang tầm ý nghĩa tố cáo cao độ: Sự man
của xã hội ép buộc con người lương thiện đi tìm cái chết.
Thế nhưng Mị lại không đành lòng chết, bởi nếu “Mị chết thì bố Mị
còn khổ hơn bao nhiêu lần bây giờ nữa.” Cho nên, Mị đành cam chịu
chấp nhận số phận, bởi người con gái tên Mị ấy vẫn luôn đặt chữ “hiếu”
lên đầu. Chính chữ “hiếu” là bản lĩnh cao đẹp nơi người con gái trẻ, Mị
cũng giống như Thuý Kiều:
“Để lời thệ hải minh sơn
Làm con trước phải đền ơn sinh thành”
Tóm lại, là một gái hoàn hảo về cả ngoại hình lẫn tài năng
tâm hồn, xứng đáng được tận hưởng một cuộc sống bình yên, hạnh
phúc như bao con người khác. Thế nhưng bi kịch đã đến với cuộc đời
của như một ngã r của số phận: Mị bị bắt về làm con dâu gạt nợ,
phải tr một món nợ không phải là người đi vay.
b. Đoạn 2: “Lần lần mấy năm qua… những đêm tình mùa
xuân đã tới”
Có lẽ điều trớ trêu nhất đối với Mị chính ngã r bi kịch cuộc đời
lại được bắt đầu bằng một cuộc hôn nhân. Hôn nhân lẽ ra phải đem
đến hạnh phúc, là sự khởi đầu của một tương lai tốt đẹp, một người
con gái làm dâu nhà giàu, nhiều nương, nhiều bạc nhất đất Hồng Ngài,
ắt phải sung sướng, phải được sống trong nhung lụa “còn bao giờ phải
xem cái khổ biết khổ, buồn”. Nhưng thực tế, Mị lại một cuộc
sống đầy bất hạnh trong nhà thống lý. Mị đau đớn nhận rằng bản chất
mình con nhưng về hình thức, lại con dâu. Thà Mị con thì
còn được hi vọng đến một ngày nào đó, món nợ kia hết thì sẽ được
tự do. Thế nhưng là con dâu, Mị được bắt về theo đúng phong tục,
cúng trình ma theo đúng nghi lễ thì cuộc đời vĩnh viễn bị trói chặt
nơi này.
Kiếp sống của một người con dâu gạt nợ đã huỷ hoại cuộc đời Mị
một cách âm thầm nhưng ghê gớm bậc nhất. T một gái trẻ trung,
yêu cuộc sống, Mị tr thành một k sống như đã chết. Người ta
thường quen với cái sướng, quen ăn ngon mặc đẹp, đằng này Mị lại
quen với cái khổ: “Ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi”. Dường như Mị
đã hoàn toàn mất đi ý thức, quên đi thời gian, vùi mình trong công việc:
“... mỗi năm mỗi mùa, mỗi tháng lại làm đi làm lại: Tết xong thì lên núi hái
thuốc phiện, giữa năm thì giặt đay, xe đay, đến mùa thì đi nương bẻ
bắp, lúc đi hái củi, lúc bung ngô, lúc nào cũng gài một đay
trong cánh tay để tước thành sợi.” Nhà văn Tô Hoài đã hai lần so
sánh Mị với những con vật để thấy nỗi đau khổ tột cùng của cuộc đời
cô: “Bây giờ thì Mị tưởng mình cũng con trâu, mình cũng là con ngựa”,
rồi Mị tr nên câm nín, “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”. Cách so
sánh này cho người đọc thấy được Mị không chỉ bị bóc lột đến tận
cùng của thể xác còn bị đày đoạ về tinh thần đến cùng cực.
Không những thế, không gian sống của Mị nhà thống cũng
giống như một cái nhà tù: “cái buồng Mị nằm, kín mít, một chiếc cửa
sổ một l vuông bằng bàn tay. Lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng
trắng, không biết là sương hay nắng. Mị nghĩ rằng mình cứ chỉ ngồi
trong cái l vuông ấy trông ra, đến bao giờ chết thì thôi.” Đúng
một cách diễn tả tuyệt hay về chốn địa ngục trần gian. không chỉ
nơi giam hãm thân xác Mị còn ngăn cách với cuộc đời, vùi
dập tuổi xuân và vắt kiệt nhựa sống của cô. biến Mị từ một gái
tr trung, phơi phới tràn đầy sức sống thành một con người cảm,
câm lặng, lùi lũi.
Quan trọng hơn, đối với một người phụ nữ đi lấy chồng thì chỉ
mong sao lấy được người đàn yêu thương, che chở cho mình, nhưng
“hồng nhan thì bạc phận”, Mị thống khổ v thể xác lại đau đớn hơn cả
về tinh thần, bởi A Sử với Mị, không lòng với nhau vẫn phải với
nhau”. A Sử chưa bao giờ coi Mị vợ, đánh đập Mị hết sức tàn ác
man. Dưới sự đày đoạ của cha con thống đã biến Mị thành lệ,
bị tước đoạt tuổi trẻ, quyền tự do hạnh phúc nhân. Dần dần đối
với Mị, thời gian là nghĩa, cũng đã quên hẳn việc tự tử của những
năm về trước. Còn muốn chết nghĩa Mị còn ý thức được nỗi đau của
mình, nhưng đến bây giờ gái xinh đẹp ấy cũng chẳng còn buồn chết
nữa.
Với những chi tiết này, nhà văn Tô Hoài đã tố cáo hiện thực của
đời sống xã hội vùng núi cao Tây Bắc trong giai đoạn trước khi cách
mạng đến. đó, tầng lớp thống trị địa phương đã cấu kết với thực dân
Pháp để tạo nên một bộ máy cai trị đặc biệt: cường quyền bạo lực kết
hợp với thần quyền hủ tục. Đã biết bao nhiêu con người giống như
Mị bị tước đoạt tự do, đày đoạ sự sống.
Nếu như truyện ngắn “VCAP” chỉ dừng lại chỗ nhà văn viết v nỗi
thống khổ, cực của Mị để rồi sau đó cuộc đời tàn lụi trong đau
thương thì l tác phẩm này chỉ giá trị hiện thực. Tuy nhiên, Tô
Hoài lại nhà văn luôn khao khát kiếm tìm tình yêu cuộc sống của con
người trong nghịch cảnh. Ông đã phát hiện ra rằng sự sống vẫn tiềm
tàng đâu đó trong con người Mị, giống như một ngọn lửa nằm sâu dưới
lớp tro tàn. Ngọn lửa ấy sẽ bùng cháy lên một cách mạnh mẽ khi sự
tác động từ ngoại cảnh. Và điều đó đã đến trong mùa xuân với tiếng
sáo gọi bạn tình tha thiết.
Mùa xuân, núi đồi Tây Bắc ngập tràn sắc xuân với “những chiếc
váy hoa đã đem ra phơi trên mỏm đá x như con bướm sặc sỡ”, tiếng
tr con đùa, cười ầm trên sân cùng với đó “gió thổi vào cỏ gianh
vàng ửng” như báo hiệu một điều đó sắp xảy ra trên đất Hồng Ngài.
Trong chuỗi những tín hiệu mùa xuân tác động con người Mị, nhà văn
đã đặc biệt chú ý đến âm thanh của tiếng sáo. Tiếng sáo đối với Mị
không chỉ tín hiệu để nhắc nhớ ra rằng những đêm tình mùa xuân
đã tới còn âm thanh của thế giới ngoài kia, một thế giới tự do
đầy mời gọi. là âm thanh của quá khứ, một quá khứ đáng sống.
Tiếng sáo cũng là âm thanh của tình yêu, một giá trị Mị đã từng
nhưng bị tước đoạt.
Nhà văn Tô Hoài đã miêu tả diễn biến tâm trạng Mị đi theo hành
trình của tiếng sáo. Đó hành trình đi tìm lại con người mình của một
trái tim đã chai sạn trong đau khổ mất mát. Đó hành trình phục
sinh của một tâm hồn đã từng những tháng ngày sống như đã
chết. Hành trình đó không sự xuất hiện của một phép màu diệu
hay của một l nghi tôn giáo nào. đó, chỉ niềm tin tình yêu của
nhà văn vào giá trị con người.
c. Đoạn 3: “Ngày tết Mị cũng uống rượu… quả pao rơi rồi”
Ngày Tết, Mị cũng uống rượu, “Mị lén lấy rượu, cứ uống ực từng
bát”, cách uống rượu ấy cho thấy được nỗi lòng của Mị, như thể
đang muốn nuốt trôi những đắng cay của phần đời đã qua cũng thể
hiện sự dồn nén, khao khát v đời sống tinh thần. “Tai Mị văng vẳng
tiếng sáo gọi bạn đầu làng”. Tiếng sáo giúp Mị nhớ v quá khứ rõ rệt
hơn: “Ngày trước, Mị thổi sáo giỏi.... Mị uốn chiếc trên môi, thổi
cũng hay như thổi sáo. Có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi
sáo đi theo Mị”. Dường như tiếng sáo đã nhắc Mị về những tháng ngày
thanh xuân tươi đẹp, về tự do tình yêu không bao giờ lại được. T
nhớ v quá khứ, đến đây Mị đã biết nuối tiếc quá khứ.
T tiếc nuối quá khứ, nhà văn Tô Hoài lại viết về những tâm trạng
của Mị trong thực tại. Khi bữa tiệc rượu đã tàn, mọi người đi chơi hết
nhưng Mị vẫn còn ngồi trơ ra giữa nhà. T “trơ” Tô Hoài dùng trong
bối cảnh này gợi nhắc đến bài thơ “T tình” của Hồ Xuân Hương:
“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non”
Mị cứ ngồi như thế một mình rỗi mãi sau này mới đứng dậy. mọi
người ra ngoài chơi Tết hết cả nhưng riêng Mị lại di chuyển ngược
hướng: Cô bước vào trong phòng của mình như một thói quen. Căn
phòng kín mít, tối tăm đã trói buộc cuộc đời Mị biết bao nhiêu lâu. Mị
cứ ngồi đó trông ra, ngoài, chỉ thấy ngoài kia là một màu mờ mờ
trăng trắng, không biết sương hay nắng.
Tuy nhiên, lần này đối với Mị lại một sự khác biệt: “Đã từ nãy, Mị
thấy phơi phới tr lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm
Tết ngày trước.” Đây là dấu hiệu quan trọng bậc nhất đánh dấu sự hồi
sinh của Mị khi sống lại bằng những cảm xúc của tuổi thanh xuân
tươi đẹp. Cũng từ đó, Mị nhận thức được về thực tại của mình bằng con
mắt nhìn hạnh phúc: “Mị tr lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi.” Tô
Hoài đã sử dụng những câu văn thật ngắn để diễn tả cảm xúc, tâm
trạng. Đó là điểm hạnh phúc nhưng cũng nỗi đau đớn trong khoảnh
khắc Mị nhận ra bi kịch của cuộc đời mình. “Bao nhiêu người chồng
cũng đi chơi ngày Tết” trong khi Mị đang ngồi trơ ra một mình đây.
Nguyễn Du cũng đã từng viết về khoảnh khắc Thuý Kiều nhận ra thân
phận của mình như thế:
“Khi tỉnh rượu lúc tàn canh,
Giật mình, mình lại thương mình xót xa.”
Quá khứ khiến lòng mình chua xót khi nghĩ đến cuộc sống hiện tại.
Trong nỗi xót xa phẫn uất, Mị lại nhận ra rằng: với thằng A Sử không
lòng với nhau vẫn phải với nhau. Ý định ăn lá ngón tự tử của
ngày trước đã từng bị vùi dập vào lãng quên thì giờ đây lại một lần nữa
sống lại trong tâm hồn Mị: “Nếu nắm ngón trong tay lúc này, Mị sẽ
ăn cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa. Nhớ lại, chỉ thấy nước
mắt ứa ra.” Lại một lần nữa Mị muốn chết, muốn chết để cuộc sống bớt
đau thương hơn, bớt tủi nhục hơn. Ý định ăn là ngón để tự tử dẫu
tiêu cực nhưng lại cách để bày tỏ tình yêu cuộc sống đầy tha thiết
của con người cô.
Trong lúc Mị đang trong trạng thái đầy bi kịch thì tiếng sáo lại
xuất hiện như để an ủi, vỗ về. “Mà tiếng sáo gọi bạn yêu vẫn lửng bay
ngoài đường.” Lần xuất hiện này, tiếng sáo không chỉ đến gần hơn
còn mang theo lời bài hát diễn tả tình yêu của chàng trai gái dân
tộc Mông trong những cuộc hẹn hò:
Anh ném pao, em không bắt
Em không yêu, quả pao rơi rồi…”
Tiếng sáo như thôi thúc và cổ Mị với khát vọng được đi chơi
ngày Tết. Đi chơi Tết ước tháo cũi sổ lồng, khát khao được sống
lại trong tình yêu của tuổi trẻ. Đúng lúc ấy thì A Sử tr về. về nhà để
lấy thêm vòng bạc, để tiếp tục đi bắt vợ nhưng đối với Mị, điều đó
không còn quan trọng nữa rồi. Lúc này, Mị chỉ quan tâm đến những
cảm xúc của mình.
d. Đoạn 4: “Bây giờ Mị cũng không nói… Mị lại bồi hồi”
Tác giả Tô Hoài đã miêu tả hành động của Mị với tất cả những
dứt khoát, mạnh mẽ và tự tin nhất: “Mị đến góc nhà, lấy ống mỡ, xắn
một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng.” Đây hành động chủ
đích của Mị. Mị muốn thắp sáng vốn đầy tăm tối chật hẹp của mình,
đồng thời cũng thắp sáng cuộc đời mình. Hướng tới ánh sáng một
dấu hiệu quan trọng của lòng khao khát ý thức về sự sống.
Lúc này, “trong đầu Mị đang rập rờn tiếng sáo.” Như vậy, tiếng sáo
được tác giả miêu tả theo trình tự từ xa đến gần, ban đầu chỉ là ngoại
cảnh, sau đó đã tr thành tâm cảnh. Tiếng sáo ban đầu mới chỉ lấp
ngoài đầu núi, sau đó lửng văng vẳng đầu làng rồi lửng bay ngoài
đường, đến đây đã dập dờn nhảy múa trong đầu Mị. Hiểu như thế để
thấy tiếng sáo từ chỗ đánh thức, cổ vũ, an ủi… rồi đến đây đã mời gọi
Mị trong một điệu say và rộn ràng. Người đọc thể hình dung
bước chân của Mị cũng như đang nhảy múa theo tiếng sáo trong căn
phòng đầy ánh sáng và thêm nữa trước mắt thằng A Sử.
Khát vọng đi chơi Tết ban đầu chỉ ý định thì giờ đây đã được
hiện thực hoá bằng hành động. Tô Hoài đã viết hai hành động liên tiếp
của Mị trong một câu văn ngắn: Mị quấn lại tóc, Mị với tay lấy cái váy
hoa vắt phía trong vách.” Đây hai hành động nhưng với một mục
tiêu: Mị muốn mình xinh đẹp hơn khi bước ra ngoài đi chơi Tết. Nói cách
khác, ý thức về vẻ đẹp của mình, về tuổi tr của mình, về khát khao
tự do mình đang thực hiện. Đến đây thể khẳng định sự hồi sinh
của Mị đã hoàn tất từ niềm khao khát v tự do, tình yêu cũng như ý
thức v bản thân.
Nhà văn Tô Hoài thật tinh tế cũng rất thành công trong việc
miêu tả diễn biến tâm trạng của Mị trong đêm tình mùa xuân qua
những câu văn ngắn mang nhịp điệu gấp gáp như thể Mị đang nhanh
chóng, dứt khoát thực hiện hành động giải phóng cho mình, bỏ khỏi
con ma nhà thống lí, thoát khỏi căn buồng kín mít, thoát khỏi chốn địa
ngục trần gian chôn vùi tuổi xuân của cô.
Giấc đi chơi Tết của Mị bị thằng A Sử vùi dập một cách tàn bạo
lạnh lùng. Ban đầu một chút ngạc nhiên khi thấy Mị cũng
muốn đi chơi Tết nhưng sau đó chẳng hỏi thêm trói Mị vào cột. A
Sử bước lại, nắm Mị, lấy thắt lưng trói hai tay Mị. xách cả một thúng
sợi đay ra trói đứng Mị vào cột nhà. Tóc Mị xoã xuống, A Sử quấn luôn
tóc lên cột, làm cho Mị không cúi, không nghiêng được đầu nữa.” Hành
động của A Sử lạnh lùng, tàn nhẫn vô cảm đến mức hắn không hề
coi trọng Mị vợ, và càng không coi Mị một con người. Trói Mị xong,
A Sử tắt đèn, đóng cửa để mặc Mị bị trói đứng như thế trong bóng tối.
A Sử đâu biết rằng, chỉ thể trói được thân xác Mị, còn tâm
hồn Mị vẫn sống trọn vẹn trong thế giới của riêng mình: “Mị đứng im
lặng, như không biết mình đang bị trói. Hơi rượu còn nồng nàn, Mị vẫn
nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi.”
Tiếng sáo kia quá tha thiết, quá mạnh mẽ, dìu hồn Mị bay lên trên
hoàn cảnh, biểu tượng của niềm khao khát sống, khát khao yêu,
khao khát tự do. Như vậy, tiếng sáo trong tình huống này đã cứu rỗi Mị,
đã hoàn thành ước được đi chơi ngày Tết của Mị. Những vòng dây
trói được thân xác chứ không thể trói được tâm hồn của cô. Giai
điệu của tiếng sáo đã thôi thúc Mị “vùng bước đi” theo tiếng gọi của tự
do “vùng đi” như muốn bắt quả pao của người Mị thương. Nhưng
những vòng dây quá chặt đã giữ lại. Trong chuỗi âm thanh của
đêm tối, Mị không chỉ còn nghe thấy tiếng sáo còn lẫn cả vào đó
tiếng chân ngựa. “Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa.”
Mị cứ bị trói đứng như thế suốt đêm, trong một trạng thái cũng
đầy phức tạp: “Lúc thì khắp người bị dây trói thít lại đau nhức. Lúc lại
nồng nàn tha thiết nhớ” Tiếng sáo xuất hiện lần cuối cùng được miêu tả
trong trạng thái cộc lốc, nghĩa: “Tiếng sáo. Tiếng chó sủa xa xa.” Đây
là âm thanh cuối cùng khép lại một đêm Mị đã hồi sinh với sức sống
tiềm tàng đầy khao khát. Có thể nói, sự hồi sinh đó của Mị tuy diễn ra
âm thầm không hề được ai biết đến nhưng lại ý nghĩa quan
trọng để chuẩn bị cho đêm mùa đông của người con gái đầy sức sống
này.
Nói tóm lại, diễn biến tâm trạng nhân vật Mị trong đêm tình mùa
xuân Hồng Ngài đã được tác giả miêu tả bằng ngôn ngữ độc thoại
nội tâm. đó, từng cung bậc cảm xúc của nhân vật được nhắc đến với
chuỗi tâm và hành động liên tiếp nhau. Cuộc trỗi dậy lần thứ nhất
của Mị không thành, Mị không thoát ra được cảnh ngục nhà thống
nhưng ít nhất, Mị cũng được sống lại những thời khắc tươi đẹp của
tuổi trẻ. Nhà văn Tô Hoài từng nhận xét: “Nhưng điều diệu dẫu
trong cùng cực đến thế, mọi thế lực tội ác cũng không giết được sức
sống con người. Lay lắt, đói khổ, nhục nhã, Mị vẫn sống âm thầm, tiềm
tàng, mãnh liệt”. Hành động của Mị trong đêm tình mùa xuân tuy bột
phát nhưng hứa hẹn một tương lai bừng cháy phía trước. sẽ bùng
cháy thành tinh thần phản kháng trong đêm đông.
e. Đoạn 5: “Những đêm mùa đông trên núi cao… phảng
phất nghĩ như vậy”
Nếu trong đoạn trích miêu tả đêm tình mùa xuân, Tô Hoài đã nhắc
đến những tín hiệu tích cực, đặc biệt là tiếng sáo để đánh thức khát
vọng sống trong Mị thì trong đêm mùa đông chỉ cái lạnh đến dại
bóng tối chập chùng bủa vây. Mùa đông trên núi cao vùng Tây Bắc
lạnh thấu xương, ai cũng cố khoác thêm cho mình những tấm áo dày
nhất để giữ ấm cho thể, Mị cũng không ngoại lệ. Đêm mùa đông
của Mị không tiếng sáo gọi bạn tha thiết, không hơi rượu nồng
nàn, để vượt qua cái giá lạnh, Mị chỉ bếp lửa để sưởi ấm, “nếu không
bếp lửa sưởi kia thì Mị cũng đến chết o”. “Có đêm A Sử chợt về,
thấy Mị ngồi đấy, A Sử đánh Mị ngã ngay xuống cửa bếp. Nhưng đêm
sau Mị vẫn ra sưởi như đêm trước.” Sau bao biến cố xảy ra, Mị không
còn tha thiết với cuộc sống nữa nhưng lại vẫn dậy thổi lửa, phải chăng
vẫn nuôi dưỡng một ước vọng mong manh để sưởi ấm cuộc đời lạnh
lẽo của mình, k cả khi bị A Sử đánh.
Bối cảnh đêm mùa đông như kéo Mị xuống sâu của đáy cực
cảm. thế để viết v tinh thần đấu tranh khát vọng tự do của
người con gái này, chắc chắn Tô Hoài phải tạo ra những bước ngoặt
hết sức đặc biệt.
Ban đầu, khi nhìn thấy A Phủ bị trói đứng, Mị hoàn toàn vô cảm.
Suốt mấy đêm Mị dậy sớm sưởi lửa, “khi nghe tiếng phù phù thổi bếp, A
Phủ lại mở mắt. Ngọn lửa sưởi bùng lên, cùng lúc ấy thì Mị cũng nhìn
sang, thấy mắt A Phủ trừng trừng, mới biết A Phủ còn sống…” Những
câu văn ghi lại cảm xúc rất đỗi thản nhiên của Mị khi nhìn thấy một
người khác bị trói đứng ngay trước mặt mình. Mị thản nhiên tới mức
“nếu A Phủ là cái xác chết đứng đấy, cũng thế thôi.” Sự cảm của Mị
như liều thuốc độc giết chết một mạng người đang cận k cái chết.
Với cách miêu tả diễn biến tâm nhân vật cung bậc đi đến tận
cùng của sự cảm như thế, Tô Hoài đã đẩy Mị A Phủ về phía hai
đầu của ranh giới: Một bên là tuyệt vọng đau khổ, một bên cảm
dửng dưng. “Ngọn lửa bập bùng sáng lên, Mị lé mắt trông sang, thấy
hai mắt A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước mắt lấp lánh xuống hai
hõm đã xám đen lại.” Thời khắc nhìn thấy dòng nước mắt của A Phủ,
Mị mới “thức tỉnh”. Một nhà phê bình văn học nổi tiếng đã từng nói: “Khi
tình thương chạm vào trái tim thì cho sỏi đá cũng thành châu lệ.”
Nước mắt của A Phủ biểu hiện của sự tuyệt vọng con người khi cảm
nhận cái chết đang đến với mình rất gần nhưng không thể làm khác
được. Thế nhưng điều diệu dòng nước mắt tuyệt vọng ấy lại kết nối
được với Mị để đánh thức những hi vọng, làm hồi sinh tình thương
người trong Mị. Giọt nước mắt của thân phận lệ đang bất lực trước
số phận, không chỉ chảy trên xám đen của A Phủ còn
chảy vào cả trái tim băng giá của Mị.
Nhìn thấy A Phủ bị trói, Mị nhớ lại ngày trước, cũng từng bị trói
như thế. “Nhiều lần khóc, nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ, không
biết lau đi được”. Đây sự đồng cảm của những con người cùng cảnh
ngộ nên đã tìm thấy sự chia sẻ trong khoảnh khắc tột cùng của đau
thương. Nước mắt của những k khốn cùng luôn giống nhau. Hai thân
phận con người bị đày đoạ, tìm thấy niềm thương cảm nhau giống
như câu nói trong dân gian: “Trông người lại nghĩ đến thân”.
Mị nhớ v quá khứ, nhớ cả đến việc đã từng chứng kiến một
người đàn bị trói đến chết trong nhà này. Người đàn ấy, tiếp đến
là A Phủ, rồi tiếp theo sẽ là Mị. Khi phải chứng kiến cái chết của
người khác ngay trước mắt mình, trong nỗi đau khổ tuyệt vọng, chắc
chắn Mị sẽ vô cùng ám ảnh. Và rồi điều đó đang chuẩn bị diễn ra thêm
một lần nữa. Mị hiểu cảm giác bị trói đứng đến chết như thế nào.
đoạn văn này, tuy nhà văn Tô Hoài không hề đề cập đến nỗi đau về thể
xác của Mị, cũng không hề viết về nỗi tủi nhục của A Phủ nhưng tất cả
đều hiện lên rất rõ. Mị cảm nhận được nỗi đau của A Phủ bằng chính
những cảm xúc xuất phát từ nỗi đau của chính mình.
Lần đầu tiên trong Mị xuất hiện một lời phán xét: “Chúng thật
độc ác” - điều từ trước đến nay, ngay cả khi chính mình bị trói đến
không cựa được, Mị cũng chưa bao giờ nghĩ tới. Đây là lời phán xét Mị
dành cho cha con nhà thống lí, cho k phải gọi chồng. Đưa ra
lời phán xét ấy đồng nghĩa với việc Mị phải đứng về phía những người
khốn khổ, trong đó cả chính để kết án gia đình nhà thống lí. Điều
đó cho thấy không những không thuộc về nơi này còn phẫn uất,
căm hờn trước sự độc ác của gia đình nhà chồng. Đó chính là nền tảng
quan trọng để Mị được tinh thần phản kháng sau này.
Mị dự báo trước cái chết sẽ đến với A Phủ trong một tương lai gần:
“Cơ chừng này chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết
rét, phải chết.” Chỉ trong một câu văn ngắn chữ “chết được” lặp lại
tới 5 lần cho thấy điều đó sẽ đến với A Phủ như một điều tất yếu
cùng đau đớn. Điều quan trọng Mị sẽ phải thêm một lần nữa chứng
kiến cái chết. Cô so sánh cảnh ngộ của “người kia” với bản thân mình
để phát hiện ra điều lý: “Ta thân đàn bà, đã bắt ta về trình ma
nhà rồi thì chỉ còn biết đợi ngày xương đây thôi... Người kia việc
phải chết thế.”
f. Đoạn 6: “Đám than đã vạc hẳn lửa… chạy xuống dốc núi”
Mị cứ ngồi như thế suốt đêm đến mức “đám than đã vạc hẳn lửa”.
Cô cũng không thổi thêm lửa, cũng chẳng đứng lên cứ ngồi như thế
để nghĩ về đời mình. trong xuất hiện một giả định: “như thể một
lúc nào, biết đâu A Phủ chẳng đã trốn được rồi, lúc ấy bố con Tra sẽ
bảo Mị đã cởi trói cho nó, Mị liền phải trói thay vào đấy, Mị phải chết
trên cái cọc ấy.” Nghĩ như thế, trong tình cảnh này, làm sao Mị cũng
không thấy sợ. Khi nghĩ đến cái chết, Mị không thấy sợ nữa, không phải
liều lĩnh Mị thấy cái chết của mình ý nghĩa khi đem lại sự
sống cho người khác.
Những luồng suy nghĩ của Mị trước khi đưa ra quyết định cắt dây
trói cho A Phủ được nhà văn miêu tả theo một chuỗi logic diễn biến
tâm của ngôn ngữ độc thoại nội tâm. Tất cả diễn ra âm thầm nhưng
đầy quyết liệt để từ đó chứng minh: Hành động của Mị khi cắt dây trói
cho A Phủ đến từ trí chứ không phải cảm xúc.
Tô Hoài đã dụng công miêu tả chuỗi diễn biến tâm nhân vật
trong một đoạn văn rất dài nhưng khi miêu tả hành động ấy bằng
những câu văn thật ngắn. Mặc đã suy nghĩ trước khi đưa ra quyết
định nhưng để thực hiện cũng không hề đơn giản. Mị “rón rén” lại
gần A Phủ, rút con dao nhỏ cắt lúa, cắt nút dây mây. “Đến lúc gỡ được
hết dây trói người A Phủ thì Mị cũng hốt hoảng, Mị chỉ thì thào được
một tiếng “Đi ngay...”, rồi Mị nghẹn lại.” Đó là toàn bộ cảm xúc hành
động của Mị khi thực hiện ý định cắt dây trói cho A Phủ. Mị thực hiện
hành động đó trong nỗi sợ hãi nhưng cùng rõ ràng, không ngừng
lại bất cứ thao tác nào. Mị đã chiến thắng được nỗi sợ hãi để cắt dây
trói cho A Phủ cho rón rén, hốt hoảng. Khoảnh khắc Mị nghẹn lại
khi giải phóng cho A Phủ chính là khi chấp nhận cái chết sẽ đến
với mình.
Sau khi hoàn tất ý định giải cứu A Phủ, Mị vẫn chưa hề xuất hiện
suy nghĩ sẽ cùng A Phủ chạy trốn khỏi Hồng Ngài. vẫn chấp nhận
lại đó để đối mặt với cái chết. Thế nhưng trong khoảnh khắc Mị nghẹn
lại. Để chấp nhận cái chết, lại được chứng kiến cảnh tượng: A Phủ
bỗng khuỵu xuống, không bước nổi. Nhưng trước cái chết thể đến
nơi ngay, A Phủ lại quật sức vùng lên, chạy” Khoảnh khắc đó của A Phủ
đã tác động đến Mị thật ghê gớm. Đó là bản năng, khát vọng tự do
của con người khi hội sẵn sàng quật sức lên chạy không hề
chần chừ.
Chứng kiến khoảnh khắc đó, chắc chắn Mị đã suy nghĩ rất nhiều.
trong cảm xúc của người phụ nữ này đang đứng trước ranh giới
mang tính bước ngoặt của cuộc đời. Đường ranh giới ấy được nhà văn
thể hiện trong câu “Mị đứng lặng trong bóng tối.” Câu văn chỉ sáu
chữ được Tô Hoài tách riêng thành một đoạn độc lập. Tính chất quan
trọng của như cho thấy Mị trong trạng thái tâm đầy giông bão
khi đưa ra quyết định. Ta thể hình dung được tâm ngổn ngang
trăm mối của Mị lúc này: chạy theo A Phủ hay lại chờ chết? Chấp
nhận cuộc sống trong nhà thống hay vùng lên giải thoát? Liệu rằng
Mị sẽ chết thay A Phủ cái cọc ấy?... Cuối cùng, sức sống mãnh liệt
trong Mị thôi thúc, Mị vụt chạy theo A Phủ.
Tô Hoài đã hết sức tinh tế khi trong bước ngoặt này không miêu
tả Mị đang nghĩ giống như trên trục tiếp diễn tả kết quả của
quá trình suy nghĩ ấy qua hành động: “Rồi Mị cũng vụt chạy ra. Trời tối
lắm. Nhưng Mị vẫn băng đi. Mị đuổi kịp A Phủ…”. Bước chân “băng đi”
của Mị đạp đổ mọi áp chế, cường quyền thần quyền của bọn lãnh
chúa phong kiến đã đè nặng tâm hồn Mị suốt bao nhiêu năm qua. Mị
gọi với theo A Phủ: A Phủ cho tôi đi. đây thì chết mất.” Câu nói trong
giây phút hỗn loạn đó chính khao khát sống, khát khao tự do mãnh liệt
của Mị. Câu nói ấy khi phát ra làm quặn đau trái tim độc giả, bởi
chính nguyên nhân - hệ quả của việc Mị cắt đứt sợi dây hình ràng
buộc cuộc đời của mình với nhà thống Tra.
Như vậy, trong đêm mùa đông, Mị đã hoàn toàn chủ động trong
việc thực hiện giải phóng cho A Phủ tự giải thoát cho chính mình.
Nói cách khác, Mị đã chủ động cắt đứt sợi dây trói hữu hình - dây trói
của cường quyền để giải thoát cho A Phủ dây trói hình - dây trói
của thần quyền để giải thoát cho chính mình. Toàn bộ những bước
ngoặt quan trọng đó đều đến từ những suy nghĩ tự thân, tự ý thức đấu
tranh của một trái tim yêu tự do và giàu khát vọng sống. Đó chính là
thông điệp quan trọng bậc nhất của tác phẩm “VCAP”. Thông điệp về
cảm hứng tự giải phóng. Mị và A Phủ đại diện cho thế hệ trẻ vùng núi
cao Tây Bắc đã biết chiến đấu chiến thắng quyền lực hủ tục để đi
tìm tự do cho chính mình trước khi cách mạng đến.
4. Đánh giá chung
a. Giá trị nhân đạo
Giá trị nhân đạo một giá trị bản của tác phẩm văn học chân
chính. được tạo nên bởi niềm cảm thông sâu sắc đối với nỗi đau
khổ, là sự nâng niu, trân quý những nét đẹp trong tâm hồn con người
cũng là lòng tin vào khả năng vươn dậy của họ, đồng thời lên án
những thế lực tàn bạo đen tối đã chà đạp lên quyền sống, quyền hạnh
phúc và phẩm giá con người. Truyện ngắn “VCAP” đã để lại tinh thần
nhân đạo, nhân văn sâu sắc, thấm được trên mỗi trang sách của nhà
văn Tô Hoài qua cuộc đời hai nhân vật Mị A Phủ. đó niềm cảm
thông sâu sắc của nhà văn đối với những số phận bất hạnh, bị tước
đoạt quyền sống, quyền tự do, bị đày đoạ, lăng nhục cả về thể xác lẫn
tinh thần. Tác phẩm là tiếng nói lên án thế lực cường quyền vùng cao
cùng những hủ tục tồn tại lâu đời nơi đây. Qua việc khắc hoạ nhân vật
Mị, nhà văn Tô Hoài đã phát hiện trân trọng ngợi ca phẩm chất cao
quý của con người lao động, đồng thời bày tỏ niềm tin mãnh liệt vào
sức vươn dậy của con người trong hoàn cảnh đoạ đày.
b. Giá trị hiện thực
Giá trị hiện thực hiện thực đời sống tác giả phản ánh trong
tác phẩm. Đó những diễn ra trong cuộc sống được tác giả đưa vào
tác phẩm. mỗi một tác phẩm văn học, giá trị hiện thực được thể hiện
theo những cách đặc biệt khác nhau. Truyện ngắn “VCAP” đã tái hiện lại
cuộc sống của con người miền núi Tây Bắc trước ngày giải phóng với
những hủ tục vẫn còn tồn tại như kìm hãm sự phát triển của con người.
Đồng thời tác phẩm cũng đã tố cáo tội ác của giai cấp thống trị miền
núi phía Bắc.
c. Giá trị nghệ thuật
Nhà văn Tô Hoài xây dựng nhân vật Mị với nhiều điểm nghệ thuật
đặc sắc. Trần thuật hấp dẫn, giới thiệu nhân vật tự nhiên ấn tượng,
k chuyện ngắn gọn, dẫn dắt tình tiết khéo o. Biệt tài miêu tả tâm
nhân vật sắc sảo, đặc biệt tâm trạng hành động khá phức tạp của
Mị được diễn tả một cách cụ thể, hợp lý. Ngôn ngữ k chuyện sinh
động, chọn lọc, sáng tạo, giàu chất thơ.
III. Kết bài:
Trong sáng tác văn chương "nhà văn thể viết về bóng tối nhưng
từ bóng tối phải hướng đến ánh sáng". Phải chăng, cũng l đó “V
chồng A Phủ” đã được Tô Hoài viết lên để gửi gắm những giá trị nhân
văn cao cả. Tác phẩm câu chuyện về những người dân lao động vùng
cao Tây Bắc không cam chịu áp bức vùng lên phản kháng, tìm cuộc
sống tự do. Sự “đổi đời” của các nhân vật trong tác phẩm không phải
nhờ phép màu của ông Bụt, Tiên từ chính sức mạnh, tiềm lực
bên trong của họ. Tác phẩm từ đầu đến cuối đều thể hiện tiếng nói
thương yêu, ca ngợi, tin tưởng con người. Đó chính là do khiến “Truyện
Tây Bắc” đạt giải nhất truyện ngắn giải thưởng do Hội nghệ Việt
Nam trao tặng năm 1954 1955.
| 1/15

Preview text:

Họ và tên: Vũ Thuỳ Linh Lớp: 12D4
VỢ CHỒNG A PHỦ - TÔ HOÀI I. Mở bài:
Nhà văn Nguyễn Minh Châu đã từng viết: “Nhà văn tồn tại ở trên
đời để bênh vực cho những con người không có ai để bênh vực.” Quả
thực, Tô Hoài đã trở thành “kẻ nâng giấc” cho những số phận khổ đau
thảm thương ấy. Điều đó được thể hiện rõ nét và sâu sắc qua tác phẩm
“Vợ chồng A Phủ” mà linh hồn của truyện ngắn được kết tinh trong nhân
vật Mị. Quãng đời cơ cực của Mị được nhà văn Tô Hoài miêu tả đầy ám
ảnh trong những trang văn đậm chất hiện thực và thấm đẫm tinh thần
nhân văn, qua đó ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn, sức sống tiềm tàng và khả
năng đến với cách mạng của nhân dân Tây Bắc. II. Thân bài 1. Giới thiệu chung a. Tác giả
Tô Hoài (1920 - 2014) là nhà văn xuất sắc của nền văn xuôi Việt Nam
hiện đại. Ông là nhà văn có sức sáng tạo dồi dào, tôn trọng sự thật. Tô
Hoài từng nói “Viết văn là quá trình đấu tranh để tìm ra sự thật. Đã là sự
thật thì không tầm thường cho dù phải đạp đổ thần tượng trong lòng
người đọc.” Hơn 60 năm cầm bút, ông để lại gần hai trăm tác phẩm với
nhiều thể loại: tiểu thuyết, truyện ngắn, kí, kinh nghiệm sáng tác, kịch
bản điện ảnh,. . Nhà văn Tô Hoài có lối văn trần thuật sinh động, hóm
hỉnh dựa trên vốn từ phong phú của người từng trải và tư duy nhãn
quang phong tục của người am hiểu văn hoá vùng miền. Nhà thơ Trần
Đăng Khoa đã từng ví: “Tô Hoài như một từ điển sống, một pho sách
sống. Ông như cuốn Bách khoa toàn thư mà không viện sĩ nào, không
học giả nào có thể sánh được.” b. Tác phẩm
Truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” viết năm 1952, in trong tập “Truyện
Tây Bắc”, là thành quả của chuyến đi thực tế dài 8 tháng của nhà văn
khi ông cùng với bộ đội lên chiến đấu giải phóng vùng Tây Bắc. Ở đây,
Tô Hoài đã gặp được một cặp vợ chồng du kích người Mông kể về cuộc
đời của họ trong những năm tháng cơ cực trước khi cách mạng đến. Tô
Hoài đã kể: “. .Tôi không bao giờ quên được lúc vợ chồng A Phủ tiễn tôi
ra khỏi hốc núi làng Tà Sùa rồi cùng vẫy tay gọi theo: Chéo lù! Chéo lù!”.
Và có lẽ, truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” chính là một món quà mà tác giả
muốn đem trở lại cho những người thương ấy một kỷ niệm tấm lòng
mình. Tác phẩm vừa là một bức tranh hiện thực về số phận của bọn
chúa đất phong kiến, vừa là bài ca về sức sống và khát vọng tự do,
hạnh phúc của con người. 2. Tóm tắt tác phẩm
Trước khi về làm dâu nhà thống lý, Mị là người con gái trẻ trung,
xinh đẹp, hiếu hạnh và yêu đời. Mị khao khát yêu và đến với tình yêu
của mình nhưng vì món nợ truyền kiếp từ đời cha mẹ Mị để lại, Mị trở
thành con dâu gạt nợ của nhà thống lí Pá Tra, bị đày ải dã man cả về
thể xác lẫn tinh thần. Mị trở thành một cỗ máy lao động, Mị ngày càng
lầm lũi và vô cảm. Mùa xuân về trên mảnh đất Hồng Ngài đã làm sống
dậy sức sống tiềm tàng của Mị. Nhờ tiếng sáo, biểu tượng cho tình yêu
hạnh phúc, nhờ men rượu mà Mị đã thức tỉnh hoàn toàn, Mị muốn đi
chơi, muốn đến với tự do và hạnh phúc nhưng bị A Sử trói đứng, sức
sống vừa trỗi dậy đã bị dập tắt đau đớn nhưng nó sẽ không mất hẳn
mà đang chờ đợi cơ hội để bùng lên lần thứ 2, và đó là đêm mùa đông
ở mảnh đất Hồng Ngài. 3. Phân tích
a. Đoạn 1: “Ai ở xa về có dịp… bịt mắt cõng Mị đi”
Nhà văn Tô Hoài đã mở đầu truyện ngắn “VCAP” bằng điểm nhìn
của “người ở xa về”, tức là người ngoài Hồng Ngài, lần đầu tiên có việc
vào nhà thống lí Pá Tra thường trông thấy một cô con gái. Cô con gái
ấy gây ấn tượng đặc biệt bởi lúc nào cũng ở trạng thái đang làm việc:
quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, cõng nước ở dưới khe suối lên,. . Thêm
nữa là khuôn mặt của cô đầy ám ảnh: “cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn
rười rượi”. Những ấn tượng ban đầu về cô gái khiến bất kì ai cũng thấy
nghi hoặc bởi nhà thống lí nổi tiếng giàu có, nhiều nương, nhiều bạc,
nhiều thuốc phiện nhất làng thì con gái nó còn bao giờ phải xem cái
khổ mà biết khổ, mà buồn. Nhưng ở điểm nhìn thứ hai, thân phận của
Mị trở nên rõ ràng hơn. Cô không phải là con gái mà là con dâu nhà
thống lý, là vợ của A Sử. Tuy nhiên, người nghèo ở Hồng Ngài vẫn kể với
nhau rằng bố mẹ Mị nợ tiền nhà thống lí Pá Tra nên cô đã bị bắt về làm
con dâu để gạt nợ. Thế nhưng Mị lại bị bắt về theo đúng phong tục của
người Mông, được “cúng trình ma” với nghi lễ trang trọng nhất.
Đây là cách giới thiệu nhân vật tạo ra sự cuốn hút cho người đọc.
Ở đó vừa có nét tương đồng với những câu chuyện cổ kể về những
người con gái hiền lành chịu cảnh đày đoạ, ngược đãi, lại vừa có những
nét khác biệt bởi văn hoá, phong tục của người Mông trên núi cao Tây
Bắc. Tất cả những gì thuộc về Mị trong hiện tại như dự báo trước cô
đang sống trong những tháng ngày đầy tăm tối.
Cuộc đời của Mị như cánh hoa ban trong trẻo lại phải sống kiếp
đời trâu ngựa. Trước khi làm dâu, Mị như bông hoa rừng đẹp nhất vùng
Tây Bắc. Tô Hoài đã không miêu tả vẻ đẹp của Mị theo những nét văn
hoá của người miền xuôi mà lại sử dụng tư duy ngôn ngữ và văn hoá
của người Tây Bắc: “Những nhà có con gái, bố mẹ không thể ngủ được
vì tiếng chó sủa. Suốt đêm, con trai đến nhà người mình yêu, đứng thổi sáo xung quanh vách.
Trai đứng nhẵn cả chân vách đầu buồng Mị.” Chi tiết này đã cho
người đọc thấy Mị là niềm ngưỡng mộ và say mê của những chàng trai
Hồng Ngài. Mị còn là một cô gái có tâm hồn đẹp. Tâm hồn đó được thể
hiện qua tài năng thổi sáo: “Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay
như thổi sáo. Có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo
Mị.” Phải chăng Mị đã gửi biết bao tình cảm, biết bao khát khao vào
tiếng sáo ấy khiến vẻ đẹp trong tâm hồn nhạy cảm, trong trái tim thiết
tha yêu cuộc sống của cô đã thông qua tiếng sáo mà làm rung động, mê đắm lòng người.
Không chỉ là một cô gái tài năng, xinh đẹp, Mị còn là một người
yêu tự do, có lòng tự trọng. Cũng như nhiều cô gái khác, Mị khao khát
yêu và đã có người yêu theo sự lựa chọn của mình. Mị đã rất gay gắt
phản đối khi nghe tin thống lý Pá Tra đòi bắt cô về làm con dâu gạt nợ,
cái món nợ từ ngày “bố Mị lấy mẹ Mị không có đủ tiền cưới, phải đến
vay nhà thống lí, bố của thống lí Pá Tra bây giờ.” Mị đã tha thiết cầu xin
bố: “Con nay đã biết cuốc nương làm ngô, con phải làm nương ngô giả
nợ thay cho bố. Bố đừng bán con cho nhà giàu.” Nhiều người cho rằng,
cái suy nghĩ “cuốc nương làm ngô giả nợ” của Mị chỉ là ảo tưởng, bởi cả
bố và mẹ Mị làm quần quật cả đời người còn không trả nổi, huống chi
một mình Mị. Nhưng cái gọi là “ảo tưởng” ấy lại là minh cho bản lĩnh,
cho niềm tin vào tuổi trẻ, vào sức sống mãnh liệt của cô gái người dân
tộc miền núi: Mị thà sống nghèo khổ, thà phải làm việc cực nhọc mà
được tự do, còn hơn là làm dâu cho nhà giàu mà phải trở thành nô lệ.
Có lẽ Mị đủ thấu hiểu về cuộc sống để thấy rằng người đàn bà lấy
chồng nhà giàu ở Hồng Ngài thì một đời chỉ biết đi theo đuôi con ngựa của chồng.
Nhưng dưới ách thống trị của bọn thực dân phong kiến, sự tàn ác
của bọn lãnh chúa thì số phận của Mị như ván bài đã định. Mặc cho Mị
có ý thức hẳn hoi về cuộc sống, về thân phận của mình thì ngang trái
vẫn chụp lên cuộc đời của cô một màu đen tang tóc: Mị bị bắt về làm
con dâu gạt nợ nhà thống lý, làm vợ A Sử. Hai chữ “gạt nợ” nghe thật
xót xa. Mị chỉ biết khóc, “có đến hàng mấy tháng, đêm nào Mị cũng
khóc”, dường như khóc là cách duy nhất để giải toả những đau đớn
trong lòng người con gái bất hạnh ấy. Đau đớn đến tận cùng, Mị chỉ
muốn chết. Mị trốn về tìm bố với “nắm lá ngón trong tay”, Mị “chỉ muốn
ăn để chết”, chết rồi để thoát khỏi cuộc sống cùng quẫn này. Hình ảnh
“lá ngón” xuất hiện lần đầu tiên như một “lối thoát đen”, là lối thoát
dành cho những ai muốn chấm dứt hiện tại nghiệt ngã chứ không phải
lối thoát cho người muốn bước sang một trang mới của cuộc đời. Và sự
xuất hiện của “lá ngón” mang tầm ý nghĩa tố cáo cao độ: Sự dã man
của xã hội ép buộc con người lương thiện đi tìm cái chết.
Thế nhưng Mị lại không đành lòng chết, bởi nếu “Mị chết thì bố Mị
còn khổ hơn bao nhiêu lần bây giờ nữa.” Cho nên, Mị đành cam chịu và
chấp nhận số phận, bởi người con gái tên Mị ấy vẫn luôn đặt chữ “hiếu”
lên đầu. Chính chữ “hiếu” là bản lĩnh cao đẹp nơi người con gái trẻ, Mị
cũng giống như Thuý Kiều:
“Để lời thệ hải minh sơn
Làm con trước phải đền ơn sinh thành”
Tóm lại, là một cô gái hoàn hảo về cả ngoại hình lẫn tài năng và
tâm hồn, cô xứng đáng được tận hưởng một cuộc sống bình yên, hạnh
phúc như bao con người khác. Thế nhưng bi kịch đã đến với cuộc đời
của cô như một ngã rẽ của số phận: Mị bị bắt về làm con dâu gạt nợ,
cô phải trả một món nợ mà cô không phải là người đi vay.
b. Đoạn 2: “Lần lần mấy năm qua… những đêm tình mùa xuân đã tới”
Có lẽ điều trớ trêu nhất đối với Mị chính là ngã rẽ bi kịch cuộc đời
cô lại được bắt đầu bằng một cuộc hôn nhân. Hôn nhân lẽ ra phải đem
đến hạnh phúc, là sự khởi đầu của một tương lai tốt đẹp, một người
con gái làm dâu nhà giàu, nhiều nương, nhiều bạc nhất đất Hồng Ngài,
ắt phải sung sướng, phải được sống trong nhung lụa “còn bao giờ phải
xem cái khổ mà biết khổ, mà buồn”. Nhưng thực tế, Mị lại có một cuộc
sống đầy bất hạnh trong nhà thống lý. Mị đau đớn nhận rằng bản chất
mình là con ở nhưng về hình thức, cô lại con dâu. Thà Mị là con ở thì cô
còn được hi vọng đến một ngày nào đó, món nợ kia hết thì cô sẽ được
tự do. Thế nhưng là con dâu, Mị được bắt về theo đúng phong tục,
cúng trình ma theo đúng nghi lễ thì cuộc đời cô vĩnh viễn bị trói chặt ở nơi này.
Kiếp sống của một người con dâu gạt nợ đã huỷ hoại cuộc đời Mị
một cách âm thầm nhưng ghê gớm bậc nhất. Từ một cô gái trẻ trung,
yêu cuộc sống, Mị trở thành một kẻ sống mà như đã chết. Người ta
thường quen với cái sướng, quen ăn ngon mặc đẹp, đằng này Mị lại
quen với cái khổ: “Ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi”. Dường như Mị
đã hoàn toàn mất đi ý thức, quên đi thời gian, vùi mình trong công việc:
“. . mỗi năm mỗi mùa, mỗi tháng lại làm đi làm lại: Tết xong thì lên núi hái
thuốc phiện, giữa năm thì giặt đay, xe đay, đến mùa thì đi nương bẻ
bắp, và dù lúc đi hái củi, lúc bung ngô, lúc nào cũng gài một bó đay
trong cánh tay để tước thành sợi.” Nhà văn Tô Hoài đã có hai lần so
sánh Mị với những con vật để thấy nỗi đau khổ tột cùng của cuộc đời
cô: “Bây giờ thì Mị tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa”,
rồi Mị trở nên câm nín, “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”. Cách so
sánh này cho người đọc thấy được Mị không chỉ bị bóc lột đến tận
cùng của thể xác mà còn bị đày đoạ về tinh thần đến cùng cực.
Không những thế, không gian sống của Mị ở nhà thống lí cũng
giống như một cái nhà tù: “cái buồng Mị nằm, kín mít, có một chiếc cửa
sổ một lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng
trắng, không biết là sương hay là nắng. Mị nghĩ rằng mình cứ chỉ ngồi
trong cái lỗ vuông ấy mà trông ra, đến bao giờ chết thì thôi.” Đúng là
một cách diễn tả tuyệt hay về chốn địa ngục trần gian. Nó không chỉ là
nơi giam hãm thân xác Mị mà nó còn ngăn cách cô với cuộc đời, vùi
dập tuổi xuân và vắt kiệt nhựa sống của cô. Nó biến Mị từ một cô gái
trẻ trung, phơi phới và tràn đầy sức sống thành một con người vô cảm, câm lặng, lùi lũi.
Quan trọng hơn, đối với một người phụ nữ đi lấy chồng thì chỉ
mong sao lấy được người đàn yêu thương, che chở cho mình, nhưng
“hồng nhan thì bạc phận”, Mị thống khổ về thể xác lại đau đớn hơn cả
về tinh thần, bởi “A Sử với Mị, không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với
nhau”. A Sử chưa bao giờ coi Mị là vợ, nó đánh đập Mị hết sức tàn ác và
dã man. Dưới sự đày đoạ của cha con thống lí đã biến Mị thành nô lệ,
bị tước đoạt tuổi trẻ, quyền tự do và hạnh phúc cá nhân. Dần dần đối
với Mị, thời gian là vô nghĩa, cô cũng đã quên hẳn việc tự tử của những
năm về trước. Còn muốn chết nghĩa là Mị còn ý thức được nỗi đau của
mình, nhưng đến bây giờ cô gái xinh đẹp ấy cũng chẳng còn buồn chết nữa.
Với những chi tiết này, nhà văn Tô Hoài đã tố cáo hiện thực của
đời sống xã hội vùng núi cao Tây Bắc trong giai đoạn trước khi cách
mạng đến. Ở đó, tầng lớp thống trị địa phương đã cấu kết với thực dân
Pháp để tạo nên một bộ máy cai trị đặc biệt: cường quyền bạo lực kết
hợp với thần quyền hủ tục. Đã có biết bao nhiêu con người giống như
Mị bị tước đoạt tự do, đày đoạ sự sống.
Nếu như truyện ngắn “VCAP” chỉ dừng lại ở chỗ nhà văn viết về nỗi
thống khổ, cơ cực của Mị để rồi sau đó cuộc đời cô tàn lụi trong đau
thương thì có lẽ tác phẩm này chỉ có giá trị hiện thực. Tuy nhiên, Tô
Hoài lại là nhà văn luôn khao khát kiếm tìm tình yêu cuộc sống của con
người trong nghịch cảnh. Ông đã phát hiện ra rằng sự sống vẫn tiềm
tàng đâu đó trong con người Mị, giống như một ngọn lửa nằm sâu dưới
lớp tro tàn. Ngọn lửa ấy sẽ bùng cháy lên một cách mạnh mẽ khi có sự
tác động từ ngoại cảnh. Và điều đó đã đến trong mùa xuân với tiếng
sáo gọi bạn tình tha thiết.
Mùa xuân, núi đồi Tây Bắc ngập tràn sắc xuân với “những chiếc
váy hoa đã đem ra phơi trên mỏm đá xoè như con bướm sặc sỡ”, tiếng
trẻ con nô đùa, cười ầm trên sân cùng với đó là “gió thổi vào cỏ gianh
vàng ửng” như báo hiệu một điều gì đó sắp xảy ra trên đất Hồng Ngài.
Trong chuỗi những tín hiệu mùa xuân tác động con người Mị, nhà văn
đã đặc biệt chú ý đến âm thanh của tiếng sáo. Tiếng sáo đối với Mị
không chỉ là tín hiệu để nhắc cô nhớ ra rằng những đêm tình mùa xuân
đã tới mà nó còn là âm thanh của thế giới ngoài kia, một thế giới tự do
đầy mời gọi. Nó là âm thanh của quá khứ, một quá khứ đáng sống.
Tiếng sáo cũng là âm thanh của tình yêu, một giá trị mà Mị đã từng có nhưng bị tước đoạt.
Nhà văn Tô Hoài đã miêu tả diễn biến tâm trạng Mị đi theo hành
trình của tiếng sáo. Đó là hành trình đi tìm lại con người mình của một
trái tim đã chai sạn trong đau khổ và mất mát. Đó là hành trình phục
sinh của một tâm hồn đã từng có những tháng ngày sống mà như đã
chết. Hành trình đó không có sự xuất hiện của một phép màu kì diệu
hay của một lễ nghi tôn giáo nào. Ở đó, chỉ có niềm tin tình yêu của
nhà văn vào giá trị con người.
c. Đoạn 3: “Ngày tết Mị cũng uống rượu… quả pao rơi rồi”
Ngày Tết, Mị cũng uống rượu, “Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ực từng
bát”, cách uống rượu ấy cho thấy được nỗi lòng của Mị, như thể cô
đang muốn nuốt trôi những đắng cay của phần đời đã qua và cũng thể
hiện sự dồn nén, khao khát về đời sống tinh thần. “Tai Mị văng vẳng
tiếng sáo gọi bạn đầu làng”. Tiếng sáo giúp Mị nhớ về quá khứ rõ rệt
hơn: “Ngày trước, Mị thổi sáo giỏi. . Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá
cũng hay như thổi sáo. Có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi
sáo đi theo Mị”. Dường như tiếng sáo đã nhắc Mị về những tháng ngày
thanh xuân tươi đẹp, về tự do tình yêu mà không bao giờ có lại được. Từ
nhớ về quá khứ, đến đây Mị đã biết nuối tiếc quá khứ.
Từ tiếc nuối quá khứ, nhà văn Tô Hoài lại viết về những tâm trạng
của Mị trong thực tại. Khi bữa tiệc rượu đã tàn, mọi người đi chơi hết
nhưng Mị vẫn còn ngồi trơ ra giữa nhà. Từ “trơ” mà Tô Hoài dùng trong
bối cảnh này gợi nhắc đến bài thơ “Tự tình” của Hồ Xuân Hương:
“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non”
Mị cứ ngồi như thế một mình rỗi mãi sau này mới đứng dậy. mọi
người ra ngoài chơi Tết hết cả nhưng riêng Mị lại di chuyển ngược
hướng: Cô bước vào trong phòng của mình như một thói quen. Căn
phòng kín mít, tối tăm đã trói buộc cuộc đời Mị biết bao nhiêu lâu. Mị
cứ ngồi ở đó trông ra, ngoài, chỉ thấy ở ngoài kia là một màu mờ mờ
trăng trắng, không biết là sương hay là nắng.
Tuy nhiên, lần này đối với Mị lại là một sự khác biệt: “Đã từ nãy, Mị
thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm
Tết ngày trước.” Đây là dấu hiệu quan trọng bậc nhất đánh dấu sự hồi
sinh của Mị khi cô sống lại bằng những cảm xúc của tuổi thanh xuân
tươi đẹp. Cũng từ đó, Mị nhận thức được về thực tại của mình bằng con
mắt nhìn hạnh phúc: “Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi.” Tô
Hoài đã sử dụng những câu văn thật ngắn để diễn tả cảm xúc, tâm
trạng. Đó là điểm hạnh phúc nhưng cũng là nỗi đau đớn trong khoảnh
khắc Mị nhận ra bi kịch của cuộc đời mình. “Bao nhiêu người có chồng
cũng đi chơi ngày Tết” trong khi Mị đang ngồi trơ ra một mình ở đây.
Nguyễn Du cũng đã từng viết về khoảnh khắc Thuý Kiều nhận ra thân phận của mình như thế:
“Khi tỉnh rượu lúc tàn canh,
Giật mình, mình lại thương mình xót xa.”
Quá khứ khiến lòng mình chua xót khi nghĩ đến cuộc sống hiện tại.
Trong nỗi xót xa phẫn uất, Mị lại nhận ra rằng: cô với thằng A Sử không
có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau. Ý định ăn lá ngón tự tử của
ngày trước đã từng bị vùi dập vào lãng quên thì giờ đây lại một lần nữa
sống lại trong tâm hồn Mị: “Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ
ăn cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa. Nhớ lại, chỉ thấy nước
mắt ứa ra.” Lại một lần nữa Mị muốn chết, muốn chết để cuộc sống bớt
đau thương hơn, bớt tủi nhục hơn. Ý định ăn là ngón để tự tử dẫu có
tiêu cực nhưng lại là cách để bày tỏ tình yêu cuộc sống đầy tha thiết của con người cô.
Trong lúc Mị đang ở trong trạng thái đầy bi kịch thì tiếng sáo lại
xuất hiện như để an ủi, vỗ về. “Mà tiếng sáo gọi bạn yêu vẫn lửng lơ bay
ngoài đường.” Lần xuất hiện này, tiếng sáo không chỉ đến gần hơn mà
còn mang theo lời bài hát diễn tả tình yêu của chàng trai và cô gái dân
tộc Mông trong những cuộc hẹn hò:
“Anh ném pao, em không bắt
Em không yêu, quả pao rơi rồi…”
Tiếng sáo như thôi thúc và cổ vũ Mị với khát vọng được đi chơi
ngày Tết. Đi chơi Tết là ước mơ tháo cũi sổ lồng, là khát khao được sống
lại trong tình yêu của tuổi trẻ. Đúng lúc ấy thì A Sử trở về. Nó về nhà để
lấy thêm vòng bạc, để tiếp tục đi bắt vợ nhưng đối với Mị, điều đó
không còn quan trọng nữa rồi. Lúc này, Mị chỉ quan tâm đến những cảm xúc của mình.
d. Đoạn 4: “Bây giờ Mị cũng không nói… Mị lại bồi hồi”
Tác giả Tô Hoài đã miêu tả hành động của Mị với tất cả những gì
dứt khoát, mạnh mẽ và tự tin nhất: “Mị đến góc nhà, lấy ống mỡ, xắn
một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng.” Đây là hành động có chủ
đích của Mị. Mị muốn thắp sáng vốn đầy tăm tối và chật hẹp của mình,
và đồng thời cũng thắp sáng cuộc đời mình. Hướng tới ánh sáng là một
dấu hiệu quan trọng của lòng khao khát và ý thức về sự sống.
Lúc này, “trong đầu Mị đang rập rờn tiếng sáo.” Như vậy, tiếng sáo
được tác giả miêu tả theo trình tự từ xa đến gần, ban đầu chỉ là ngoại
cảnh, sau đó đã trở thành tâm cảnh. Tiếng sáo ban đầu mới chỉ lấp ló
ngoài đầu núi, sau đó lửng lơ văng vẳng đầu làng rồi lửng lơ bay ngoài
đường, đến đây đã dập dờn nhảy múa trong đầu Mị. Hiểu như thế để
thấy tiếng sáo từ chỗ đánh thức, cổ vũ, an ủi… rồi đến đây đã mời gọi
Mị trong một vũ điệu say mê và rộn ràng. Người đọc có thể hình dung
bước chân của Mị cũng như đang nhảy múa theo tiếng sáo trong căn
phòng đầy ánh sáng và thêm nữa là trước mắt là thằng A Sử.
Khát vọng đi chơi Tết ban đầu chỉ là ý định thì giờ đây nó đã được
hiện thực hoá bằng hành động. Tô Hoài đã viết hai hành động liên tiếp
của Mị trong một câu văn ngắn: “ Mị quấn lại tóc, Mị với tay lấy cái váy
hoa vắt ở phía trong vách.” Đây là hai hành động nhưng với một mục
tiêu: Mị muốn mình xinh đẹp hơn khi bước ra ngoài đi chơi Tết. Nói cách
khác, cô ý thức về vẻ đẹp của mình, về tuổi trẻ của mình, về khát khao
tự do mà mình đang thực hiện. Đến đây có thể khẳng định sự hồi sinh
của Mị đã hoàn tất từ niềm khao khát về tự do, tình yêu cũng như ý thức về bản thân.
Nhà văn Tô Hoài thật tinh tế và cũng rất thành công trong việc
miêu tả diễn biến tâm trạng của Mị trong đêm tình mùa xuân qua
những câu văn ngắn mang nhịp điệu gấp gáp như thể Mị đang nhanh
chóng, dứt khoát thực hiện hành động giải phóng cho mình, rũ bỏ khỏi
con ma nhà thống lí, thoát khỏi căn buồng kín mít, thoát khỏi chốn địa
ngục trần gian chôn vùi tuổi xuân của cô.
Giấc mơ đi chơi Tết của Mị bị thằng A Sử vùi dập một cách tàn bạo
và lạnh lùng. Ban đầu nó có một chút ngạc nhiên khi thấy Mị cũng
muốn đi chơi Tết nhưng sau đó nó chẳng hỏi thêm mà trói Mị vào cột. “A
Sử bước lại, nắm Mị, lấy thắt lưng trói hai tay Mị. Nó xách cả một thúng
sợi đay ra trói đứng Mị vào cột nhà. Tóc Mị xoã xuống, A Sử quấn luôn
tóc lên cột, làm cho Mị không cúi, không nghiêng được đầu nữa.” Hành
động của A Sử lạnh lùng, tàn nhẫn và vô cảm đến mức hắn không hề
coi trọng Mị là vợ, và càng không coi Mị là một con người. Trói Mị xong,
A Sử tắt đèn, đóng cửa để mặc Mị bị trói đứng như thế trong bóng tối.
A Sử đâu biết rằng, nó chỉ có thể trói được thân xác Mị, còn tâm
hồn Mị vẫn sống trọn vẹn trong thế giới của riêng mình: “Mị đứng im
lặng, như không biết mình đang bị trói. Hơi rượu còn nồng nàn, Mị vẫn
nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi.”
Tiếng sáo kia quá tha thiết, quá mạnh mẽ, nó dìu hồn Mị bay lên trên
hoàn cảnh, là biểu tượng của niềm khao khát sống, khát khao yêu,
khao khát tự do. Như vậy, tiếng sáo trong tình huống này đã cứu rỗi Mị,
đã hoàn thành ước mơ được đi chơi ngày Tết của Mị. Những vòng dây
trói được thân xác cô chứ không thể trói được tâm hồn của cô. Giai
điệu của tiếng sáo đã thôi thúc Mị “vùng bước đi” theo tiếng gọi của tự
do và “vùng đi” như muốn bắt quả pao của người Mị thương. Nhưng
những vòng dây quá chặt đã giữ cô ở lại. Trong chuỗi âm thanh của
đêm tối, Mị không chỉ còn nghe thấy tiếng sáo mà còn lẫn cả vào đó
tiếng chân ngựa. “Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa.”
Mị cứ bị trói đứng như thế suốt đêm, trong một trạng thái cũng
đầy phức tạp: “Lúc thì khắp người bị dây trói thít lại đau nhức. Lúc lại
nồng nàn tha thiết nhớ” Tiếng sáo xuất hiện lần cuối cùng được miêu tả
trong trạng thái cộc lốc, vô nghĩa: “Tiếng sáo. Tiếng chó sủa xa xa.” Đây
là âm thanh cuối cùng khép lại một đêm mà Mị đã hồi sinh với sức sống
tiềm tàng đầy khao khát. Có thể nói, sự hồi sinh đó của Mị tuy diễn ra
âm thầm và không hề được ai biết đến nhưng nó lại có ý nghĩa quan
trọng để chuẩn bị cho đêm mùa đông của người con gái đầy sức sống này.
Nói tóm lại, diễn biến tâm trạng nhân vật Mị trong đêm tình mùa
xuân ở Hồng Ngài đã được tác giả miêu tả bằng ngôn ngữ độc thoại
nội tâm. Ở đó, từng cung bậc cảm xúc của nhân vật được nhắc đến với
chuỗi tâm lí và hành động liên tiếp nhau. Cuộc trỗi dậy lần thứ nhất
của Mị không thành, Mị không thoát ra được cảnh tù ngục ở nhà thống
lí nhưng ít nhất, Mị cũng được sống lại những thời khắc tươi đẹp của
tuổi trẻ. Nhà văn Tô Hoài từng nhận xét: “Nhưng điều kì diệu là dẫu
trong cùng cực đến thế, mọi thế lực tội ác cũng không giết được sức
sống con người. Lay lắt, đói khổ, nhục nhã, Mị vẫn sống âm thầm, tiềm
tàng, mãnh liệt”. Hành động của Mị trong đêm tình mùa xuân tuy bột
phát nhưng hứa hẹn một tương lai bừng cháy ở phía trước. Nó sẽ bùng
cháy thành tinh thần phản kháng trong đêm đông.
e. Đoạn 5: “Những đêm mùa đông trên núi cao… phảng phất nghĩ như vậy”
Nếu trong đoạn trích miêu tả đêm tình mùa xuân, Tô Hoài đã nhắc
đến những tín hiệu tích cực, đặc biệt là tiếng sáo để đánh thức khát
vọng sống trong Mị thì trong đêm mùa đông chỉ có cái lạnh đến tê dại
và bóng tối chập chùng bủa vây. Mùa đông trên núi cao vùng Tây Bắc
lạnh thấu xương, ai cũng cố khoác thêm cho mình những tấm áo dày
nhất để giữ ấm cho cơ thể, và Mị cũng không ngoại lệ. Đêm mùa đông
của Mị không có tiếng sáo gọi bạn tha thiết, không có hơi rượu nồng
nàn, để vượt qua cái giá lạnh, Mị chỉ có bếp lửa để sưởi ấm, “nếu không
có bếp lửa sưởi kia thì Mị cũng đến chết héo”. “Có đêm A Sử chợt về,
thấy Mị ngồi đấy, A Sử đánh Mị ngã ngay xuống cửa bếp. Nhưng đêm
sau Mị vẫn ra sưởi như đêm trước.” Sau bao biến cố xảy ra, Mị không
còn tha thiết với cuộc sống nữa nhưng lại vẫn dậy thổi lửa, phải chăng
cô vẫn nuôi dưỡng một ước vọng mong manh để sưởi ấm cuộc đời lạnh
lẽo của mình, kể cả khi bị A Sử đánh.
Bối cảnh đêm mùa đông như kéo Mị xuống sâu của đáy cực vô
cảm. Vì thế để viết về tinh thần đấu tranh và khát vọng tự do của ở
người con gái này, chắc chắn Tô Hoài phải tạo ra những bước ngoặt hết sức đặc biệt.
Ban đầu, khi nhìn thấy A Phủ bị trói đứng, Mị hoàn toàn vô cảm.
Suốt mấy đêm Mị dậy sớm sưởi lửa, “khi nghe tiếng phù phù thổi bếp, A
Phủ lại mở mắt. Ngọn lửa sưởi bùng lên, cùng lúc ấy thì Mị cũng nhìn
sang, thấy mắt A Phủ trừng trừng, mới biết A Phủ còn sống…” Những
câu văn ghi lại cảm xúc rất đỗi thản nhiên của Mị khi nhìn thấy một
người khác bị trói đứng ngay trước mặt mình. Mị thản nhiên tới mức
“nếu A Phủ là cái xác chết đứng đấy, cũng thế thôi.” Sự vô cảm của Mị
như liều thuốc độc giết chết một mạng người đang cận kề cái chết.
Với cách miêu tả diễn biến tâm lý nhân vật ở cung bậc đi đến tận
cùng của sự vô cảm như thế, Tô Hoài đã đẩy Mị và A Phủ về phía hai
đầu của ranh giới: Một bên là tuyệt vọng đau khổ, một bên là vô cảm
dửng dưng. “Ngọn lửa bập bùng sáng lên, Mị lé mắt trông sang, thấy
hai mắt A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai
hõm má đã xám đen lại.” Thời khắc nhìn thấy dòng nước mắt của A Phủ,
Mị mới “thức tỉnh”. Một nhà phê bình văn học nổi tiếng đã từng nói: “Khi
tình thương chạm vào trái tim thì cho dù sỏi đá cũng thành châu lệ.”
Nước mắt của A Phủ là biểu hiện của sự tuyệt vọng ở con người khi cảm
nhận cái chết đang đến với mình rất gần nhưng không thể làm gì khác
được. Thế nhưng điều kì diệu là dòng nước mắt tuyệt vọng ấy lại kết nối
được với Mị để đánh thức những hi vọng, làm hồi sinh tình thương
người trong Mị. Giọt nước mắt của thân phận nô lệ đang bất lực trước
số phận, không chỉ chảy trên gò má xám đen của A Phủ mà nó còn
chảy vào cả trái tim băng giá của Mị.
Nhìn thấy A Phủ bị trói, Mị nhớ lại ngày trước, cô cũng từng bị trói
như thế. “Nhiều lần khóc, nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ, không
biết lau đi được”. Đây là sự đồng cảm của những con người cùng cảnh
ngộ nên đã tìm thấy sự chia sẻ trong khoảnh khắc tột cùng của đau
thương. Nước mắt của những kẻ khốn cùng luôn giống nhau. Hai thân
phận con người bị đày đoạ, tìm thấy niềm thương cảm ở nhau giống
như câu nói trong dân gian: “Trông người lại nghĩ đến thân”.
Mị nhớ về quá khứ, nhớ cả đến việc cô đã từng chứng kiến một
người đàn bà bị trói đến chết trong nhà này. Người đàn bà ấy, tiếp đến
là A Phủ, và rồi tiếp theo sẽ là Mị. Khi phải chứng kiến cái chết của
người khác ngay trước mắt mình, trong nỗi đau khổ và tuyệt vọng, chắc
chắn Mị sẽ vô cùng ám ảnh. Và rồi điều đó đang chuẩn bị diễn ra thêm
một lần nữa. Mị hiểu cảm giác bị trói đứng đến chết là như thế nào. Ở
đoạn văn này, tuy nhà văn Tô Hoài không hề đề cập đến nỗi đau về thể
xác của Mị, cũng không hề viết về nỗi tủi nhục của A Phủ nhưng tất cả
đều hiện lên rất rõ. Mị cảm nhận được nỗi đau của A Phủ bằng chính
những cảm xúc xuất phát từ nỗi đau của chính mình.
Lần đầu tiên trong Mị xuất hiện một lời phán xét: “Chúng nó thật
độc ác” - điều mà từ trước đến nay, ngay cả khi chính mình bị trói đến
không cựa được, Mị cũng chưa bao giờ nghĩ tới. Đây là lời phán xét Mị
dành cho cha con nhà thống lí, cho kẻ mà cô phải gọi là chồng. Đưa ra
lời phán xét ấy đồng nghĩa với việc Mị phải đứng về phía những người
khốn khổ, trong đó có cả chính cô để kết án gia đình nhà thống lí. Điều
đó cho thấy cô không những không thuộc về nơi này mà còn phẫn uất,
căm hờn trước sự độc ác của gia đình nhà chồng. Đó chính là nền tảng
quan trọng để Mị có được tinh thần phản kháng sau này.
Mị dự báo trước cái chết sẽ đến với A Phủ trong một tương lai gần:
“Cơ chừng này chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết
rét, phải chết.” Chỉ trong một câu văn ngắn mà chữ “chết được” lặp lại
tới 5 lần cho thấy điều đó sẽ đến với A Phủ như một điều tất yếu và vô
cùng đau đớn. Điều quan trọng là Mị sẽ phải thêm một lần nữa chứng
kiến cái chết. Cô so sánh cảnh ngộ của “người kia” với bản thân mình
để phát hiện ra điều vô lý: “Ta là thân đàn bà, nó đã bắt ta về trình ma
nhà nó rồi thì chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi. . Người kia việc
gì mà phải chết thế.”
f. Đoạn 6: “Đám than đã vạc hẳn lửa… chạy xuống dốc núi”
Mị cứ ngồi như thế suốt đêm đến mức “đám than đã vạc hẳn lửa”.
Cô cũng không thổi thêm lửa, cũng chẳng đứng lên mà cứ ngồi như thế
để nghĩ về đời mình. Ở trong cô xuất hiện một giả định: “như có thể một
lúc nào, biết đâu A Phủ chẳng đã trốn được rồi, lúc ấy bố con Pá Tra sẽ
bảo là Mị đã cởi trói cho nó, Mị liền phải trói thay vào đấy, Mị phải chết
trên cái cọc ấy.” Nghĩ như thế, trong tình cảnh này, làm sao Mị cũng
không thấy sợ. Khi nghĩ đến cái chết, Mị không thấy sợ nữa, không phải
vì cô liều lĩnh mà Mị thấy cái chết của mình có ý nghĩa khi đem lại sự sống cho người khác.
Những luồng suy nghĩ của Mị trước khi đưa ra quyết định cắt dây
trói cho A Phủ được nhà văn miêu tả theo một chuỗi logic và diễn biến
tâm lý của ngôn ngữ độc thoại nội tâm. Tất cả diễn ra âm thầm nhưng
đầy quyết liệt để từ đó chứng minh: Hành động của Mị khi cắt dây trói
cho A Phủ đến từ lí trí chứ không phải cảm xúc.
Tô Hoài đã dụng công miêu tả chuỗi diễn biến tâm lí nhân vật
trong một đoạn văn rất dài nhưng khi miêu tả hành động ấy là bằng
những câu văn thật ngắn. Mặc dù đã suy nghĩ trước khi đưa ra quyết
định nhưng để thực hiện nó cũng không hề đơn giản. Mị “rón rén” lại
gần A Phủ, rút con dao nhỏ cắt lúa, cắt nút dây mây. “Đến lúc gỡ được
hết dây trói ở người A Phủ thì Mị cũng hốt hoảng, Mị chỉ thì thào được
một tiếng “Đi ngay. .”, rồi Mị nghẹn lại.” Đó là toàn bộ cảm xúc và hành
động của Mị khi thực hiện ý định cắt dây trói cho A Phủ. Mị thực hiện
hành động đó trong nỗi sợ hãi nhưng vô cùng rõ ràng, cô không ngừng
lại bất cứ thao tác nào. Mị đã chiến thắng được nỗi sợ hãi để cắt dây
trói cho A Phủ cho dù có rón rén, hốt hoảng. Khoảnh khắc Mị nghẹn lại
khi cô giải phóng cho A Phủ chính là khi cô chấp nhận cái chết sẽ đến với mình.
Sau khi hoàn tất ý định giải cứu A Phủ, Mị vẫn chưa hề xuất hiện
suy nghĩ sẽ cùng A Phủ chạy trốn khỏi Hồng Ngài. Cô vẫn chấp nhận ở
lại đó để đối mặt với cái chết. Thế nhưng trong khoảnh khắc Mị nghẹn
lại. Để chấp nhận cái chết, cô lại được chứng kiến cảnh tượng: “A Phủ
bỗng khuỵu xuống, không bước nổi. Nhưng trước cái chết có thể đến
nơi ngay, A Phủ lại quật sức vùng lên, chạy” Khoảnh khắc đó của A Phủ
đã tác động đến Mị thật ghê gớm. Đó là bản năng, là khát vọng tự do
của con người khi có cơ hội là sẵn sàng quật sức lên chạy mà không hề chần chừ.
Chứng kiến khoảnh khắc đó, chắc chắn Mị đã suy nghĩ rất nhiều.
Ở trong cảm xúc của người phụ nữ này đang đứng trước ranh giới
mang tính bước ngoặt của cuộc đời. Đường ranh giới ấy được nhà văn
thể hiện trong câu “Mị đứng lặng trong bóng tối.” Câu văn chỉ có sáu
chữ được Tô Hoài tách riêng thành một đoạn độc lập. Tính chất quan
trọng của nó như cho thấy Mị ở trong trạng thái tâm lý đầy giông bão
khi đưa ra quyết định. Ta có thể hình dung được tâm lí ngổn ngang
trăm mối của Mị lúc này: chạy theo A Phủ hay ở lại chờ chết? Chấp
nhận cuộc sống trong nhà thống lý hay vùng lên giải thoát? Liệu rằng
Mị sẽ chết thay A Phủ ở cái cọc ấy?. . Cuối cùng, sức sống mãnh liệt
trong Mị thôi thúc, Mị vụt chạy theo A Phủ.
Tô Hoài đã hết sức tinh tế khi ở trong bước ngoặt này không miêu
tả Mị đang nghĩ gì giống như ở trên mà trục tiếp diễn tả kết quả của
quá trình suy nghĩ ấy qua hành động: “Rồi Mị cũng vụt chạy ra. Trời tối
lắm. Nhưng Mị vẫn băng đi. Mị đuổi kịp A Phủ…”. Bước chân “băng đi”
của Mị đạp đổ mọi áp chế, cường quyền và thần quyền của bọn lãnh
chúa phong kiến đã đè nặng tâm hồn Mị suốt bao nhiêu năm qua. Mị
gọi với theo A Phủ: “A Phủ cho tôi đi. Ở đây thì chết mất.” Câu nói trong
giây phút hỗn loạn đó chính khao khát sống, khát khao tự do mãnh liệt
của Mị. Câu nói ấy khi phát ra làm quặn đau trái tim độc giả, bởi nó
chính là nguyên nhân - hệ quả của việc Mị cắt đứt sợi dây vô hình ràng
buộc cuộc đời của mình với nhà thống lí Pá Tra.
Như vậy, trong đêm mùa đông, Mị đã hoàn toàn chủ động trong
việc thực hiện giải phóng cho A Phủ và tự giải thoát cho chính mình.
Nói cách khác, Mị đã chủ động cắt đứt sợi dây trói hữu hình - dây trói
của cường quyền để giải thoát cho A Phủ và dây trói vô hình - dây trói
của thần quyền để giải thoát cho chính mình. Toàn bộ những bước
ngoặt quan trọng đó đều đến từ những suy nghĩ tự thân, tự ý thức đấu
tranh của một trái tim yêu tự do và giàu khát vọng sống. Đó chính là
thông điệp quan trọng bậc nhất của tác phẩm “VCAP”. Thông điệp về
cảm hứng tự giải phóng. Mị và A Phủ đại diện cho thế hệ trẻ vùng núi
cao Tây Bắc đã biết chiến đấu và chiến thắng quyền lực và hủ tục để đi
tìm tự do cho chính mình trước khi cách mạng đến. 4. Đánh giá chung a. Giá trị nhân đạo
Giá trị nhân đạo là một giá trị cơ bản của tác phẩm văn học chân
chính. Nó được tạo nên bởi niềm cảm thông sâu sắc đối với nỗi đau
khổ, là sự nâng niu, trân quý những nét đẹp trong tâm hồn con người
và cũng là lòng tin vào khả năng vươn dậy của họ, đồng thời lên án
những thế lực tàn bạo đen tối đã chà đạp lên quyền sống, quyền hạnh
phúc và phẩm giá con người. Truyện ngắn “VCAP” đã để lại tinh thần
nhân đạo, nhân văn sâu sắc, thấm được trên mỗi trang sách của nhà
văn Tô Hoài qua cuộc đời hai nhân vật Mị và A Phủ. Ở đó là niềm cảm
thông sâu sắc của nhà văn đối với những số phận bất hạnh, bị tước
đoạt quyền sống, quyền tự do, bị đày đoạ, lăng nhục cả về thể xác lẫn
tinh thần. Tác phẩm là tiếng nói lên án thế lực cường quyền vùng cao
cùng những hủ tục tồn tại lâu đời nơi đây. Qua việc khắc hoạ nhân vật
Mị, nhà văn Tô Hoài đã phát hiện và trân trọng ngợi ca phẩm chất cao
quý của con người lao động, đồng thời bày tỏ niềm tin mãnh liệt vào
sức vươn dậy của con người dù trong hoàn cảnh đoạ đày. b. Giá trị hiện thực
Giá trị hiện thực là hiện thực đời sống mà tác giả phản ánh trong
tác phẩm. Đó là những gì diễn ra trong cuộc sống được tác giả đưa vào
tác phẩm. Ở mỗi một tác phẩm văn học, giá trị hiện thực được thể hiện
theo những cách đặc biệt khác nhau. Truyện ngắn “VCAP” đã tái hiện lại
cuộc sống của con người miền núi Tây Bắc trước ngày giải phóng với
những hủ tục vẫn còn tồn tại như kìm hãm sự phát triển của con người.
Đồng thời tác phẩm cũng đã tố cáo tội ác của giai cấp thống trị miền núi phía Bắc. c. Giá trị nghệ thuật
Nhà văn Tô Hoài xây dựng nhân vật Mị với nhiều điểm nghệ thuật
đặc sắc. Trần thuật hấp dẫn, giới thiệu nhân vật tự nhiên mà ấn tượng,
kể chuyện ngắn gọn, dẫn dắt tình tiết khéo léo. Biệt tài miêu tả tâm lí
nhân vật sắc sảo, đặc biệt tâm trạng và hành động khá phức tạp của
Mị được diễn tả một cách cụ thể, hợp lý. Ngôn ngữ kể chuyện sinh
động, chọn lọc, sáng tạo, giàu chất thơ. III. Kết bài:
Trong sáng tác văn chương "nhà văn có thể viết về bóng tối nhưng
từ bóng tối phải hướng đến ánh sáng". Phải chăng, cũng vì lẽ đó mà “Vợ
chồng A Phủ” đã được Tô Hoài viết lên để gửi gắm những giá trị nhân
văn cao cả. Tác phẩm là câu chuyện về những người dân lao động vùng
cao Tây Bắc không cam chịu áp bức và vùng lên phản kháng, tìm cuộc
sống tự do. Sự “đổi đời” của các nhân vật trong tác phẩm không phải
nhờ có phép màu của ông Bụt, bà Tiên mà từ chính sức mạnh, tiềm lực
bên trong của họ. Tác phẩm từ đầu đến cuối đều thể hiện tiếng nói
thương yêu, ca ngợi, tin tưởng con người. Đó chính là lí do khiến “Truyện
Tây Bắc” đạt giải nhất truyện ngắn – giải thưởng do Hội nghệ sĩ Việt
Nam trao tặng năm 1954 – 1955.