



















Preview text:
lOMoAR cPSD| 60857655
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HÓA HÀ NÔỊ
KHOA DI SẢN VĂN HÓA
XÂY DỰNG CHƯƠNG TRÌNH
GIÁO DỤC NGHỆ THUẬT TẠI BẢO TÀNG MỸ THUẬT VIỆT NAM
Giảng viên hướng dẫn: Đinh Văn Hiển
Môn: Giáo dục nghệ thuật
Nhóm: 3 (Nhóm trưởng Vũ Hải Anh) Hà Nội, 2022
I. Giới thiệu về lịch sử Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam và tranh Tứ Bình.
1. Lịch sử hình thành của Bảo tàng
Nằm trong hệ thống các bảo tàng quốc Gia Việt Nam. Trực thuộc của Bộ Văn
hóa Thể thao và Du lịch, Bảo tàng Mỹ Thuật Việt Nam được đánh giá là một trong
những bảo tàng có giá trị quan trọng nhất trong việc lưu giữ và phát huy kho tàng di
sản văn hóa nghệ thuật của cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
Thành lập ngày 24 tháng 6 năm 1966, sứ mệnh của Bảo tàng là nghiên cứu và
sưu tầm, kiểm kê, bảo quản, tu sửa, phục chế, trưng bày, giáo dục, truyền thông và
phát huy giá trị các tài liệu, hiện vật, các tác phẩm nghệ thuật tiêu biểu của nước nhà
tới công chúng trong nước và nước ngoài.
Bảo tàng Mỹ Thuật Việt Nam nằm tại địa chỉ 66 Nguyễn Thái Học, Quận Ba
Đình, Hà Nội. Bảo tàng thu hút một số lượng lớn du khách trong và ngoài nước
không chỉ bởi chất lượng của các sưu tập hiện vật, mà còn ở cả phần kiến thức nghệ
thuật và tòa nhà lịch sử.
Bảo tàng được xây dựng từ thời Pháp thuộc, nguyên là nơi ăn ở cho con gái các
quan chức Pháp trên toàn Đông Dương về học tại Hà Nội.
Năm 1962, Nhà nước giao ngôi nhà cho Bộ Văn hóa để sửa sang thành nơi sưu
tầm, trưng bày và lưu giữ các tác phẩm nghệ thuật tiêu biểu, có giá trị của Việt Nam
từ thời Tiền sử cho đến nay. Từ một ngôi nhà có kiến trúc Châu Âu, tòa nhà đã được
cải tạo mang nhiều nét kiến trúc Việt Nam, phù hợp với chức năng một bảo tàng Mỹ thuật.
Năm 1966, Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam chính thức mở cửa đón khách tham
quan. Diện tích toàn bộ khuôn viên Bảo tàng đến nay khoảng 4.737m2 trong đó diện
tích trưng bày trên 3.000m2. Bên cạnh không gian trưng bày thường xuyên, Bảo tàng
có không gian Trưng bày chuyên đề, Không gian sáng tạo cho trẻ em và Không gian
ẩm thực và đồ uống. Ngoài trụ sở chính tại đường Nguyễn Thái Học, Bảo tàng còn
có cơ sở 2 tại Hoàng Cầu - Ô Chợ Dừa (Hà Nội) với một không gian lớn, trang thiết
bị đầy đủ, hiện đại, được sử dụng để bảo quản và phục chế các tác phẩm nghệ thuật,
cũng như tổ chức các cuộc hội thảo khoa học trong nước và quốc tế.
Nghiên cứu, Sưu tầm là một trong những hoạt động trọng tâm nhất của Bảo tàng
Mỹ thuật Việt Nam. Hơn 50 năm qua, Bảo tàng đã có nhiều công trình nghiên cứu
mỹ thuật có giá trị, đặc biệt là các công trình nghiên cứu mỹ thuật cổ đại và mỹ thuật
cận-hiện đại, làm cơ sở cho việc sưu tầm hiện vật và xây dựng nội dung trưng bày
Bảo tàng những ngày đầu thành lập. Bảo tàng đã tổ chức nhiều cuộc hội thảo về mỹ
thuật và bảo tàng học. Các công trình nghiên cứu và hội thảo khoa học đã góp phần
xây dựng một hệ thống lý thuyết và tư liệu quý, làm cơ sở lý luận phục vụ các hoạt
động chuyên môn của Bảo tàng.
Công tác sưu tầm, bổ sung hiện vật được các thế hệ lãnh đạo Bảo tàng đặc biệt
quan tâm. Ngay sau khi được thành lập, Bảo tàng đã tổ chức các cuộc điền dã tại các
di tích của nhiều địa phương trong cả nước để sưu tầm bổ sung thêm hiện vật mỹ
thuật cổ; đi sưu tầm các tác phẩm mỹ thuật điêu khắc, hội họa, đồ họa tại các cuộc
triển lãm mỹ thuật và từ các bộ sưu tập của cá nhân, của các họa sĩ, nhà điêu khắc để
bổ sung cho mỹ thuật cận-hiện đại, đương đại.
Với sự cố gắng và nỗ lực, đến nay, Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam đã sưu tầm,
lưu giữ được một khối lượng gần 20.000 hiện vật, tác phẩm mỹ thuật có giá trị, phản
ánh được cơ bản lịch sử phát triển của nền Mỹ thuật Việt Nam, một nền mỹ thuật lâu
đời, phong phú, đa dạng và đậm đà bản sắc dân tộc. Đặc biệt là bộ sưu tập của các
thế hệ họa sĩ Mỹ thuật Đông Dương có một chỗ đứng quan trọng, đánh dấu một giai
đoạn phát triển rực rỡ của nền Mỹ thuật Việt Nam.
Đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khách tham quan và có thể giới thiệu số
lượng hiện vật sưu tầm ngày càng nhiều, Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam mở rộng diện
tích trưng bày (từ 1.000m2 lúc ban đầu đến nay đã có 3.000m2). Trong hai thập niên
70-80 của thế kỷ 20, Bảo tàng xây dựng thêm khu nhà B (1977). Vào thập niên 90,
Bảo tàng mở rộng thêm diện tích khu vực nhà A (tòa nhà chính) về phía sau nhằm
thực hiện một hướng trưng bày mới, theo đó ưu tiên phần trưng bày Mỹ thuật Cổ đại.
Các tác phẩm mỹ thuật tạo hình cận-hiện đại được trưng bày một cách trang trọng,
khoa học, gây ấn tượng, phản ánh được một giai đoạn phát triển rực rỡ của thế hệ
các họa sĩ Mỹ thuật Đông Dương và những giai đoạn tiếp theo. Bên cạnh đó, Bảo
tàng tiếp tục mở rộng, khai thác các diện tích còn trống như sử dụng tầng hầm nhà B
để trưng bày sưu tập gốm.
Đến nay, Bảo tàng giới thiệu gần 2.000 hiện vật tại hệ thống trưng bày thường
xuyên. Hiện vật trưng bày tăng lên về cả số lượng và chất lượng; giải pháp trưng bày
khoa học, hợp lý, hấp dẫn; hệ thống chú thích rõ ràng; hệ thống ánh sáng hiện đại
v.v… đáp ứng được yêu cầu của một Bảo tàng hiện đại và nhu cầu của khách tham
quan. Ngoài hệ thống trưng bày thường xuyên, hằng năm, Bảo tàng tổ chức nhiều
cuộc triển lãm lưu động tại các địa phương trong cả nước và các nước trên thế giới
như: Hoa Kỳ, Nga, Anh, Pháp, Ý, Tây Ban Nha, Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore,
Lào v.v... Thêm vào đó, nhiều triển lãm của các tổ chức, cá nhân trong nước và nước
ngoài diễn ra tại Bảo tàng, tạo một sân chơi cho giới mỹ thuật.
Trong những năm gần đây, công tác thuyết minh, hướng dẫn khách và công tác
giáo dục của Bảo tàng được đặc biệt quan tâm và đi vào hoạt động có hiệu quả. Công
chúng trong và ngoài nước đến với Bảo tàng ngày càng đông. Bảo tàng đã xây dựng
được nhiều chương trình tham quan theo các chủ đề đa dạng nhằm phục vụ du khách,
nhất là các tour du lịch.
Bảo quản hiện vật là hoạt động chuyên môn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong
mỗi Bảo tàng. Năm 1972, Phòng Phục chế được thành lập trên cơ sở Tổ Trang trí,
Phục chế, với các bộ phận chuyên môn khác nhau như: Tranh sơn mài, sơn dầu, điêu
khắc, giấy, lụa. Sau nhiều lần đổi tên, năm 2006, Trung tâm Bảo quản, Tu sửa tác
phẩm mỹ thuật chính thức ra đời theo quyết định của Bộ Văn hóa - Thông tin.
Trong nhiều năm qua, Trung tâm BQTSTPMT đã thực hiện công tác tu sửa, bảo
quản, bảo dưỡng các tác phẩm hiện vật điêu khắc, sơn mài, sơn dầu, giấy, lụa, hạn,
chế được sự xuống cấp của hiện vật, làm tăng thêm tuổi thọ cho hiện vật của Bảo
tàng, góp phần giảm chi phí cho ngân sách Nhà nước trong khi chúng ta chưa có đủ
điều kiện kinh phí thuê chuyên gia nước ngoài thực hiện. Bên cạnh đó, Trung tâm
cũng đã thực hiện một số dự án tu sửa cho các tổ chức khác như: bảo quản tu sửa các
hiện vật cho Hội trường Dinh Thống nhất, Bảo tàng Tôn Đức Thắng, Bảo tàng Quảng
Ninh, Khu di tích Phủ Chủ Tịch, Khu di tích Nhà Rồng, Trung tâm nghệ Thuật Lê
Bá Đảng - Điềm Phùng Thị, khảo sát đánh giá tình trạng hiện vật và đưa ra phương
án bảo quản tu sửa các tác phẩm hiện vật cho Bảo tàng
Cayxonphonvihan của Lào và lập chương trình cùng Lào thực hiện bảo quản tu sửa một số tác phẩm v.v...
Những năm gần đây, Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam với Trung tâm là nòng cốt đã
phối hợp cùng Viện Goethe và trường Đại học Mỹ thuật Dresden tổ chức các đợt tập
huấn do chuyên gia Đức thực hiện nhằm nâng cao trình độ chuyên môn cho cán bộ
của Trung tâm và một số bảo tàng bạn, đẩy mạnh các hoạt động bảo quản, tu sửa của
BẢo tàng Mỹ Thuật Việt Nam, đồng thời tạo cơ sở để từng bước phát triển tổ chức
và hoạt động của Trung tâm BQTSTPMT trở thành một trung tâm quốc gia trong tương lai.
Hiện nay, các trang thiết bị phục vụ cho công tác tu sửa, bảo quản dần được đầu
tư, nâng cấp, đội ngũ cán bộ Trung tâm làm công tác bảo quản tu sửa tiếp tục được
bồi dưỡng, đào tạo về chuyên môn, nghiệp vụ về công tác bảo quản, tu sửa, phục chế
các chất liệu như sơn dầu, giấy, gỗ v.v… do các chuyên gia phục chế nước ngoài hướng dẫn thực hiện.
Qua những hoạt động về công tác bảo quản, tu sửa tác phẩm hiện vật, Trung
tâm Bảo quản, Tu sửa tác phẩm mỹ thuật đã thể hiện được vai trò của mình, đồng
thời chuẩn bị cho hướng phát triển để trở thành một trung tâm mang tầm quốc gia
theo chỉ đạo của Bộ Văn hóa, Thể Thao và Du Lịch.
Với chủ trương mở rộng giao lưu, hợp tác quốc tế về lĩnh vực Mỹ thuật và Bảo
tàng, Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam đã tổ chức nhiều cuộc triển lãm giới thiệu các bộ
sưu tập Mỹ thuật tại các nước trên thế giới (Hoa Kỳ, Pháp, Anh, Tây Ban Nha, Nhật
Bản, Hàn Quốc, Singapore, Lào…), đồng thời tổ chức nhiều cuộc triển lãm Mỹ thuật
của các tổ chức, cá nhân họa sĩ nước ngoài tại Bảo tàng (Hoa Kỳ, Tây Ban Nha, Nga,
Đức, Ý, Nhật Bản, Hàn Quốc, Philippines, Hungary…). Bảo tàng xây dựng mối quan
hệ hợp tác với các nước về công tác tu sửa phục chế tác phẩm Mỹ thuật (Cộng Hòa
Liên Bang Đức, Australia, Nhật Bản…), công tác giáo dục bảo tàng (Bỉ), cử nhiều
đoàn cán bộ chuyên môn đi học tập, nghiên cứu ở nước ngoài và tham gia các hội
thảo quốc tế, là thành viên của các tổ chức Bảo tàng thế giới (Tổ chức ICOM, diễn
đàn các Bảo tàng Nghệ thuật Châu Á, tổ chức SPAFA…). Ngoài ra, Bảo tàng còn
nhận được sự ủng hộ, tài trợ của một số tổ chức, cá nhân về tài chính, nhân lực giúp
cho các hoạt động chuyên môn.
2. Giới thiệu về Tranh Tứ Bình
2.1. Lịch sử ra đời của Tranh Tứ Bình
Tranh Tứ Bình là dòng tranh có bố cục gồm 4 bức tranh, mỗi bức tranh biểu
tượng cho các mùa trong năm: Xuân – Hạ – Thu – Đông.
Ngày xưa trong cung vua, phủ chúa, quan lại giàu có, những nơi sang trọng,
quý phái người ta gọi là các bức tứ quý dùng để treo trong nhà. Còn khi những bức
tranh này treo trong nhà thường dân, được làm từ giấy thì những bức tranh này không
được gọi là tứ quý mà gọi là tứ bình.
Những trên thực tế thì người ta gọi tranh tứ quý là loại tranh bao gồm 4 loài cây,
hoa mọc trên đất cùng với 4 loài chim tương ứng, còn tranh tứ bình là tranh về 4 loài
cây, hoa mọc được đặt trong bình. Do đó về khía cạnh mục đích sử dụng thì sẽ không
có sự phân chia sang hàn giữa 2 dòng tranh phong thủy này.
2.2. Bố cục tranh tứ bình như sau:
Tranh tứ bình không giống với các bức tranh khác, nó là dòng tranh thể hiện các
mùa trong năm nên bố cục của nó tuân theo đúng quy luật như sau:
– Mùa xuân: có các loài hoa như hoa mai, hoa đào, hoa lan thì loài chim
tươngứng là chim khổng tước (điển hình là hoa mai/chim điểu).
– Mùa hạ: Cây trúc, hoa sen, hoa hồng, hoa lựu thì loài tương ứng chim công
trống (điển hình là hoa hồng/chim công).
– Mùa thu: Hoa cúc, hoa phù dung ứng với con gà ( điển hình là cúc/kê).
– Mùa đông: Cây tùng (hay còn gọi là cây thông) loài cây đại diện cho mùa
đông sẽ tương ứng với chim hạc (điển hình là tùng/hạc).
2.3. Các loại tranh tứ bình các bạn có thể tham khảo như sau:
Đào – Trúc – Cúc – Tùng
Mai – Trúc – Cúc – Tùng
Mai – Trúc – Cúc – Lan
Mai – Trúc – Cúc – Sen Mai – Sen – Cúc – Tùng
Tranh tứ bình có nhiều loại khác nhau nhưng chung quy lại nó đều là bốn bức
tranh biểu tượng cho 4 mùa trong năm: xuân, hạ, thu, đông.
2.4. Ý nghĩa của bức tranh Tứ bình
Mỗi bộ tranh tứ quý đều mang những ý nghĩa đặc biệt riêng thể hiện hàm ý về
thời gian cũng như cuộc sống xoay chuyển của con người. Thời gian ở đây được hiểu
với tính chất luân hồi, sự vật hữu sinh hữu diệt cùng với quy luật nhân quả diễn ra
nối tiếp nhau tạo nên cuộc sống đầy thú vị. Cùng với đó, những loại cây cỏ được thể
hiện trong tranh cũng mang ý nghĩa tượng trưng cho phẩm chất, tính cách của con
người và đó là những phẩm chất cao quý của bậc quân tử, đại trượng phu:
• Mai là tượng trưng cho sự trong trắng trong khổ hàn.
• Lan là tượng trưng cho sự mỹ miều trong sinh sôi, nảy nở.
• Trúc là tượng trưng cho sự thanh cao không vướng bụi trần.
• Cúc là tượng trưng cho sự tốt đẹp, may mắn trong thành quả.
Ngoài ra, bức tranh tứ bình được ưa chuộng nhất chính tranh tứ bình xuân, hạ,
thu, đông. Và do đó, bạn sẽ thấy: các bức tranh riêng biệt diễn tả các nét khác nhau
của bốn mùa. Nhưng qua đó, dựa vào màu sắc tương đồng và cùng một chủ đề.
Người treo tranh tứ quý không chỉ là để trang trí mà còn mang nhiều ý nghĩa
mong cầu may mắn, phú quý, sung túc và mang cả những yếu tố phong thủy trong đó. – Mùa Xuân:
Nhắc đến mùa xuân là người ta liên tưởng ngay đến sự sinh sôi, nảy nở. Là mùa
của sự sống, bởi nó kết thúc một mùa đông khắc nghiệt, mọi hoạt động trở nên thiếu
sinh khí, hơi ấm của mùa xuân tràn về cùng là mùa hoa mai nở rộ.
Chính vì thế mà hoa mai – là biểu tượng của mùa xuân. Điều đặc biệt ở dòng
hoa mai là khi những bông hoa nở thì cũng là lúc các lá xanh bắt đầu rụng. Nó giống
như những người tu hành, ngộ đạo buông bỏ hết thất tình lục dục để trở về nguyên
thủy sơ khai của bản thân. Thực chất hoa mai rũ bỏ hết tất cả là để bắt đầu một cuộc
sống mới. ,Hoa mai chính là đại diện cho sự thuần khiết trong sáng, là biểu tượng
của mùa xuân. tượng trưng cho một khởi đầu mới tràn trề sinh khí – Mùa Hạ:
Mùa hạ hay còn mùa hè gắn với cái nắng gắt gỏng, nắng đến cháy da cháy thịt
nhưng lại có những cơn mưa bất chợt đến tốt đất trời. Có thể thấy rằng mùa hạ là
mùa có thời tiết khắc nghiệt nhất. Nhưng trong thời tiết khắc nghiệt đó thì cây trúc
lại sinh trưởng vô cùng mạnh mẽ.
Cây trúc có đặc điểm vô cùng đặc biệt, cây mềm mại đổ nhưng không gãy. Nó
được ví là biểu tượng hình ảnh của người quân tử lúc nhu lúc cương, có tiến có lùi
linh hoạt, đó là đức tính của những kẻ thức thời tuấn kiệt.
Thân cây trúc rỗng giống như người quân tử làm việc tốt, việc nghĩa không nghĩ
đén danh lợi, đến người khác phải đền ơn, không ham giàu sang phú quý, không vì
cám dỗ thị phi mà làm điều bất nhân bất nghĩa.
Khi trúc chết nhưng nó vẫn không hề bị ngã đổ, nếu có đổ nó cũng không hề bị
gãy. Thay vào đó là một cây tre mới sẽ mọc ngay dưới cây trúc chết đứng ấy.
Có thể thấy được ý nghĩa của cây trúc chính là biểu tượng của người quân tử
không bao giờ nhục chí, bị khuất phục trước các cám dỗ. – Mùa Thu
Mùa thu là mùa đặc biệt trong năm là giao mùa giữa mùa hạ với mùa đông. Nó
không còn cái nắng gắt của mùa hạ, nó không rực rỡ như mùa xuân, cũng không phải
khí lạnh cắt da cắt thịt như mùa đông. Mùa thu là mùa của những cơn giá dịu nhẹ
nhàng khiến con người ta cảm thấy nao lòng, thơ thẩn, là mùa của sắc vàng nhuộm kín một khoảng trời.
Dấu hiệu để nhận biết mùa thu rõ nhất chính là sự xuất hiện của hoa cúc – nhẹ
nhàng, tinh tế như tiết trời vậy. Trong văn hóa phương Đông, hoa cúc biểu tượng cho
sự trường tồn, sự kiên trung của người quân tử, sự thanh cao của những kẻ sĩ muốn
tránh xa thế tục thị phi. – Mùa Đông
Tùng là một trong những cây hiếm hoi sống được ở thời tiết lạnh giá của mùa
đông. Mặc kệ cho băng giá, tùng vẫn xanh tốt. Do vậy, nó là hình ảnh tiêu biểu cho
những bậc hào kiệt đầy khí phách trong dân gian.
2.5. Lợi ích của tranh tứ bình
Với những ý nghĩa tranh tứ bình được phân tích ở trên thì tranh tứ bình không
chỉ là vật trang trí, mang giá trị nghệ thuật cao mà nó còn mang lợi ích sau:
Biểu tượng tứ quý không chỉ để trang trí trong nhà hay để xem “lịch bốn mùa”
mà còn là để cầu mong sự may mắn, sung túc cho gia đình. Đây là một nét rất đặc
thù trong văn hoá Việt Nam nói riêng và văn hoá phương Đông nói chung. Ở phương
Tây, khi cầu nguyện, người ta thường hướng tới một vị thần linh cụ thể với những
điều ước cụ thể. Còn ở phương Đông, đặc biệt là ở Việt Nam, người dân có xu hướng
tự tìm cho mình những yếu tố may mắn bằng nhiều sự biểu hiện khác nhau như
hướng nhà (phong thuỷ), hướng đi, màu sắc, con số…
2.6. Tranh Tứ Bình được làm từ nhiều nguyên liệu khác nhau
Tranh Tứ bình dát vàng: các bức tranh tứ bình tùng cúc trúc mai được các nghệ
nhân dát vàng vô cùng tỷ mỉ phù hợp để làm quà tặng tân gia, tặng bạn bè, sps, khách
hàng hoặc có thể bạn có thể mua để làm thay đổi không gian nhà mình.
Tranh Tứ Bình là từ gỗ: được các nghệ nhân điêu khắc từ gỗ nguyên khối hoặc
gỗ ép được nhiều người ưa chuộng nhất hiện nay.
Tranh Tứ bình làm từ xi măng: được làm từ bê tông tươi nguyên chất nên rất
bền bỉ nên phù hợp ở không gian sân vườn, phòng khách
Tranh Tứ Bình khảm trai: được làm từ gỗ gụ, ốc hồng vỏ trai, bào ngư, xác biển
nên rất bền có thể làm quà tặng người thân, bố mẹ vợ, quà khánh thành đều rất ý nghĩa.
Tranh Tứ bình thêu là những bức tranh có nhiều màu sắc, hình khối sẽ mang
đến cho không gian nhà bạn thêm tươi sáng, mát mẻ hơn.
Đặc biệt, tranh tứ bình được đưa vào Trúc chỉ – một loại hình nghệ thuật mới
xuất hiện gần đây. Nhưng những bức tranh Trúc chỉ lại được khách hàng đón nhận
rất nồng nhiệt. Bởi nguyên liệu để làm ra những bức tranh trúc chỉ tứ bình không
đơn thuần làm từ giấy – tre mà được làm từ nhiều nguyên liệu khác nhau. Quy trình
tạo ra trúc chỉ tứ bình cũng khác biệt so với cách truyền thống mà nó là sự kết hợp
của truyền thống và hiện đại. Nó được tạo nên bởi 3 yếu tố sau:
+ Quy trình làm giấy thủ công truyền thống.
+ Kỹ thuật tạo áp lực nước
+ Các nguyên lý của nghệ thuật đồ họa – hiệu ứng xuyên sáng giúp cho họa tiết
càng trở nên đặc biệt.
Như vậy, bộ tranh Tứ Qúy “Tùng – Trúc – Cúc – Mai” không chỉ là bộ lịch 4
mùa trong năm. Nó còn là vẻ đẹp về sự luân chuyển của không gian, thời gian. Nó
cũng góp phần tôn vinh 4 loại cây hoa quý “Tùng – Cúc – Trúc – Mai” như là những
đại diện hoàn mỹ cho phẩm chất người đời.
II. Hoạt động và các chương trình giáo dục nghệ thuật của bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam.
1. Hoạt động của Bảo tàng mỹ thuật Việt Nam
Bảo tàng đã xây dựng được nhiều chương trình tham quan theo các chủ đề
đa dạng nhằm phục vụ du khách, nhất là các tour du lịch. Bảo tàng Mỹ thuật Hà
Nội đã tổ chức chương trình không gian sáng tạo cho trẻ em, đây là hoạt động mở
đầu trong chương trình Giáo dục mỹ thuật của bảo tàng. Với diện tích 70m2 ở
tầng 3 tòa nhà chính, tại đây các em sẽ được các họa sĩ, nhà điêu khắc và cán bộ
giáo dục bảo tàng hướng dẫn tìm hiểu, khám phá mỹ thuật dân gian và đương đại,
mỹ thuật trong nước và quốc tế.
Đến với bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam các bạn có những hoạt động trải
nghiệm, làm giàu thêm kiến thức nhà trường thông qua các hoạt động khám phá,
cảm thụ và trải nghiệm nghệ thuật trên cơ sở khai thác giá trị hiện vật trong sưu
tập của Bảo tàng tham gia 8 hoạt động khám phá trải nghiệm và sáng tạo nghệ
thuật như: tô tranh theo mẫu, tô tượng, vẽ tự do, ghép hình, nặn tượng, in tranh
dân gian, ghép tranh khuyết, tranh xé dán
Bổ sung kiến thức cơ bản về mỹ thuật (màu sắc, hình khối, bố cục, chất liệu,
loại hình nghệ thuật, tác giả, tác phẩm…) thông qua nhiều hình thức khác nhau
như: xây dựng các hộp khám phá, các tour tham quan có hướng dẫn theo nội dung;
các hoạt động theo chủ đề; tổ chức nói chuyện chuyên đề học thuật cho từng đối
tượng, các workshop thực hành trải nghiệm sáng tạo nghệ thuật…
Tổ chức trưng bày sản phẩm nghệ thuật được chọn lựa từ các hoạt động giáo dục tại không gian này.
Kết nối các hoạt động ở đây với các trưng bày thường xuyên và trưng bày chuyên đề.
Dịch vụ trải nghiệm dành cho trẻ tại Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam bao gồm: ●
Chương trình trải nghiệm hằng ngày ●
Chương trình trải nghiệm đặc biệt ● Chương trình Hè ●
Chương trình Tết thiếu nhi 1/6 ●
Chương trình Tết Trung thu ●
Hội thảo về các đề tài lịch sử
Bảo tàng mỹ thuật việt nam đã có chương trình Môi trường xanh cho em gồm
3 hoạt động dành cho trẻ em từ 5 – 15 tuổi hướng tới ý nghĩa bảo vệ môi trường như:
Sáng tác tranh theo nhóm, Vẽ trang trí trên chai nhựa, in tranh dân gian Đông Hồ
trên giấy báo. Tất cả đều sử dụng chai nhựa và giấy báo cũ để tạo thành những bức
tranh, đồ dùng trang trí độc đáo, mang tính thẩm mỹ cao. Đây là dịp để các bạn nhỏ
có thể thỏa sức sáng tạo, khám phá, thực hành trong không khí vui tươi với sự hướng
dẫn tận tình từ cán bộ Tổ giáo dục, Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam và các tình nguyện viên.
Sự kiện "Môi trường xanh cho em" cũng là sân chơi nghệ thuật, không gian học
tập bổ ích nhằm lan tỏa những giá trị nghệ thuật, giá trị thẩm mỹ và ý thức bảo vệ
môi trường đến với các em thiếu nhi và gia đình. Bảo tàng sẽ trở thành sân chơi bổ
ích, tạo cơ hội cho các em tiếp cận và tìm hiểu nguồn di sản nghệ thuật quý giá của
dân tộc, từ đó giúp các bạn phát triển tư duy sáng tạo nghệ thuật.
2. Chương trình giáo dục nghệ thuật tại bảo tàng mỹ thuật Việt Nam -
Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam (66 Nguyễn Thái Học, Ba Đình, Hà Nội)
đã diễn ra chương trình tọa đàm với chủ đề “Truyền thống hiếu học qua góc nhìn nghệ thuật”. -
Đây là chương trình nằm trong khuôn khổ triển lãm “Truyền thống hiếu
học” được Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam tổ chức đúng dịp kỷ niệm 77 năm Quốc
khánh 2/9 và chào đón ngày khai giảng năm học mới. Buổi tọa đàm được tổ chức
nhằm tạo sức lan tỏa cho những tác phẩm mỹ thuật, tôn vinh tinh thần hiếu học
của dân tộc, đồng thời, tạo cơ hội trải nghiệm cho công chúng yêu nghệ thuật. -
Tại buổi tọa đàm, khán giả đã được nghe những chia sẻ và giao lưu, trò
chuyện cùng với Diễn giả khách mời - Nhà nghiên cứu Mỹ thuật Nguyễn Hải
Yến. Thông qua ngôn ngữ hội họa, dưới góc nhìn chuyên gia, nhà nghiên cứu
Nguyễn Hải Yến đã dẫn dắt người nghe đến với những nội dung về tinh thần hiếu
học được thể hiện qua những tác phẩm hội họa được trưng bày như: Ý nghĩa lịch
sử của sự kiện Cách mạng Tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa ra đời; tầm nhìn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về vấn đề giáo dục; hệ thống giáo
dục mới của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa; học tập dưới nhiều hình thức;
vượt qua mọi khó khăn để học; học để xây dựng và bảo vệ đất nước. Đây là những
tác phẩm mỹ thuật tiêu biểu, có sức sống trường tồn với thời gian về chủ đề hiếu học. -
Bên cạnh đó, đến với buổi tọa đàm, các khách mời sẽ có cơ hội chiêm
ngưỡng 50 tác phẩm của 44 tác giả được sáng tác từ những năm sau 1945 cho
đến gần đây trên các chất liệu sơn dầu, sơn mài, lụa, khắc gỗ, màu nước, gỗ, thạch
cao, gang, trong đó nhiều tác phẩm lần đầu tiên được giới thiệu với công chúng.
Phát biểu tại buổi tọa đàm, Giám đốc Bảo tàng Mỹ thuật Nguyễn Anh Minh
chia sẻ: “Thông qua các tác phẩm trưng bày và hoạt động giao lưu, tọa đàm, Bảo
tàng Mỹ thuật Việt Nam hy vọng rằng, triển lãm sẽ là lời nhắc nhớ và khơi dậy
niềm tự hào về truyền thống hiếu học tốt đẹp của dân tộc, động viên thế hệ trẻ
tiếp nối cha ông, rèn luyện, phấn đấu để trở thành chủ nhân tương lai của đất nước…”. -
Buổi tọa đàm đã chuyển tải đến khán giả thông điệp về truyền thống
hiếuhọc, từ đó góp phần làm nên sức mạnh của dân tộc.
III. Phân tích điểm mạnh và điểm yếu của chương trình giáo dục nghệ
thuật của tổ chức thực hiện. 1. Điểm mạnh :
- Tạo ra được 1 cuộc hội đàm với quy mô nhỏ giới thiệu về “ Truyền thống hiếu học”
- Được trang bị các thiết bị kỹ thuật hiện đại nhằm truyền tải nội dung đến người tham gia dễ dàng hơn.
- Có đội ngũ lãnh đạo bảo tàng và khách mời là nhà nghiên cứu mỹ thuật
Nguyễn Hải Yến tham dự để sẵn sàng giải đáp các thắc mắc trong quá trình hội thảo.
- Tập hợp giới thiệu được 50 tác phẩm đặc sắc thuộc sưu tập của Bảo tàng
Mỹthuật Việt Nam nhân dịp kỷ niệm 77 năm quốc khánh 2/9.
- Chia sẻ, thảo luận về kiến thức nghệ thuật mỹ thuật cho toàn thể người tham dự
- Chia sẻ về cuộc sống thời kháng chiến, cũng như các kỷ niệm hay mẩu truyện ngắn về Bác Hồ.
=> Truyền tải được thông điệp hiếu học của cha ông ta thời kỳ kháng chiến khó
khăn với mong muốn thế hệ trẻ tiếp bước qua các tác phẩm mỹ thuật. 2. Điểm yếu :
- Do tính chất là buổi hội thảo chia sẻ kiến thức về đời sống cũng như nghệ
thuật nên đa số với các bạn trẻ sẽ không thực sự thú vị.
- Có 1 số câu hỏi khá khó nên người chia sẻ chưa giải quyết rõ ràng được câu
hỏi thay vào đó dẫn đến tình trạng trả lời chung chung lặp lại.
- Chưa tạo được điểm nhấn mạnh trong lòng người tham gia.
IV. Cơ hội, thách thức và giải pháp đối với bảo tàng mỹ thuật Việt Nam 1. Cơ hội
Hơn nửa thế kỷ đã qua là chặng đường bảo tàng vượt qua nhiều khó khăn, thách
thức để hoàn thành tốt sứ mệnh gìn giữ, bảo vệ và phát huy giá trị di sản mỹ thuật Việt Nam.
Bảo tàng luôn tích cực mở rộng giao lưu, hợp tác với các cơ quan trong và ngoài
nước. Trong 15 năm qua, Bảo tàng đã hợp tác với 22 nước trên thế giới, từ châu Á,
châu Âu đến châu Mỹ la tinh. Nội dung hợp tác rất đa dạng: trưng bày triển lãm, tu
sửa, phục chế, quản lý sưu tập, giáo dục nghệ thuật, truyền thông, marketing và hội
thảo, tọa đàm về các lĩnh vực chuyên môn. Những năm gần đây, Bảo tàng nhận được
tài trợ của một số cá nhân trong nước cho việc thiết kế hệ thống biển chỉdẫn, pano,
etiket hiện vật; thay thế khung/bục của 9 bảo vật quốc gia; in 2 cuốn sách: “1986- 2011” và Guide book.
Bảo tàng cũng đã trở thành nơi tiếp sức và tạo động lực cho các nghệ sĩ tạo hình
sáng tạo, đồng thời là địa chỉ tin cậy cho giới nghiên cứu mỹ thuật, học sinh, sinh
viên trong và ngoài nước đến nghiên cứu, học tập.
Với mong muốn trở thành điểm “phải đến” trong hành trình của du khách tới
Hà Nội, Bảo tàng đã cho ra mắt Ứng dụng thuyết minh đa phương tiện. Sản phẩm có
tên gọi “iMuseumVFA” được kỳ vọng sẽ trở thành cầu nối giữa Bảo tàng với công
chúng, góp phần cải thiện chất lượng tham quan, giúp các doanh nghiệp lữ hành tiết
kiệm thời gian khi thiết kế tour, đem đến sự thuận lợi, trải nghiệm mới cho người dùng.
Cùng với bề dày lịch sử và sự phát triển đã tạo ra nhiều cơ hội đến với bảo tàng
Mỹ thuật Việt Nam. Có cơ hội được hợp tác với các doanh nghiệp lớn không chỉ ở
trong nước mà còn với các nước lớn trên thế giới. Được các nhà đầu tư vào để phát
triển các trang thiết bị cho bảo tàng. Có cơ hội cho nhiều du khách nước ngoài đến
đây tham quan và chiêm ngưỡng những bức tranh, điêu khắc đẹp và ý nghĩa. Bảo
tàng cũng đang kết hợp với các nhà trường, cơ quan, tổ chức cho các học sinh, sinh
viên, những nghệ sĩ đến đây tìm hiểu, học tập, nghiên cứu, trải nghiệm, lấy cảm hứng
vẽ,…Cơ hội để cho Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam vươn tới thế giới, nhiều người biết
đến và tìm đến bảo tàng. Bảo tàng mỹ thuật Việt Nam ngày càng thể hiện rõ sự phát
triển đa dạng, tính độc đáo và bản sắc riêng, tạo nên một nền nghệ thuật tạo hình Việt
Nam năng động, giàu sức sống là cơ hội để các thế hệ trẻ thích thú tìm đến nơi đây làm việc. 2. Thách thức
Ngoài những cơ hội mà bảo tàng có thì bên cạnh đó vẫn còn những thách thức đến với bảo tàng.
Bảo tàng mỹ thuật Việt Nam mới chỉ là "phòng truyền thống" chưa đáp ứng
được nhu cầu nghiên cứu và học hỏi.
Các hiện vật trưng bày ở bảo tàng không phong phú là một trong yếu tố chính
khiến các nhà nghiên cứu thấy họ không được thỏa mãn khi đặt chân đến.
Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam mới chỉ đáp ứng được yếu tố “nhìn” cho khách
tham quan, mà chưa đáp ứng được tiêu chí nội dung cho các nhà nghiên cứu phê bình mỹ thuật
Bảo tàng mỹ thuật được ví như “gia phả” của nền mỹ thuật, tuy nhiên với các
họa sĩ Việt Nam, những người tạo nên nền hội họa đất nước, thì lại thờ ơ với việc ghi
dấu ấn cuốn gia phả đó.
Còn thiếu đầu tư cho những chiến lược tham quan kết hợp giáo dục hay phát
triển những dịch vụ đi kèm.
Tại phòng trưng bày tác phẩm giai đoạn từ thời kỳ Đổi mới đến nay, số lượng
hiện vật còn ít, chưa đa dạng về phong cách, chưa đại diện để phản ánh những thay
đổi của mỹ thuật giai đoạn này, cũng có rất ít (1 tác phẩm) thuộc các loại hình nghệ
thuật đương đại như sắp đặt, video art… Đặc biệt, hệ thống tượng salon (tượng tròn)
trong bảo tàng còn quá ít, sơ sài, chỉ với 43 tác phẩm, không phản ánh được sự hình
thành, phát triển của nghệ thuật điêu khắc Việt Nam. 43 tác phẩm này không có
không gian riêng mà thường được đặt xen kẽ trong các phòng trưng bày hội họa,
hoặc bày dọc hành lang, khiến cho ở một số nơi, tác phẩm điêu khắc và hội họa che
khuất điểm nhìn, không gian của nhau.
Tại phòng tranh sơn mài, các tác phẩm được trưng bày quá gần nhau, mật độ
dày đặc, trong khi đó phòng trưng bày giai đoạn 1945-1954 lại sơ sài, chủ yếu là ký
họa, chưa phản ánh được sự phong phú, hiện thực hào hùng của mỹ thuật giai đoạn
kháng chiến chống Pháp. Cách bố trí tác phẩm còn dàn trải, chưa tạo được điểm nhấn
ở từng không gian trưng bày, không chú trọng làm nổi bật các yếu tố như tác giả điển
hình của từng giai đoạn; các sự kiện theo chủ đề, nội dung hay những đóng góp, tìm
tòi về chất liệu ở từng phòng trưng bày.
Hệ thống trưng bày tác phẩm mỹ thuật ở BTMTVN còn bị hạn chế bởi không
gian, ánh sáng. Phần giới thiệu chung về từng giai đoạn hay chất liệu cũng như hồ
sơ hiện vật, tác phẩm còn sơ sài, chưa được thường xuyên cập nhật.
Ứng dụng công nghệ hiện đại vào hoạt động trưng bày, triển lãm tại bảo tàng
tạo ra môi trường khám phá, thưởng thức các giá trị văn hóa, lịch sử hấp dẫn, cuốn
hút công chúng. Đây là một trong những giải pháp mà các bảo tàng tại Hà Nội chú
trọng đầu tư trong thời gian tới, nhằm tăng cường quảng bá, cung cấp nhiều hơn
những cơ hội khám phá di sản thông qua các ứng dụng công nghệ...
Bảo tàng cần chủ động, tăng cường liên kết với các trường học, cơ sở đào tạo
nhằm phát huy giá trị bảo tàng thông qua giáo dục di sản. Xây dựng các chương trình
tham quan có định hướng dành cho nhà trường, cho học sinh với tài liệu thuyết minh
và lộ trình tham quan phù hợp cho từng đối tượng và lứa tuổi khác nhau.
Khách tham quan không chỉ đến bảo tàng để thụ hưởng sản phẩm mà còn với
tư cách là chủ thể sáng tạo các giá trị văn hóa mới. Bảo tàng cần chủ động nghiên
cứu, tổ chức các loại dịch vụ tương thích nhằm thu hút đông đảo công chúng tới tham
quan. Cần đa dạng hóa các loại hình, hoạt động, dịch vụ bổ trợ của bảo tàng, như cửa
hàng lưu niệm, thiết kế và sản xuất các sản phẩm lưu niệm gắn với đặc trưng của bảo
tàng; xây dựng các hình tượng, biểu tượng độc đáo mang thương hiệu của riêng bảo tàng.
Cần chú trọng đẩy mạnh hơn nữa hoạt động trưng bày tại bảo tàng, đặc biệt với
bộ sưu tập các tác phẩm mỹ thuật tạo hình từ cận đại đến đương đại.
Chú trọng đến vấn đề nhân lực.
Bảo tàng có thể nâng cao chất lượng phục vụ bằng chuỗi cửa hàng lưu niệm với
những sản phẩm giàu bản sắc, tạo điều kiện tốt nhất cho du khách trải nghiệm. Làm
tốt công tác trưng bày, đưa công chúng đến với bảo tàng chính là đã phát huy tốt giá
trị di sản của Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam trong đời sống xã hội hôm nay.
V. Mục lục ảnh chụp tại Bảo tàng Mỹ Thuật Việt Nam