



Preview text:
lOMoAR cPSD| 60857655
NGHỆ THUẬT HÌNH KHỐI
(Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam – Gs Trần Ngọc Thêm) Nghệ
thuật hình khối bao gồm hội họa (hình) và điêu khắc (khối).
1. Tính biểu trưng của nghệ thuật thanh sắc và hình khối
Trong nghệ thuật hình khối Việt Nam;. tính biểu trưng được sử dụng rất đắc lực vào mục
đích NHẤN MẠNH để làm nổi bật trọng tâm của đề tài với sự đầy đủ;. trọn vẹn của nó;. bất chấp
yêu cầu về tính hợp lí của hiện thực.
Mục đích này có thể đạt tới bằng thủ pháp “hai góc nhìn”. Trên trống đồng;. hình chim
bay ngang được vẽ với đôi cánh giang theo phương thẳng đứng như nhìn từ trên xuống. Trên bức
chạm gỗ Đánh cờ ở Đình Ngọc Canh;. sự gay cấn của ván cờ lúc tàn cuộc được thể hiện vừa bằng
góc nhìn ngang (cây cột;. người chơi ngồi bên phải và người xem bên trái);. lại vừa bằng cả góc
nhìn từ trên xuống (bàn cờ;. người chơi ngồi bên trái và người xem bên phải).
Để làm rõ đối tượng;. có thể dùng thủ pháp “nhìn xuyên vật thể”. Trên trống đồng;. hình
nhà nhìn từ bên ngoài được về với đầy đủ người ngồi giã gạo;. vui chơi… ở trong. Thủ pháp
“chiếu X-quang” bất chấp luật viễn cận này ta cũng thấy;. chẳng hạn như trên bức chạm gỗ Chèo
thuyền ở đình Phù Lưu: Nhìn con thuyền từ bên ngoài;. ta thấy cả người cầm lái và chân của
những người chèo thuyền lẽ ra bị che khuất trong lòng thuyền.
Để nhấn mạnh;. thủ pháp phóng to – thu nhỏ cho phép làm nổi bật nhân vật trung tâm
hoặc phân biệt vị trí xã hội. Trên đồ đồng Đông Sơn;. chim đậu trên nóc nhà dài bằng cả ngôi
nhà;. chim đứng cao gần bằng chiếc thuyền… Trên tranh Đám cưới chuột;. con mèo đại diện cho
tầng lớp thống trị được phóng to;. hình con ngựa được thu nhỏ;. thành ra con mèo to hơn con ngựa
nhiều lần. Việc phóng to – thu nhỏ không chỉ áp dụng trong việc xử lí các nhân vật mà còn áp
dụng đối với cả các bộ phận của nhân vật. Bức chạm gỗ Tiên cưỡi hạc ở đền Hai Bà Trưng (yên
Lạc;. Vĩnh Phúc) đã khắc khuôn mặt;. đôi cánh và quầng lửa trên đầu cô Trên to rõ (đặc điểm của
tiên là đẹp;. có cánh và có hào quang) còn thân mình chân tay thì thu nhỏ lại.
Việc thu nhỏ được đẩy đến cực đoan sẽ trở thành lược bỏ. Trên các tác phẩm hội họa;. điêu
khắc – từ truyền thống Đông Sơn cho đến tranh dân gian;. chạm khắc ở đình làng – hầu như không
bao giờ có chi tiết thừa. Cảnh Đánh vật (tranh Đông Hồ) chỉ có hai chi tiết duy nhất cần để tạo
nên không khí hội hè là hai tràng pháo;. ngoài ra không có cỏ cây;. hoa lá;. không có người xem
(hai đô vật ngồi chờ kiêm luôn chức năng người xem). Trên bức chạm Trai gái đùa vui ở đình
Hương Lộc;. nghệ nhân còn lược bỏ luôn cả các bộ phận cơ thể người không cần thiết cho chủ đề
mình;. chân và tay trái của chàng trai)!
Đề đạt mục đích gợi nhiều hơn tả cửa tính hiểu trưng;. nghệ thuật hình khối Việt Nam;.
giống như nghệ thuật thanh sắc;. cũng sử dụng thủ pháp mô hình hóa. Trong tranh Đánh vật vừa
nhắc;. ba đôi vật với những nét vẽ sơ sài được khoanh gọn trong ba hình cơ bản: hình tam giác
(đôi trên);. hình thang (đôi dưới;. trái);. và hình bán nguyệt (đôi dưới;. phải).
Trước mắt ta là sự hòa hợp tuyệt vời của cái động (vật nhau) trong thế tĩnh của ba hình hình học
với những cạnh đáy vững vàng cho thấy sự ngang sức ngang tài của các chàng trai; sự vận động
liên tục của cơ bắp như dừng lại. Hai người chờ vật được khuôn lại trong hai hình chữ nhật
đứng tạo nên cảm giác co ro bất tận trong cái rét của lễ hội đầu xuân.
Thủ pháp mô hình hóa đã tạo nên một nền nghệ thuật trang trí và nhiều mô hình mang tính triết lí sâu sắc.
Bộ Tứ Linh với long (rồng) biểu trưng cho uy là nam tính; li (= long mã) hoặc lân (kì lân;. lOMoAR cPSD| 60857655
con vật tưởng tượng đầu sư tử;. mình nai;. đuôi trâu;. ăn cỏ;. rất hiền lành ) biểu trưng cho ước
vọng thái bình;. quy (rùa) hiểu tượng cho sự sống lâu và phượng (phụng) biểu tượng cho nữ tính.
Rồng – Phượng biểu tượng cho hạnh phúc lứa đôi (ở Trung Hoa hiên tượng này là “loan-phượng”: 1
loan là con đực;. phượng là con cái). Đồ án trang trí RỒNG phổ biến đến mức phản ánh những
đặc trưng cửa từng thời đại. Rồng thời Hùng vương;. thời Lí;. Trần;. Hồ;. Lê;. Mạc;. Nguyễn –
mỗi thời có những nét đặc thù riêng tương ứng với thời đại của mình.
Tứ linh cộng thêm ngư-phúc-hạc-hổ thì thành BÁT VẬT. Ngư (Cá) gắn với truyền thuyết
“cá hóa rồng” biểu tượng cho sự thành đạt. Chữ phúc là “sự tốt lành;. may mắn” đồng âm và viết
gần giống với chữ bức nghĩa là “con dơi”;. vì vậy dơi được dùng để biểu tượng cho chữ phúc.
Con hạc – loài chim quý hiếm – dùng tượng trưng cho phong cách thần tiên;. đâu có hạc là nơi đó
có tiên (xem bức chạm tiên cưỡi hạc ở trên). Con hổ tượng trưng cho sức mạnh (để thờ trừ tà ma;.
có tranh Ngũ hổ – hình bìa 4 – và tranh về từng con hổ trong bộ đó).
Để thể hiện nội dung;. người Việt không câu nệ hình thức. Con rùa chậm chạp;. và tệ hơn;.
con dơi ăn đêm xấu xí;. là những thứ mà phương Tây không khi nào lại dùng vào việc trang trí
cả; trong trang trí;. người phương đây chú ý đến hình dáng bề ngoài;. màu sắc nhiều hơn là ý nghĩa.
Để tạo biểu tượng;. người Việt rất hay dùng thủ pháp LIÊN TƯỞNG bằng ngôn từ. Có
ba cách. Cách thứ nhất là liên tưởng theo dạng chữ Hán (như trường hợp các chữ phúc-bức nói trên).
Cách thứ hai là liên tưởng đồng âm: Chẳng hạn;. hình con hươu tượng trưng cho “lộc” vì
hươu âm Hán-Việt phát âm là “lộc”. Cách thứ ba là liên tưởng gần âm: Hình con dơi miệng ngậm
chữ “thọ”;. dưới treo hai đồng tiền sẽ đọc thành lời chúc “Phúc thọ song toàn” (tiền ð toàn).
Hiện tượng này giống việc người Nam Bộ bày mâm ngũ quả với 5 thứ trái cây: mãng cầu
(na);. sung;. dừa;. đu đủ;. xoài;. để đọc chệch thành: Câu sung (túc) vừa đủ xài. Cái được quan
tâm ở đây là ý nghĩa;. còn bản thân vật thờ đẹp hay xấu;. sang hay hèn – xấu và hèn đến như qua
sung;. cũng không quan trọng.
Khá phổ biến là mô hình Ý NGHĨA PHỒN THỰC Dấu hiệu điển hình nhất của nó là số
nhiều: Tranh gà đàn;. lợn đàn;. cá đàn;. trẻ con chơi hàng đàn lũ dưới giàn bầu bí hoặc dưới tán
cây sai quả;. v.v. Biểu tượng âm dương vẽ thay các xoáy lông trên lưng lợn (hình 4.22) hoặc trên
mặt trống (hình 4.24);. những thứ có liên quan đến mùa màng và tiếng sấm như bông lúa;. con
cóc;. cái trống… cũng là một dấu hiệu điển hình không kém. Chính với ý nghĩa đó mới có tranh
em bé bế cóc chứ trên thực tế làm gì có ai bế một con vật xấu xí như vậy. Cảnh đôi phượng (một
đực một cái) chầu mặt trời: (phượng: âm;. mặt trời: dương) trang trí trên bia đá (hình 4.26) mà
trong đó;. dưới bông lúa trĩu hạt là đôi chuột đang đánh trống đồng (lúa và chuột: biểu tượng mùa
màng; trống đồng: biểu tượng phồn thực;. xem IV-§1.1.3.): Tất cả đều thể hiện một ước vọng
thiêng liêng – ước vọng phồn thực: con cháu đông đúc;. mùa màng tốt tươi).
Đến đây;. một câu hỏi tất yếu đặt ra: Tính biểu trưng có mặt như một nguyên lí cơ bản
trong truyền thống của mọi loại hình nghệ thuật Việt Nam – từ nghệ thuật ngôn từ đến nghệ thuật
thanh sắc;. hình khối; cũng như vậy;. nguyên lí tả thực quán xuyến mọi loại hình nghệ thuật truyền
thống phương Tây – từ nghệ thuật thanh sắc;. hình khối đến ngôn từ. Đó là một sự kiện ngẫu nhiên hay là một quy luật?
Hiển nhiên;. mọi nghệ thuật đều bắt nguồn từ thực tế cuộc đời. Quan sát cho thấy ở Việt
Nam;. vào thời Đông Sơn đã từng tồn tại cả hai khuynh hướng: tả thực và biểu trưng. Ở giai đoạn lOMoAR cPSD| 60857655
Đông Sơn sớm thì thiên về tả thực;. dần dần chuyển sang cách điệu hóa và biểu trưng (Hà Văn
Tấn;. 1994). Càng về sau;. khuynh hướng biểu trưng càng có chiều hướng lấn át tả thực (các kiểu
chim;. thuyền;. v.v. khắc trên trống đồng theo lối biểu trưng nhiều hơn;. phong phú hơn số vẽ theo
lối tả thực). Ta có tục giải thích hiện tượng này như sau:
Mọi nghệ thuật đều phản ánh khát vọng của con người vươn tới một cái gì khác với cái mà
người ta đang sống. Loại hình văn hoá gốc du mục do trong cuộc sống thường ngày coi thường 2
và chế ngự thiên nhiên nên trong nghệ thuật bộc lộ khát vọng trở về với tự nhiên. Loại hình văn
hóa gốc nông nghiệp do thường ngày sống hòa hợp với thiên nhiên nên trong nghệ thuật bộc lộ
khát khao thoát khỏi tự nhiên trong chốc lát để vươn tới cái hiệu trưng ước lệ (điều này sẽ dễ thấy
nếu ta so sánh sở thích chơi cây lá;. cá chim và đồ mây tre của người dân đô thị với thú chơi bàn
ghế chạm khắc tinh vi và trưng bày các sản phẩm công nghiệp của người dân nông thôn).
2. Tính biểu cảm của nghệ thuật thanh sắc và hình khối
Trong nghệ thuật hình khối;. TÍNH BIỂU CẢM cũng thể hiện đậm nét không kém.
Người Việt Nam tuy phải chịu chiến tranh liên miên;. nhưng với bản tính trọng tình;. hiền
hòa;. nên hầu như trong suốt lịch sử nghệ thuật;. không hề tạo ra những tranh tượng về đề tài chiến
tranh với cảnh đầu rơi máu chảy rùng rợn là mảng đề tài khá thịnh hành ở các nước có nền văn hóa trọng dương.
Ở Việt Nam;. cùng lắm chỉ có thể gặp tranh tượng với đề tài đất vật;. đấu kiếm;. v.v. (cũng
vậy;. trong truyền thống nghệ thuật ngôn từ Việt Nam;. không hề có những tác phẩm anh hùng ca ca ngợi chiến tranh).
Trong khi đó tranh tượng thể hiện tình cảm thì lại rất nhiều. Cảnh trai gái đùa vui có tới hai
bức chạm ở hai địa phương khác hẳn nhau. Ở hình 4.28;. trong khi những hoa lá trang trí trên cột
phía sau được chạm trổ rất tinh tế (tả thực);. thì những hình người lại được chạm bằng những nhát
đục to;. thô (biểu trưng) tạo nên bốn nhân vật với bốn thế giới nội tâm rất phong phú: Chàng trai
ngồi giữa đang ôm bạn gái trong lòng và rụt rè luồn tay vào yếm bạn;. gương mặt si tình cố nở
một nụ cười ngượng ngập. Cô gái còn rụt rè tội nghiệp hơn;. sự giằng xé trong lòng thể hiện nơi
cánh tay phải ngập ngừng nửa như muốn hất tay bạn ra;. nửa như muốn níu giữ lại. Người bạn gái
ngồi phía bên trái còn lúng túng hơn: là con gái;. cô thẹn thùng quan người đi nhưng người thì
quay đi mà mặt thì quay lại;. và cô bất giác đưa tay che mặt ở phía không cần che. Người ban trai
ngồi bên phải thì;. với tính cách bạo dạn của đàn ông;. anh ta khoái chí cười ngả cười nghiêng;.
hở rốn hở răng;. tay chỉ vào hai bạn… Mỗi người một vẻ;. phản ánh rất chính xác tâm lí của các
nhân vật. Cảnh tắm ao cũng khá phổ biến trong điều khắc đình làng. Tranh Hứng dừa (hình 4.29)
tả một gia đình hạnh phúc có hai đứa con chơi ở gốc cây;. còn người mẹ trẻ vẫn hồn nhiên một
cách đáng yêu trong động tác nâng vạt váy để đón cặp dừa từ tay chồng trên cây thả xuống (trên
thực tế làm gì có ai hứng dừa bằng vạt váy!). Bên góc trái tờ tranh là hai câu thơ Nôm: Khen ai
khéo dựng nên dừa;. Đấy trèo đây hứng cho vừa một đôi…
Không chỉ tình cảm của con người mà tình cảm của loài lật cũng được thể hiện mạnh mẽ
không kém: Ở hình 4.30 là cảnh những đôi khỉ ôm nhau khắc trên bia đá ở đền vua Đinh Tiên
Hoàng. Đáng lưu ý là các tranh đều trưng nơi đình;. đền là những chốn linh thiêng mà nhân dân ta rất coi trọng.
Khuynh hướng biểu cảm;. trọng tình của người Việt Nam đã tạo nên con rồng hiền lành từ
nguyên mẫu là con cá sấu hung ác. Với bàn tay khối óc của các nghệ nhân Việt Nam;. ngay cả
quỷ sứ đầu trâu mặt ngựa ở thập điện Diêm vương cũng không hề ác độc. Ông Ác (Hộ pháp) thì lOMoAR cPSD| 60857655
mỉm cười cùng ông Thiện hiền lành ngày đêm canh giữ nơi cửa Phật. Có những thể loại nghệ
thuật hội họa truyền thống độc đáo như tranh lụa;. tranh sơn mài dường như sinh ra chỉ thích hợp
cho một loại đề tài – đó là đề tài tĩnh;. âm tính;. thiên về tình cảm (như phong cảnh thiên nhiên;.
hoa lá;. thiếu nữ;. bà mẹ…).