lOMoARcPSD| 60857655
NGHỆ THUẬT DIỄN XƯỚNG DÂN GIAN VIỆT NAM
Câu 1: Anh (chị) hãy phân tích và làm rõ quan niệm Nghệ thuật diễn xướng dân gian?
Diễn xướng dân gian là tổng hợp những biểu hiện bản nhất của đời sống thẩm mỹ dân
gian, nói cách khác là biểu hiện ra bên ngoài của đời sống thẩm mĩ đó Về cấu trúc, diễn xướng dân
gian bao gồm các bộ phận sau:
+ Hát, nói (phần xướng): đây bộ phận biểu hiện lời ca tiếng hát thành những làn điệu,
những giọng điệu, cách nói xét về mặt biểu hiện của âm thanh và giai điệu.
+ Trình diễn (phần diễn): cung cách thể hiện bằng những điệu múa, cử chỉ, phong cách, cấu
trúc, không gian biểu diễn… Kết hợp với phần xướng, phần này giúp những giá trị trong lời được
biểu hiện ra, tạo hiệu quả thẩm mĩ
+ Phần âm nhạc: bộ phận này tuy được tách ra nhưng lại có giá trị phối hợp, như 1 mối liên
kết và hỗ trợ, làm tăng thêm hiệu quả cho toàn bộ quá trình diễn xướng
Về quan niệm về diễn xướng diễn xướng dân gian rất nhiều, nên thể hiểu nghệ thuật
diễn xướng dân gian như sau: “Diễn xướng dân gian những hình thức sinh hoạt văn hóa nghệ
thuật gắn liền với mọi mặt đời sống của người dân, được người dân sáng tạo, gìn giữ trình diễn
thông qua các phương tiện biểu hiện khác nhau. Diễn xướng dân gian thể hiện tâm tư, tình cảm,
nguyện vọng, thỏa mãn nhu cầu đa dạng của đời sống, phản ánh nhận thức về nhân sinh quan và
thế giới quan của người dân Việt Nam từ xưa tới nay”.
Câu 2: Anh (chị) hãy phân tích các đặc trưng bản của Nghệ thuật diễn xướng dân
gian Việt Nam?
Các đặc trưng
cơ bản
Miêu tả
lOMoARcPSD| 60857655
Tính nguyên hợp
- sự gắn hữu những giá trị thẩm mĩ, trí tuệ, trình diễn... của
nhiều thành tố.
- Tính nguyên hợp nguồn gốc từ đặc điểm hình thành, của nghthuật
nguyên thủy.
VD: Đẻ đất đẻ nước áng sử thi - thần thoại của người Việt - Mường ban
đầu là các thầy mo hát bên thi hài người chết giúp cho hồn người chết ôn lại
sự việc trần gian từ khi khai thiên lập địa cho tới lúc bản Mường ổn định,
chế độ xã hội được hình thành và mỗi chặng hát có những quy trình lễ thức,
diễn xướng kèm theo).
- Là hiện tượng tự nhiên vốn có của nghệ thuật diễn xướng dân gian.
+ Về nội dung: diễn xướng dân gian phản ánh nhiều phương diện khác nhau
của đời sống vật chất và tinh thần trong hội, do vậy nó vừa thực hiện chức
năng của văn học, dân tộc học, triết học…
+ Về hình thức: diễn xướng sử dụng rất nhiều ngôn ngữ, âm nhạc, vũ điệu…
để phản ánh các giá trị tinh thần, nghệ thuật, cảm xúc…
- Đứng góc độ nào đó, tính đa chức năng chính hệ quả của tính
nguyên hợp. Chúng tuy vừa khác nhau, vừa quan hệ mật thiết với nhau.
Tính tập thể
+ Diễn xướng dân gian là sản phẩm sáng tạo của nhiều người, thuộc nhiều
thế hệ qua những thời gian và không gian khac nhau.
+ Tính tập thể trong sáng tác nghệ thuật dân gian được biểu hiện phương
diện thẩm mĩ. Đối tượng của những sáng tác nghthuật dân gian toàn bộ
những gì liên quan đến cộng đồng tập thể. Và vì thế diễn xướng dân gian rất
coi trọng hành động và tâm lí tập thể.
+ Tính tập thể của nghệ thuật diễn xướng dân gian biểu hiện trong quá trình
sáng tác, biểu diễn và lưu truyền tác phẩm, trong nội dung và hình thức sáng
tác, biểu diễn. Tính tập thể còn quyết định sự ra đời và tồn tại của tác phẩm
và hình thức, cách thức biểu diễn.
lOMoARcPSD| 60857655
Tính truyền
miệng
+ 1 đặc trưng bản của diễn xướng dân gian, sáng tác dân gian đi từ
người này sang người khác, từ thế hệ này sang thế hệ khác dưới hình thức
truyền miệng.
+ Truyền miệng là môi trường diễn xướng của sáng tác nghệ thuật dân gian.
Truyền miệng khi tách khỏi môi trường diễn xướng thì sẽ không còn truyền
miệng nữa. Truyền miệng không gắn với phòng kín gắn với những hoạt
động bên ngoài của đời sống.
+ Truyền miệng là hình thức bảo lưu, lan tỏa của nghệ thuật diễn xướng dân
gian. Truyền việc gắn với việc ghi nhận tác phẩm bằng trí nhớ, ghi nhận trong
sự hào hứng của tập thể, quá trình ghi nhận được chuyển hóa thành quá trình
diễn xướng.
+ Truyền miệng là phương thức sáng tác của nghệ thuật diễn xướng dân gian
- sáng tác ngẫu hứng ứng tác, một đặc điểm bản của nghệ thuật
không chuyên.
Tính bản địa
và vùng miền
+ Trong văn hóa dân gian, tính bản địa sở để phân vùng c định
ranh giới giữa các vùng văn hóa dân gian mỗi quốc gia, dân tộc; góp phần
làm tăng sự phong phú, đa dạng của nền văn nghệ dân gian của mỗi dân tộc.
+ Nước ta rất đa dạng về địa lý, thành phần dân tộc, điều kiện tự nhiên, ngôn
ngữ... vậy nghệ thuật dân gian ng rất đa sắc, sinh động, muôn vẻ. +
Nước ta có 54 dân tộc, có 54 nền văn hóa dân tộc, tức là cũng có 54 nền âm
nhạc dân tộc khác nhau.
+ Do phương thức lưu truyền và sáng tạo tập thể nên sáng tạo nghệ thuật diễn
xướng dân gian mang đậm tính bản địa, vùng miền.
+ Hoàn cảnh lịch sử của mỗi vùng cũng chi phối đến tính bản địa, vùng miền
của nghệ thuật diễn xướng dân gian.
VD: Bắc Bộ là vùng đất cổ, đất cội nguồn nên đây là vùng sản sinh là nhiều
di sản dân ca nghi lễ lâu đời như: Hát Chèo Tàu, hát Xoan, hát Chầu Văn...
Nam Bộ là vùng đất mới, đất khai phá nên vùng này sản sinh ra dân ca Nam
Bộ là sự kế thừa, tiếp nối dân ca của người Việt ở phía ngoài, đặc biệt là Bắc
Trung Bộ, Nam Trung Bộ.
lOMoARcPSD| 60857655
+ Đặc trưng về giọng nói hoặc phương ngữ của mỗi vùng cũng chi phối nhiều
tới tính địa phương của nghệ thuật diễn xướng dân gian.
Chẳng hạn như xứ Huế, nhất xứ Nghệ, hệ thống phương ngữ rất đậm
đặc, âm vực của giọng nói cạn hẹp nhất nước cho nên dân ca của họ cũng
mang thổ âm, thổ ngữ rất rõ.
+ Phương ngữ là trong những yếu tố vô cùng quan trọng để nhận ra tính bản
địa, tính địa phương của sáng tác nghệ thuật dân gian. Phương ngữ không
chỉ là phương tiện nhấn nhá, đệm lót cho từng làn điệu mà còn góp phần tạo
nên bản sắc của ca dao dân ca từng vùng. Phương ngữ đáp ứng đầy đủ các
nhu cầu giao tiếp thông thường của 1 nhóm dân cùng sinh sống trên địa
bàn nhất định.
Tính phi lợi
nhuận
+ Diễn xướng dân gian phần lớn phục vụ cho nhu cầu thưởng thức tại chỗ
của những người trong cộng đồng làng xã, dòng họ nên tính tự túc rất t.
+ Diễn xướng dân gian cơ bản không phải là phương thức làm ra của cải vật
chất, không sinh lợi nhuận kinh tế đem lại giá trị tinh thần chính.
Ngay cả khi nghệ thuật diễn xướng phát triển cả về quy mô và hình thức thì
vẫn mang tính chất hoạt động văn nghệ quần chúng phục vụ đời sống tinh
thần của đông đảo người dân.
Câu 3: Anh (chị) hãy kể tên các vùng dân ca Việt Nam trình bày đặc điểm của một
trong các vùng dân ca đó?
Hiện nay tại Việt Nam có tất cả 6 vùng dân ca. Bao gồm:
+ Vùng dân ca miền núi phía Bắc
+ Vùng dân ca đồng bằng, trung du Bắc Bộ và cực bắc Trung Bộ
+ Vùng dân ca đồng bằng và ven biển Bắc Trung B
+ Vùng dân ca đồng bằng và ven biển Nam Trung Bộ
+ Vùng dân ca đồng bằng Nam Bộ
+ Vùng dân ca Trường Sơn – Tây Nguyên.
Sau đây, là đặc điểm của một số vùng dân ca đáng chú ý (lựa chọn ngẫu nhiên của tác giả):
Vùng dân ca
Đặc điểm
lOMoARcPSD| 60857655
Vùng dân ca
đồng bằng,
trung du Bắc Bộ
và cực bắc
Trung Bộ
+ vùng địa được coi như cái nôi văn minh của người Việt, địa
bàn sinh tụ từ lâu đời, là vùng đất tổ của người Việt. Đó cũng là cái nôi đầu
tiên sinh thành và nuôi dưỡng những thể loại dân ca rất đặc trưng như: Hát
Ghẹo, Hát Đúm, Hát Trống quân, Hát Quan họ; các điệu hát chèo; Cò lả,
Hát ví, Hát ghẹo, Hát cửa Đình, Hát Chầu văn…
+ Môi trường trung du đồng bằng môi trường đặc trưng của nông
nghiệp ruộng nước => là những bức ảnh thiên nhiên và xã hội chủ yếu của
các sáng tác dân gian.
+ Vùng còn phân ra đặc sản dân ca riêng của từng địa phương như Phú Thọ
Hát Xoan, hát Ghẹo anh; Kinh Bắc hát Quan họ; Nội hát Ải
lao; Hà Tây có Hát Dô, chèo tàu; Hải Phòng có Hát Đúm; Hà Nam có hát
Dậm; Hà Nam Ninh là cái nôi và là trung tâm lớn của hát Chầu văn và hát
Xẩm; Thanh Hóa có Hò Sông Mã…
+ Khá phong phú về chủng loại, đa dạng về hình thức ca hát, sâu rộng
sinh động về nội dung lời ca, âm nhạc. Nhiều loại, nhiều bài đượm màu sắc
vui tươi, duyên dáng.
Vùng dân ca
đồng bằng
Nam Bộ
+ Nam Bộ nơi tụ cư của những con người tứ xứ, bởi vậy dân ca vùng này
cũng mang nhiều màu sắc. Trong đó nổi lên là dân ca người Việt và dân ca
người Khmer, Chăm, Hoa…
+ Dân ca Nam Bộ là sự kế thừa dân ca Việt phía Bắc, đặc trưng là của miền
Trung. Nói tới dân ca vùng này phải nói tới Hò với Lý.
+ Nam Bộ cũng đa dạng về mặt chủng loại như miền Trung nhưng
sự đa dạng ấy còn được đẩy thêm 1 bước nữa với sự hình thành những điệu
mang phong cách riêng của từng địa phương như: Bạc Liêu,
Đồng Tháp, Hò Trà Vinh...
+ Lý Nam Bộ cũng phát triển lên tới đỉnh cao về số lượng và về sự đa dạng
phong phú của đặc tính âm nhạc hệ đề tài. Những bài mang đến tên cụ
thể của những "cây" , những "con" thường thấy trong vùng như: cây đa,
Lý cây chanh, Lý con chuột, Lý ngựa ô.
+ Âm nhạc của những điệu Hò, Lý cũng như lời ca đã phản ánh sinh động
tâm hồn con người sống trong vùng đất được thiên nhiên dành cho những
ưu đãi.
+ Ngoài ra dân ca Việt Nam Bộ còn phát triển mạnh hát Ru và tục Nối thơ.
+ Bên cạnh sự chiếm ưu thế của dân ca Việt, cũng cần phải kể đến dân ca
của dân tộc Khmer Nam Bộ. Kho tàng dân ca Khơ me Nam Bộ cũng rất
phong phú và đặc sắc, ngoài hát đồng dao, hát ru, còn có những bài hát lao
động, hát huê tình, đặc biệt là những loại bài hát kèm với múa, hát trong
đám cưới… rất phổ biến.
Câu 4: Anh (chị) hãy cho biết thế nào là Âm nhạc dân gian? Hãy phân tích những đặc
trưng cơ bản của âm nhạc dân gian Việt Nam?
lOMoARcPSD| 60857655
- Khái niệm âm nhạc dân gian:
+ Theo nghĩa rộng: Âm nhạc dân gian là các thể loại ca nhạc tồn tại có tính chất thường trực
trong môi trường sinh hoạt dân gian. Trong âm nhạc dân gian theo nghĩa rộng có cả những yếu tố,
thể loại mang tính chất dân gian và những yếu tố, thể loại mang tính chất bác học do sự đóng góp
của giới trí thức bình dân hoặc có nguồn gốc từ dòng cung đình.
+ Theo nghĩa hẹp: Âm nhạc dân gian là những thể loại ca nhạc được sáng tạo biểu diễn
chủ yếu bằng cảm xúc kinh nghiệm, mặc dầu 1 số loại cũng đã có những nguyên tắc cho việc
thực hành biểu diễn nhưng vẫn chưa hình thành hệ thống lý luận chi phối mọi hoạt động sáng tác
và biểu diễn.
- Đặc trưng cơ bản:
+ Mang tính nguyên hợp: một tác phẩm diễn xướng dân gian thường có sự tham gia đồng
bộ của thơ ca, âm nhạc, múa, trò diễn, hoá trang cả các nghi thức. Hình thái này thể hiện đặc
trưng trong phương pháp phản ánh thực tại của folklore, được gọi đặc trưng tổng thể nguyên
hợp (Syncretisme).
+ Mang bản chất hội: Diễn xướng dân gian phản ánh tưởng, tình cảm, nguyện vọng
của người lao động, nảy sinh ra ngay trong các hoạt động sản xuất và sinh hoạt xã hội của họ.
+ tính thực hành xã hội: Âm nhạc dân gian được sáng tác trình diễn gắn liền với những
hoạt động sản xuất sinh hoạt hội cụ thể của người lao động. Tính thực hành hội thường
được chỉ rõ ngay trong tên gọi của nhiều thể loại, chẳng hạn như: Hò giã vôi, Hò giã gạo,
Hò chèo thuyền…
+ Không tồn tại dưới dạng văn bản, nằm trong trí nhớ của mỗi người n chỉ xuất hiện
khi được người dân trình diễn ra.
+ Trình diễn âm nhạc dân gian là quá trình sáng tác tại chỗ.
+ Quá trình trình diễn một tác phẩm âm nhạc dân gian lại cũng là lúc nó được truyền bá.
+ Do được lưu truyền theo cách truyền miệng, do quá trình trình diễn cũng quá trình
sáng tác, nên các tác phẩm âm nhạc dân gian luôn ở trong tình trạng biến động.
+ Âm nhạc dân gian có tính tập thể hay tính khuyết danh.
Câu 5: Anh (chị) hãy cho biết thế nào là múa dân gian? Hãy phân tích những đặc điểm
cơ bản của nghệ thuật múa dân gian Việt Nam?
- Khái niệm múa dân gian:
Múa dân gian là hình thái múa do quần chúng nhân dân sáng tạo được lưu truyền từ đời này
qua đời khác. Múa dân gian được sử dụng rộng rãi trong sinh hoạt văn hóa cộng đồng. tiêu biểu
cho bản sắc văn hóa của từng cộng đồng và là cơ sở để phát triển các hình thái múa khác.
- Đặc điểm:
Đặc điểm cơ bản
Miêu tả
lOMoARcPSD| 60857655
Thường gắn liền với
phong tục, tập quán,
lễ nghi, tín ngưỡng
+ Trong đời sống văn a tâm linh của quần chúng nhân dân, 1 loại
múa được sản sinh nuôi dưỡng trong môi trường sinh hoạt văn hóa
tâm linh đó là múa tín ngưỡng hay còn gọi là múa tín ngưỡng dân gian.
Múa tín ngưỡng thể hiện cho các loại nghi lễ.
VD: người Việt múa tín ngưỡng hầu bóng (múa lên đồng) 1 bộ
phận của chương trình lễ hội nghi lễ đạo Mẫu. Nhìn từ góc độ tín
ngưỡng thì động tác, điệu bộ của người múa thể hiện tiếng nói, ý nguyện
của thánh thần. Theo quan niệm dân gian, phần xác (ông, đồng)
của con người, còn phần hồn của thánh thần => con người thánh
thần có thể gần gũi, hòa quyện với nhau.
+ Những động tác biểu hiện thể giới tâm linh của con người (cầu mong
sự che chở, phù hộ…).
Giàu tính hiện thực
+ Múa dân gian do phỏng hiện thực nên mặc đã được cách điệu
hóa vẫn mang tới cho người xem những thông điệp sát thực.
Được thể hiện cả 2 chiều. Chiều 1 là tự luận điệu múa được “ tác giả dân
gian” ghi nhận trong thực tế, từ đó sáng tạo nên. Chiều 2 là người thể
hiện cũng hết sức cố gắng bắt chước hiện thực cộng với yếu tố sáng tạo
nhân trong quá trình thể hiện cũng mang lại những tín hiệu chân thực.
VD: múa chèo đò. Mặc dù múa tay không nhưng người xem có thể cảm
nhận được không gian của vùng sông nước. Với dáng người đổ về phía
trước, khi ngả về phía sau, người xem thể tưởng tượng được hình ảnh
của dòng sông, mái chèo con thuyền. + Tính chất nhẹ nhàng, uyển
chuyển, chậm rãi
+ Thông qua đó thể thấy những thông tin về lịch sử, địa lý, môi trường
sinh thái. lẽ bắt nguồn từ đặc điểm địa Việt Nam => múa chèo
thuyền trở nên phổ biến trong múa dân gian.
Thường kết hợp với
đạo cụ
Đạo cụ thể các vật dụng trong đời sống sinh hoạt được sáng tạo
thêm mang tính nghệ thuật. Cũng có khi chính là nhạc cụ, vừa mang âm
điệu, vừa góp phần để tiết mục cuốn hút người xem.
Là sản phẩm của tập
thể sáng tạo có
cấu trúc mở
+ Do luôn tồn tại và phát triển qua nhiều thế hệ nên thường không 1
cấu trúc ổn định.
+ Do cấu trúc mở, múa dân gian không ngừng được bồi đắp bổ
sung những sáng tạo mới của các thế hệ tiếp theo. Cấu trúc mở của múa
dân gian luôn sẵn sàng đón nhận những sáng tạo, bổ sung hoặc 1 sự
điều chỉnh mới cho hoàn chỉnh hơn. Những sáng tạo mang tính tự
nguyện, thâu nhận vào mình 1 cách tự nhiên, tự nguyện, tự giác nên khác
với múa chuyên nghiệp, và không cần phải xác định “quyền tác giả”.
lOMoARcPSD| 60857655
Là nền tảng để nền
nghệ thuật múa hiện
đại của dân tộc kế
thừa và phát triển
+ Nhìn từ góc độ nghệ thuật múa, có thể nói di sản múa dân gian
sở tiêu biểu xác định bản sắc múa của mỗi tộc người nền tảng cho
nghệ thuật múa sau này
+ Nền nghệ thuật múa Việt Nam hôm nay được bắt nguồn và kế thừa từ
nền nghệ thuật múa truyền thống. Trên cái nền đó, mỗi thế hệ góp phần
sáng tạo để giữ gìn và làm giàu bản sắc tâm hồn dân tộc; phát huy những
giá trị vốn có; sáng tạo những yếu tố mới, sắc thái mới. Giữ gìn giá trị
cốt lõi, tinh túy nhất trong vốn múa, giữ được cái “đặc trưng”, “tiêu biểu
nhất => phát triển và bổ sung
+ thể sử dụng ngôn ngữ nước ngoài để hòa trộn với ngôn ngữ múa
dân gian Việt Nam giúp phản ánh sâu sắc hơn tâm tư, tình cảm nguyện
vọng của người Việt Nam đương đại.
+ Trong 1 xã hội hiện đại, khoa học công nghệ tiên tiến, muốn xây dựng
nền nghệ thuật múa chuyên nghiệp, phát triển, đậm đà bản sắc dân tộc
trước hết phải kế thừa triệt để những giá trị múa dân gian.
+ Bên cạnh đó, muốn cách tân thì cần nghiên cứu, xác định và hiểu đâu
là giá trị đích thực cần phải kế thừa.
Câu 6: Anh (chị) hãy giới thiệu ngắn gọn về một loại hình diễn xướng dân gian tiêu biểu
quê hương mình hoặc địa phương nơi mình sống?
Thuyết minh về dân ca quan họ
Người Việt Nam ta luôn tự hào là "Đất nước ngàn năm văn hiến" với sự giao thoa của nhiều
nền văn hóa. Dưới hàng nghìn năm Bắc thuộc cùng ách thống trị của thực dân Pháp, nền văn hóa
của ta đã tiếp thu những giá trị văn hóa mới nhưng vẫn giữ lại được nét tinh hoa của dân tộc, để từ
đó sáng tạo nên những loại hình nghệ thuật cùng đặc sắc, mang lại giá trị to lớn cho nền văn
hóa Việt. Dân ca quan họ chính là một trong những loại hình nghệ thuật ấy, có sức lan tỏa mạnh
mẽ, lay động người nghe bằng những câu hát giao duyên dịu dàng mà đằm thắm ân tình xứ Bắc.
Dân ca quan họ là một làn điệu dân ca tiêu biểu của vùng đồng bằng sông Hồng thuộc miền
Bắc nước ta, được hình thành từ rất lâu đời vùng Kinh Bắc xưa, chủ yếu thuộc địa bàn hai tỉnh
Bắc Giang Bắc Ninh với con sông Cầu chảy ngang. Theo các nhà nghiên cứu khoa học: Quan
họ có từ thế kỷ XVII, được bắt nguồn từ tục kết chạ giữa bà con lối xóm.
Cái tên "Quan họ" có thể thể hiểu theo truyền thuyết có một ông quan trong lần qua xứ Kinh
Bắc, tình nghe được lấy làm say những câu hát ngọt ngào của các liền anh, liền chị,
những người cùng sở thích ca hát dòng nhạc này người ta gọi đó một "họ". Nhưng cách
giải thích này cũng chỉ đúng ở một khía cạnh nào đó, ngoài ra còn rất nhiều cách lý giải khác liên
quan đến nếp sinh hoạt văn hóa và chế độ thời bấy giờ.
Dân ca Quan họ là lối hát giao duyên giữa người nam và nữ, là hình thức trao đổi bày tỏ tâm
tư, tình cảm giữa liền anh liền chị. Họ dùng những câu hát ý nhị, giọng hát mượt sâu lắng
để bộc lộ cảm xúc trong tâm hồn mình. Những làn điệu Quan họ truyền thống thường được hát vào
lOMoARcPSD| 60857655
mùa xuân hay mùa thu là những mùa tươi đẹp nhất trong năm, khi ấy câu hát Quan họ nhộn nhịp,
tưng bừng làng trên, thôn dưới, làm thổn thức biết bao trái tim người yêu nghệ thuật.
Thông thường quan họ phổ biến lối hát đối đáp giữa trai và gái, có thể cùng hoặc khác làng,
cái khó là ở chỗ cùng một giai điệu nhưng người hát phải tự tìm lời phù hợp để đối qua đối lại, tạo
thêm phần hấp dẫn và không bị nhàm chán, ấy là điểm đặc sắc mà không phải ai cũng hát được.
Các đôi nam nữ cất lên những câu hát dạt dào cảm xúc, lắng đọng tâm tình, có thể là những
câu hát được lấy từ lời thơ, lời ca dao trong sáng, ý nhị. Quan họ là thể loại nhạc trữ tình nên cách
hát và luyến láy được trau chuốt rất kỹ càng, gồm nhiều kỹ thuật sao cho âm điệu vừa vang, rền lại
vừa nền, nảy, nghe như rót mật vào tai, vô cùng ngọt ngào tình cảm, như dòng chảy mượt mà của
con sông Cầu - "dòng sông Quan họ". Hát quan họ có ba hình thức phổ biến nhất hát canh, hát
phục vụ lễ hội và hát thi đấu giành giải, mỗi một thể loại đều có nét đặc sắc và dấu ấn riêng.
Trang phục cũng là một điểm nổi bật trong nghệ thuật dân ca Quan họ, các liền anh, liền chị
khoác lên mình những bộ quần áo rực rỡ sắc màu tôn lên vẻ đẹp thanh lịch, quý phái của người
con Kinh Bắc. Về phía nam, các liền anh khoác lên mình tấm áo dài mỏng thẫm màu, bên trong
áo trắng cùng quần lĩnh trắng, ống rộng, phẳng phiu, đầu đội khăn xếp, tay có thể cầm quạt hoặc
cầm chiếc đen, càng tăng thêm vẻ đĩnh đạc, truyền thống đậm chất văn hóa vùng Kinh Bắc.
Trang phục liền chị cầu kỳ và tỉ mỉ hơn các liền anh rất nhiều, các chị sẽ mặc những bộ áo mớ ba
mớ bảy nhiều màu sắc sặc sỡ như đỏ, vàng, xanh phối cùng với chiếc thắt lưng hoa đào, chít tóc
bằng khăn mỏ quạ, đầu đội nón quai thao trắng, hoặc cầm ở tay, cho thêm phần duyên dáng, thướt
tha. Những câu hát bay bổng, da diết, ngọt ngào kết hợp với trang phục đặc biệt như vậy đã làm
tăng thêm vẻ đẹp cho những người hát giao duyên.
Quan họ một loại hình văn hóa đặc sắc, vẫn còn được phát triển cho đến ngày nay,
còn lưu giữ những vẻ đẹp truyền thống xa xưa, nhưng đến hiện tại đã được những người tiếp nối
phát triển và sáng tạo ra những cái mới để quan họ không bị lạc hậu so với thời đại.
Quan họ được xem là dòng nhạc dân ca trữ tình có nguồn giai điệu phong phú, đa dạng nhất
Việt Nam, tính cho đến nay chúng ta còn lưu giữ được khoảng 300 bài quan họ có giai điệu khác
nhau và được ghi chép thành các bản nhạc, ngoài ra còn có rất nhiều các giai điệu không được ký
âm chính thức chỉ được truyền miệng từ đời này qua đời khác. Các làn điệu quan họ truyền
thống phải kể đến là: Đường bạn Kim Loan, Cây gạo, La hời, Tình tang... Hát Quan họ bao giờ
cũng ba chặng: chặng mở đầu thuộc giọng lề lối, khi hát xong khoảng mười bài giọng lề lối
người hát chuyển sang giọng sống để tiếp vào chặng giữa; các bài chặng giữa giọng vặt;
chặng cuối giọng giã bạn. Làn điệu quan họ những tiếng hát thân tình, ngọt ngào mềm mại,
người hát luôn trong trạng trái say mê, chăm chút thổi hồn vào từng câu chữ khiến cho âm hưởng
của toàn bài luôn vang vọng thấm đẫm vào tâm hồn những người thưởng thức, khiến ta phải
trầm trồ, thán phục trước sức hút của thứ dân ca truyền thống và cũng khá kén người nghe này.
Câu 7: Anh (chị) hãy cho biết Chầu văn thuộc thể loại âm nhạc gì? Hãy trình bày các
thành phần tham gia, các hình thức và đặc điểm nghệ thuật của hát Chầu văn?
Miêu tả về Chầu Văn
lOMoARcPSD| 60857655
Hát chầu văn còn tên gọi khác hát văn, hát bóng. Đây một loại hình nghệ
thuật diễn xướng dân gian độc đáo gắn liền với tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ của
người Việt.
+ Hát Chầu văn cần có người hát chầu văndàn nhạc phục vụ hát văn. Người hát
văn (được gọi cung n), thông thường là người vừa hát giỏi, vừa biết nhiều làn
điệu, vừa biết chơi nhạc cụ. Dàn nhạc hầu bóng gồm có: một đàn nguyệt, một đàn
nhị, một trống nhỏ (gọi là trống con), một cảnh đôi, một phách.
+ Người ta có thể thêm nhạc cụ khác tùy địa phương hoặc hoàn cảnh hành lễ và yêu
cầu riêng của người hành lễ. Trong các loại nhạc đó, đàn nguyệt, trống nhỏ và cảnh
đôi đóng vai trò nòng cốt. Đây những nhạc khí bản, không thể thiếu được
chúng tạo nên tính cách riêng biệt và đặc thù của dàn nhạc hát văn. Những buổi hát
thờ lớn thì có thêm một cỗ trống lớn, chiêng, sáo, tiêu, đàn thập lục
+ Các bài văn hát thường được xắp xếp như một câu chuyện vxuất xứ của thánh
và tôn vinh công đức, kỳ tích của ngài. Có một số đoạn, câu văn vần điệu, niêm luật
không chặt chẽ như một bài thơ nhưng khi đọc lên mọi người đều cảm nhận được
chất thơ của bài văn. Hát văn một hình thức hát trong khi ngồi đồng nên các làn
điệu và lối hát cũng như độ dài của câu ca, tiếng nhạc đều phụ thuộc vào diễn biến
của cuộc hầu đồng. Giai điệu của hát văn khi thì mượt mà, hấp dẫn trên nền phách
độc đáo, khi lại dồn dập, khoẻ khoắn, vui tươi. Lời văn đầy ắp chất thơ, có ý nghĩa
nhân văn sâu sắc. Chất thơ của bài văn đó được nâng lên cao tuyệt đỉnh trong không
khí tâm linh thành kính, khấn vái xuýt xoa, khói hương nghi ngút, dàn nhạc với
trống phách, thanh la rộn ràng, lời ca phụ hoạ, đưa đẩy và các điệu múa thiêng của
Thánh thể hiện qua người hầu đồng. Với tính chất này hát văn ngày nay không chỉ
lOMoARcPSD| 60857655
hẹp trong phạm vi dùng trong nghi lễ hát văn cũng được coi như một hình
thức ca nhạc dân gian vui tươi lành mạnh và có thể đưa ra công diễn trước đông đảo
quần chúng.
+ Trình tự thực hiện nghi lễ hát chầu văn phục vhầu bóng thể chia thành bốn
phần chính: Mở đầu buổi lên đồng, cung văn hát điệu văn thờ - văn công đồng “mời
thánh nhập”, điệu này tiết tấu nhanh; khi Thánh đã nhập đồng thì hát văn kể sự
tích ca ngợi công đức các thánh, sau đó chuyển hát dọc để kích thích khả ng
thăng thoát của người ngồi đồng. Khi nhân vật đã nhập vai các thánh “làm việc
thánh” thì chuyển điệu còn là điệu thức cao hơn dọc một cung bậc. Tiếp đến là phần
xin thánh phù hộ đưa tiễn. Bài hát thường chấm dứt với câu: "Thánh giá hồi
cung!". Hát văn không chỉ khó mà còn đòi hỏi người cung văn phải nhanh, linh hoạt
để vừa thể chuyển lời, giọng nhạc cho ăn khớp vẫn hay, vẫn sát vai của
người ngồi đồng; thậm chí phải hát lặp lại, luyến láy, kéo dài câu ca, tiếng nhạc trong
thời gian chuyển tiếp giữa hai giá hầu.
+ Vì thế mà chỉ trong một thể hát thì cũng có nhiều dạng khác nhau như: thể phú thì
phú dựng, phú chênh để diễn tả tâm trạng vui, phú rầu diễn tả tâm trạng buồn.
Những khi thay đổi như vậy, âm nhạc đều chuyển điệu thức 5 âm để phụ họa theo.
Đó là cách người cung văn thể hiện tài năng riêng của mình.
lOMoARcPSD| 60857655
Đặc điểm
nghệ thuật
+ rất nhiều đặc điểm để giải thích thể hiểu chi tiết về hát chầu văn. Cụ thể -
Cấu trúc làn điệu: rất nhiều cách hiểu khác nhau về cấu trúc làn điệu. Tuy nhiên,
tóm lại thể hiểu cấu trúc quan hệ các yếu tố bên trong sự sắp xếp tổ chức
nhất định tạo lên một chỉnh thể hoàn chỉnh.
Khác với các loại hình nghệ thuật hát văn thờ, hát văn thi khác hát Chầu văn thường
ghi nhận cấu trúc 2 phần, rất hiếm gặp cấu trúc ba phần: Phần thân hát theo lối
nhịp Phần mở hát theo lối hát ngâm trên nhịp dồn phách.
+ thể thấy cấu trúc trong hát chầu văn mối quan hệ rất chặt chẽ với lời thơ của
mỗi bài văn, nó góp phần định hình được cấu trúc nhạc. Còn cấu trúc hai phần trong
chầu văn gồm phần mở phần thân. Phần mở được ngâm trên nhịp tự do ứng với
hai cặp lục bát (6/8/6/8). Phần thân chuyển sang lối hát có nhịp vào nửa sau của trổ
hát nghĩa hát câu 2 và bộ phận đóng, sang trổ tiếp sau mới hát trọn vẹn cả trổ…
như vậy thể thấy đối với cấu trúc hai phần thường được hát theo lối hát ngâm trên
nhịp tự do tạo ranh giới với phần thân hát theo lối có nhịp.
+ Về cấu trúc ba phần, là làn điệu gồm ba phần với phần mở, phần thân, phần đóng.
thể thấy cấu trúc làn điệu ba phần trong hát văn hầu đồng không phải dạng
phổ biến, chủ yếu xuất hiện trong lối hát chèo đò.
=> Tóm lại cấu trúc làn điệu trong hát văn rất đa dạng và phong phú với những đặc
điểm chung và riêng có. Nhưng nhìn chung có ba dạng phổ biến nhất đó là dạng cấu
trúc một phần, cấu trúc hai phần và cấu trúc ba phần.
- Nhịp phách trong hát Chầu văn: Thông thường có hai nhịp được quan tâm trong
hát Chầu văn:
lOMoARcPSD| 60857655
+ Nhịp nội: cách gọi dạng âm hình tiết tấu trong âm nhạc cổ truyền đó các
từ, các chữ được nhấn vào đầu nhịp (phần mạnh của phách mạnh).
+ Nhịp ngoại: cách gọi dạng âm hình tiết tấu trong âm nhạc cổ truyền đó
các từ, các chữ không nhấn vào đầu nhịp (phần mạnh của phách mạnh) được
nhấn phần yếu của phách mạnh hay ở phách yếu hoặc trường độ của nốt nhạc (chữ
hay từ) được nối từ phách yếu nhịp trước sang phách mạnh nhịp kế tiếp.
+ Trong Chầu văn, đa số các làn điệu thường sử dụng nhịp ngoại, tạo cảm giác mông
lung, huyền ảo cho người nghe/xem. Một số nghệ nhân cũng cho biết, nhịp ngoại là
“tính” đặc thù trong nghệ thuật hát chầu văn. Sự ứng tác tài nh của các cung văn
“thời xưa”, chính nguyên nhân của việc xuất hiện nhịp ngoại trong chầu văn. +
Phách đơn vị cơ bản để tính thời gian trong âm nhạc. Khi vừa hát vừa một cách
đều đặn thì thời gian của mỗi cái gõ như vậy được gọi là một phách. Thời gian của
phách được tính từ khi đầu bàn tay (hoặc đầu bàn chân) ở trên cao đưa xuống điểm
gõ cho tới khi nó lại được đưa lên cao để gõ tiếp.
- Trang phục trong hát Chầu văn: Trong tín ngưỡng thờ Mẫu, Tam Phủ - Tứ
Phủ, người ta chia ra làm các hàng các bậc khác nhau, mỗi nhân vật thuộc cấp bậc
những đặc điểm chung, điểm riêng dựa vào đó người ta thể nhận biết trang
phục đó là của vị nào. Đối với hàng Thiên phủ thường thì trang phục sẽ có màu đỏ,
Nhạc phủ màu xanh, Thoải phủ màu trắng. Hay các các hàng Đệ nhất thường màu
đỏ, Đệ nhị màu xanh lá, đệ tam màu trắng, đệ tứ màu vàng, tiếp đó là các màu xanh
lục, màu lam và các màu trung gian khác.
VD: Giá hàng Ngũ vị tôn ông, mỗi vị có một màu sắc chủ đạo khác nhau, Quan
Lớn
Đệ Nhất Đệ Nhất Tôn Ông trang phục màu đỏ, Quan Lớn Đệ Nhị Đệ Nhị
Giám Sát màu xanh lá, Quan Lớn Đệ Tam – Tam Phủ Vương Quan màu trắng, Quan
Lớn Đệ Tứ Khâm Sai trang phục màu chủ đạo màu vàng, quan lớn đệ ngũ Tuần
Tranh màu xanh lam.
+ Bên cạnh trang phục thì phụ kiện hay các đạo cụ đi kèm cũng tạo nên những đặc
điểm nhận diện các giá đồng. Giá các quan hoàng thể hiện sự chững chạc uy nghiêm,
quyền quý còn thêm cờ, kiếm, hèo, quạt, bút đề thơ, hoặc thêm bình trà, ngọc trân,
thuốc lá… để biểu lộ thú hưởng lạc rong chơi. Các giá Cô thì y phục dân tộc có thêu
thùa, trang sức đỏm dáng cùng các đạo cụ hái hoa, hái quả thể hiện quyền uy lại bộc
lộ tính hồn nhiên, 32 do vậy trang phục còn thêm kiềng bạc túi trầu cau, dao quai,
dao quắm… giá các cậu cũng thể hiện quyền quý, trẻ thơ nên khăn quấn đầu,
quần thun đùi, giáng điệu tự nhiên thể hiện khi lễ cũng như khi ban phát tiền, lộc.
+ Giá chầu là nữ thường mặc quầy (váy), áo chẽn theo lối dân tộc, đảm bảo sự trang
nghiêm cốt cách. Tất nhiên trang phục do từng nhân thanh đồng sắm, u sắc
lOMoARcPSD| 60857655
hoa văn tùy thuộc, nhất khăn chầu theo lỗi cổ củ ấu, nhưng không hẳn khi trang
điểm đã giống nhau.
- Nhạc cụ trong hát Chầu văn: Trong hát chầu văn, hệ thống nhạc khí với
biên chế cổ điển bao gồm đàn nguyệt, phách, cảnh, trống ban, thanh la và trống cái.
Dàn nhạc
lOMoARcPSD| 60857655
trong chầu văn lớn nhỏ tùy thuộc vào từng địa phương, vào mức độ của buổi lễ
yêu cầu của người làm lễ nhưng không thể thiếu ba nhạc cụ chính yếu đàn nguyệt,
trống nhỏ và cảnh đôi. Âm thanh, tiết tấu, nhịp điệu của ba nhạc cụ trên tạo nên tính
cách riêng biệt và đặc thù của hát văn. Điểm đặc sắc trong dàn nhạc của chầu văn ở
chỗ sử dụng đàn nguyệt là nhạc cụ mang tính âm, nhạc cụ chính mang tính dẫn dắt
trong cả dàn âm thanh.
+ Thông thường, cung văn chơi đàn nguyệt đảm nhiệm vai trò hát chính. Nhưng
trong các lễ hầu đồng, cả cung văn đánh nhịp (phách, cảnh, trống) cũng phải hát.
Trống ban, trống cái (thuộc Cách) là các nhạc khí bán âm. Trong diễn tấu, phách và
cảnh đảm nhiệm nền nhịp điệu chu kỳ, dẫn dụ, nâng đỡ giai điệu đàn nguyệt với sự
điểm xuyết của trống ban hay trống cái. Phách, cảnh, trống banthanh la do một
cung văn đảm nhiệm. Trống cái chỉ sử dụng trong các lễ lớn với vai thỗ trợ của
cung văn cầm chầu. Đây là biên chế chính thức của dàn nhạc hát văn cổ truyền với
2 hoặc 3 cung văn.
+ Hệ nhạc khí trong hát văn, đáng chú ý nhất bộ nhạc khí tiết tấu. Khi diễn tấu,
cung văn tay trái cầm 1 dùi vừa đánh phách vừa trống ban. Tay phải cầm 2 dùi,
1 dùi kẹp giữa ngón cái và ngón trỏ để đánh phách, 1 dùi kẹp giữa ngón trỏ và ngón
giữa để đánh cảnh. Phách cảnh luôn diễn tấu những hình nhịp điệu chu kỳ
làm nền cho giai điệu tiếng đàn, giọng hát. Đây chính thành phần xác định tính
vũ khúc của âm nhạc hát Chầu văn.
- Không gian diễn xướng của hát Chầu văn:
+ Hoạt động hát chầu văn được diễn ra ở nhiều không gian khác nhau. Đó có thể
nơi linh thiêng như đền thờ, phủ, chùa, điện… những nơi có thờ thánh thờ Mẫu, đó
cũng có thể là ở trên các hệ thống âm thanh sân khấu… Không gian là điều rất quan
trọng tạo lên sự thăng hoa trong mỗi buổi lên đồng của các thanh đồng. Cùng với
những lời ca tiếng hát của cung văn tại các nơi linh thiêng có tượng các vị thánh, có
mùi hương, ánh nến… tạo nên một không gian thăng hoa giúp cho các thanh đồng
dễ dàng được “nhập” hơn.
+ Tại các buổi diễn xướng sân khấu, với việc dàn dựng sân khấu với sự hào hứng
của khán giả tạo ra không gian linh thiêng, mờ ảo không kém tại các đền phủ. =>
Nhìn chung, thể thấy hát chầu văn thường gắn với các không gian linh thiêng,
không gian thể hiện sự giao tiếp giữa người trần và các vị thánh và thanh đồng được
coi là người trung gian thể hiện sự giao tiếp đó.
Câu 8: Anh (chị) hãy cho biết Cồng chiêng Tây Nguyên thuộc thể loại âm nhạc gì?
Những giá trị của Cồng chiêng Tây Nguyên quan niệm về Cồng chiêng của người Tây
Nguyên ra sao?
Miêu tả về Cồng chiêng Tây Nguyên
lOMoARcPSD| 60857655
Thể loại
Cồng chiêng là loại nhạc cụ Châu Á thuộc bộ gõ, được làm bằng đồng thau, hình tròn
như chiếc nón quai thao, đường kính dao động khoảng từ 20 cm đến 60 cm, ở giữa
hoặc không có núm.
Giá trị
+ Giá trị biểu thị đặc trưng văn hóa âm nhạc vùng, tộc người, nhóm tộc người. + Là
nhạc khí quan trọng biểu thị đặc trưng văn hóa âm nhạc của vùng Trường Sơn - Tây
Nguyên (thể hiện ở cách dùng cồng chiêng theo bộ chiếm ưu thế).
+ Biểu thị đặc trưng văn hóa tộc người hoặc nhóm tộc người (thể hiện qua cách dùng,
cách ứng xử với cồng chiêng, tên gọi, đặc trưng âm nhạc…).
+ Giá trị sử dụng đa dạng: công cụ hỗ trợ săn bắn, phương tiện thông tin, truyền
lệnh, phương tiện giao cảm với thế giới siêu nhiên, là nhạc khí.
+ Giá trị vật chất, biểu thị sự giàu có.
+ Giá trị tinh thần (là của gia bảo, là nhạc cụ thiêng, là vật thể hiện quyền uy).
+ Giá trị lịch sử (là bằng chứng của truyền thống âm nhạc có lịch sử lâu đời).
+ Giá trị cố kết cộng đồng (có tính tập thể và khả năng cộng cảm)
+ Giá trị nghệ thuật: Có khả năng đảm nhiệm mọi chức năng âm nhạc: Dùng để đệm
cho múa; dùng để hòa tấu trong các dàn nhạc với đủ chức năng: đi tiết tấu, đi giai
điệu, đi bè trầm, giữ nhịp…; Có khả năng thực hiện các thể loại nhạc khác nhau và
khả năng thể hiện những hình tượng đặc tính âm nhạc đa dạng. Giá trị nghệ thuật
cồng chiêng Tây Nguyên còn biểu hiện nghệ thuật diễn tấu (các kỹ thuật tạo âm;
nghệ thuật phối hợp tập thể). Những nguyên tắc cấu trúc của cồng chiêng Tây Nguyên
đã định hình chặt chẽ. Đây là một dạng nguyên mẫu âm nhạc.
+ Giá trị phản ánh đa chiều: tấm gương phản chiếu nhiều phương diện của người
dân Tây Nguyên. Qua đó ta có thể thấy: vũ trụ quan (nổi bật là nguyên lý cặp đôi âm
– dương); chế độ xã hội và trình độ phát triển của nó; mối quan hệ xã hội; quan điểm
thẩm mỹ; phong tục tập quán; quan niệm tâm linh; tín ngữơng; khả năng thẩm âm; trí
thức âm nhạc và trình độ phát triển âm nhạc.
lOMoARcPSD| 60857655
Quan niệm
+ Đối với dân Tây Nguyên, cồng chiêng vật thiêng. Xuất phát từ tín ngưỡng vạn
vật hữu linh, người Tây Nguyên tin rằng đằng sau mỗi cái cồng chiêng đều có một v
thần trú ngụ. Tùy theo niềm tin của từng tộc người, vị thần chiêng đó là nam hoặc nữ.
Hầu hết các tộc người quan niệm thần chiêng nam. Một số khác, nngười Ê đê
(chế độ mẫu hệ), người Ba Na ngành Tồ Lồ cho rằng thần chiêng lại là nữ. Sức mạnh
thiêng của chiếc cồng chiêng không phải đã ngay từ đầu. Người Tây Nguyên không
tự mình đúc được nó mà phải mua từ nơi khác về. Sau ở đó họ chỉ âm lại để phù hợp
với hàng âm của dân tộc mình. Khi đã được âm thanh mong muốn, người ta làm lễ
hiến sinh mời thần chiêng về trú ngụ trong đó. Từ đó cồng chiêng mới là vật thiêng.
+ vật thiêng, nên âm thanh của cồng chiêng cũng mang tính thiêng. Họ sử dụng
âm thanh đó như ngôn ngữ để giao tiếp, cộng cảm với thần linh. vật thiêng, nên
chức năng bao trùm của cồng chiêng chủ yếu mang chức năng nghi lễ. nhạc cụ
nghi lễ, các bản nhạc cồng chiêng trước hết đáp ứng cho yêu cầu của mỗi lễ thức
được coi như một thành tố hữu cơ của lễ thức đó. Trong mỗi lễ thức, lại có nhiều công
đoạn có nhạc cồng chiêng riêng. Người Tây Nguyên có nhiều lễ thức, tựu trung lại có
2 loại: lễ thức vòng đời cây trồng lễ thước theo vòng đời người. Mỗi dân tộc trong
các nghi lễ dùng biên chế dàn cồng chiêng riêng và có một hay nhiều bản nhạc riêng.
Câu 9: Anh (chị) hãy trình bày những hiểu biết của mình về Xòe Thái dựa trên các vấn
đề: địa bàn diễn xướng, quan niệm về Xòe của người Thái, phân loại và đặc trưng nghệ thuật
của Xòe Thái)?
Miêu tả về Xòe Thái
+ Theo các nhà nghiên cứu thực tiễn diễn xướng dân gian tại các vùng như: Nghĩa
Lộ, Mường (Yên Bái), Mường So, Phong Thổ (Lai Châu), Mường Lay, Mường
Thanh (Điện Biên), Quỳnh Nhai, Thuận Châu (Sơn La)… thì múa xòe ra đời từ xa
xưa, gắn liền với cuộc sống mưu sinh, lao động, chinh phục tự nhiên đời sống
tinh thần của đồng bào Thái Tây Bắc. Sau những giờ lao động vất vả trên đồng
ruộng, núi rừng, đồng bào Thái đã cùng nhau tổ chức điệu múa xòe để nhiều
người tham gia, tất cả mọi người cùng nắm tay nhau, không phân biệt già trẻ, giới
tính, giàu nghèo. Mọi người kết thành các vòng tròn, vòng xòe quanh đống lửa lớn.
+ Xòe Thái cũng rải rác các tỉnh Hòa Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, tuy nhiên
không phải là hiện tượng phổ biến.
Người Thái quan niệm "Không xòe không tốt lúa, không xòe thóc cạn bồ". Múa xòe
biểu tượng tình yêu của người Thái, từ yêu cuộc sống lao động cần đến tình
yêu đôi lứa, người Thái hay tổ chức múa xòe trong hội xuân, hội mùa và hội cưới.
lOMoARcPSD| 60857655
Các nhà nghiên cứu quy về ba hình thức chính: Xòe tín ngưỡng (nghi lễ), Xòe biểu
diễn, Xòe giải trí (hay Xòe vòng, Xòe tập thể).
- Xòe tín ngưỡng (nghi lễ):
+ Xòe nghi lễ (tín ngưỡng) thường diễn ra trong các lễ hội bản, mường, gắn với
những nghi thức cúng lễ do các thầy cúng (thầy Tào, Mo, Phựt, Then) thực hiện và
những phụ lễ tham gia những người "có căn số" do thầy cúng lựa chọn "xòe" theo
những bài bản nghi thức đã định như: múa dâng lễ, múa cầu vong, múa tơn, múa
chào mời hồn vía, múa cảm ơn thiên binh cứu mệnh...
+ Các động tác Xòe là sự mô phỏng các hành động mang tính cách điệu, hỗ trợ cho
sự giao tiếp của thầy cúng với thần linh.
- Xòe biểu diễn: đáp ứng nhu cầu thưởng thức văn hóa, văn nghệ của người
dân, thường do một nhóm nhỏ biểu diễn, còn số đông khán giả đứng xem, mang
tính chất "chuyên môn hóa", tính trình diễn sân khấu cao. Xòe biểu diễn thường kết
hợp với các đạo cụđược gọi theo tên đạo cụ như: Xòe khăn, Xòe nón, Xòe quạt,
Xòe sạp, Xòe nhạc, Xòe gậy, Xòe chai...
- Xòe giải trí (Xòe vòng hoặc Xòe tập thể): loại Xòe tập thể không người
biểu diễn người xem, tất cả đều tham gia không phân biệt nam nữ, trẻ già,
trên dưới. Các vòng tròn có thể mở rộng, nối dài, liêt kết nhiều vòng Xòe một cách
linh hoạt. Những cuộc Xòe như vậy thường được tổ chức trong phần kết thúc các
cuộc vui, sự kiện, lễ hội hay các hình thức sinh hoạt thường nhật như ngày lễ, sinh
nhật, tân gia, cưới xin...
- Xòe vòng: được xuất hiện trong các nghi lễ mừng xuân, được mùa, lên nhà mới,
cưới xin, các cuộc liên hoan trên nhà sàn, quanh đống lửa.
lOMoARcPSD| 60857655
+ Động tác múa xoè vòng chỉ gồm một bước nhảy thường với đội hình vòng tròn
đơn giản. Nếu đông người thì múa thành 2 vòng tròn, vòng trong nhỏ và vòng ngoài
lớn. Hai vòng xoay ngược chiều nhau.
+ Nhạc cụ dùng để đệm trong múa xòe vòng thường có: 1 chiếc trống, 2 hoặc 3 chiếc
chiêng, một đôi chũm chọe và mấy ống tre. Nhiều nơi còn dùng pí, khèn bè, tính tẩu
và đặc biệt là hát đối đáp có láy dưới sau mỗi câu hát. Giai điệu và tiết tấu âm nhạc
đơn giản, câu nhạc ngắn, lặp đi lặp lại nhưng có sức lôi cuốn mạnh mẽ.
+ Xòe vòng được sử dụng linh hoạt rộng rãi nhằm thỏa mãn đời sống văn hóa tinh
thần của đồng bào dân tộc Thái. Đó là một phương tiện giao tiếp tốt, một sản phẩm
tinh thần quý giá trong đời sống hội, không còn riêng của người Thái
trở thành tài sản chung của nhân dân vùng Tây Bắc.
- Xòe biểu diễn (Xòe điệu): Nhạc cụ chính đệm cho xòe biểu diễn tính tẩu, kèn,
trống và chũm chọe. Trong đó các nhà nghiên cứu chỉ ra 4 điệu cơ bản:
+ Xòe khăn: lễ múa Then. Loại khăn dài vùng dân tộc Tày, Nùng, Thái.
Nhưng kỹ thuật múa đạo cụ này mỗi dân tộc khác nhau. Ở xòe Thái, khoác lên thân
hình đẹp của các cô gái xòe, chiếc khăn lụa dài đã biến thành những động tác sinh
hoạt hàng ngày thành những động tác múa duyên dáng. Kỹ thuật bản của múa
khăn Thái đứng vung khăn ra đằng trước ngồi vung khăn. Phong Thổ (Lai
Châu) còn động tác vung khăn quàng sau lưng, 2 tay cầm 2 đoạn đầu khăn để
cùng chụm vào và vẫy ra.
+ Xòe nón: Đầu tiên một thể nghiệm bằng múa nam. Nhưng thực tế cho thấy nam
mà muốn nón thì không lột tả được vẻ đẹp của loại múa đạo cụ này, nên phụ nữ lại
được dạy. Đạo cụ nón và trang phục múa nữ Thái rất hợp với nhau, chất lượng nghệ
thuật của điệu múa nón hơn hẳn. Từ đó trở đi múa nón trở thành múa nữ đông người.
Múa nón có các động tác chính: đưa nón sang 2 bên người; nhún ngang đưa nón sau
gáy; nghiêng nón 2 bên đầu; lao nón; xoay nón trên đầu; ngồi chống nón trước mặt;
+ Xòe quạt: Múa quạt có 2 kiểu: múa một quạt và múa 2 quạt.
Múa một quạt thường đi đôi với khăn; người múa cầm quạt xoè ở tay phải khăn
(gập đôi) ở tay trái. Múa hai quạt thì cầm quạt xoè ở hai tay. Quạt lúc xòe, lúc gập.
+ Xòe nhạc: hai kiểu đan xen là: từng đôi đối diện đi vào giữa vòng tròn, vòng
qua nhau rồi đổi chỗ, nam với nam - nữ với nữ múa cùng nhau; từng khối 4 người
(dàn thành hai hàng đối diện) đan vòng qua nhau.
* Đặc điểm xòe biểu diễn:
Trừ xòe nhạc, còn lại các loại xoè khác đều múa nữ. Xòe Thái nhnhàng, uyển
chuyển, sự phối hợp động tác chân, tay và thân trên đều rất khỏe, được đặc tính
này là do những đặc điểm về động tác sau:
+ Chân nhảy không cao, không bước rộng
+ Nhún nẩy không hết đà
lOMoARcPSD| 60857655
+ Bước nhẹ êm
+ Tay vung không hết đà

Preview text:

lOMoAR cPSD| 60857655
NGHỆ THUẬT DIỄN XƯỚNG DÂN GIAN VIỆT NAM
Câu 1: Anh (chị) hãy phân tích và làm rõ quan niệm Nghệ thuật diễn xướng dân gian?
Diễn xướng dân gian là tổng hợp những biểu hiện cơ bản nhất của đời sống thẩm mỹ dân
gian, nói cách khác là biểu hiện ra bên ngoài của đời sống thẩm mĩ đó Về cấu trúc, diễn xướng dân
gian bao gồm các bộ phận sau:
+ Hát, nói (phần xướng): đây là bộ phận biểu hiện lời ca tiếng hát thành những làn điệu,
những giọng điệu, cách nói xét về mặt biểu hiện của âm thanh và giai điệu.
+ Trình diễn (phần diễn): cung cách thể hiện bằng những điệu múa, cử chỉ, phong cách, cấu
trúc, không gian biểu diễn… Kết hợp với phần xướng, phần này giúp những giá trị trong lời được
biểu hiện ra, tạo hiệu quả thẩm mĩ
+ Phần âm nhạc: bộ phận này tuy được tách ra nhưng lại có giá trị phối hợp, như 1 mối liên
kết và hỗ trợ, làm tăng thêm hiệu quả cho toàn bộ quá trình diễn xướng
Về quan niệm về diễn xướng và diễn xướng dân gian có rất nhiều, nên có thể hiểu nghệ thuật
diễn xướng dân gian như sau: “Diễn xướng dân gian là những hình thức sinh hoạt văn hóa nghệ
thuật gắn liền với mọi mặt đời sống của người dân, được người dân sáng tạo, gìn giữ và trình diễn
thông qua các phương tiện biểu hiện khác nhau. Diễn xướng dân gian thể hiện tâm tư, tình cảm,
nguyện vọng, thỏa mãn nhu cầu đa dạng của đời sống, phản ánh nhận thức về nhân sinh quan và
thế giới quan của người dân Việt Nam từ xưa tới nay”.

Câu 2: Anh (chị) hãy phân tích các đặc trưng cơ bản của Nghệ thuật diễn xướng dân gian Việt Nam? Các đặc trưng cơ bản Miêu tả lOMoAR cPSD| 60857655 -
Là sự gắn bó hữu cơ những giá trị thẩm mĩ, trí tuệ, trình diễn... của nhiều thành tố. -
Tính nguyên hợp có nguồn gốc từ đặc điểm hình thành, của nghệ thuật nguyên thủy.
VD: Đẻ đất đẻ nước là áng sử thi - thần thoại của người Việt - Mường ban
đầu là các thầy mo hát bên thi hài người chết giúp cho hồn người chết ôn lại
sự việc ở trần gian từ khi khai thiên lập địa cho tới lúc bản Mường ổn định,
chế độ xã hội được hình thành và mỗi chặng hát có những quy trình lễ thức, diễn xướng kèm theo). -
Là hiện tượng tự nhiên vốn có của nghệ thuật diễn xướng dân gian.
+ Về nội dung: diễn xướng dân gian phản ánh nhiều phương diện khác nhau
của đời sống vật chất và tinh thần trong xã hội, do vậy nó vừa thực hiện chức
năng của văn học, dân tộc học, triết học…
+ Về hình thức: diễn xướng sử dụng rất nhiều ngôn ngữ, âm nhạc, vũ điệu…
để phản ánh các giá trị tinh thần, nghệ thuật, cảm xúc… -
Đứng ở góc độ nào đó, tính đa chức năng chính là hệ quả của tính
Tính nguyên hợp nguyên hợp. Chúng tuy vừa khác nhau, vừa quan hệ mật thiết với nhau.
+ Diễn xướng dân gian là sản phẩm sáng tạo của nhiều người, thuộc nhiều
thế hệ qua những thời gian và không gian khac nhau.
+ Tính tập thể trong sáng tác nghệ thuật dân gian được biểu hiện ở phương
diện thẩm mĩ. Đối tượng của những sáng tác nghệ thuật dân gian là toàn bộ
những gì liên quan đến cộng đồng tập thể. Và vì thế diễn xướng dân gian rất
coi trọng hành động và tâm lí tập thể.
+ Tính tập thể của nghệ thuật diễn xướng dân gian biểu hiện trong quá trình
sáng tác, biểu diễn và lưu truyền tác phẩm, trong nội dung và hình thức sáng
tác, biểu diễn. Tính tập thể còn quyết định sự ra đời và tồn tại của tác phẩm Tính tập thể
và hình thức, cách thức biểu diễn. lOMoAR cPSD| 60857655
+ Là 1 đặc trưng cơ bản của diễn xướng dân gian, sáng tác dân gian đi từ
người này sang người khác, từ thế hệ này sang thế hệ khác dưới hình thức truyền miệng.
+ Truyền miệng là môi trường diễn xướng của sáng tác nghệ thuật dân gian.
Truyền miệng khi tách khỏi môi trường diễn xướng thì sẽ không còn là truyền
miệng nữa. Truyền miệng không gắn với phòng kín mà gắn với những hoạt
động bên ngoài của đời sống.
+ Truyền miệng là hình thức bảo lưu, lan tỏa của nghệ thuật diễn xướng dân
gian. Truyền việc gắn với việc ghi nhận tác phẩm bằng trí nhớ, ghi nhận trong
sự hào hứng của tập thể, quá trình ghi nhận được chuyển hóa thành quá trình diễn xướng.
+ Truyền miệng là phương thức sáng tác của nghệ thuật diễn xướng dân gian Tính truyền
- sáng tác ngẫu hứng và ứng tác, là một đặc điểm cơ bản của nghệ thuật miệng không chuyên.
+ Trong văn hóa dân gian, tính bản địa là cơ sở để phân vùng và xác định
ranh giới giữa các vùng văn hóa dân gian mỗi quốc gia, dân tộc; góp phần
làm tăng sự phong phú, đa dạng của nền văn nghệ dân gian của mỗi dân tộc.
+ Nước ta rất đa dạng về địa lý, thành phần dân tộc, điều kiện tự nhiên, ngôn
ngữ... Vì vậy nghệ thuật dân gian cũng rất đa sắc, sinh động, muôn vẻ. +
Nước ta có 54 dân tộc, có 54 nền văn hóa dân tộc, tức là cũng có 54 nền âm nhạc dân tộc khác nhau.
+ Do phương thức lưu truyền và sáng tạo tập thể nên sáng tạo nghệ thuật diễn
xướng dân gian mang đậm tính bản địa, vùng miền.
+ Hoàn cảnh lịch sử của mỗi vùng cũng chi phối đến tính bản địa, vùng miền
của nghệ thuật diễn xướng dân gian.
VD: Bắc Bộ là vùng đất cổ, đất cội nguồn nên đây là vùng sản sinh là nhiều
di sản dân ca nghi lễ lâu đời như: Hát Chèo Tàu, hát Xoan, hát Chầu Văn...
Nam Bộ là vùng đất mới, đất khai phá nên vùng này sản sinh ra dân ca Nam
Tính bản địa Bộ là sự kế thừa, tiếp nối dân ca của người Việt ở phía ngoài, đặc biệt là Bắc
và vùng miền Trung Bộ, Nam Trung Bộ. lOMoAR cPSD| 60857655
+ Đặc trưng về giọng nói hoặc phương ngữ của mỗi vùng cũng chi phối nhiều
tới tính địa phương của nghệ thuật diễn xướng dân gian.
Chẳng hạn như xứ Huế, nhất là xứ Nghệ, có hệ thống phương ngữ rất đậm
đặc, âm vực của giọng nói cạn hẹp nhất nước cho nên dân ca của họ cũng
mang thổ âm, thổ ngữ rất rõ.
+ Phương ngữ là trong những yếu tố vô cùng quan trọng để nhận ra tính bản
địa, tính địa phương của sáng tác nghệ thuật dân gian. Phương ngữ không
chỉ là phương tiện nhấn nhá, đệm lót cho từng làn điệu mà còn góp phần tạo
nên bản sắc của ca dao dân ca từng vùng. Phương ngữ đáp ứng đầy đủ các
nhu cầu giao tiếp thông thường của 1 nhóm cư dân cùng sinh sống trên địa bàn nhất định.
+ Diễn xướng dân gian phần lớn phục vụ cho nhu cầu thưởng thức tại chỗ
của những người trong cộng đồng làng xã, dòng họ nên tính tự túc rất rõ nét.
+ Diễn xướng dân gian cơ bản không phải là phương thức làm ra của cải vật
chất, nó không sinh lợi nhuận kinh tế mà đem lại giá trị tinh thần là chính.
Ngay cả khi nghệ thuật diễn xướng phát triển cả về quy mô và hình thức thì Tính phi lợi
vẫn mang tính chất hoạt động văn nghệ quần chúng phục vụ đời sống tinh nhuận
thần của đông đảo người dân.
Câu 3: Anh (chị) hãy kể tên các vùng dân ca Việt Nam và trình bày đặc điểm của một
trong các vùng dân ca đó?
Hiện nay tại Việt Nam có tất cả 6 vùng dân ca. Bao gồm:
+ Vùng dân ca miền núi phía Bắc
+ Vùng dân ca đồng bằng, trung du Bắc Bộ và cực bắc Trung Bộ
+ Vùng dân ca đồng bằng và ven biển Bắc Trung Bộ
+ Vùng dân ca đồng bằng và ven biển Nam Trung Bộ
+ Vùng dân ca đồng bằng Nam Bộ
+ Vùng dân ca Trường Sơn – Tây Nguyên.
Sau đây, là đặc điểm của một số vùng dân ca đáng chú ý (lựa chọn ngẫu nhiên của tác giả): Vùng dân ca Đặc điểm lOMoAR cPSD| 60857655
+ Là vùng địa lý được coi như là cái nôi văn minh của người Việt, là địa
bàn sinh tụ từ lâu đời, là vùng đất tổ của người Việt. Đó cũng là cái nôi đầu
tiên sinh thành và nuôi dưỡng những thể loại dân ca rất đặc trưng như: Hát
Ghẹo, Hát Đúm, Hát Trống quân, Hát Quan họ; các điệu hát chèo; Cò lả,
Hát ví, Hát ghẹo, Hát cửa Đình, Hát Chầu văn… Vùng dân ca
+ Môi trường trung du và đồng bằng là môi trường đặc trưng của nông
nghiệp ruộng nước => là những bức ảnh thiên nhiên và xã hội chủ yếu của đồng bằng, các sáng tác dân gian.
trung du Bắc Bộ + Vùng còn phân ra đặc sản dân ca riêng của từng địa phương như Phú Thọ và cực bắc
có Hát Xoan, hát Ghẹo anh; Kinh Bắc có hát Quan họ; Hà Nội có hát Ải Trung Bộ
lao; Hà Tây có Hát Dô, chèo tàu; Hải Phòng có Hát Đúm; Hà Nam có hát
Dậm; Hà Nam Ninh là cái nôi và là trung tâm lớn của hát Chầu văn và hát
Xẩm; Thanh Hóa có Hò Sông Mã…
+ Khá phong phú về chủng loại, đa dạng về hình thức ca hát, sâu rộng và
sinh động về nội dung lời ca, âm nhạc. Nhiều loại, nhiều bài đượm màu sắc vui tươi, duyên dáng.
+ Nam Bộ là nơi tụ cư của những con người tứ xứ, bởi vậy dân ca vùng này
cũng mang nhiều màu sắc. Trong đó nổi lên là dân ca người Việt và dân ca người Khmer, Chăm, Hoa…
+ Dân ca Nam Bộ là sự kế thừa dân ca Việt phía Bắc, đặc trưng là của miền
Trung. Nói tới dân ca vùng này phải nói tới Hò với Lý.
+ Hò Nam Bộ cũng đa dạng về mặt chủng loại như hò miền Trung nhưng
sự đa dạng ấy còn được đẩy thêm 1 bước nữa với sự hình thành những điệu
Hò mang phong cách riêng của từng địa phương như: Hò Bạc Liêu, Hò
Đồng Tháp, Hò Trà Vinh...
+ Lý Nam Bộ cũng phát triển lên tới đỉnh cao về số lượng và về sự đa dạng
phong phú của đặc tính âm nhạc và hệ đề tài. Những bài mang đến tên cụ
thể của những "cây" , những "con" thường thấy trong vùng như: Lý cây đa,
Lý cây chanh, Lý con chuột, Lý ngựa ô.
+ Âm nhạc của những điệu Hò, Lý cũng như lời ca đã phản ánh sinh động
tâm hồn con người sống trong vùng đất được thiên nhiên dành cho những ưu đãi.
+ Ngoài ra dân ca Việt Nam Bộ còn phát triển mạnh hát Ru và tục Nối thơ.
+ Bên cạnh sự chiếm ưu thế của dân ca Việt, cũng cần phải kể đến dân ca Vùng dân ca
của dân tộc Khmer Nam Bộ. Kho tàng dân ca Khơ me Nam Bộ cũng rất
phong phú và đặc sắc, ngoài hát đồng dao, hát ru, còn có những bài hát lao đồng bằng
động, hát huê tình, đặc biệt là có những loại bài hát kèm với múa, hát trong Nam Bộ
đám cưới… rất phổ biến.
Câu 4: Anh (chị) hãy cho biết thế nào là Âm nhạc dân gian? Hãy phân tích những đặc
trưng cơ bản của âm nhạc dân gian Việt Nam? lOMoAR cPSD| 60857655
- Khái niệm âm nhạc dân gian:
+ Theo nghĩa rộng: Âm nhạc dân gian là các thể loại ca nhạc tồn tại có tính chất thường trực
trong môi trường sinh hoạt dân gian. Trong âm nhạc dân gian theo nghĩa rộng có cả những yếu tố,
thể loại mang tính chất dân gian và những yếu tố, thể loại mang tính chất bác học do sự đóng góp
của giới trí thức bình dân hoặc có nguồn gốc từ dòng cung đình.
+ Theo nghĩa hẹp: Âm nhạc dân gian là những thể loại ca nhạc được sáng tạo và biểu diễn
chủ yếu bằng cảm xúc và kinh nghiệm, mặc dầu 1 số loại cũng đã có những nguyên tắc cho việc
thực hành biểu diễn nhưng vẫn chưa hình thành hệ thống lý luận chi phối mọi hoạt động sáng tác và biểu diễn.
- Đặc trưng cơ bản:
+ Mang tính nguyên hợp: một tác phẩm diễn xướng dân gian thường có sự tham gia đồng
bộ của thơ ca, âm nhạc, múa, trò diễn, hoá trang và cả các nghi thức. Hình thái này thể hiện đặc
trưng trong phương pháp phản ánh thực tại của folklore, được gọi là đặc trưng tổng thể nguyên hợp (Syncretisme).
+ Mang bản chất xã hội: Diễn xướng dân gian phản ánh tư tưởng, tình cảm, nguyện vọng
của người lao động, nảy sinh ra ngay trong các hoạt động sản xuất và sinh hoạt xã hội của họ.
+ Có tính thực hành xã hội: Âm nhạc dân gian được sáng tác và trình diễn gắn liền với những
hoạt động sản xuất và sinh hoạt xã hội cụ thể của người lao động. Tính thực hành xã hội thường
được chỉ rõ ngay trong tên gọi của nhiều thể loại, chẳng hạn như: Hò giã vôi, Hò giã gạo, Hò chèo thuyền…
+ Không tồn tại dưới dạng văn bản, mà nằm trong trí nhớ của mỗi người dân và chỉ xuất hiện
khi được người dân trình diễn ra.
+ Trình diễn âm nhạc dân gian là quá trình sáng tác tại chỗ.
+ Quá trình trình diễn một tác phẩm âm nhạc dân gian lại cũng là lúc nó được truyền bá.
+ Do được lưu truyền theo cách truyền miệng, và do quá trình trình diễn cũng là quá trình
sáng tác, nên các tác phẩm âm nhạc dân gian luôn ở trong tình trạng biến động.
+ Âm nhạc dân gian có tính tập thể hay tính khuyết danh.
Câu 5: Anh (chị) hãy cho biết thế nào là múa dân gian? Hãy phân tích những đặc điểm
cơ bản của nghệ thuật múa dân gian Việt Nam?
- Khái niệm múa dân gian:
Múa dân gian là hình thái múa do quần chúng nhân dân sáng tạo được lưu truyền từ đời này
qua đời khác. Múa dân gian được sử dụng rộng rãi trong sinh hoạt văn hóa cộng đồng. Nó tiêu biểu
cho bản sắc văn hóa của từng cộng đồng và là cơ sở để phát triển các hình thái múa khác.
- Đặc điểm:
Đặc điểm cơ bản Miêu tả lOMoAR cPSD| 60857655
+ Trong đời sống văn hóa tâm linh của quần chúng nhân dân, có 1 loại
múa được sản sinh và nuôi dưỡng trong môi trường sinh hoạt văn hóa
tâm linh đó là múa tín ngưỡng hay còn gọi là múa tín ngưỡng dân gian.
Múa tín ngưỡng thể hiện cho các loại nghi lễ.
VD: người Việt có múa tín ngưỡng hầu bóng (múa lên đồng) là 1 bộ
phận của chương trình lễ hội và nghi lễ đạo Mẫu. Nhìn từ góc độ tín
ngưỡng thì động tác, điệu bộ của người múa thể hiện tiếng nói, ý nguyện
của thánh thần. Theo quan niệm dân gian, phần xác (ông, bà đồng) là
của con người, còn phần hồn là của thánh thần => con người và thánh
Thường gắn liền với thần có thể gần gũi, hòa quyện với nhau.
phong tục, tập quán, + Những động tác biểu hiện thể giới tâm linh của con người (cầu mong
lễ nghi, tín ngưỡng sự che chở, phù hộ…).
+ Múa dân gian do mô phỏng hiện thực nên mặc dù đã được cách điệu
hóa vẫn mang tới cho người xem những thông điệp sát thực.
Được thể hiện cả 2 chiều. Chiều 1 là tự luận điệu múa được “ tác giả dân
Giàu tính hiện thực gian” ghi nhận trong thực tế, từ đó sáng tạo nên. Chiều 2 là người thể
hiện cũng hết sức cố gắng bắt chước hiện thực cộng với yếu tố sáng tạo
cá nhân trong quá trình thể hiện cũng mang lại những tín hiệu chân thực.
VD: múa chèo đò. Mặc dù múa tay không nhưng người xem có thể cảm
nhận được không gian của vùng sông nước. Với dáng người đổ về phía
trước, khi ngả về phía sau, người xem có thể tưởng tượng được hình ảnh
của dòng sông, mái chèo và con thuyền. + Tính chất nhẹ nhàng, uyển chuyển, chậm rãi
+ Thông qua đó có thể thấy những thông tin về lịch sử, địa lý, môi trường
sinh thái. Có lẽ bắt nguồn từ đặc điểm địa lý Việt Nam => múa chèo
thuyền trở nên phổ biến trong múa dân gian.
Đạo cụ có thể là các vật dụng trong đời sống sinh hoạt được sáng tạo
Thường kết hợp với thêm mang tính nghệ thuật. Cũng có khi chính là nhạc cụ, vừa mang âm đạo cụ
điệu, vừa góp phần để tiết mục cuốn hút người xem.
+ Do luôn tồn tại và phát triển qua nhiều thế hệ nên thường không có 1 cấu trúc ổn định.
+ Do có cấu trúc mở, múa dân gian không ngừng được bồi đắp và bổ
sung những sáng tạo mới của các thế hệ tiếp theo. Cấu trúc mở của múa
Là sản phẩm của tập dân gian là luôn sẵn sàng đón nhận những sáng tạo, bổ sung hoặc 1 sự
điều chỉnh mới cho hoàn chỉnh hơn. Những sáng tạo mang tính tự thể sáng tạo có
nguyện, thâu nhận vào mình 1 cách tự nhiên, tự nguyện, tự giác nên khác cấu trúc mở
với múa chuyên nghiệp, và không cần phải xác định “quyền tác giả”. lOMoAR cPSD| 60857655
+ Nhìn từ góc độ nghệ thuật múa, có thể nói di sản múa dân gian là cơ
sở tiêu biểu xác định bản sắc múa của mỗi tộc người là nền tảng cho nghệ thuật múa sau này
+ Nền nghệ thuật múa Việt Nam hôm nay được bắt nguồn và kế thừa từ
nền nghệ thuật múa truyền thống. Trên cái nền đó, mỗi thế hệ góp phần
sáng tạo để giữ gìn và làm giàu bản sắc tâm hồn dân tộc; phát huy những
giá trị vốn có; sáng tạo những yếu tố mới, sắc thái mới. Giữ gìn giá trị
cốt lõi, tinh túy nhất trong vốn múa, giữ được cái “đặc trưng”, “tiêu biểu”
nhất => phát triển và bổ sung
+ Có thể sử dụng ngôn ngữ nước ngoài để hòa trộn với ngôn ngữ múa
dân gian Việt Nam giúp phản ánh sâu sắc hơn tâm tư, tình cảm nguyện
vọng của người Việt Nam đương đại.
+ Trong 1 xã hội hiện đại, khoa học công nghệ tiên tiến, muốn xây dựng
nền nghệ thuật múa chuyên nghiệp, phát triển, đậm đà bản sắc dân tộc
Là nền tảng để nền
nghệ thuật múa hiện trước hết phải kế thừa triệt để những giá trị múa dân gian.
đại của dân tộc kế + Bên cạnh đó, muốn cách tân thì cần nghiên cứu, xác định và hiểu đâu
thừa và phát triển là giá trị đích thực cần phải kế thừa.
Câu 6: Anh (chị) hãy giới thiệu ngắn gọn về một loại hình diễn xướng dân gian tiêu biểu
ở quê hương mình hoặc địa phương nơi mình sống?
Thuyết minh về dân ca quan họ
Người Việt Nam ta luôn tự hào là "Đất nước ngàn năm văn hiến" với sự giao thoa của nhiều
nền văn hóa. Dưới hàng nghìn năm Bắc thuộc cùng ách thống trị của thực dân Pháp, nền văn hóa
của ta đã tiếp thu những giá trị văn hóa mới nhưng vẫn giữ lại được nét tinh hoa của dân tộc, để từ
đó sáng tạo nên những loại hình nghệ thuật vô cùng đặc sắc, mang lại giá trị to lớn cho nền văn
hóa Việt. Dân ca quan họ chính là một trong những loại hình nghệ thuật ấy, nó có sức lan tỏa mạnh
mẽ, lay động người nghe bằng những câu hát giao duyên dịu dàng mà đằm thắm ân tình xứ Bắc.
Dân ca quan họ là một làn điệu dân ca tiêu biểu của vùng đồng bằng sông Hồng thuộc miền
Bắc nước ta, được hình thành từ rất lâu đời ở vùng Kinh Bắc xưa, chủ yếu thuộc địa bàn hai tỉnh
Bắc Giang và Bắc Ninh với con sông Cầu chảy ngang. Theo các nhà nghiên cứu khoa học: Quan
họ có từ thế kỷ XVII, được bắt nguồn từ tục kết chạ giữa bà con lối xóm.
Cái tên "Quan họ" có thể thể hiểu theo truyền thuyết có một ông quan trong lần qua xứ Kinh
Bắc, vô tình nghe được và lấy làm say mê những câu hát ngọt ngào của các liền anh, liền chị,
những người cùng có sở thích ca hát dòng nhạc này và người ta gọi là đó một "họ". Nhưng cách
giải thích này cũng chỉ đúng ở một khía cạnh nào đó, ngoài ra còn rất nhiều cách lý giải khác liên
quan đến nếp sinh hoạt văn hóa và chế độ thời bấy giờ.
Dân ca Quan họ là lối hát giao duyên giữa người nam và nữ, là hình thức trao đổi bày tỏ tâm
tư, tình cảm giữa liền anh và liền chị. Họ dùng những câu hát ý nhị, giọng hát mượt mà sâu lắng
để bộc lộ cảm xúc trong tâm hồn mình. Những làn điệu Quan họ truyền thống thường được hát vào lOMoAR cPSD| 60857655
mùa xuân hay mùa thu là những mùa tươi đẹp nhất trong năm, khi ấy câu hát Quan họ nhộn nhịp,
tưng bừng làng trên, thôn dưới, làm thổn thức biết bao trái tim người yêu nghệ thuật.
Thông thường quan họ phổ biến lối hát đối đáp giữa trai và gái, có thể cùng hoặc khác làng,
cái khó là ở chỗ cùng một giai điệu nhưng người hát phải tự tìm lời phù hợp để đối qua đối lại, tạo
thêm phần hấp dẫn và không bị nhàm chán, ấy là điểm đặc sắc mà không phải ai cũng hát được.
Các đôi nam nữ cất lên những câu hát dạt dào cảm xúc, lắng đọng tâm tình, có thể là những
câu hát được lấy từ lời thơ, lời ca dao trong sáng, ý nhị. Quan họ là thể loại nhạc trữ tình nên cách
hát và luyến láy được trau chuốt rất kỹ càng, gồm nhiều kỹ thuật sao cho âm điệu vừa vang, rền lại
vừa nền, nảy, nghe như rót mật vào tai, vô cùng ngọt ngào tình cảm, như dòng chảy mượt mà của
con sông Cầu - "dòng sông Quan họ". Hát quan họ có ba hình thức phổ biến nhất là hát canh, hát
phục vụ lễ hội và hát thi đấu giành giải, mỗi một thể loại đều có nét đặc sắc và dấu ấn riêng.
Trang phục cũng là một điểm nổi bật trong nghệ thuật dân ca Quan họ, các liền anh, liền chị
khoác lên mình những bộ quần áo rực rỡ sắc màu tôn lên vẻ đẹp thanh lịch, quý phái của người
con Kinh Bắc. Về phía nam, các liền anh khoác lên mình tấm áo dài mỏng thẫm màu, bên trong là
áo trắng cùng quần lĩnh trắng, ống rộng, phẳng phiu, đầu đội khăn xếp, tay có thể cầm quạt hoặc
cầm chiếc dù đen, càng tăng thêm vẻ đĩnh đạc, truyền thống đậm chất văn hóa vùng Kinh Bắc.
Trang phục liền chị cầu kỳ và tỉ mỉ hơn các liền anh rất nhiều, các chị sẽ mặc những bộ áo mớ ba
mớ bảy nhiều màu sắc sặc sỡ như đỏ, vàng, xanh phối cùng với chiếc thắt lưng hoa đào, chít tóc
bằng khăn mỏ quạ, đầu đội nón quai thao trắng, hoặc cầm ở tay, cho thêm phần duyên dáng, thướt
tha. Những câu hát bay bổng, da diết, ngọt ngào kết hợp với trang phục đặc biệt như vậy đã làm
tăng thêm vẻ đẹp cho những người hát giao duyên.
Quan họ là một loại hình văn hóa đặc sắc, vẫn còn được phát triển cho đến ngày nay, ở nó
còn lưu giữ những vẻ đẹp truyền thống xa xưa, nhưng đến hiện tại đã được những người tiếp nối
phát triển và sáng tạo ra những cái mới để quan họ không bị lạc hậu so với thời đại.
Quan họ được xem là dòng nhạc dân ca trữ tình có nguồn giai điệu phong phú, đa dạng nhất
ở Việt Nam, tính cho đến nay chúng ta còn lưu giữ được khoảng 300 bài quan họ có giai điệu khác
nhau và được ghi chép thành các bản nhạc, ngoài ra còn có rất nhiều các giai điệu không được ký
âm chính thức mà chỉ được truyền miệng từ đời này qua đời khác. Các làn điệu quan họ truyền
thống phải kể đến là: Đường bạn Kim Loan, Cây gạo, La hời, Tình tang... Hát Quan họ bao giờ
cũng có ba chặng: chặng mở đầu thuộc giọng lề lối, khi hát xong khoảng mười bài giọng lề lối
người hát chuyển sang giọng sống để tiếp vào chặng giữa; các bài ở chặng giữa là ở giọng vặt;
chặng cuối là giọng giã bạn. Làn điệu quan họ là những tiếng hát thân tình, ngọt ngào mềm mại,
người hát luôn trong trạng trái say mê, chăm chút thổi hồn vào từng câu chữ khiến cho âm hưởng
của toàn bài luôn vang vọng và thấm đẫm vào tâm hồn những người thưởng thức, khiến ta phải
trầm trồ, thán phục trước sức hút của thứ dân ca truyền thống và cũng khá kén người nghe này.
Câu 7: Anh (chị) hãy cho biết Chầu văn thuộc thể loại âm nhạc gì? Hãy trình bày các
thành phần tham gia, các hình thức và đặc điểm nghệ thuật của hát Chầu văn?
Miêu tả về Chầu Văn lOMoAR cPSD| 60857655
Hát chầu văn còn có tên gọi khác là hát văn, hát bóng. Đây là một loại hình nghệ
thuật diễn xướng dân gian độc đáo gắn liền với tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ của Thể loại người Việt.
+ Hát Chầu văn cần có người hát chầu văndàn nhạc phục vụ hát văn. Người hát
văn (được gọi là cung văn), thông thường là người vừa hát giỏi, vừa biết nhiều làn
điệu, vừa biết chơi nhạc cụ. Dàn nhạc hầu bóng gồm có: một đàn nguyệt, một đàn
nhị, một trống nhỏ (gọi là trống con), một cảnh đôi, một phách.
+ Người ta có thể thêm nhạc cụ khác tùy địa phương hoặc hoàn cảnh hành lễ và yêu
cầu riêng của người hành lễ. Trong các loại nhạc đó, đàn nguyệt, trống nhỏ và cảnh
đôi đóng vai trò nòng cốt. Đây là những nhạc khí cơ bản, không thể thiếu được vì
Thành phần chúng tạo nên tính cách riêng biệt và đặc thù của dàn nhạc hát văn. Những buổi hát
tham gia thờ lớn thì có thêm một cỗ trống lớn, chiêng, sáo, tiêu, đàn thập lục…
+ Các bài văn hát thường được xắp xếp như một câu chuyện về xuất xứ của thánh
và tôn vinh công đức, kỳ tích của ngài. Có một số đoạn, câu văn vần điệu, niêm luật
không chặt chẽ như một bài thơ nhưng khi đọc lên mọi người đều cảm nhận được
chất thơ của bài văn. Hát văn là một hình thức hát trong khi ngồi đồng nên các làn
điệu và lối hát cũng như độ dài của câu ca, tiếng nhạc đều phụ thuộc vào diễn biến
của cuộc hầu đồng. Giai điệu của hát văn khi thì mượt mà, hấp dẫn trên nền phách
độc đáo, khi lại dồn dập, khoẻ khoắn, vui tươi. Lời văn đầy ắp chất thơ, có ý nghĩa
nhân văn sâu sắc. Chất thơ của bài văn đó được nâng lên cao tuyệt đỉnh trong không
khí tâm linh thành kính, khấn vái xuýt xoa, khói hương nghi ngút, có dàn nhạc với
Các hình trống phách, thanh la rộn ràng, lời ca phụ hoạ, đưa đẩy và các điệu múa thiêng của thức
Thánh thể hiện qua người hầu đồng. Với tính chất này hát văn ngày nay không chỉ lOMoAR cPSD| 60857655
bó hẹp trong phạm vi dùng trong nghi lễ mà hát văn cũng được coi như một hình
thức ca nhạc dân gian vui tươi lành mạnh và có thể đưa ra công diễn trước đông đảo quần chúng.
+ Trình tự thực hiện nghi lễ hát chầu văn phục vụ hầu bóng có thể chia thành bốn
phần chính: Mở đầu buổi lên đồng, cung văn hát điệu văn thờ - văn công đồng “mời
thánh nhập”, điệu này có tiết tấu nhanh; khi Thánh đã nhập đồng thì hát văn kể sự
tích và ca ngợi công đức các thánh, sau đó chuyển hát dọc để kích thích khả năng
thăng thoát của người ngồi đồng. Khi nhân vật đã nhập vai các thánh và “làm việc
thánh” thì chuyển điệu còn là điệu thức cao hơn dọc một cung bậc. Tiếp đến là phần
xin thánh phù hộ và đưa tiễn. Bài hát thường chấm dứt với câu: "Thánh giá hồi
cung!". Hát văn không chỉ khó mà còn đòi hỏi người cung văn phải nhanh, linh hoạt
để vừa có thể chuyển lời, giọng và nhạc cho ăn khớp mà vẫn hay, vẫn sát vai của
người ngồi đồng; thậm chí phải hát lặp lại, luyến láy, kéo dài câu ca, tiếng nhạc trong
thời gian chuyển tiếp giữa hai giá hầu.
+ Vì thế mà chỉ trong một thể hát thì cũng có nhiều dạng khác nhau như: thể phú thì
có phú dựng, phú chênh để diễn tả tâm trạng vui, phú rầu diễn tả tâm trạng buồn.
Những khi thay đổi như vậy, âm nhạc đều chuyển điệu thức 5 âm để phụ họa theo.
Đó là cách người cung văn thể hiện tài năng riêng của mình. lOMoAR cPSD| 60857655
+ Có rất nhiều đặc điểm để giải thích có thể hiểu chi tiết về hát chầu văn. Cụ thể -
Cấu trúc làn điệu:
Có rất nhiều cách hiểu khác nhau về cấu trúc làn điệu. Tuy nhiên,
tóm lại có thể hiểu cấu trúc là quan hệ các yếu tố bên trong có sự sắp xếp tổ chức
nhất định tạo lên một chỉnh thể hoàn chỉnh.
Khác với các loại hình nghệ thuật hát văn thờ, hát văn thi khác hát Chầu văn thường
ghi nhận cấu trúc 2 phần, rất hiếm gặp cấu trúc ba phần: Phần thân hát theo lối có
nhịp Phần mở hát theo lối hát ngâm trên nhịp dồn phách.
+ Có thể thấy cấu trúc trong hát chầu văn có mối quan hệ rất chặt chẽ với lời thơ của
mỗi bài văn, nó góp phần định hình được cấu trúc nhạc. Còn cấu trúc hai phần trong
chầu văn gồm phần mở và phần thân. Phần mở được ngâm trên nhịp tự do ứng với
hai cặp lục bát (6/8/6/8). Phần thân chuyển sang lối hát có nhịp vào nửa sau của trổ
hát nghĩa là hát câu 2 và bộ phận đóng, sang trổ tiếp sau mới hát trọn vẹn cả trổ…
như vậy có thể thấy đối với cấu trúc hai phần thường được hát theo lối hát ngâm trên
nhịp tự do tạo ranh giới với phần thân hát theo lối có nhịp.
+ Về cấu trúc ba phần, là làn điệu gồm ba phần với phần mở, phần thân, phần đóng.
Có thể thấy cấu trúc làn điệu ba phần trong hát văn hầu đồng không phải là dạng
phổ biến, chủ yếu xuất hiện trong lối hát chèo đò.
=> Tóm lại cấu trúc làn điệu trong hát văn rất đa dạng và phong phú với những đặc
điểm chung và riêng có. Nhưng nhìn chung có ba dạng phổ biến nhất đó là dạng cấu
trúc một phần, cấu trúc hai phần và cấu trúc ba phần.
Đặc điểm - Nhịp phách trong hát Chầu văn: Thông thường có hai nhịp được quan tâm trong
nghệ thuật hát Chầu văn: lOMoAR cPSD| 60857655
+ Nhịp nội: là cách gọi dạng âm hình tiết tấu trong âm nhạc cổ truyền mà ở đó các
từ, các chữ được nhấn vào đầu nhịp (phần mạnh của phách mạnh).
+ Nhịp ngoại: là cách gọi dạng âm hình tiết tấu trong âm nhạc cổ truyền mà ở đó
các từ, các chữ không nhấn vào đầu nhịp (phần mạnh của phách mạnh) mà được
nhấn ở phần yếu của phách mạnh hay ở phách yếu hoặc trường độ của nốt nhạc (chữ
hay từ) được nối từ phách yếu nhịp trước sang phách mạnh nhịp kế tiếp.
+ Trong Chầu văn, đa số các làn điệu thường sử dụng nhịp ngoại, tạo cảm giác mông
lung, huyền ảo cho người nghe/xem. Một số nghệ nhân cũng cho biết, nhịp ngoại là
“tính” đặc thù trong nghệ thuật hát chầu văn. Sự ứng tác tài tình của các cung văn
“thời xưa”, chính là nguyên nhân của việc xuất hiện nhịp ngoại trong chầu văn. +
Phách là đơn vị cơ bản để tính thời gian trong âm nhạc. Khi vừa hát vừa gõ một cách
đều đặn thì thời gian của mỗi cái gõ như vậy được gọi là một phách. Thời gian của
phách được tính từ khi đầu bàn tay (hoặc đầu bàn chân) ở trên cao đưa xuống điểm
gõ cho tới khi nó lại được đưa lên cao để gõ tiếp. -
Trang phục trong hát Chầu văn: Trong tín ngưỡng thờ Mẫu, Tam Phủ - Tứ
Phủ, người ta chia ra làm các hàng các bậc khác nhau, mỗi nhân vật thuộc cấp bậc
có những đặc điểm chung, điểm riêng dựa vào đó người ta có thể nhận biết trang
phục đó là của vị nào. Đối với hàng Thiên phủ thường thì trang phục sẽ có màu đỏ,
Nhạc phủ màu xanh, Thoải phủ màu trắng. Hay các các hàng Đệ nhất thường là màu
đỏ, Đệ nhị màu xanh lá, đệ tam màu trắng, đệ tứ màu vàng, tiếp đó là các màu xanh
lục, màu lam và các màu trung gian khác.
VD: Giá hàng Ngũ vị tôn ông, mỗi vị có một màu sắc chủ đạo khác nhau, Quan Lớn
Đệ Nhất – Đệ Nhất Tôn Ông có trang phục màu đỏ, Quan Lớn Đệ Nhị – Đệ Nhị
Giám Sát màu xanh lá, Quan Lớn Đệ Tam – Tam Phủ Vương Quan màu trắng, Quan
Lớn Đệ Tứ Khâm Sai trang phục màu chủ đạo là màu vàng, quan lớn đệ ngũ Tuần Tranh màu xanh lam.
+ Bên cạnh trang phục thì phụ kiện hay các đạo cụ đi kèm cũng tạo nên những đặc
điểm nhận diện các giá đồng. Giá các quan hoàng thể hiện sự chững chạc uy nghiêm,
quyền quý còn thêm cờ, kiếm, hèo, quạt, bút đề thơ, hoặc thêm bình trà, ngọc trân,
thuốc lá… để biểu lộ thú hưởng lạc rong chơi. Các giá Cô thì y phục dân tộc có thêu
thùa, trang sức đỏm dáng cùng các đạo cụ hái hoa, hái quả thể hiện quyền uy lại bộc
lộ cá tính hồn nhiên, 32 do vậy trang phục còn thêm kiềng bạc túi trầu cau, dao quai,
dao quắm… giá các cậu cũng thể hiện quyền quý, trẻ thơ nên có khăn quấn đầu,
quần thun bó đùi, giáng điệu tự nhiên thể hiện khi lễ cũng như khi ban phát tiền, lộc.
+ Giá chầu là nữ thường mặc quầy (váy), áo chẽn theo lối dân tộc, đảm bảo sự trang
nghiêm cốt cách. Tất nhiên trang phục do từng cá nhân thanh đồng sắm, màu sắc lOMoAR cPSD| 60857655
hoa văn tùy thuộc, nhất là khăn chầu theo lỗi cổ củ ấu, nhưng không hẳn khi trang điểm đã giống nhau. -
Nhạc cụ trong hát Chầu văn: Trong hát chầu văn, hệ thống nhạc khí với
biên chế cổ điển bao gồm đàn nguyệt, phách, cảnh, trống ban, thanh la và trống cái. Dàn nhạc lOMoAR cPSD| 60857655
trong chầu văn lớn nhỏ tùy thuộc vào từng địa phương, vào mức độ của buổi lễ và
yêu cầu của người làm lễ nhưng không thể thiếu ba nhạc cụ chính yếu là đàn nguyệt,
trống nhỏ và cảnh đôi. Âm thanh, tiết tấu, nhịp điệu của ba nhạc cụ trên tạo nên tính
cách riêng biệt và đặc thù của hát văn. Điểm đặc sắc trong dàn nhạc của chầu văn ở
chỗ sử dụng đàn nguyệt là nhạc cụ mang tính âm, nhạc cụ chính mang tính dẫn dắt
trong cả dàn âm thanh.
+ Thông thường, cung văn chơi đàn nguyệt đảm nhiệm vai trò hát chính. Nhưng
trong các lễ hầu đồng, cả cung văn đánh nhịp (phách, cảnh, trống) cũng phải hát.
Trống ban, trống cái (thuộc Cách) là các nhạc khí bán âm. Trong diễn tấu, phách và
cảnh đảm nhiệm nền nhịp điệu chu kỳ, dẫn dụ, nâng đỡ giai điệu đàn nguyệt với sự
điểm xuyết của trống ban hay trống cái. Phách, cảnh, trống ban và thanh la do một
cung văn đảm nhiệm. Trống cái chỉ sử dụng trong các lễ lớn với vai trò hỗ trợ của
cung văn cầm chầu. Đây là biên chế chính thức của dàn nhạc hát văn cổ truyền với 2 hoặc 3 cung văn.
+ Hệ nhạc khí trong hát văn, đáng chú ý nhất là bộ nhạc khí tiết tấu. Khi diễn tấu,
cung văn tay trái cầm 1 dùi vừa đánh phách vừa gõ trống ban. Tay phải cầm 2 dùi,
1 dùi kẹp giữa ngón cái và ngón trỏ để đánh phách, 1 dùi kẹp giữa ngón trỏ và ngón
giữa để đánh cảnh. Phách và cảnh luôn diễn tấu những mô hình nhịp điệu chu kỳ
làm nền cho giai điệu tiếng đàn, giọng hát. Đây chính là thành phần xác định tính
vũ khúc của âm nhạc hát Chầu văn.
- Không gian diễn xướng của hát Chầu văn:
+ Hoạt động hát chầu văn được diễn ra ở nhiều không gian khác nhau. Đó có thể là
nơi linh thiêng như đền thờ, phủ, chùa, điện… những nơi có thờ thánh thờ Mẫu, đó
cũng có thể là ở trên các hệ thống âm thanh sân khấu… Không gian là điều rất quan
trọng tạo lên sự thăng hoa trong mỗi buổi lên đồng của các thanh đồng. Cùng với
những lời ca tiếng hát của cung văn tại các nơi linh thiêng có tượng các vị thánh, có
mùi hương, có ánh nến… tạo nên một không gian thăng hoa giúp cho các thanh đồng
dễ dàng được “nhập” hơn.
+ Tại các buổi diễn xướng sân khấu, với việc dàn dựng sân khấu với sự hào hứng
của khán giả tạo ra không gian linh thiêng, mờ ảo không kém tại các đền phủ. =>
Nhìn chung, có thể thấy hát chầu văn thường gắn với các không gian linh thiêng,
không gian thể hiện sự giao tiếp giữa người trần và các vị thánh và thanh đồng được
coi là người trung gian thể hiện sự giao tiếp đó.
Câu 8: Anh (chị) hãy cho biết Cồng chiêng Tây Nguyên thuộc thể loại âm nhạc gì?
Những giá trị của Cồng chiêng Tây Nguyên và quan niệm về Cồng chiêng của người Tây Nguyên ra sao?
Miêu tả về Cồng chiêng Tây Nguyên lOMoAR cPSD| 60857655
Cồng chiêng là loại nhạc cụ Châu Á thuộc bộ gõ, được làm bằng đồng thau, hình tròn
như chiếc nón quai thao, đường kính dao động khoảng từ 20 cm đến 60 cm, ở giữa có
Thể loại hoặc không có núm.
+ Giá trị biểu thị đặc trưng văn hóa âm nhạc vùng, tộc người, nhóm tộc người. + Là
nhạc khí quan trọng biểu thị đặc trưng văn hóa âm nhạc của vùng Trường Sơn - Tây
Nguyên (thể hiện ở cách dùng cồng chiêng theo bộ chiếm ưu thế).
+ Biểu thị đặc trưng văn hóa tộc người hoặc nhóm tộc người (thể hiện qua cách dùng,
cách ứng xử với cồng chiêng, tên gọi, đặc trưng âm nhạc…).
+ Giá trị sử dụng đa dạng: là công cụ hỗ trợ săn bắn, phương tiện thông tin, truyền
lệnh, phương tiện giao cảm với thế giới siêu nhiên, là nhạc khí.
+ Giá trị vật chất, biểu thị sự giàu có.
+ Giá trị tinh thần (là của gia bảo, là nhạc cụ thiêng, là vật thể hiện quyền uy).
+ Giá trị lịch sử (là bằng chứng của truyền thống âm nhạc có lịch sử lâu đời).
+ Giá trị cố kết cộng đồng (có tính tập thể và khả năng cộng cảm)
+ Giá trị nghệ thuật: Có khả năng đảm nhiệm mọi chức năng âm nhạc: Dùng để đệm
cho múa; dùng để hòa tấu trong các dàn nhạc với đủ chức năng: đi tiết tấu, đi giai
điệu, đi bè trầm, giữ nhịp…; Có khả năng thực hiện các thể loại nhạc khác nhau và có
khả năng thể hiện những hình tượng và đặc tính âm nhạc đa dạng. Giá trị nghệ thuật
cồng chiêng Tây Nguyên còn biểu hiện ở nghệ thuật diễn tấu (các kỹ thuật tạo âm;
nghệ thuật phối hợp tập thể). Những nguyên tắc cấu trúc của cồng chiêng Tây Nguyên
đã định hình chặt chẽ. Đây là một dạng nguyên mẫu âm nhạc.
+ Giá trị phản ánh đa chiều: là tấm gương phản chiếu nhiều phương diện của người
dân Tây Nguyên. Qua đó ta có thể thấy: vũ trụ quan (nổi bật là nguyên lý cặp đôi âm
– dương); chế độ xã hội và trình độ phát triển của nó; mối quan hệ xã hội; quan điểm
thẩm mỹ; phong tục tập quán; quan niệm tâm linh; tín ngữơng; khả năng thẩm âm; trí Giá trị
thức âm nhạc và trình độ phát triển âm nhạc. lOMoAR cPSD| 60857655
+ Đối với cư dân Tây Nguyên, cồng chiêng là vật thiêng. Xuất phát từ tín ngưỡng vạn
vật hữu linh, người Tây Nguyên tin rằng đằng sau mỗi cái cồng chiêng đều có một vị
thần trú ngụ. Tùy theo niềm tin của từng tộc người, vị thần chiêng đó là nam hoặc nữ.
Hầu hết các tộc người quan niệm thần chiêng là nam. Một số khác, như người Ê đê
(chế độ mẫu hệ), người Ba Na ngành Tồ Lồ cho rằng thần chiêng lại là nữ. Sức mạnh
thiêng của chiếc cồng chiêng không phải đã có ngay từ đầu. Người Tây Nguyên không
tự mình đúc được nó mà phải mua từ nơi khác về. Sau ở đó họ chỉ âm lại để phù hợp
với hàng âm của dân tộc mình. Khi đã có được âm thanh mong muốn, người ta làm lễ
hiến sinh mời thần chiêng về trú ngụ trong đó. Từ đó cồng chiêng mới là vật thiêng.
+ Là vật thiêng, nên âm thanh của cồng chiêng cũng mang tính thiêng. Họ sử dụng
âm thanh đó như ngôn ngữ để giao tiếp, cộng cảm với thần linh. Là vật thiêng, nên
chức năng bao trùm của cồng chiêng chủ yếu mang chức năng nghi lễ. Là nhạc cụ
nghi lễ, các bản nhạc cồng chiêng trước hết đáp ứng cho yêu cầu của mỗi lễ thức và
được coi như một thành tố hữu cơ của lễ thức đó. Trong mỗi lễ thức, lại có nhiều công
đoạn có nhạc cồng chiêng riêng. Người Tây Nguyên có nhiều lễ thức, tựu trung lại có
2 loại: lễ thức vòng đời cây trồnglễ thước theo vòng đời người. Mỗi dân tộc trong
Quan niệm các nghi lễ dùng biên chế dàn cồng chiêng riêng và có một hay nhiều bản nhạc riêng.
Câu 9: Anh (chị) hãy trình bày những hiểu biết của mình về Xòe Thái dựa trên các vấn
đề: địa bàn diễn xướng, quan niệm về Xòe của người Thái, phân loại và đặc trưng nghệ thuật của Xòe Thái)?
Miêu tả về Xòe Thái
+ Theo các nhà nghiên cứu và thực tiễn diễn xướng dân gian tại các vùng như: Nghĩa
Lộ, Mường Lò (Yên Bái), Mường So, Phong Thổ (Lai Châu), Mường Lay, Mường
Thanh (Điện Biên), Quỳnh Nhai, Thuận Châu (Sơn La)… thì múa xòe ra đời từ xa
xưa, gắn liền với cuộc sống mưu sinh, lao động, chinh phục tự nhiên và đời sống
tinh thần của đồng bào Thái Tây Bắc. Sau những giờ lao động vất vả trên đồng
ruộng, núi rừng, đồng bào Thái đã cùng nhau tổ chức điệu múa xòe để có nhiều
người tham gia, tất cả mọi người cùng nắm tay nhau, không phân biệt già trẻ, giới
tính, giàu nghèo. Mọi người kết thành các vòng tròn, vòng xòe quanh đống lửa lớn. Địa bàn
+ Xòe Thái cũng có rải rác ở các tỉnh Hòa Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, tuy nhiên
diễn xướng không phải là hiện tượng phổ biến.
Người Thái quan niệm "Không xòe không tốt lúa, không xòe thóc cạn bồ". Múa xòe
là biểu tượng tình yêu của người Thái, từ yêu cuộc sống lao động cần cù đến tình
Quan niệm yêu đôi lứa, người Thái hay tổ chức múa xòe trong hội xuân, hội mùa và hội cưới. lOMoAR cPSD| 60857655
Các nhà nghiên cứu quy về ba hình thức chính: Xòe tín ngưỡng (nghi lễ), Xòe biểu
diễn, Xòe giải trí (hay Xòe vòng, Xòe tập thể). -
Xòe tín ngưỡng (nghi lễ):
+ Xòe nghi lễ (tín ngưỡng) thường diễn ra trong các lễ hội bản, mường, gắn với
những nghi thức cúng lễ do các thầy cúng (thầy Tào, Mo, Phựt, Then) thực hiện và
những phụ lễ tham gia là những người "có căn số" do thầy cúng lựa chọn "xòe" theo
những bài bản nghi thức đã định như: múa dâng lễ, múa cầu vong, múa tạ ơn, múa
chào mời hồn vía, múa cảm ơn thiên binh cứu mệnh...
+ Các động tác Xòe là sự mô phỏng các hành động mang tính cách điệu, hỗ trợ cho
sự giao tiếp của thầy cúng với thần linh. -
Xòe biểu diễn: đáp ứng nhu cầu thưởng thức văn hóa, văn nghệ của người
dân, thường do một nhóm nhỏ biểu diễn, còn số đông là khán giả đứng xem, mang
tính chất "chuyên môn hóa", tính trình diễn sân khấu cao. Xòe biểu diễn thường kết
hợp với các đạo cụ và được gọi theo tên đạo cụ như: Xòe khăn, Xòe nón, Xòe quạt,
Xòe sạp, Xòe nhạc, Xòe gậy, Xòe chai...
-
Xòe giải trí (Xòe vòng hoặc Xòe tập thể): là loại Xòe tập thể không có người
biểu diễn và người xem, mà tất cả đều tham gia không phân biệt nam nữ, trẻ già,
trên dưới. Các vòng tròn có thể mở rộng, nối dài, liêt kết nhiều vòng Xòe một cách
linh hoạt. Những cuộc Xòe như vậy thường được tổ chức trong phần kết thúc các
cuộc vui, sự kiện, lễ hội hay các hình thức sinh hoạt thường nhật như ngày lễ, sinh
Phân loại nhật, tân gia, cưới xin...
Đặc trưng - Xòe vòng: được xuất hiện trong các nghi lễ mừng xuân, được mùa, lên nhà mới,
nghệ thuật cưới xin, các cuộc liên hoan trên nhà sàn, quanh đống lửa. lOMoAR cPSD| 60857655
+ Động tác múa xoè vòng chỉ gồm một bước nhảy thường với đội hình vòng tròn
đơn giản. Nếu đông người thì múa thành 2 vòng tròn, vòng trong nhỏ và vòng ngoài
lớn. Hai vòng xoay ngược chiều nhau.
+ Nhạc cụ dùng để đệm trong múa xòe vòng thường có: 1 chiếc trống, 2 hoặc 3 chiếc
chiêng, một đôi chũm chọe và mấy ống tre. Nhiều nơi còn dùng pí, khèn bè, tính tẩu
và đặc biệt là hát đối đáp có láy dưới sau mỗi câu hát. Giai điệu và tiết tấu âm nhạc
đơn giản, câu nhạc ngắn, lặp đi lặp lại nhưng có sức lôi cuốn mạnh mẽ.
+ Xòe vòng được sử dụng linh hoạt rộng rãi nhằm thỏa mãn đời sống văn hóa tinh
thần của đồng bào dân tộc Thái. Đó là một phương tiện giao tiếp tốt, một sản phẩm
tinh thần quý giá trong đời sống xã hội, nó không còn là riêng của người Thái mà
trở thành tài sản chung của nhân dân vùng Tây Bắc.
- Xòe biểu diễn (Xòe điệu): Nhạc cụ chính đệm cho xòe biểu diễn là tính tẩu, kèn,
trống và chũm chọe. Trong đó các nhà nghiên cứu chỉ ra 4 điệu cơ bản:
+ Xòe khăn: Là lễ múa Then. Loại khăn dài có ở vùng dân tộc Tày, Nùng, Thái.
Nhưng kỹ thuật múa đạo cụ này mỗi dân tộc khác nhau. Ở xòe Thái, khoác lên thân
hình đẹp của các cô gái xòe, chiếc khăn lụa dài đã biến thành những động tác sinh
hoạt hàng ngày thành những động tác múa duyên dáng. Kỹ thuật cơ bản của múa
khăn Thái là đứng vung khăn ra đằng trước và ngồi vung khăn. Ở Phong Thổ (Lai
Châu) còn có động tác vung khăn quàng sau lưng, 2 tay cầm 2 đoạn đầu khăn để
cùng chụm vào và vẫy ra.
+ Xòe nón: Đầu tiên là một thể nghiệm bằng múa nam. Nhưng thực tế cho thấy nam
mà muốn nón thì không lột tả được vẻ đẹp của loại múa đạo cụ này, nên phụ nữ lại
được dạy. Đạo cụ nón và trang phục múa nữ Thái rất hợp với nhau, chất lượng nghệ
thuật của điệu múa nón hơn hẳn. Từ đó trở đi múa nón trở thành múa nữ đông người.
Múa nón có các động tác chính: đưa nón sang 2 bên người; nhún ngang đưa nón sau
gáy; nghiêng nón 2 bên đầu; lao nón; xoay nón trên đầu; ngồi chống nón trước mặt;
+ Xòe quạt: Múa quạt có 2 kiểu: múa một quạt và múa 2 quạt.
Múa một quạt thường đi đôi với khăn; người múa cầm quạt xoè ở tay phải và khăn
(gập đôi) ở tay trái. Múa hai quạt thì cầm quạt xoè ở hai tay. Quạt lúc xòe, lúc gập.
+ Xòe nhạc: Có hai kiểu đan xen là: từng đôi đối diện đi vào giữa vòng tròn, vòng
qua nhau rồi đổi chỗ, nam với nam - nữ với nữ múa cùng nhau; từng khối 4 người
(dàn thành hai hàng đối diện) đan vòng qua nhau.
* Đặc điểm xòe biểu diễn:
Trừ xòe nhạc, còn lại các loại xoè khác đều là múa nữ. Xòe Thái nhẹ nhàng, uyển
chuyển, sự phối hợp động tác chân, tay và thân trên đều rất khỏe, có được đặc tính
này là do những đặc điểm về động tác sau:
+ Chân nhảy không cao, không bước rộng
+ Nhún nẩy không hết đà lOMoAR cPSD| 60857655 + Bước nhẹ êm + Tay vung không hết đà