lOMoARcPSD| 59908026
lOMoARcPSD| 59908026
ĐỀ TÀI: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ ĐỊNH GIÁ TÀI SẢN
TRÍ TUỆ
LỜI MỞ ĐẦU
Tài sản trí tuệ là một loại tài sản vô hình, không thể xác định bằng các
đặc điểm vật chất của chính nhưng lại giá trị lớn và có khả năng sinh
ra lợi nhuận. Tài sản trí tuệ thước đo hiệu quả kinh doanh, sức cạnh tranh
khả năng phát triển của doanh nghiệp trong cả hiện tại và tương lai. Do đó,
định giá tài sản trí tu là việc làm hết sức quan trọng, giúp doanh nghiệp biết
được gtrị tài sản trí tuệ của mình, từ đó nhng quyết định, chiến lược, kế
hoạch kinh doanh phù hợp.
Trong xu thế hội nhập và phát triển kinh tế, áp lực cạnh đối với doanh
nghiệp Việt Nam đang càng ngày càng gày gắt. Để nâng cao năng lực cạnh
tranh, đảm bảo sự tồn tại phát triển, các doanh nghiệp buộc phải tăng cường
đầu tư vào khoa học, công nghệ, ứng dụng các tài sản trí tuệ để nâng cao chất
lượng, hạ giá thành sản phẩm. Tài sản trí tuệ phải trở thành một trong những
nguồn vốn quan trọng trong hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp.
Tuy nhiện, sự vắng bóng các văn bản quy phạm pháp luật hoàn chỉnh
quy định về định giá tài sản trí tuệ một trong những nguyên nhân gây khó
khăn cho việc thực hiện các hoạt động đầu tư, kinh doanh liên quan đến tài
sản trí tuệ.
Từ lý do đó nên tôi chọn đề tài “ Thực trạng pháp luật Việt Nam về định giá
tài sản trí tuệ”.
lOMoARcPSD| 59908026
1.1 Khái quát về tài sản trí tuệ
1.1.1 Khái niệm tài sản
Tài sản là các vật có giá trị bằng tiền và là đối tượng của quyền tài sản
và các lợi ích vật chất khác. Tài sản bao gồm vật có thực, vật đang tồn tại sẽ
được chế tạo theo mẫu và được thỏa thuận giữa các bên , tiền và các giấy tờ
trị giá được bằng tiền và quyền tài sản.
1.1.2 Khái niệm tài sản trí tuệ
Tài sản được hình thành hại loại: Tài sản hữu hình tài sản hình.
Tài sản hữu hình gồm vật, trang thiết bị, tài chính, sở hạ tầng. Tài sản
hình các nguồn nhân lực quyết thuật đến ý tưởng, chiến lược, kế
hoạch kinh doanh, thương hiệu, kiểu dáng và các kết quả vô hình khác được
tạo ra bởi các tài năng sáng tạo và đổi mới.
Trong những năm gần đây, các tài sản hình, trong đó tài sản trí
tuệ đang càng ngày càng trở nên giá trị hơn so với tài sản hữu hình. Tài sản
trí tuệ là một loại do con người sáng tạo ra thông qua hoạt động tư duy, sáng
tạo trong các lĩnh vực công nghiệp, khoa học, văn học nghệ thuật.
Theo đinh nghĩa của Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới, sở hữu trí tuệ được
phân thành 2 dạng:
- Sở hữu công nghiệp bao gồm sáng chế, nhãn hiệu, kiểu dáng công
nghiệp và chỉ dẫn địa lý.
- Bản quyền bao gồm những tác phẩm văn học, phim, âm nhạc, tác
phẩm nghệ thuật và thiết kế kiến trúc.
Như vậy, thể hiểu sở hữu trí tuệ sở hữu các tài sản trí tuệ. Tuy
nhiên vấn đề cốt lõi sở hữu phải hợp pháp phải được Nhà nước tha
nhận. Quyền sở hữu trí tuệ cho phép người sáng tạo hoặc người chủ sở hữu
lOMoARcPSD| 59908026
của sáng chế, nhãn hiệu hoặc bản quyền khai thác các lợi ích thu được từ việc
sử dụng hoặc đầu tư vào các tài sản đó.
1.1.3 Đặc điểm của tài sản trí tuệ
Tài sản trí tuệ là một loại tài sản cđịnh nh, do đó cần có đầy đủ
các đặc điểm cơ bản của dạng tài sản cố định vô hình:
- Tính vô hình của tài sản ttuệ tồn tại chủ yếu dưới dng thông tin,
tri thức, do đó khó nhận thức được s tồn tại của tài sản này bằng giác quan
của con người mà chỉ bằng nhận thức.
- Tính xác định của tài sản trí tuệ là loại tài sản vô hình có khả năng
nhận diện được. Tài sản trí tuệ thường được thể hiện dưới hình thức vật chất
xác định, do đó con người khả năng nhận biết, lan truyền không giới
hạn.
Một tài sản trí tuệ thể xác định riêng biệt khi doanh nghiệp thể
đem tài sản đó cho thuê, mua bán trao đổi hoặc thu lợi ích kinh tế cụ thể
trong tương lai.
- Khả năng b kiểm soát: Do tài sản ttuệ khả năng được vt chất
hóa nên trở thành đổi tượng chịu tác động chủ đích của con người, như
điều khiển, sản xuất, khai thác, sử dụng, duy trì, cất giữ, phát triển, mua bán,
trao đổi,.. nhằm mang lại kết quả nhất định, trong đó quan trọng nhất là tạo ra
giá trị.
- Tính sáng tạo, đổi mới của tài sản ttuệ kết quả của các hoạt
động của tư duy sáng tạo, sđổi mới dựa trên những tri thức hiện có. Đó là
kết quả của những cải tiến sáng tạo từ cái đã hoạt động trong quá khứ,
khoặc những thế hiện mới có sáng tạo của những ý tưởng và quan niệm cũ.
lOMoARcPSD| 59908026
1.1.4 Vai trò của tài sản trí tuệ
Tài sản trí tuệ là một loại tài sản kinh doanh giá trị của doanh nghiệp
thể nâng cao giá trị thị trường của doanh nghiệp. Gía trcủa tài sản trí tuệ
thường không được đánh giá đầy đủ và tiềm năng của tài sản trí tutrong việc
tạo ra các hội mang li lơi ích trong tương lai, dường như chưa được các
doanh nghiệp nhận thức đúng mức. Tuy vậy, khi tài sản trí tuệ được bảo hộ
pháp quyền sở hữu trí tuệ, thì khi đó tài sản trí tuệ strở thành một tài sản
kinh doanh có giá trị. Tài sản trí tuệ có thể tạo ra thu nhập cho doanh nghiệp
thông qua chuyển giao quyền sử dụng, bán hoặc thương mại hóa sản phậm
hoặc định vụ được bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ mà những sản phẩm đó có thể
nâng cao thị phần hoặc lợi nhuận cho doanh nghiệp.
Tài sản trí tuđem lại sự gia tăng giá trị của sản phẩm, dịch vụ cũng
như giá trị của doanh nghiệp và của toàn bộ nền kinh tế của một quốc gia.
1.1.5 Gía trị của tài sản trí tuệ
Gía trị của tài sản trí tuệ được xem xét dưới 2 góc đọ giá thị trường
giá phi thị trường được xác định theo những căn cứ khác với giá trị thị
trường như mua bán, trao đổi theo cá mức giá không phản ánh giá thị trường
như giá trị tài sn trong quá trình sử dụng, giá trị đầu tư, giá trị bảo hiểm, giá
trị đặc biệt, giá trị thanh lý.
Trong kinh tế thị trường, giá trị của tài sả, hàng hóa, dịch vụ được tạo
và duy trì bởi mối quan hệ giữa bốn yếu tố gắn liền với nhau
- Tính hữu ích
- Tính khan hiếm
- Tính có nhu cầu
- Tính có thể chuyển giao
lOMoARcPSD| 59908026
Tình trạng pháp lý của quyền sở hữu trí tuệ: Tài sản trí tuệ khi đăng ký
và được pháp luật bảo hộ sẽ mang lại cho doanh nghiệp quyền sở hữu trí tuệ.
Nhìn chung thì việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ góp phần nâng cao giá trị của
tài sản trí tuệ.
Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ làm hco tài sản trí tuệ sở trở nên hu hình
bằng cách biến chúng thành các tài sản độc quyền giá trị thể trao đổi
bằng thương mại trên thị trường. Quyền sở hữu trí tuệ cho phép chủ sở hữu
quyền có được sự độc quyền đối với bí mật kinh doanh, nhãn hiệu, kiểu dáng
công nghiệp, sáng chế theo đó làm giảm khả năng sao chép bắt chước
của đối thủ cạnh tranh làm tăng cơ hội thực tế trong việc thương mại hóa sản
phẩm mới và cải tiến, và giải quyết một cách hiệu quả xung đột bất kỳ liên
quan đến tài sản trí tuệ.
Khi được pháp luật công nhận bảo hộ quyền sở hu trí tuệ, sở hữu
tài sản trí tuệ có thể có nhiều cơ hội thương mại tài sản trí tuệ hơn so với chủ
sở hữu các tài sản hình khác. Chủ sở hữu quyền sở hữu trí tuệ thhưởng
được các lợi ích kinh tế từ việc cấp phép, liên doanh, hoặc khai thác phát
triển các hoạt động hợp tác khác trong việc thương mại hóa quyền sở hữu trí
tuệ ngoài việc ứng dụng vào hoạt động kinh doanh.
Các quyền sở hữu trí tuệ nói chung hưởng tỷ ltiền bản quyền cao hơn
và có giá trị thị trường cao hơn nhiều lần so với các tài sản vô hình khác.
Thời hạn bảo hộ hay tuổi thọ pháp của quyền sở hữu trí tuệ: Trong
khi nhiều tài sản vô hình không có quy định vthời hạn bảo hộ thì hầu hết các
quyền sở hữu trí tuệ quy định vthời hạn bảo hộ. Trong thời hạn đó, quyền
sở hữu trí.
lOMoARcPSD| 59908026
1.2 Khái quát về đinh giá tài sản trí tuệ
Định giá tài sản trí tuệ hoạt động chuyên môn mang tính kinh tế kỹ
thuật, tính pháp lý mang tính hội. Hoạt động định giá hình thành, tồn tại
và phát triển gắn liền với sự hình thành, tồn tại và phát triển của thị trường.
Từ khái niệm trên có hiểu được định giá tài sản trí tuệ là hoạt động giá
trị đưa ra giá cả của một tài sản trí tuệ cụ thể tại một thời điểm xác định,
làm căn cứ cho các hoạt động giao dịch, mua bán tài sản ttuệ đó trên thị
trường.
1.2.1 Sự cần thiết định giá tài sản trí tuệ
Tài sản trí tuệ ngày càng đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển
của doanh nghiệp trong nhiều trường hợp giá trị rất lớn, thậm chí lớn
hơn rất nhiêu giá trị hữu hình của doanh nghiệp. Do đó, định giá tài sản ttuệ
là việc làm hết sức quan trọng, giúp doanh nghiêp biết được giá trị tài sản trí
tuệ của mình, từ đó những quyết sách, chiến lược, kế hoạch kinh doanh phù
hợp.
Tài sản ttuệ của một doanh nghiêp thường được định giá theo các mục
tiêu sau đây:
- Mục tiêu giao dịch đàm phán mua bán tài sản trí tuệ, xác đnh chi
phí bán;
- Mục tiêu tài chính: hạnh toán và khấu hao tài sản trí tuệ;
- Mục tiêu thông tin: đánh giá quá trình phát tiển, hoạch định chiến
lược nguồn lực, bổ sung báo cáo minh bạch tài tài chính;
- Mục tiêu pháp lý: xử xâm phạm bản quyền, xử lý vi phạm hợp
đồng, phân chia tài sản.
lOMoARcPSD| 59908026
Với mỗi mục đích khác nhau cần xác định khi nào thì định giá liên
quan đến toàn bộ một doanh nghiệp, khi nào chỉ định giá liên quan đến
các giao dịch tài sản trí tuệ.
1.2.2 Các trường hợp định giá tài sản trí tuệ
Có nhiều lý do dẫn đến nhu cầu định giá tài sản trí tuệ trong các
hoạt động kinh tế, pháp lý như thế chấp vay vốn và ký quỹ, bảo hiểm,
tái cấu doanh nghiệp, giải quyết tranh chấp, hạch toán lập bảng tài
chính doanh nghiệp.
1.2.3 Các phương pháp định giá tài sản trí tuệ
Gía trị của tài sản trí tuệ dựa trên lợi nhuận hiện tại và lợi nhuận
trong tương lai, vì vậy việc c định giá trị của tài sản trí tuệ khó khăn
và phức tạp hơn so với các dạng tài sản vô hình khác. Các nhà kinh thế
đã nghiên cứu để tìm ra các phương pháp định giá phù hợp, tuy nhiên
cho đến nay vẫn chưa thể kết luận về phương pháp định giá được
cho là phù hp và chính xác nhất. Có 3 phương pháp định giá sau đây
được công nhận phổ biến trong hoạt động định giá tài sản trí tuệ;
- Phương pháp dựa trên chi phí: là phương pháp định giá dựa trên cơ
sở chi phí tạo ra một tài sản trí tuệ tương tự tài sản cần định giá để
ước tính giá trị thị trường của tài sản cần định giá.
- Phương pháp thu thập: là phương pháp định giá dựa trên sở
chuyển đổi các dòng thu nhập ròng trong tương lai thể nhận được
từ việc khai thác tài sản trí tuệ cần định giá thnahf giá trị vốn hiện
tại của tài sản để ước tính giá trị thị trường của tài sản trí tuệ cần
định giá.
- Phương pháp thị trường: phương pháp định giá dựa trên sở
phân ch mức giá của các tài sản trí tuệ tương tự với tài sản cần định
giá đã giao dịch thành công hoặc đang mua, bán trên thị trường vào
lOMoARcPSD| 59908026
thời điểm định giá hoặc gần với thời điểm định giá để ước tính giá
trị thị trường của tài sản cần định giá.
1.3 Khái quát về pháp luật định giá tài sản trí tuệ
Đối vi cá doanh nghiệp, tài sản trí tuệ càng trở thành một loi tài sản
hình giá trị, đóng vai trò quan trọng trong việc tạo nên sức cạnh tranh
sự tăng trưởng nhanh chóng của doanh nghiêp. Định giá tài sản trí tuệ
giúp doanh nghiệp nhận biết các giá trị vô hình mà doanh nghiệp đang sở
hữu, chiến lược quản phát triển các tài sản trí tuệ phù hợp cũng
như xây dng được các phương án kinh doanh dựa trên tài sản trí tuệ
tính khả thi.
1.3.1 Nội dung cơ bản của pháp luật định giá tài sản trí tuệ
Định giá tài sản trí tuệ là một vấn đề phức tạp và còn khá mới ở
Việt Nam. Pháp luật hiện hành điều chỉnh lĩnh vực này chưa được pháp
điền hóa mà nằm rải rác ở nhiều văn bn pháp luật khác nhau, dàn trải trên
các lĩnh vực doanh nghiệp, tài chính, khoa học và công nghệ,… . Với tính
chất là một chế định kiểm soát giá trị của tài sản trí tuệ, pháp luật về định
giá tài sản trí tuệ đã quy định các vấn đề cơ bản trong hoạt động định giá
tài sản trí tuệ, bước đầu tạo lập cơ sở pháp để điều chỉnh hoạt động định
giá tài sản trí tuệ như: khi nào phải định giá, định giá như thế nào, ai định
giá.
Nội dung cơ bản của pháp luật hiện hành về định giá tài sản trí tuệ bao
gồm:
- Nhóm quy định định pháp luật về các trường hợp định giá tài sản
trí tuệ:
Trên thực tiễn, rất nhiều do dẫn đến nhu cầu xác đnh giá trị tài
sản trí tuệ. vậy, pháp luật hiện hành quy định về các trường hợp cần
lOMoARcPSD| 59908026
định giá tài sản trí tuệ cũng khá phong phú, bao gồm: xác định giá trị tài
sản góp vón, xác đinh giá trị tài sản của doanh nghiệp trên bảng cân đối kế
toán, xác định doanh nghiệp cổ phần hóa, xác định giá trị tài sản trí tuệ
thuộc sở hữu Nhà nước khi giao quyền sở hữu. Các trường hợp định giá
tài sản trên quy định tại các văn bản pháp luật về thành lập doanh nghiệp,
các chuẩn mực kế toán, các văn bản quy định về cổ phần hóa doanh nghiệp,
các văn bản pháp luật về khoa học công nghệ. Mỗi trường hợp định giá lại
có quy định riêng về các phương pháp xác định giá trị tài sản trí tuệ và các
đối tượng tài sản trí tuệ được định giá.
- Nhóm quy định pháp luật về các phương pháp định giá tài sản trí
tuệ:
Các phương pháp luật về định giá tài sản ttuệ được quy định hệ
thống các tiêu chuẩn thẩm định giá Việt Nam. Tiêu chuẩn thẩm định giá
số 13 về thẩm định giá tài sản hình đã nêu ra cách tiếp cận trong việc
xác định giá trị tài sản trí tuệ, bao gồm: các tiếp cận lại bao gồm nhiều
phương pháp định giá. Tùy thuộc vào đặc điểm của đối tượng tài sản định
giá, mục đích định giá chủ thể định giá thể lựa chọn phương pháp
định giá phù hợp.
- Nhóm quy định pháp luật về tổ chức, nhân cung ứng dịch vụ
định giá tài sản trí tuệ:
Dịch vụ định giá tài sản trí tuệ là một ngành nghề kinh doanh có điều
kiện Việt Nam. Tổ chức, nhân muốn cung ứng dịch vụ định giá tài
sản trí tuệ phải tuân thủ các điều kiện về thành lập và hoạt động quy định
tại các văn bản pháp luật trong các lĩnh vực thẩm định khoa học công
nghệ. hai mô hình tổ chức định giá tài sản trí tuệ: doanh nghiệp thẩm
định giá theo quy định của pháp luật về thẩm định giá và trung tâm hỗ trợ
định giá tài sản trí tuệ theo mô hình hoạt động, tổ chc định giá tài sản trí
tuệ phải đáp ứng các điều kiện hoạt động khác nhau. Pháp luật cũng quy
định điều kiện hành nghề đối với các thẩm định viên về gvà những
lOMoARcPSD| 59908026
quy tắc đạo đức hành nghề trong quá trính định gtài sản. Các quy định
này đã tạo lp cơ sở pháp lý cho việc phát triển loại hình dịch vụ định giá
tài sản trí tuệ ở Việt Nam.
Thực trạng pháp luật Việt Nam về định giá tài sản trí tuệ
Hiện nay, những quy định về định giá tài sản trí tuệ còn tồn nhiều bất
cập, cụ thể:
Thứ nhất, các văn bản pháp luật còn thiếu nhất quán trong cách hiểu về
cụm từ “tài sản trí tuệ”.
Bộ luật Dân sự năm 1995 là văn bản pháp lý đầu tiên quy định về quyền sở hữu trí
tuệ tại Việt Nam. Theo đó, các đối tượng tài sản trí tuệ được quy định tại Bộ luật
này bao gồm: Các đối tượng quyền tác giả (tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa
học); Các đối tượng quyền sở hữu công nghiệp (sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu
dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hoá, tên gọi xuất xứ hàng hoá và các đối tượng
khác do pháp luật quy định). Sau Bộ luật này, Bộ lut Dân sự năm 2005 và Luật Sở
hữu trí tuệ năm 2005 tiếp tục được bổ sung và hoàn thiện hơn các quy định về các
đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ.
Tuy nhiên, Chuẩn mực kế toán số 04 về tài sản cố định vô hình được
ban hành vào năm 2001 lại sử dụng các thuật ngữ không chính xác so với quy định
của Bộ luật Dân sự 1995 cũng như quy định của pháp luật quốc tế về các loại tài
sản trí tuệ như: phần mềm máy tính, bằng phát minh, bằng sáng chế, bản quyền,
nhãn hiệu hàng hoá.
Thuật ngữ “bằng sáng chế” hay chính xác hơn là “bằng độc quyền
sáng chế” dùng để chỉ văn bằng bảo hộ ghi nhận các thông tin về chủ sở hữu sáng
chế, tên tác giả, đối tượng bảo hộ, phạm vi bảo hộ và thời hạn bảo hộ nên “bằng
độc quyền sáng chế” không phải là một tài sản trí tuệ và cũng không là tài sản cố
định vô hình của DN.
lOMoARcPSD| 59908026
Những “sáng chế” được pháp luật bo hộ mới là tài sản cố định vô
hình chứ không phải là văn bằng bảo hộ ghi nhận những thông tin liên quan đến
sáng chế được bảo hộ. Bên cạnh đó, tài sản trí tuệ là sáng chế lại chỉ được giới hạn
là “bằng sáng chế”, như vậy nếu được bảo hộ dưới hình thức là giải pháp hữu ích
hoặc chưa đăng ký bảo hộ sáng chế, DN sẽ khó có cơ sở để tính toán giá trị của các
tài sản này.
Thứ hai, các quy định pháp luật còn mâu thuẫn khi quy định phân
loại tài sản trí tuệ thành tài sản cố định vô hình để định giá và tính o giá trị DN.
Theo Chuẩn mực kế toán số 04, chỉ một số đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ được
coi là tài sản cố định vô hình như sáng chế, quyền tác giả, nhãn hiệu (trong trường
hợp nhãn hiệu đó không phải được tạo ra từ nội bộ DN như nhãn hiệu đó được mua
lại). Tuy nhiên, Khoản 2, Điều 4, Thông tư 45/2013/TT-BTC của Bộ Tài chính quy
định tất cả các đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ (bao gồm quyền tác giả, quyền
sở hữu công nghiệp, quyền đối với giống cây trồng) đều được coi là tài sản cố định
vô hình và từ đó là cơ sở để định giá và tính vào giá trị DN.
Như vậy, Điểm b, Khoản 1 Điều 6 của Thông tư 45/2013/TT-BTC coi chỉ dẫn địa
lý là một loại tài sản cố định vô hình của DN, là mâu thuẫn với quy định tại Khoản
4, Điều 121 Luật Sở hữu trí tuệ: “Chủ sở hu chỉ dẫn địa lý của Việt Nam là Nhà
nước”. Do đó, không thể coi chỉ dẫn địa lý là một loại tài sản cố định vô hình của
DN. Bên cạnh đó, theo Thông tư 127/2014/TT-BTC, giá trị thương hiệu (bao gồm
nhãn hiệu và tên thương mại) được tính vào giá trị DN khi cổ phần hóa. Tuy nhiên,
trong Chuẩn mực kế toán số 04 lại không quy định thương hiệu là tài sản cố định
để được định giá và tính vào giá trị DN.
Thứ ba, quy định về phương pháp định giá còn thiếu nhất quán.
Tiêu chuẩn thẩm định giá số 13 quy định về các phương pháp xác định giá trị
tài sản trí tuệ trong cách tiếp cận từ chi phí bao gồm phương pháp chi phí tái tạo và
phương pháp chi phí thay thế. Tuy nhiên, theo quy định tại các văn bản pháp luật
lOMoARcPSD| 59908026
hiện hành về kế toán hay cổ phần hóa DN Nhà nước (DNNN), giá trị tài sản trí tuệ
chủ yếu được tính bằng phương pháp chi phí mang tính lịch sử (chi phí quá khứ).
Giá trị của tài sản trí tuệ được xác định bằng tổng chi phí cho việc phát triển
cộng với chi phí xác lập quyền và chi phí cho việc duy trì hiệu lực độc quyền đối
với tài sản trí tuệ đó. Chẳng hạn, giá trị bản quyền, bằng sáng chế là toàn bộ các chi
phí thực tế đã chi ra để có bản quyền tác giả, bằng sáng chế; Giá trị nhãn hiệu là
các chi phí thực tế liên quan trực tiếp tới việc mua nhãn hiệu; Giá trị thương hiệu
bao gồm các chi phí thực tế cho việc “sáng chế, xây dựng và bảo vệ nhãn mác, tên
thương mại” của DN.
Theo quy định tại Chuẩn mực kế toán số 04, các chi phí như: chi phí thành
lập DN, chi phí đào tạo nhân viên và chi phí quảng cáo phát sinh trong giai đoạn
trước hoạt động của DN mới thành lập, chi phí cho giai đoạn nghiên cứu… không
được tính vào khi xác định giá trị tài sản trí tuệ.
Trong khi đó, theo quy định của Thông tư 127/2014/TT-BTC, giá trị thương
hiệu của DN cổ phần hóa được xác định trên cơ sở các chi phí thực tế cho việc tạo
dựng và bảo vệ nhãn hiệu, tên thương mại trong quá trình hoạt động của DN, bao
gồm: chi phí thành lập DN, chi phí đào tạo nhân viên, chi phí quảng cáo, tuyên
truyền trong và ngoài nước để quảng bá, giới thiệu sản phẩm, giới thiệu công ty...
Sự mâu thuẫn trong việc xác định các loại chi phí khi tiến hành định giá giữa các
văn bản pháp luật nói trên tạo cách hiểu và cách áp dụng không thống nhất trong
việc vận dụng phương pháp chi phí để định giá tài sản trí tuệ của DN trong quá
trình kinh doanh.
Thứ tư, thiếu các quy định về định giá tài sản trí tuệ khi thực hiện góp vốn
thành lập DN bằng quyền sở hữu trí tuệ.
Ở Việt Nam, việc góp vốn, liên doanh bằng tài sản trí tuệ (chủ yếu là góp
vốn bằng thương hiệu) diễn ra khá sôi động, đi trước các quy định của pháp luật.
Từ những năm 1990, các tập đoàn đa quốc gia đã tiếp cận thị trường Việt Nam
thông qua việc liên doanh, liên kết, mua bán, sáp nhập với các DN trong nước.
lOMoARcPSD| 59908026
Thực tiễn trong hoạt động liên doanh giữa DN Việt Nam với các DN nước
ngoài cho thấy, DN Việt thường chỉ chú ý vào giá trị quyền sử dụng đất và các tài
sản hữu hình mà chưa chú ý đến các tài sản vô hình như tài sản trí tuệ. Đến nay vẫn
chưa có quy định hướng dẫn việc góp vốn và nhận góp vốn bằng giá trị quyền sử
dụng nhãn hiệu, vì hiện vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau và cũng chưa có tổng kết,
đánh giá được hết các vướng mắc nảy sinh trong thực tiễn.
Việc xác định giá trị, nhượng quyền sử dụng tài sản trí tuệ, góp vốn liên
doanh, liên kết… bằng giá trị tài sản trí tuệ đối với các DN thuộc mọi thành phần
kinh tế ở nước ta đến nay vẫn còn là một khoảng trống.
Thứ năm, các yêu cầu của pháp luật về hạch toán kế toán tài sản của DN giúp
cho định giá tài sản trí tuệ còn bất cập.
Chuẩn mực kế toán Việt Nam số 04 quy định về tài sản cố định vô hình đã
hướng dẫn cách xác định nguyên giá và nguyên tắc ghi sổ kế toán đối với các tài
sản trí tuệ được coi là tài sản cố định vô hình của DN, bao gồm: nhãn hiệu hàng
hóa, phần mềm máy vi tính, bản quyền, bằng sáng chế. Các nhãn hiệu hàng hóa
được hình thành trong nội bộ DN không được ghi nhận là tài sản cố định vô hình.
Việc không có quy định về tên thương mại và các loại tài sản trí tuệ khác,
cũng như không coi nhãn hiệu hàng hóa do DN tạo ra là tài sản cố định vô hình đã
gây nhiều trở ngại và thiệt thòi cho DN trong quá trình định giá, mua bán sáp nhập
DN và khi phát hành chứng khoán. Trên thực tế, đối với nhiều DN, tên thương mại
và nhãn hiệu hàng hóa, dịch vụ lại có giá trị lớn, nhiều khi lớn hơn cả tài sản hữu
hình của DN và đối tượng hướng tới trong các hoạt động liên doanh, liên kết, sáp
nhập của DN nước ngoài trong các thương vụ với DN Việt đa phần chính là vì
những nhãn hiệu mạnh cũng như thị phần của những DN này.
Như vậy, giữa các quy định về kế toán DN và cổ phần hóa DNNN có sự
không thống nhất trong việc xác định giá trị tài sản trí tuệ là nhãn hiệu, tên thương
mại. Điều này khiến cho mỗi DN, mỗi công ty kiểm toán có cách nhìn và ứng xử
khác nhau. Nếu sử dụng phương pháp chi phí quá khứ để xác định giá trị tài sản trí
lOMoARcPSD| 59908026
tuệ sẽ gây thiệt hại cho các DN sở hữu khối lượng lớn các tài sản trí tuệ trong các
hoạt động liên doanh, liên kết, sáp nhập, cổ phần hóa DN.
Thứ sáu, thiếu quy định về định giá tài sản trí tuệ trong việc thực hin các giao
dịch bảo đảm bằng tài sản trí tuệ.
Pháp luật hiện hành về giao dịch bảo đảm đối với quyền sở hữu trí tuệ còn
khá sơ lược và chưa thực sự tạo cơ sở pháp lý an toàn cho việc cho vay vốn có tài
sản bảo đảm là tài sản trí tuệ. Theo quy định tại Bộ luật Dân sự năm 2005, quyền
tài sản là một loại tài sản có thể dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự. Điều
322 Bộ luật Dân sự quy định: “Các quyền tài sản thuộc sở hữu của bên bảo đảm
bao gồm quyền tài sản phát sinh từ quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp,
quyền đối với giống cây trồng… đều được dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa v
dân sự”.
Mặc dù Điều 322 của Bộ luật Dân sự liệt kê rõ ràng các quyền sở hữu trí tuệ
được sử dụng làm tài sản bảo đảm nhưng Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 và Luật sửa
đổi, bổ sung mt số điều của Luật Sở hữu trí tuệ năm 2009 lại không đề cập tới
việc thế chấp các quyền sở hữu trí tuệ này.
Cũng không có bất cứ quy định nào về việc xác lập và hệ quả pháp lý của giao dịch
bảo đảm có đối tượng là quyền sở hữu trí tuệ trong các văn bản hướng dẫn thi hành
Luật Sở hữu trí tuệ. Hơn nữa, theo quy định tại khoản 6, Điều 3 Thông tư
05/2011/TT-BTP của Bộ Tư pháp ngày 16/02/2011 hướng dẫn một số vấn đề về
đăng ký, cung cấp thông tin về giao dịch bảo đảm, hợp đồng, thông báo việc kê
biên tài sản thi hành án theo phương thức trực tiếp, bưu điện, fax, thư điện tử tại
Trung tâm Đăng ký giao dịch, tài sản của Cục Đăng ký Quốc gia giao dịch bảo
đảm thuộc Bộ Tư pháp, việc đăng ký giao dịch bảo đảm đối với quyền sở hữu trí
tuệ được thực hiện tại Trung tâm Đăng ký giao dịch, tài sản của Cục Đăng ký Quốc
gia giao dịch bảo đảm thuộc Bộ Tư pháp chứ không phải tại Cục sở hữu trí tuệ như
thông lệ tại nhiều nước trên thế giới.
lOMoARcPSD| 59908026
Xác định giá trị tài sản bảo đảm là một vấn đề liên quan đến quyền lợi
nghĩa vụ của các bên trong giao dịch bảo đảm, đặc biệt là trong việc vay vốn bằng
tài sản thế chấp tại các tổ chức tín dụng. Khoản 1 Điều 324 Bộ luật Dân sự 2005
quy định: “Một tài sản có thể được dùng để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ dân
sự, nếu có giá trị tại thời điểm xác lập giao dịch bảo đảm lớn hơn tổng giá trị các
nghĩa vụ được bảo đảm, trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy
định khác”.
Về “thỏa thuận khác” được giải thích tại Điều 5 của Nghị định
163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 quy định về giao dịch bảo đảm như sau: “Các
bên có thể thoả thuận dùng tài sản có giá trị nhỏ hơn, bằng hoặc lớn hơn tổng giá
trị các nghĩa vụ được bảo đảm”. Đây là những quy định pháp lý duy nhất về xác
định giá trị tài sản bảo đảm trong các giao dịch bảo đảm.
Vì vậy, trên thực tế, đối với hoạt động cho vay vốn của các tổ chức tín dụng,
việc cho vay dựa trên tài sản bảo đảm là quyền sở hữu trí tuệ hầu như chưa được
thực hiện do chưa có các quy định hướng dẫn về định giá mt cách cụ thể và p
hợp để các bên liên quan có thể yên tâm sử dụng tài sản trí tuệ làm tài sản bảo đảm.
Trong tình hình nợ xấu ngày càng gia tăng như hiện nay, để hạn chế các rủi ro, các
ngân hàng ngày càng thận trọng trong việc xét duyệt các khoản vay của mình. Như
vậy, một DN sản xuất, kinh doanh thông thường đã khó tiếp cận vốn thì các DN
sản xuất, kinh doanh dựa trên tài sản trí tuệ sẽ càng khó tiếp cận vốn hơn.
KẾT LUẬN
Tài sản trí tuệ đem lại sự gia tăng giá trị của sản phẩm, dịch vụ cũng như g
trị của doanh nghiệp và của toàn bộ nền kinh tế của một quốc gia. Tài sản trí tuệ
chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong kết cấu giá trị của doanh nghiệp. Do đó, định
giá tài sản trí tuệ là công việc hết sức quan trọng, giúp doanh nghiệp biết được giá
trị tài sản trí tuệ của mình, từ đó có những quyết sách, chiến lược, kế hoạch kinh
doanh phù hợp.

Preview text:

lOMoAR cPSD| 59908026 lOMoAR cPSD| 59908026
ĐỀ TÀI: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ ĐỊNH GIÁ TÀI SẢN TRÍ TUỆ LỜI MỞ ĐẦU
Tài sản trí tuệ là một loại tài sản vô hình, không thể xác định bằng các
đặc điểm vật chất của chính nó nhưng lại có giá trị lớn và có khả năng sinh
ra lợi nhuận. Tài sản trí tuệ là thước đo hiệu quả kinh doanh, sức cạnh tranh
và khả năng phát triển của doanh nghiệp trong cả hiện tại và tương lai. Do đó,
định giá tài sản trí tuệ là việc làm hết sức quan trọng, giúp doanh nghiệp biết
được giá trị tài sản trí tuệ của mình, từ đó có những quyết định, chiến lược, kế
hoạch kinh doanh phù hợp.
Trong xu thế hội nhập và phát triển kinh tế, áp lực cạnh đối với doanh
nghiệp Việt Nam đang càng ngày càng gày gắt. Để nâng cao năng lực cạnh
tranh, đảm bảo sự tồn tại và phát triển, các doanh nghiệp buộc phải tăng cường
đầu tư vào khoa học, công nghệ, ứng dụng các tài sản trí tuệ để nâng cao chất
lượng, hạ giá thành sản phẩm. Tài sản trí tuệ phải trở thành một trong những
nguồn vốn quan trọng trong hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp.
Tuy nhiện, sự vắng bóng các văn bản quy phạm pháp luật hoàn chỉnh
quy định về định giá tài sản trí tuệ là một trong những nguyên nhân gây khó
khăn cho việc thực hiện các hoạt động đầu tư, kinh doanh có liên quan đến tài sản trí tuệ.
Từ lý do đó nên tôi chọn đề tài “ Thực trạng pháp luật Việt Nam về định giá tài sản trí tuệ”. lOMoAR cPSD| 59908026
1.1 Khái quát về tài sản trí tuệ
1.1.1 Khái niệm tài sản
Tài sản là các vật có giá trị bằng tiền và là đối tượng của quyền tài sản
và các lợi ích vật chất khác. Tài sản bao gồm vật có thực, vật đang tồn tại sẽ
được chế tạo theo mẫu và được thỏa thuận giữa các bên , tiền và các giấy tờ
trị giá được bằng tiền và quyền tài sản.
1.1.2 Khái niệm tài sản trí tuệ
Tài sản được hình thành hại loại: Tài sản hữu hình và tài sản vô hình.
Tài sản hữu hình gồm vật, trang thiết bị, tài chính, cơ sở hạ tầng. Tài sản vô
hình là các nguồn nhân lực và bí quyết kĩ thuật đến ý tưởng, chiến lược, kế
hoạch kinh doanh, thương hiệu, kiểu dáng và các kết quả vô hình khác được
tạo ra bởi các tài năng sáng tạo và đổi mới.
Trong những năm gần đây, các tài sản vô hình, trong đó có tài sản trí
tuệ đang càng ngày càng trở nên có giá trị hơn so với tài sản hữu hình. Tài sản
trí tuệ là một loại do con người sáng tạo ra thông qua hoạt động tư duy, sáng
tạo trong các lĩnh vực công nghiệp, khoa học, văn học nghệ thuật.
Theo đinh nghĩa của Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới, sở hữu trí tuệ được phân thành 2 dạng: -
Sở hữu công nghiệp bao gồm sáng chế, nhãn hiệu, kiểu dáng công
nghiệp và chỉ dẫn địa lý. -
Bản quyền bao gồm những tác phẩm văn học, phim, âm nhạc, tác
phẩm nghệ thuật và thiết kế kiến trúc.
Như vậy, có thể hiểu sở hữu trí tuệ là sở hữu các tài sản trí tuệ. Tuy
nhiên vấn đề cốt lõi là sở hữu phải hợp pháp và phải được Nhà nước thừa
nhận. Quyền sở hữu trí tuệ cho phép người sáng tạo hoặc người chủ sở hữu lOMoAR cPSD| 59908026
của sáng chế, nhãn hiệu hoặc bản quyền khai thác các lợi ích thu được từ việc
sử dụng hoặc đầu tư vào các tài sản đó.
1.1.3 Đặc điểm của tài sản trí tuệ
Tài sản trí tuệ là một loại tài sản cố định vô hình, do đó cần có đầy đủ
các đặc điểm cơ bản của dạng tài sản cố định vô hình: -
Tính vô hình của tài sản trí tuệ tồn tại chủ yếu dưới dạng thông tin,
tri thức, do đó khó nhận thức được sự tồn tại của tài sản này bằng giác quan
của con người mà chỉ bằng nhận thức. -
Tính xác định của tài sản trí tuệ là loại tài sản vô hình có khả năng
nhận diện được. Tài sản trí tuệ thường được thể hiện dưới hình thức vật chất
xác định, do đó con người có khả năng nhận biết, lan truyền không có giới hạn.
Một tài sản trí tuệ có thể xác định riêng biệt khi doanh nghiệp có thể
đem tài sản đó cho thuê, mua bán và trao đổi hoặc thu lợi ích kinh tế cụ thể trong tương lai. -
Khả năng bị kiểm soát: Do tài sản trí tuệ có khả năng được vật chất
hóa nên trở thành đổi tượng chịu tác động có chủ đích của con người, như
điều khiển, sản xuất, khai thác, sử dụng, duy trì, cất giữ, phát triển, mua bán,
trao đổi,.. nhằm mang lại kết quả nhất định, trong đó quan trọng nhất là tạo ra giá trị. -
Tính sáng tạo, đổi mới của tài sản trí tuệ là kết quả của các hoạt
động của tư duy sáng tạo, là sự đổi mới dựa trên những tri thức hiện có. Đó là
kết quả của những cải tiến có sáng tạo từ cái đã hoạt động trong quá khứ,
khoặc những thế hiện mới có sáng tạo của những ý tưởng và quan niệm cũ. lOMoAR cPSD| 59908026
1.1.4 Vai trò của tài sản trí tuệ
Tài sản trí tuệ là một loại tài sản kinh doanh có giá trị của doanh nghiệp
có thể nâng cao giá trị thị trường của doanh nghiệp. Gía trị của tài sản trí tuệ
thường không được đánh giá đầy đủ và tiềm năng của tài sản trí tuệ trong việc
tạo ra các cơ hội mang lại lơi ích trong tương lai, dường như chưa được các
doanh nghiệp nhận thức đúng mức. Tuy vậy, khi tài sản trí tuệ được bảo hộ
pháp lý – quyền sở hữu trí tuệ, thì khi đó tài sản trí tuệ sẽ trở thành một tài sản
kinh doanh có giá trị. Tài sản trí tuệ có thể tạo ra thu nhập cho doanh nghiệp
thông qua chuyển giao quyền sử dụng, bán hoặc thương mại hóa sản phậm
hoặc định vụ được bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ mà những sản phẩm đó có thể
nâng cao thị phần hoặc lợi nhuận cho doanh nghiệp.
Tài sản trí tuệ đem lại sự gia tăng giá trị của sản phẩm, dịch vụ cũng
như giá trị của doanh nghiệp và của toàn bộ nền kinh tế của một quốc gia.
1.1.5 Gía trị của tài sản trí tuệ
Gía trị của tài sản trí tuệ được xem xét dưới 2 góc đọ là giá thị trường
và giá phi thị trường được xác định theo những căn cứ khác với giá trị thị
trường như mua bán, trao đổi theo cá mức giá không phản ánh giá thị trường
như giá trị tài sản trong quá trình sử dụng, giá trị đầu tư, giá trị bảo hiểm, giá
trị đặc biệt, giá trị thanh lý.
Trong kinh tế thị trường, giá trị của tài sả, hàng hóa, dịch vụ được tạo
và duy trì bởi mối quan hệ giữa bốn yếu tố gắn liền với nhau - Tính hữu ích - Tính khan hiếm - Tính có nhu cầu
- Tính có thể chuyển giao lOMoAR cPSD| 59908026
Tình trạng pháp lý của quyền sở hữu trí tuệ: Tài sản trí tuệ khi đăng ký
và được pháp luật bảo hộ sẽ mang lại cho doanh nghiệp quyền sở hữu trí tuệ.
Nhìn chung thì việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ góp phần nâng cao giá trị của tài sản trí tuệ.
Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ làm hco tài sản trí tuệ sở trở nên hữu hình
bằng cách biến chúng thành các tài sản độc quyền có giá trị có thể trao đổi
bằng thương mại trên thị trường. Quyền sở hữu trí tuệ cho phép chủ sở hữu
quyền có được sự độc quyền đối với bí mật kinh doanh, nhãn hiệu, kiểu dáng
công nghiệp, sáng chế và theo đó làm giảm khả năng sao chép và bắt chước
của đối thủ cạnh tranh làm tăng cơ hội thực tế trong việc thương mại hóa sản
phẩm mới và cải tiến, và giải quyết một cách có hiệu quả xung đột bất kỳ liên
quan đến tài sản trí tuệ.
Khi được pháp luật công nhận và bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, sở hữu
tài sản trí tuệ có thể có nhiều cơ hội thương mại tài sản trí tuệ hơn so với chủ
sở hữu các tài sản vô hình khác. Chủ sở hữu quyền sở hữu trí tuệ có thể hưởng
được các lợi ích kinh tế từ việc cấp phép, liên doanh, hoặc khai thác và phát
triển các hoạt động hợp tác khác trong việc thương mại hóa quyền sở hữu trí
tuệ ngoài việc ứng dụng vào hoạt động kinh doanh.
Các quyền sở hữu trí tuệ nói chung hưởng tỷ lệ tiền bản quyền cao hơn
và có giá trị thị trường cao hơn nhiều lần so với các tài sản vô hình khác.
Thời hạn bảo hộ hay tuổi thọ pháp lý của quyền sở hữu trí tuệ: Trong
khi nhiều tài sản vô hình không có quy định về thời hạn bảo hộ thì hầu hết các
quyền sở hữu trí tuệ có quy định về thời hạn bảo hộ. Trong thời hạn đó, quyền sở hữu trí. lOMoAR cPSD| 59908026
1.2 Khái quát về đinh giá tài sản trí tuệ
Định giá tài sản trí tuệ là hoạt động chuyên môn mang tính kinh tế kỹ
thuật, tính pháp lý và mang tính xã hội. Hoạt động định giá hình thành, tồn tại
và phát triển gắn liền với sự hình thành, tồn tại và phát triển của thị trường.
Từ khái niệm trên có hiểu được định giá tài sản trí tuệ là hoạt động giá
trị và đưa ra giá cả của một tài sản trí tuệ cụ thể tại một thời điểm xác định,
làm căn cứ cho các hoạt động giao dịch, mua bán tài sản trí tuệ đó trên thị trường.
1.2.1 Sự cần thiết định giá tài sản trí tuệ
Tài sản trí tuệ ngày càng đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển
của doanh nghiệp và trong nhiều trường hợp nó có giá trị rất lớn, thậm chí lớn
hơn rất nhiêu giá trị hữu hình của doanh nghiệp. Do đó, định giá tài sản trí tuệ
là việc làm hết sức quan trọng, giúp doanh nghiêp biết được giá trị tài sản trí
tuệ của mình, từ đó có những quyết sách, chiến lược, kế hoạch kinh doanh phù hợp.
Tài sản trí tuệ của một doanh nghiêp thường được định giá theo các mục tiêu sau đây:
- Mục tiêu giao dịch đàm phán mua bán tài sản trí tuệ, xác định chi phí bán;
- Mục tiêu tài chính: hạnh toán và khấu hao tài sản trí tuệ;
- Mục tiêu thông tin: đánh giá quá trình phát tiển, hoạch định chiến
lược nguồn lực, bổ sung báo cáo minh bạch tài tài chính;
- Mục tiêu pháp lý: xử lý xâm phạm bản quyền, xử lý vi phạm hợp
đồng, phân chia tài sản. lOMoAR cPSD| 59908026
Với mỗi mục đích khác nhau cần xác định rõ khi nào thì định giá liên
quan đến toàn bộ một doanh nghiệp, khi nào chỉ định giá liên quan đến
các giao dịch tài sản trí tuệ.
1.2.2 Các trường hợp định giá tài sản trí tuệ
Có nhiều lý do dẫn đến nhu cầu định giá tài sản trí tuệ trong các
hoạt động kinh tế, pháp lý như thế chấp vay vốn và ký quỹ, bảo hiểm,
tái cơ cấu doanh nghiệp, giải quyết tranh chấp, hạch toán lập bảng tài chính doanh nghiệp.
1.2.3 Các phương pháp định giá tài sản trí tuệ
Gía trị của tài sản trí tuệ dựa trên lợi nhuận hiện tại và lợi nhuận
trong tương lai, vì vậy việc xác định giá trị của tài sản trí tuệ khó khăn
và phức tạp hơn so với các dạng tài sản vô hình khác. Các nhà kinh thế
đã nghiên cứu để tìm ra các phương pháp định giá phù hợp, tuy nhiên
cho đến nay vẫn chưa thể có kết luận về phương pháp định giá được
cho là phù hợp và chính xác nhất. Có 3 phương pháp định giá sau đây
được công nhận phổ biến trong hoạt động định giá tài sản trí tuệ;
- Phương pháp dựa trên chi phí: là phương pháp định giá dựa trên cơ
sở chi phí tạo ra một tài sản trí tuệ tương tự tài sản cần định giá để
ước tính giá trị thị trường của tài sản cần định giá.
- Phương pháp thu thập: là phương pháp định giá dựa trên cơ sở
chuyển đổi các dòng thu nhập ròng trong tương lai có thể nhận được
từ việc khai thác tài sản trí tuệ cần định giá thnahf giá trị vốn hiện
tại của tài sản để ước tính giá trị thị trường của tài sản trí tuệ cần định giá.
- Phương pháp thị trường: Là phương pháp định giá dựa trên cơ sở
phân tích mức giá của các tài sản trí tuệ tương tự với tài sản cần định
giá đã giao dịch thành công hoặc đang mua, bán trên thị trường vào lOMoAR cPSD| 59908026
thời điểm định giá hoặc gần với thời điểm định giá để ước tính giá
trị thị trường của tài sản cần định giá.
1.3 Khái quát về pháp luật định giá tài sản trí tuệ
Đối với cá doanh nghiệp, tài sản trí tuệ càng trở thành một loại tài sản
vô hình có giá trị, đóng vai trò quan trọng trong việc tạo nên sức cạnh tranh
và sự tăng trưởng nhanh chóng của doanh nghiêp. Định giá tài sản trí tuệ
giúp doanh nghiệp nhận biết các giá trị vô hình mà doanh nghiệp đang sở
hữu, có chiến lược quản lý và phát triển các tài sản trí tuệ phù hợp cũng
như xây dựng được các phương án kinh doanh dựa trên tài sản trí tuệ có tính khả thi.
1.3.1 Nội dung cơ bản của pháp luật định giá tài sản trí tuệ
Định giá tài sản trí tuệ là một vấn đề phức tạp và còn khá mới ở
Việt Nam. Pháp luật hiện hành điều chỉnh lĩnh vực này chưa được pháp
điền hóa mà nằm rải rác ở nhiều văn bản pháp luật khác nhau, dàn trải trên
các lĩnh vực doanh nghiệp, tài chính, khoa học và công nghệ,… . Với tính
chất là một chế định kiểm soát giá trị của tài sản trí tuệ, pháp luật về định
giá tài sản trí tuệ đã quy định các vấn đề cơ bản trong hoạt động định giá
tài sản trí tuệ, bước đầu tạo lập cơ sở pháp lý để điều chỉnh hoạt động định
giá tài sản trí tuệ như: khi nào phải định giá, định giá như thế nào, ai định giá.
Nội dung cơ bản của pháp luật hiện hành về định giá tài sản trí tuệ bao gồm: -
Nhóm quy định định pháp luật về các trường hợp định giá tài sản trí tuệ:
Trên thực tiễn, có rất nhiều lý do dẫn đến nhu cầu xác định giá trị tài
sản trí tuệ. Vì vậy, pháp luật hiện hành quy định về các trường hợp cần lOMoAR cPSD| 59908026
định giá tài sản trí tuệ cũng khá phong phú, bao gồm: xác định giá trị tài
sản góp vón, xác đinh giá trị tài sản của doanh nghiệp trên bảng cân đối kế
toán, xác định doanh nghiệp cổ phần hóa, xác định giá trị tài sản trí tuệ
thuộc sở hữu Nhà nước khi giao quyền sở hữu. Các trường hợp định giá
tài sản trên quy định tại các văn bản pháp luật về thành lập doanh nghiệp,
các chuẩn mực kế toán, các văn bản quy định về cổ phần hóa doanh nghiệp,
các văn bản pháp luật về khoa học công nghệ. Mỗi trường hợp định giá lại
có quy định riêng về các phương pháp xác định giá trị tài sản trí tuệ và các
đối tượng tài sản trí tuệ được định giá. -
Nhóm quy định pháp luật về các phương pháp định giá tài sản trí tuệ:
Các phương pháp luật về định giá tài sản trí tuệ được quy định ở hệ
thống các tiêu chuẩn thẩm định giá Việt Nam. Tiêu chuẩn thẩm định giá
số 13 về thẩm định giá tài sản vô hình đã nêu ra cách tiếp cận trong việc
xác định giá trị tài sản trí tuệ, bao gồm: các tiếp cận lại bao gồm nhiều
phương pháp định giá. Tùy thuộc vào đặc điểm của đối tượng tài sản định
giá, mục đích định giá mà chủ thể định giá có thể lựa chọn phương pháp định giá phù hợp. -
Nhóm quy định pháp luật về tổ chức, cá nhân cung ứng dịch vụ
định giá tài sản trí tuệ:
Dịch vụ định giá tài sản trí tuệ là một ngành nghề kinh doanh có điều
kiện ở Việt Nam. Tổ chức, cá nhân muốn cung ứng dịch vụ định giá tài
sản trí tuệ phải tuân thủ các điều kiện về thành lập và hoạt động quy định
tại các văn bản pháp luật trong các lĩnh vực thẩm định và khoa học và công
nghệ. Có hai mô hình tổ chức định giá tài sản trí tuệ: doanh nghiệp thẩm
định giá theo quy định của pháp luật về thẩm định giá và trung tâm hỗ trợ
định giá tài sản trí tuệ theo mô hình hoạt động, tổ chức định giá tài sản trí
tuệ phải đáp ứng các điều kiện hoạt động khác nhau. Pháp luật cũng quy
định rõ điều kiện hành nghề đối với các thẩm định viên về giá và những lOMoAR cPSD| 59908026
quy tắc đạo đức hành nghề trong quá trính định giá tài sản. Các quy định
này đã tạo lập cơ sở pháp lý cho việc phát triển loại hình dịch vụ định giá
tài sản trí tuệ ở Việt Nam.
Thực trạng pháp luật Việt Nam về định giá tài sản trí tuệ
Hiện nay, những quy định về định giá tài sản trí tuệ còn tồn nhiều bất cập, cụ thể:
Thứ nhất, các văn bản pháp luật còn thiếu nhất quán trong cách hiểu về
cụm từ “tài sản trí tuệ”.
Bộ luật Dân sự năm 1995 là văn bản pháp lý đầu tiên quy định về quyền sở hữu trí
tuệ tại Việt Nam. Theo đó, các đối tượng tài sản trí tuệ được quy định tại Bộ luật
này bao gồm: Các đối tượng quyền tác giả (tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa
học); Các đối tượng quyền sở hữu công nghiệp (sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu
dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hoá, tên gọi xuất xứ hàng hoá và các đối tượng
khác do pháp luật quy định). Sau Bộ luật này, Bộ luật Dân sự năm 2005 và Luật Sở
hữu trí tuệ năm 2005 tiếp tục được bổ sung và hoàn thiện hơn các quy định về các
đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ.
Tuy nhiên, Chuẩn mực kế toán số 04 về tài sản cố định vô hình được
ban hành vào năm 2001 lại sử dụng các thuật ngữ không chính xác so với quy định
của Bộ luật Dân sự 1995 cũng như quy định của pháp luật quốc tế về các loại tài
sản trí tuệ như: phần mềm máy tính, bằng phát minh, bằng sáng chế, bản quyền, nhãn hiệu hàng hoá.
Thuật ngữ “bằng sáng chế” hay chính xác hơn là “bằng độc quyền
sáng chế” dùng để chỉ văn bằng bảo hộ ghi nhận các thông tin về chủ sở hữu sáng
chế, tên tác giả, đối tượng bảo hộ, phạm vi bảo hộ và thời hạn bảo hộ nên “bằng
độc quyền sáng chế” không phải là một tài sản trí tuệ và cũng không là tài sản cố định vô hình của DN. lOMoAR cPSD| 59908026
Những “sáng chế” được pháp luật bảo hộ mới là tài sản cố định vô
hình chứ không phải là văn bằng bảo hộ ghi nhận những thông tin liên quan đến
sáng chế được bảo hộ. Bên cạnh đó, tài sản trí tuệ là sáng chế lại chỉ được giới hạn
là “bằng sáng chế”, như vậy nếu được bảo hộ dưới hình thức là giải pháp hữu ích
hoặc chưa đăng ký bảo hộ sáng chế, DN sẽ khó có cơ sở để tính toán giá trị của các tài sản này.
Thứ hai, các quy định pháp luật còn mâu thuẫn khi quy định phân
loại tài sản trí tuệ thành tài sản cố định vô hình để định giá và tính vào giá trị DN.
Theo Chuẩn mực kế toán số 04, chỉ một số đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ được
coi là tài sản cố định vô hình như sáng chế, quyền tác giả, nhãn hiệu (trong trường
hợp nhãn hiệu đó không phải được tạo ra từ nội bộ DN như nhãn hiệu đó được mua
lại). Tuy nhiên, Khoản 2, Điều 4, Thông tư 45/2013/TT-BTC của Bộ Tài chính quy
định tất cả các đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ (bao gồm quyền tác giả, quyền
sở hữu công nghiệp, quyền đối với giống cây trồng) đều được coi là tài sản cố định
vô hình và từ đó là cơ sở để định giá và tính vào giá trị DN.
Như vậy, Điểm b, Khoản 1 Điều 6 của Thông tư 45/2013/TT-BTC coi chỉ dẫn địa
lý là một loại tài sản cố định vô hình của DN, là mâu thuẫn với quy định tại Khoản
4, Điều 121 Luật Sở hữu trí tuệ: “Chủ sở hữu chỉ dẫn địa lý của Việt Nam là Nhà
nước”. Do đó, không thể coi chỉ dẫn địa lý là một loại tài sản cố định vô hình của
DN. Bên cạnh đó, theo Thông tư 127/2014/TT-BTC, giá trị thương hiệu (bao gồm
nhãn hiệu và tên thương mại) được tính vào giá trị DN khi cổ phần hóa. Tuy nhiên,
trong Chuẩn mực kế toán số 04 lại không quy định thương hiệu là tài sản cố định
để được định giá và tính vào giá trị DN.
Thứ ba, quy định về phương pháp định giá còn thiếu nhất quán.
Tiêu chuẩn thẩm định giá số 13 quy định về các phương pháp xác định giá trị
tài sản trí tuệ trong cách tiếp cận từ chi phí bao gồm phương pháp chi phí tái tạo và
phương pháp chi phí thay thế. Tuy nhiên, theo quy định tại các văn bản pháp luật lOMoAR cPSD| 59908026
hiện hành về kế toán hay cổ phần hóa DN Nhà nước (DNNN), giá trị tài sản trí tuệ
chủ yếu được tính bằng phương pháp chi phí mang tính lịch sử (chi phí quá khứ).
Giá trị của tài sản trí tuệ được xác định bằng tổng chi phí cho việc phát triển
cộng với chi phí xác lập quyền và chi phí cho việc duy trì hiệu lực độc quyền đối
với tài sản trí tuệ đó. Chẳng hạn, giá trị bản quyền, bằng sáng chế là toàn bộ các chi
phí thực tế đã chi ra để có bản quyền tác giả, bằng sáng chế; Giá trị nhãn hiệu là
các chi phí thực tế liên quan trực tiếp tới việc mua nhãn hiệu; Giá trị thương hiệu
bao gồm các chi phí thực tế cho việc “sáng chế, xây dựng và bảo vệ nhãn mác, tên thương mại” của DN.
Theo quy định tại Chuẩn mực kế toán số 04, các chi phí như: chi phí thành
lập DN, chi phí đào tạo nhân viên và chi phí quảng cáo phát sinh trong giai đoạn
trước hoạt động của DN mới thành lập, chi phí cho giai đoạn nghiên cứu… không
được tính vào khi xác định giá trị tài sản trí tuệ.
Trong khi đó, theo quy định của Thông tư 127/2014/TT-BTC, giá trị thương
hiệu của DN cổ phần hóa được xác định trên cơ sở các chi phí thực tế cho việc tạo
dựng và bảo vệ nhãn hiệu, tên thương mại trong quá trình hoạt động của DN, bao
gồm: chi phí thành lập DN, chi phí đào tạo nhân viên, chi phí quảng cáo, tuyên
truyền trong và ngoài nước để quảng bá, giới thiệu sản phẩm, giới thiệu công ty...
Sự mâu thuẫn trong việc xác định các loại chi phí khi tiến hành định giá giữa các
văn bản pháp luật nói trên tạo cách hiểu và cách áp dụng không thống nhất trong
việc vận dụng phương pháp chi phí để định giá tài sản trí tuệ của DN trong quá trình kinh doanh.
Thứ tư, thiếu các quy định về định giá tài sản trí tuệ khi thực hiện góp vốn
thành lập DN bằng quyền sở hữu trí tuệ.
Ở Việt Nam, việc góp vốn, liên doanh bằng tài sản trí tuệ (chủ yếu là góp
vốn bằng thương hiệu) diễn ra khá sôi động, đi trước các quy định của pháp luật.
Từ những năm 1990, các tập đoàn đa quốc gia đã tiếp cận thị trường Việt Nam
thông qua việc liên doanh, liên kết, mua bán, sáp nhập với các DN trong nước. lOMoAR cPSD| 59908026
Thực tiễn trong hoạt động liên doanh giữa DN Việt Nam với các DN nước
ngoài cho thấy, DN Việt thường chỉ chú ý vào giá trị quyền sử dụng đất và các tài
sản hữu hình mà chưa chú ý đến các tài sản vô hình như tài sản trí tuệ. Đến nay vẫn
chưa có quy định hướng dẫn việc góp vốn và nhận góp vốn bằng giá trị quyền sử
dụng nhãn hiệu, vì hiện vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau và cũng chưa có tổng kết,
đánh giá được hết các vướng mắc nảy sinh trong thực tiễn.
Việc xác định giá trị, nhượng quyền sử dụng tài sản trí tuệ, góp vốn liên
doanh, liên kết… bằng giá trị tài sản trí tuệ đối với các DN thuộc mọi thành phần
kinh tế ở nước ta đến nay vẫn còn là một khoảng trống.
Thứ năm, các yêu cầu của pháp luật về hạch toán kế toán tài sản của DN giúp
cho định giá tài sản trí tuệ còn bất cập.
Chuẩn mực kế toán Việt Nam số 04 quy định về tài sản cố định vô hình đã
hướng dẫn cách xác định nguyên giá và nguyên tắc ghi sổ kế toán đối với các tài
sản trí tuệ được coi là tài sản cố định vô hình của DN, bao gồm: nhãn hiệu hàng
hóa, phần mềm máy vi tính, bản quyền, bằng sáng chế. Các nhãn hiệu hàng hóa
được hình thành trong nội bộ DN không được ghi nhận là tài sản cố định vô hình.
Việc không có quy định về tên thương mại và các loại tài sản trí tuệ khác,
cũng như không coi nhãn hiệu hàng hóa do DN tạo ra là tài sản cố định vô hình đã
gây nhiều trở ngại và thiệt thòi cho DN trong quá trình định giá, mua bán sáp nhập
DN và khi phát hành chứng khoán. Trên thực tế, đối với nhiều DN, tên thương mại
và nhãn hiệu hàng hóa, dịch vụ lại có giá trị lớn, nhiều khi lớn hơn cả tài sản hữu
hình của DN và đối tượng hướng tới trong các hoạt động liên doanh, liên kết, sáp
nhập của DN nước ngoài trong các thương vụ với DN Việt đa phần chính là vì
những nhãn hiệu mạnh cũng như thị phần của những DN này.
Như vậy, giữa các quy định về kế toán DN và cổ phần hóa DNNN có sự
không thống nhất trong việc xác định giá trị tài sản trí tuệ là nhãn hiệu, tên thương
mại. Điều này khiến cho mỗi DN, mỗi công ty kiểm toán có cách nhìn và ứng xử
khác nhau. Nếu sử dụng phương pháp chi phí quá khứ để xác định giá trị tài sản trí lOMoAR cPSD| 59908026
tuệ sẽ gây thiệt hại cho các DN sở hữu khối lượng lớn các tài sản trí tuệ trong các
hoạt động liên doanh, liên kết, sáp nhập, cổ phần hóa DN.
Thứ sáu, thiếu quy định về định giá tài sản trí tuệ trong việc thực hiện các giao
dịch bảo đảm bằng tài sản trí tuệ.
Pháp luật hiện hành về giao dịch bảo đảm đối với quyền sở hữu trí tuệ còn
khá sơ lược và chưa thực sự tạo cơ sở pháp lý an toàn cho việc cho vay vốn có tài
sản bảo đảm là tài sản trí tuệ. Theo quy định tại Bộ luật Dân sự năm 2005, quyền
tài sản là một loại tài sản có thể dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự. Điều
322 Bộ luật Dân sự quy định: “Các quyền tài sản thuộc sở hữu của bên bảo đảm
bao gồm quyền tài sản phát sinh từ quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp,
quyền đối với giống cây trồng… đều được dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự”.
Mặc dù Điều 322 của Bộ luật Dân sự liệt kê rõ ràng các quyền sở hữu trí tuệ
được sử dụng làm tài sản bảo đảm nhưng Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 và Luật sửa
đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ năm 2009 lại không đề cập tới
việc thế chấp các quyền sở hữu trí tuệ này.
Cũng không có bất cứ quy định nào về việc xác lập và hệ quả pháp lý của giao dịch
bảo đảm có đối tượng là quyền sở hữu trí tuệ trong các văn bản hướng dẫn thi hành
Luật Sở hữu trí tuệ. Hơn nữa, theo quy định tại khoản 6, Điều 3 Thông tư
05/2011/TT-BTP của Bộ Tư pháp ngày 16/02/2011 hướng dẫn một số vấn đề về
đăng ký, cung cấp thông tin về giao dịch bảo đảm, hợp đồng, thông báo việc kê
biên tài sản thi hành án theo phương thức trực tiếp, bưu điện, fax, thư điện tử tại
Trung tâm Đăng ký giao dịch, tài sản của Cục Đăng ký Quốc gia giao dịch bảo
đảm thuộc Bộ Tư pháp, việc đăng ký giao dịch bảo đảm đối với quyền sở hữu trí
tuệ được thực hiện tại Trung tâm Đăng ký giao dịch, tài sản của Cục Đăng ký Quốc
gia giao dịch bảo đảm thuộc Bộ Tư pháp chứ không phải tại Cục sở hữu trí tuệ như
thông lệ tại nhiều nước trên thế giới. lOMoAR cPSD| 59908026
Xác định giá trị tài sản bảo đảm là một vấn đề liên quan đến quyền lợi và
nghĩa vụ của các bên trong giao dịch bảo đảm, đặc biệt là trong việc vay vốn bằng
tài sản thế chấp tại các tổ chức tín dụng. Khoản 1 Điều 324 Bộ luật Dân sự 2005
quy định: “Một tài sản có thể được dùng để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ dân
sự, nếu có giá trị tại thời điểm xác lập giao dịch bảo đảm lớn hơn tổng giá trị các
nghĩa vụ được bảo đảm, trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác”.
Về “thỏa thuận khác” được giải thích tại Điều 5 của Nghị định
163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 quy định về giao dịch bảo đảm như sau: “Các
bên có thể thoả thuận dùng tài sản có giá trị nhỏ hơn, bằng hoặc lớn hơn tổng giá
trị các nghĩa vụ được bảo đảm”. Đây là những quy định pháp lý duy nhất về xác
định giá trị tài sản bảo đảm trong các giao dịch bảo đảm.
Vì vậy, trên thực tế, đối với hoạt động cho vay vốn của các tổ chức tín dụng,
việc cho vay dựa trên tài sản bảo đảm là quyền sở hữu trí tuệ hầu như chưa được
thực hiện do chưa có các quy định hướng dẫn về định giá một cách cụ thể và phù
hợp để các bên liên quan có thể yên tâm sử dụng tài sản trí tuệ làm tài sản bảo đảm.
Trong tình hình nợ xấu ngày càng gia tăng như hiện nay, để hạn chế các rủi ro, các
ngân hàng ngày càng thận trọng trong việc xét duyệt các khoản vay của mình. Như
vậy, một DN sản xuất, kinh doanh thông thường đã khó tiếp cận vốn thì các DN
sản xuất, kinh doanh dựa trên tài sản trí tuệ sẽ càng khó tiếp cận vốn hơn. KẾT LUẬN
Tài sản trí tuệ đem lại sự gia tăng giá trị của sản phẩm, dịch vụ cũng như giá
trị của doanh nghiệp và của toàn bộ nền kinh tế của một quốc gia. Tài sản trí tuệ
chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong kết cấu giá trị của doanh nghiệp. Do đó, định
giá tài sản trí tuệ là công việc hết sức quan trọng, giúp doanh nghiệp biết được giá
trị tài sản trí tuệ của mình, từ đó có những quyết sách, chiến lược, kế hoạch kinh doanh phù hợp.