Khủng hoảng tài chính Châu Á - Trường hợp Thái Lan | Kinh tế vi mô | Trường Đại học Thương Mại
Khủng hoảng tài chính Châu Á - Trường hợp Thái Lan | Kinh tế vi mô | Trường Đại học Thương Mại được trình bày khoa học, chi tiết giúp cho các bạn sinh viên chuẩn bị bài một cách nhanh chóng và đầy đủ. Các bạn xem, tải về ở bên dưới.
Preview text:
lOMoARcPSD|39651089
Khủng hoảng tài chính Châu Á - Trường hợp Thái Lan MỤC LỤC
1. NGUYÊN NHÂN CỦA CUỘC KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH CHÂU Á ............................................ 5
1.1. Nguyên nhân bên trong ...................................................................................................................... 5
1.2. Nguyên nhân bên ngoài ...................................................................................................................... 6
2. DIỄN BIẾN CỦA CUỘC KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH CHÂU Á ...................................................... 7
2.1. Tại Thái Lan ....................................................................................................................................... 7
2.2. Tại Philippins ..................................................................................................................................... 8
2.3. Tại Hong Kong ................................................................................................................................... 8
2.4. Tại Hàn Quốc ..................................................................................................................................... 9
2.5. Tại Indonesia ...................................................................................................................................... 9
2.6. Tại Malaysia ..................................................................................................................................... 10
3. ẢNH HƯỞNG CỦA KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH ĐẾN ĐỒNG BAHT THÁI ................................ 10
4. KIỂM SOÁT CỦA CHÍNH PHỦ THÁI LAN ĐỐI VỚI ĐỒNG BAHT THÁI ..................................... 10
4.1. Cách kiểm soát đồng baht của Chính phủ Thái Lan ......................................................................... 11
4.2. Kết quả kiểm soát đồng baht của Chính phủ Thái Lan .................................................................... 12
4.3. Mô tả chuyển động của đồng baht Thái ........................................................................................... 13
5. NHỮNG THẢM HỌA ĐỐI VỚI ĐẤT NƯỚC DO HẬU QUẢ CỦA CUỘC KHỦNG HOẢNG TÀI
CHÍNH CHÂU Á ........................................................................................................................................ 13
6. GÓI CỨU TRỢ TỪ IMF ĐỐI VỚI THÁI LAN ..................................................................................... 14
7. BÀI HỌC RÚT RA TỪ KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH CHÂU Á ....................................................... 15
Một số phương pháp ngăn ngừa cơ bản .................................................................................................. 21 lOMoARcPSD|39651089 MỞ ĐẦU
Tài chính là một lĩnh vực vô cùng quan trọng trong nền kinh tế quốc dân của một
quốc gia. Nền tài chính của một quốc gia là cơ sở để đánh giá trình độ phát triển của quốc
gia đó. Sự phát triển của hệ thống tài chính toàn cầu bên cạnh việc mang lại những cơ hội
lớn cho mỗi quốc gia, mỗi dân tộc thì đồng thời cũng tiềm ẩn những nguy cơ khủng
hoảng. Sự thay đổi của các thị trường tài chính cùng với mức độ mở cửa thương mại - tài
chính của các nước và những điều kiện bên trong của mỗi quốc gia đều có thể dẫn đến nguy cơ khủng hoảng.
Khủng hoảng tài chính xảy ra trong các mối quan hệ tài chính và các kênh dẫn vốn
trong nền kinh tế. Khủng hoảng tài chính nảy sinh khi các mối quan hệ này đạt tới mức
thấp có nghĩa là bên cung vốn không muốn tài sản tài chính mà mình có cho bên cầu vốn
nữa. Và điều này tác động lên các kênh dẫn vốn, làm cho nó bị tê liệt không phát huy
được tác dụng và do đó sẽ làm sụp đổ hoặc suy yếu các tổ chức, định chế tài chính. Các
tổ chức định chế tài chính này không bao giờ biệt lập với nhau mà chúng có quan hệ mật
thiết, do đó khủng hoảng tài chính thường làm sụp đổ hàng loạt tổ chức, định chế, gây thiệt hại to lớn.
Trong thập kỷ 90, châu Á là tâm điểm của mọi sự chú ý trên thế giới với tốc độ phát
triển thần kì trong suốt 5 năm liền nhưng rồi chững lại vào năm 1996 do sự tăng trưởng
chậm của xuất khẩu và sự suy giảm của thu nhập quốc dân. Những nghi ngờ về sức mạnh
thực sự của những “con hổ” châu Á trở nên nghiêm trọng vào năm 1997 khi Đông Nam
Á trải qua một cú sốc kinh tế lớn gọi là cuộc khủng hoảng tài chính Đông Á, bắt nguồn từ
Thái Lan, sau đó lan sang Hàn Quốc, Malaysia, Indonesia, Philipin, Hồng Kông và
Singapore. Mặc dù được gọi là cơn khủng hoảng "Đông Nam Á", nhưng ảnh hưởng của
nó lại lan truyền toàn cầu và với những tác động lớn lan rộng đến cả các nước như Nga, Brazil và Hoa Kỳ.
Bằng phương pháp mô tả và phân tích các số liệu, thông tin về hiện trạng nền kinh
tế Đông Nam Á thập niên 90 của thế kỷ XX, đề tài “Khủng hoảng tài chính Đông Nam
Á” được thực hiện nhằm làm rõ những nguyên nhân cũng như ảnh hưởng của khủng lOMoARcPSD|39651089
hoảng và những chính sách của chính phủ Thái Lan về tài chính, tiền tệ, thương mại trong
giai đoạn khủng hoảng. Để tìm hiểu tác động của những chính sách đó đối với nền kinh
tế, nhóm sẽ trình bày về mô hình Mundell Fleming - là một dạng mô hình IS-LM cho nền
kinh tế mở, với hai hệ thống tỷ giá cơ bản trên thế giới là hệ thống tỷ giá hối đoái thả nổi
và hệ thống tỷ giá cố định.
1. NGUYÊN NHÂN CỦA CUỘC KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH CHÂU 䄃Ā
1.1. Nguyên nhân bên trong
a. Thực hiện chế độ tỷ giá hối đoái không linh hoạt
Nhiều nước mới nổi ở châu á đã gắn đồng tiền của mình với đồng đôla Mỹ và đồng
thời thực hiện chính sách nới lỏng việc kiểm soát trao đổi buôn bán ngoại tệ bằng cách
cho phép người dân trong nước thực hiện các khoản vay bằng đồng USD Mỹ và người
nước ngoài buôn bán đồng nội tệ khá tự do. Việc thực hiện chế độ tỷ giá cố định và nới
lỏng kiểm soát ngoại tệ này nhằm 4 khuyến khích kinh tế phát triển cao từ khía cạnh tài
chính bằng cách khuyến khích dòng chảy tư bản bên ngoài vào và tạo ra các cơ hội đầu tư
nhiều hơn cho các nhà đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên dòng chảy tư bản lớn vào khu vực
đã tạo ra sự chênh lệch tỷ giá hối đoái. Việc giá các đồng nội tệ được định giá cao hơn giá
trị thực làm cho sức cạnh tranh của các nền kinh tế này bị suy giảm so với các quốc gia
khác đồng thời bị chịu các đợt đầu cơ vào dự đoán các đồng tiền này sẽ bị giảm giá vào tương lai gần.
1.1.2. Dựa quá nhiều vào nợ - đặc biệt là nợ ngắn hạn
Các nước Đông Nam á là những nước xuất khẩu lớn bao gồm cả hàng chế tạo và có
thể dễ dàng bù đắp cho nợ nước ngoài lớn. Tuy nhiên là chỉ có thu nhập từ xuất khẩu thì
chưa đủ để trả nợ đặc biệt là vào những năm đầu thập kỷ 90 xuất khẩu của các nước này
gặp khó khăn do thị trường đã bão hoà sức cạnh tranh giảm. Khi dự trữ ngoại tệ không đủ
lớn để trả nợ gốc và lãi đến hạn thì các nước này đã tuyên bố tình trạng khủng hoảng cần sự giúp đỡ quốc tế.
c. Sự hình thành bong bóng kinh tế lOMoARcPSD|39651089
Trong nền kinh tế nội địa khu vực phi hàng hoá bao gồm các ngành bất động sản và
xây dựng đã dần trở nên có khả năng kiếm được nhiều lợi nhuận so với khu vực kinh
doanh hàng hoá cũng chính vì vậy mà các nguồn lực đã được phân bổ nhiều hơn vào khu
vực phi hàng hoá này. Trong thời kỳ này các khoản đầu tư mới và trợ giúp về vốn thường
tập trung vào lĩnh vực bất động sản và các ngành phi kinh doanh hàng hoá khác. Trong
khi đó sự yếu kém về 5 quản lý của các tổ chức tài chính và sự nơi lỏng trong kiểm tra và
giám sát của các tổ chức này đã góp phần vào sự phát triển quá mức của khu vực phi
thương mại. Kết quả là những khoản vốn được tập trung vào lĩnh vực không sinh lời đã
trở thành những khoản nợ khó đòi hoặc không thể đòi được. Tổng mức nợ khó đòi của
các nền kinh tế ASEAN đã lên tới 130 - 140% GDP. Khi đồng tiền bị phá giá khu vực bất
động sản bị sụp xuống thì bản cân đối của các công ty tài chính các ngân hàng bị phơi ra, vỡ nợ lan nhanh.
d. Sự yếu kém của hệ thống tài chính ngân hàng
Các ngân hàng thuộc các nước ASEAN đã chi và đầu tư mà không tính đến khả
năng cạnh tranh với nước ngoài đã đảm bảo và khích lệ các công ty trong nước vay
không cần giới hạn dùng các quan hệ “tín chấp” thay cho các quan hệ thế chấp tài sản quá
lạc quan khi đánh giá cao vai trò của các đồng nội tệ...chỗ mạnh và đồng thời cũng là chỗ
yếu của các nước Đông á là mối liên hệ giữa chính quyền ngân hàng và doanh nghiệp.
Mối liên kết chặt chẽ này nhằm vào việc thực hiện các mục tiêu và đề án phát triển lớn
lao do nhà nước đề ra. Chính sự liên kết này làm cho các thể chế kiểm soát và đánh giá
tài chính nhiều khi không cần thiết hoặc trở nên mất hiệu lực, thông tin bị nhiễu hoặc
không nhiều thì chính quyền cũng bằng mọi cách vực dậy các doanh nghiệp trên đà phá
sản. Do hậu quả của những yếu kém đó các thể chế tài chính trong nước phải gánh chịu
những rủi ro lớn tập trung do đầu tư vào những bong bóng kiểu như bất động sản và
những rủi ro về lãi suất và tỷ giá hối đoái về mặt nghĩa vụ nợ.
1.2. Nguyên nhân bên ngoài
a. Tự do hoá dòng chảy tư bản. Toàn cầu hoá gây khủng hoảng lOMoARcPSD|39651089
Di chuyển vốn quốc tế là một trong những nội dung cơ bản của các giao dịch kinh
tế quốc tế tạo nên sự lưu động các yếu tố sản xuất và các loại tiền vốn trên thị trường thế
giới. Từ những năm 80 xu thế toàn cầu hoá thị trường tiền vốn quốc tế phát triển rất mạnh
đã tăng cường ảnh hưởng của lưu động tiền vốn quốc tế đối với tình hình kinh tế thế giới.
Hơn nữa do tiền vốn ký hiệu 6 ngày càng phát triển đặc biệt loại tiền vốn ngắn hạn quốc
tế được gọi là “vốn lang thang” qúa lớn trong tổng số vốn lưu động trên thị trường thế
giới đã làm tăng tính biến động của nền kinh tế thế giới. Hiện nay có khoảng 1500 tỷ
USD được gọi là “vốn lang thang” trên thế giới hình thành lực lượng đầu cơ mạnh dễ gây
nên những biến động tài chính tiền tệ quốc tế. Sự xuất hiện tiền điện tử tạo điều kiện làm
cho tiền và hàng không còn giữ mối quan hệ đáng phải có, dẫn đến rối loạn hệ thống tài
chính tiền tệ. Các dòng chảy tư bản ngắn hạn đều có đặc điểm chung là có thể biến dổi cả
nền kinh tế tức là chúng tăng mạnh lên khi nền kinh tế đang phát triển và rút đi nhanh
chóng khi nền kinh tế có dấu hiệu bất ổn.
b. Đầu cơ quốc tế
Các đồng tiền của các nước trong khu vực Đông á đã chịu các đợt tấn công của các
nhà đầu cơ tài chính quốc tế làm đồng tiền mất giá liên tục kể cả khi ngân hàng trung
ương can thiệp lớn cộng với sự giúp đỡ quốc tế. Ngoài ra còn có các tác động của một số
thế lực tài chính phương Tây. Họ muốn làm giảm giá đồng tiền các nước Đông á để một
là nâng cao giá trị đồng USD để có lợi về kinh tế cho nước giàu; hai là dễ bề thúc ép các
nước này chuyển đổi cơ cấu kinh tế và cả chính trị.
2. DIỄN BIẾN CỦA CUỘC KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH CHÂU 䄃Ā
Khủng hoảng bắt đầu bùng phát từ Thái Lan & đất nước này đã phải gánh chịu
những tổn thất nặng nề khi bong bóng đầu tư bị vỡ vụn. Khủng hoảng mang tính lây lan,
hiệu ứng domino sang các nước trong khu vực như Indonesia, Philippines, Malaysia, lan
sang Hàn Quốc, Hồng Kông, cả Nga & Brazil cũng chịu tác động, trong đó chịu thiệt hại
nhiều nhất là Thái Lan, Indonesia & Hàn Quốc. lOMoARcPSD|39651089 2.1. Tại Thái Lan
Từ năm 1985 đến năm 1995, kinh tế Thái Lan tăng trưởng với tốc độ bình quân
hàng năm là 8%. Cuối năm 1996, báo cáo Triển vọng Kinh tế Thế giới của IMF đã cảnh
báo nền kinh tế Thái Lan tăng trưởng quá nóng và bong bóng kinh tế có thể không giữ
được lâu. Cuối năm 1996, thị trường chứng khoán Thái Lan bắt đầu có sự điều chỉnh. Cả
mức vốn hóa thị trường vốn lẫn chỉ số thị trường chứng khoán đều giảm đi. Từ năm 1985
đến năm 1995, kinh tế Thái Lan có một nền kinh tế mạnh, tăng trưởng với tốc độ bình
quân hàng năm là 9%, được xem là tấm gương về quản lí kinh tế hiệu quả. Thái Lan được
xếp vào nhóm các nền kinh tế đạt thành tựu cao của châu Á, lạm phát thấp, ngân sách
Chính phủ luôn dư thừa, cán cân thanh toán có thể kiểm soát được, đầu tư tăng vọt, tình
trạng thất nghiệp hầu như không có.
Đến cuối năm 1996, báo cáo Triển vọng Kinh tế Thế giới của IMF cảnh báo nền
kinh tế Thái Lan tăng trưởng quá nóng, khả năng vỡ bong bóng nhanh chóng sẽ xảy ra.
Thực vậy, việc tăng chi đầu tư cơ sở hạ tầng, mở rộng quy mô sản xuất bằng nguồn nợ
vay ngắn hạn từ các giới đầu tư quốc tế khiến cho cán cân thanh toán vãng lai của Thái
Lan thâm hụt, xuống 8% GDP năm 1996. Cuối năm 1996, thị trường chứng khoán Thái
Lan bắt đầu có sự điều chỉnh. Cả mức vốn hóa thị trường vốn lẫn chỉ số thị trường chứng
khoán đều giảm đi. Lo ngại đồng baht mất giá, nhiều nhà đầu tư & người dân rút vốn
hàng loạt ra khỏi các ngân hàng & các định chế tài chính, ảnh hưởng nghiêm trọng đến
thị trường vốn của đất nước này.
Ngày 14 tháng 5 và ngày 15 tháng 5 năm 1997, đồng baht Thái bị tấn công đầu cơ
quy mô lớn. Ngày 30 tháng 6, thủ tướng Thái Lan Chavalit Yongchaiyudh tuyên bố sẽ
không phá giá baht, song rốt cục lại thả nổi baht vào ngày 2 tháng 7. Baht ngay lập tức
mất giá gần 50%. Vào tháng 1 năm 1998, nó đã xuống đến mức 56 baht mới đổi được 1
dollar Mỹ. Chỉ số thị trường chứng khoán Thái Lan đã tụt từ mức 1.280 cuối năm 1995
xuống còn 372 cuối năm 1997. Đồng thời, mức vốn hóa thị trường vốn giảm từ 141,5 tỷ
USD xuống còn 23,5 tỷ USD. Finance One, công ty tài chính lớn nhất của Thái Lan bị
phá sản. Ngày 11 tháng 8, IMF tuyên bố sẽ cung cấp một gói cứu trợ trị giá 16 tỷ dollar lOMoARcPSD|39651089
Mỹ cho Thái Lan. Ngày 20 tháng 8, IMF thông qua một gói cứu trợ nữa trị giá 3,9 tỷ dollar. 2.2. Tại Philippins
Sau khi khủng hoảng bùng phát ở Thái Lan, ngày 3 tháng 7 ngân hàng trung ương
Philippines đã cố gắng can thiệp vào thị trường ngoại hối để bảo vệ đồng peso bằng cách
nâng lãi suất ngắn hạn (lãi suất cho vay qua đêm) từ 15% lên 24%. Đồng peso vẫn mất
giá nghiêm trọng, từ 26 peso ăn một dollar xuống còn 38 vào năm 2000 và còn 40 vào cuối khủng hoảng. 2.3. Tại Hong Kong
Tháng 10 năm 1997, Dollar Hong Kong bị tấn công đầu cơ. Đồng tiền này vốn được
neo vào Dollar Mỹ với tỷ giá 7,8 HKD/USD. Tuy nhiên, tỷ lệ lạm phát ở Hong Kong lại
cao hơn ở Mỹ. Đây là cơ sở để cho giới đầu cơ tấn công. Nhờ có dự trữ ngoại tệ hùng hậu
lên tới 80 tỷ USD vào thời điểm đó tương đương 700% lượng cung tiền M1 hay 45%
lượng cung tiền M3, nên Cơ quan Tiền tệ Hong Kong đã dám chi hơn 1 tỷ USD để bảo vệ
đồng tiền của mình. Các thị trường chứng khoán ngày càng trở nên dễ đổ vỡ. Từ ngày 20
tháng 10 đến 23 tháng 10, Chỉ số Hang Seng đã giảm 23%. Ngày 15 tháng 8 năm 1998,
Hong Kong nâng lãi suất cho vay qua đêm từ 8% lên thành 23% và ngay lập tức nâng vọt
lên 500%. Đồng thời, Cơ quan Tiền tệ Hong Kong bắt đầu mua vào các loại cổ phiếu
thành phần của Chỉ số Hang Seng để giảm áp lực giảm giá cổ phiếu. Cơ quan này và ông
Donald Tsang, lúc đó là Bộ trưởng Tài chính và sau này làm Trưởng Đặc khu hành chính
Hong Kong, đã công khai tuyên chiến với giới đầu cơ. Chính quyền đã mua vào khoảng
120 tỷ Dollar Hong Kong (tương đương 15 tỷ Dollar Mỹ) các loại chứng khoán. 2.4. Tại Hàn Quốc
Vào thời điểm khủng hoảng bùng phát ở Thái Lan, Hàn Quốc có một gánh nặng nợ
nước ngoài khổng lồ. Các công ty nợ ngân hàng trong nước, còn ngân hàng trong nước
lại nợ ngân hàng nước ngoài. Một vài vụ vỡ nợ đã xảy ra. Khi thị trường châu Á bị khủng
hoảng, tháng 11 các nhà đầu tư bắt đầu bán ra chứng khoán của Hàn Quốc ở quy mô lớn. lOMoARcPSD|39651089
Ngày 28 tháng 11 năm 1997, tổ chức đánh giá tín dụng Moody đã hạ thứ hạng của Hàn
Quốc từ A1 xuống A3, sau đó vào ngày 11 tháng 12 lại hạ tiếp xuống B2. Điều này góp
phần làm cho giá chứng khoán của Hàn Quốc thêm giảm giá. Riêng trong ngày 7 tháng
11, thị trường chứng khoán Seoul tụt 4%. Ngày 24 tháng 11 lại tụt 7,2% do tâm lý lo sợ
IMF sẽ đòi Hàn Quốc phải áp dụng các chính sách khắc khổ. 2.5. Tại Indonesia
Tháng 7, khi Thái Lan thả nổi đồng Baht, cơ quan hữu trách tiền tệ của Indonesia đã
nới rộng biên độ dao động của tỷ giá hối đoái giữa Rupiah và Dollar Mỹ từ 8% lên 12%.
Tháng 8, đồng Rupiah bị giới đầu cơ tấn công và đến ngày 14 thì chế độ tỷ giá hối đoái
thả nổi có quản lý được thay thế bằng chế độ thả nổi hoàn toàn. Đồng Rupiah liên tục mất
giá. IMF đã thu xếp một gói viện trợ tài chính khẩn cấp cho Indonesia lên tới 23 tỷ
Dollar, nhưng Rupiah tiếp tục mất giá do đồng Rupiah bị bán ra ồ ạt và lượng cầu Dollar
Mỹ ở Indonesia tăng vọt. Tháng 9, cả giá Rupiah lẫn chỉ số thị trường chứng khoán đều
giảm xuống mức thấp lịch sử. 2.6. Tại Malaysia
Ngay sau khi Thái Lan thả nổi đồng Baht (ngày 2 tháng 7 năm 1997), đồng Ringgit
của Malaysia và thị trường chứng khoán Kuala Lumpur lập tức bị sức ép giảm giá mạnh.
Ringgit đã giảm từ mức 3,75 Ringgit/Dollar Mỹ xuống còn 4,20 Ringgit/Dollar. Phần lớn
sức ép giảm giá đối với Ringgit là từ việc buôn bán đồng tiền này trên thị trường tiền ở
nước ngoài. Những người tham gia thị trường tiền duy trì tài khoản bằng đồng Ringgit ở
trạng thái bán ra nhiều hơn mua vào với dự tính về sử giảm giá của đồng Ringgit trong
tương lai. Kết quả là lãi suất trong nước của Malaysia giảm xuống khuyến khích dòng
vốn chảy ra nước ngoài. Lượng vốn chảy ra đạt tới mức 24,6 tỷ Ringgit vào quý hai và quý ba năm 1997.
3. ẢNH HƯỞNG CỦA KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH ĐẾN ĐỒNG BAHT TH䄃ĀI
- Ngày 4,5-03-1997, hơn 21,4 tỷ baht đã được rút khỏi các ngân hàng và công ty tài chính. lOMoARcPSD|39651089
- Ngày 09-04-1997, phải mất 26.8 bath mới đổi được 1 usd, mức cao nhất kể từ năm 1991.
- Ngày 14,15-05-1997, đồng baht bị tấn công quy mô lớn, thị trường chứng khoán
ngập tràn lệnh bán đồng tiền này, chính phủ buộc phải chi ra 10 tỷ usd trong 2 tuần để giữ giá baht, 25 baht ăn 1 usd.
- Ngày 25-06-1997, 16 công ty tài chính đóng cửa, nâng tổng số lên 91 công ty,
chiếm 61% số công ty trên cả nước. Lúc này, nhu cầu ngoại tệ tăng cao, chính phủ phải
bán ra để giảm áp lực tăng giá ngoại tệ.
- Ngày 30-06-1997, thủ tướng Thái Lan vẫn cam kết sẽ không phá giá baht, nhưng rốt
cuộc lại thả nổi đồng tiền này vào ngày 02-07-1997, ngay lập tức baht bị mất giá 50%.
- Tháng 01-1998, 56 baht mới ăn 1 usd. Mức vốn hóa thị trường sụt giảm từ 141.1 tỷ
usd xuống còn 23.5 tỷ usd. Finance Once-công ty tài chính lớn nhất Thái Lan bị phá sản.
4. KIỂM SO䄃ĀT CỦA CHÍNH PHỦ TH䄃ĀI LAN ĐỐI VỚI ĐỒNG BAHT TH䄃ĀI
4.1. Cách kiểm soát đồng baht của Chính phủ Thái Lan
Trước khủng hoảng Thái Lan áp dụng chế độ tỷ giá hối đoái cố định đối với đồng
Baht Thái: Kể từ ngày 2/11/2984, giá trị đối ngoại của đồng Baht được xác định dựa trên
cơ sở một tập hợp những đồng tiền của những bạn hàng chủ chốt của Thái Lan, trong đó
đồng dollar Mỹ chiếm vai trò chủ đạo với 80% giá trị, đồng Baht được cố định với đồng
dollar Mỹ để ổn định tài chính nhằm thu hút vốn đầu tư nước ngoài và chống lạm phát.
Nhờ đó đồng Baht trở thành một trong những đồng tiền ổn định nhất thế giới và hỗ trợ
cho quá trình tăng trưởng kinh tế rất mạnh của nước này.
Tuy nhiên với chế độ tỷ giá hối đoái cố định, chức năng điều tiết vĩ mô đối với nền
kinh tế của chính sách tiền tệ sẽ bị tê liệt do phải kìm giữ tỷ giá. Thực tế, chính phủ Thái
Lan đã buộc phải áp dụng chính sách tiền tệ thả lỏng với mức cung tiền tăng trung bình 20%/năm. lOMoARcPSD|39651089
Theo mô hình Mundell-Flemming, với chế độ tỷ giá cố định, giả sử nền kinh tế
đang ở trạng thái cân bằng e1, khi chính phủ Thái Lan áp dụng chính sách tiền tệ mở rộng
làm tăng lượng cung tiền, làm cho đường LM1 dịch phải đến LM2, khiến tỷ giá nội tệ e1
giảm. Điều này khiến các nhà đầu tư trong nước tìm cách đầu tư ở nước ngoài. Khi đó
ngân hàng trung ương bán dự trữ ngoại tệ để giữ tỷ giá hối đoái không đổi. Khi đó dần
dần mức cung tiền trở lại mức ban đầu, đường LM2 lại dịch trái về LM1 khiến tỷ giá nội
tệ cũng quay lại giá trị ban đầu.
Khi khủng hoảng tài chính xảy ra, ngày 2/7/1997, sau khi đã sử nguồn dự trữ
ngoại tệ hơn 10 tỷ đô để mua nội tệ, các làn sóng bán đồng baht vẫn diễn ra ồ ạt trong
nước và trên thế giới, chính phủ Thái Lan đã tuyên bố thả nổi đồng baht. Khi đó từ 25
baht / 1 USD đã lên đến 36.72 baht / 1 USD: lOMoARcPSD|39651089
Theo như mô hình Mundell-flemming với chính sách tiền tệ dưới cơ chế tỷ giá thả
nổi, giả sử nền kinh tế đang cân bằng ở mức e1 với mức sản lượng Y1, khi chính phủ
Thái Lan áp dụng chính sách thả nổi đồng baht, tỷ giá hối đoái giảm từ e1 xuống e2,
khiến cho đường LM1 dịch chuyển sang phải đến LM2. Tại mức e2, sản lượng tăng từ
Y1 sang Y2. Như vậy: Tỷ giá hối đoái giảm -> đồng baht mất giá. Khi đó khuyến khích
xuất khẩu và giảm nhập khẩu. -> làm tăng GDP.
Biện pháp thả nổi đồng baht là một hiện tượng cần thiết để trả lại giá trị đích thực
cho nó, vì nếu không nền kinh tế dựa vào xuất khẩu của Thái Lan sẽ không xuất khẩu
được do giá hàng hóa trong nước đã tăng tương đối so với giá hàng hóa nước ngoài.
4.2. Kết quả kiểm soát đồng baht của Chính phủ Thái Lan
Chính phủ Thái Lan đã không thành công để đạt được mục tiêu: -
Chế độ tỷ giá cố định và chính sách tiền tệ thả lỏng đã đẩy nền kinh tế Thái Lan rơi
vào trạng thái mất cân đối bên trong: lạm phát tăng, tiền lương tăng lên và thổi phồng
một cách giả tạo nhu cầu trong nước, khiến chỉ số giá tiêu dùng của Thái Lan liên tục
tăng, chi phí lao động tăng cao hơn nhiều so với mức tăng hiệu suất lao động và sự cải thiện cơ sở hạ tầng.
Mặt khác chính sách tiền tệ mở rộng khuyến khích đầu tư tràn lan và quá nhiều vào
những ngành chỉ mang lại lợi ích trước mắt và đặc biệt vào kinh doanh bất động sản, quá
nhiều tòa nhà và văn phòng được xây dựng gây ra tình trạng ế thừa. -
Chế độ tỷ giá cố định và chính sách tiền tệ thả lỏng đã đẩy nền kinh tế Thái Lan rơi
vào trạng thái mất cân đối bên ngoài: Tỷ giá cố định và gia tăng lạm phát khiến đồng
Baht lên giá thực tế, cùng với suy giảm nhu cầu thị trường đối với các sản phẩm truyền
thống thế mạnh của Thái Lan vào thời điểm đó và sự cạnh tranh mạnh mẽ về chi phí với Việt Nam, Trung Quốc…
Tất cả các yếu tố này làm cho xuất khẩu của Thái Lan bị giảm sút, nhập khẩu tăng
làm cho nền kinh tế tăng trưởng chậm lại và thâm hụt tài khoản vãng lai quá lớn, do đó
nợ nước ngoài gia tăng để bù đắp cho thâm hụt. lOMoARcPSD|39651089
Trước thực tế này, niềm tin của thị trường vào đồng baht dần dần suy giảm do nhiều
nhà đầu tư đã dự tính được tương lai phá giá của đồng tiền này nên đã bán đồng baht cho
ngân hàng trung ương để thu lấy ngoại tệ và chuyển vốn ra nước ngoài, nhiều nhà đầu cơ
tiền tệ cũng xuất hiện và vay đồng tiền nội địa rồi bán để kiếm lợi ở vòng quay sau của đồng tiền.
Để giữ tỷ giá ổn định, NHTW lại phải mua đồng nội tệ và cung cấp tài sản ngoại tệ
khiến dự trữ ngoại hối của NHTW nhanh chóng cạn kiệt buộc họ phải thả nổi đồng baht. -
Sau khi Chính phủ thả nổi đồng baht, làm cho đồng baht mất giá nhằm làm cho xuất
khẩu tăng, từ đó giúp cho GDP tăng. Tuy nhiên, sức ép của đầu cơ càng làm đồng baht mất giá liên tục,
4.3. Mô tả chuyển động của đồng baht Thái
Trong khoảng gần 10 năm trước khi khủng hoảng xảy ra, từ năm 1987 đến năm
1996, tỷ giá giữa đồng baht và USD được giữ ở mức gần như cố định 25 baht/1 USD.
Tuy nhiên, ngày 2/7/1997, ngay sau khi chính phủ Thái Lan tuyên bố thả nổi, đồng Baht
đã bị sụt giá khoảng 20% so với đồng USD (tới mức 29,5 Baht /1 USD). Tiếp sau đó, so
với trước khi được thả nổi, đồng Baht tiếp tục mất giá hơn 40% vào ngày 15/10/1997 đạt
mức 36,72 Baht/1 USD. Đến tháng 1 năm 1998, nó đã xuống đến mức 56 baht/1 USD.
5. NHỮNG THẢM HỌA ĐỐI VỚI ĐẤT NƯỚC DO HẬU QUẢ CỦA CUỘC
KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH CHÂU 䄃Ā
Dấu ấn của cuộc khủng hoảng để lại trong nền kinh tế Thái Lan những hậu quả sâu
sắc trước hết phải kể đến: 1.
Ảnh hưởng sâu sắc đến hệ thống tiền tệ, tác động của cuộc khủng hoảng đã để lại
hậu quả nặng nề, đặc biệt là sự mất ổn định của đồng tiền và thị trường tiền tệ. Thị trường
chứng khoán suy sụp, khách hàng đua nhau rút tiền khỏi các công ty tài chính. Hầu hết
các công ty tài chính buộc phải đóng cửa. Dự trữ ngoại tệ cạn kiệt, đồng tiền mất giá làm
tăng gánh nặng nợ nước ngoài. Nhiều doanh nghiệp trở nên đình đốn mất khả năng tự
thanh toán và phải đi vào con đường phá sản. Tháng 9/1998, nợ nước ngoài của Thái Lan lOMoARcPSD|39651089
lên tới 86,4 tỉ USD, trong đó có 26,6 tỷ là nợ ngắn hạn đến kì hạn phải thanh toán. 2/3 nợ
nước ngoài là những món nợ thuộc vào khu vực tư nhân. 2.
Việc phá giá đồng baht đã làm cho xuất khẩu của Thái Lan suy giảm mạnh. Bởi vì
giá tiền tệ gây ra nhiều vấn đề là làm tăng chi phí những nguyên liệu nhập khẩu vốn - chỗ dựa của xuất khẩu. 3.
Nền kinh tế bị tổn thất nặng nề, trong đó mức tăng trưởng giảm dần từ trên 6% GDP
xuống 2 -3% và cuối cùng là dưới 1% cho cả hai năm 1997 – 1998, trong khi mức lạm
phát nâng dần từ 4 – 5% lên 10%, thậm chí lên 12% cho năm 1997 – 1998. Chính vì thế,
thu nhập bình quân GDP theo đầu người cũng giảm dần tư 3.031 USD xuống còn 2.485
USD (năm 1997) đến năm 1998 chỉ còn lại 1.834 USD. Đây là tổn thất lớn trong nền
kinh tế và đời sống xã hội của Thái Lan lúc bấy giờ. 4.
Đầu tư kém hấp dẫn, sức hút bị giảm dòng đầu tư HDI vào Thái Lan giảm mạnh:
năm 1994 là 242.755 triệu baht, năm 1995 là 410.899 triệu baht nhưng sang năm 1996,
1997 chỉ còn lại khoảng 332.959 triệu baht. Chính phủ Thái Lan thả nổi đồng baht làm
cho các nhà đầu tư nước ngoài phải xem xét lại số lượng cổ phiếu của Đông Nam Á mà
họ nắm giữ. Hơn nữa so với Hồng Kông, Đài Loan, Hàn Quốc… thì Thái Lan không có
những cạnh tranh những ngành công nghiệp tập trung vốn đây cũng là nguyên nhân làm
cho sức hút đầu tư của Thái Lan giảm mạnh. 5.
Xuất nhập khẩu bị giảm sút, gây khó khăn trong việc tiếp cận thị trường vốn nên đã
làm cho khả năng cạnh tranh quốc tế giảm sút, mất cân đối về kinh tế đối ngoại và kinh tế
trong nước ngày càng trầm trọng hơn. Hệ thống ngân hàng bắt đầu thể hiện những mặt
yếu kém làm cho việc huy động các nguồn vốn trong nước hết sức khó khăn. Chính sách
lãi suất cao để bảo vệ đồng nội tệ đã làm cho hang loạt doanh nghiệp bị phá sản, đình
đốn, ngừng hoạt động. Do đó chỉ số chứng khoán và tỷ giá giảm mạnh. Bên cạnh đó,
ngan hàng trung ương Thái Lan ngừng hoạt động của 42 công ty tài chính làm tăng số nợ lên 1391 tỷ baht. lOMoARcPSD|39651089
6. GÓI CỨU TRỢ TỪ IMF ĐỐI VỚI TH䄃ĀI LAN
Để đối phó với khủng hoảng, Thái Lan kêu gọi sự giúp đỡ của các Tổ chức tài chính
quốc tế Tháng 8/1997, IMF cứu viện Thái Lan bằng hai gói hỗ trợ kinh tế với giá trị hơn
20 tỉ USD với các điều kiện như thông qua luật quy định phá sản, tái tổ chức và cấu trúc
Công ty, thiết lập các khung giám sát mạnh mẽ hơn đối với Ngân hàng và các Tổ chức tài
chính. Thái Lan thực hiện các yêu cầu này và trải qua một qúa trình cực nhọc trong khôi phục kinh tế.
Nước này tiến hành những cải cách quan trọng trong hệ thống Ngân hàng tài chính
thông qua các cơ quan tài chính nhằm thanh toán 650 tỉ baht; Thông qua luật phá sản và
tòa án phá sản; Tự do hóa quyền sở hữu đất; Cổ phần hóa tư nhân, các doanh nghiệp quốc
doanh; trung tâm giao dịch chứng khoán Thái Lan.
Như tỷ lệ nợ xấu trong hệ thống Ngân hàng lên tới 45% vào năm 1998 thì năm
2006, tỷ lệ này chỉ chừng 3 - 4% (số liệu của IMF). Tuy nhiên, chính sách khắc phục dựa
trên cơ sở những lời khuyên của IMF gây ra những phản ứng mạnh mẽ trong người dân
trước tình trạng thất nghiệp và suy thoái kinh tế lan tràn.
Năm 2001, Thủ tướng mới Thaksin đắc cử đưa ra hàng loạt các chính sách kích
thích tăng trưởng kinh tế bằng cách khuyến khích sản xuất và tiêu dùng nội địa, đồng thời
giảm sự phụ thuộc vào các nguồn vốn và thương mại nước ngoài. Những chính sách này
được biết đến với cái tên Thaksinomifcs đã góp phần đưa Thái Lan hồi phục và tăng
trưởng kinh tế trở lại trong giai đoạn 2002 - 2004.
Tuy nhiên từ năm 2005, dưới áp lực của giá dầu cao và các khó khăn khác như hạn
hán, lũ lụt và bất ổn chính trị, nền kinh tế Thái Lan lại gặp lại những khó khăn trong tăng
trưởng kinh tế cho tới nay, nhất là sau vụ đảo chính quân sự Thủ tướng Thaksin năm 2006.
7. BÀI HỌC RÚT RA TỪ KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH CHÂU 䄃Ā
Bài học từ cuộc khủng hoảng tài chính 20 năm trước đã giúp Thái Lan và một số
nước châu Á vượt qua biến động của kinh tế toàn cầu những năm gần đây. lOMoARcPSD|39651089 -
Giảm số nợ nước ngoài bằng ngoại tệ. Nền kinh tế quốc gia không thể dựa chủ yếu
vào vốn bên ngoài đặc biệt là vốn vay ngắn hạn và đầu tư vào thị trường cổ phiếu. Nhà
nước cần theo dõi và có chính sách hạn chế vay mượn nước ngoài dù tư nhân hay Nhà
nước ở mức độ nền kinh tế có thể chịu đựng được. -
Cho phép tỷ giá linh hoạt hơn, tránh ràng buộc bởi đồng các đồng ngoại tệ mạnh
(USD,JPY,EUR..). Xác định đúng tỷ giá hối đoái nhằm tạo tính cạnh tranh cho xuất khẩu,
tăng hiểu quả sử dụng hàng nhập khẩu. Cân bằng cán cân thương mại đồng thời có biện
pháp ngăn chặn dòng vốn ngắn hạn có tính chất đầu cơ. Đảm bảo tự chủ nguồn cung ứng
tiền tệ cho thị trường sản xuất và thanh khoản. -
Quản lý điều tiết dòng vốn với thị trường bất động sản và chứng khoán không để
xảy ra bong bóng có thể gây ra hậu quả tác động dây chuyền đến kinh tế và khủng hoảng xã hội. -
Sự quản lý yếu kém lỏng lẻo của hệ thống ngân hàng có thể gây ra những rủi ro lớn
và tác động dây chuyền đến cả hệ thống nền kinh tế và sản xuất. -
Hiện nay dòng chảy tư bản tiền tệ và xu hướng tự do hóa thương mại toàn cầu diễn
ra mạnh mẽ. Mọi rào cản bảo hộ đã được dỡ bỏ nên cần bộ máy quản lý điều hành nền
kinh tế đất nước phải có thực tài và trình độ điều hành quản lý ở cấp độ toàn cầu để đất
nước cạnh tranh sòng phẳng với các đối thủ quốc tế.
- Cần có biện pháp giảm áp lực tăng giá bất động sản tránh tình trạng nền kinh tế
“bong bóng” nhằm tạo môi trường ổn định cho đầu tư và đời sống nhân dân. Tăng thuế
thu nhập do mua đi bán lại trong thời gian ngắn là biện pháp hữu hiệu nhằm giảm bớt nhu cầu đầu cơ.
- Ngăn chặn tình trạng “bong bóng” trên thị thường cổ phiếu, cần hạn chế người
nước ngoài mua cổ phiếu và vay tín dụng ngân hàng để mua cổ phiếu cũng như dùng
chứng khoán để thế chấp vay mượn. lOMoARcPSD|39651089 KẾT LUẬN
Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở Thái Lan dù đã qua đi rất lâu nhưng những bài
học rút ra từ cuộc khủng hoảng vẫn còn nhiều giá trị. Cuộc khủng hoảng này cho thấy
trong bối cảnh tự do hóa toàn cầu cần có sự chuẩn bị thích đáng cho quá trình này. Nhất
là tự do hóa tài chính tiền tệ, vừa phải tự do hóa đồng bộ, vừa phải thận trọng và tính đầy
đủ đến tình hình kinh tế mỗi nước. Qua khủng hoảng, ta cũng nhận thấy rằng, Chính phủ
cần có những quyết sách kịp thời và đúng lúc, đặc biệt là trong lĩnh vực tài chính, tránh
để dẫn tới tình trạng phá giá tiền tệ một cách bị động - nguyên nhân chính dẫn đến những
hậu quả nghiêm trọng, ảnh hưởng đến nền kinh tế của nhiều quốc gia trong và ngoài khu vực.
Qua cuộc khủng hoảng này của Thái Lan, nước ta cũng rút ra được nhiều kinh
nghiệm. Điều kiện tiên quyết để bảo vệ một nước đang phát triển khỏi khủng hoảng tài
chính là tự tăng cường hạ tầng tài chính về nhiều phương diện. Nổi bật là những nhà quản
lý và chủ thể lớn có liên quan phải tham gia xây dựng một hành lang pháp lý tinh vi để
một mặt nó phải cởi mở và minh bạch để thu hút vốn đầu tư từ nước ngoài nhưng trước
hết, phải đảm bảo được sự ổn định và phát triển bền vững cho ca hệ thống tài chính
và kinh tế của đất nước.
Xét về mặt tiêu cực, khủng hoảng tài chính góp phần không nhỏ làm đảo lộn trật tự
xã hội. Trong tất cả các doanh nghiệp, tài chính luôn là vấn đề cốt lõi nhằm duy trì sự
hoạt động của doanh nghiệp và cuộc sống của người lao động. Khi gặp phải khủng hoảng
tài chính, các doanh nghiệp khó có khả năng mở rộng đầu tư và phát triển, gây sự đình trệ
trong công việc, thậm chí phá sản. Theo hiệu ứng dây chuyền, sự phá sản của doanh
nghiệp này sẽ tác động tới các doanh nghiệp khác và cao hơn nữa là toàn bộ nền kinh tế
(tùy theo quy mô của doanh nghiệp). Không những thế, khủng hoảng tài chính còn góp
phần gây ra những bất ổn về xã hội do lượng người thất nghiệp gia tăng.
Bên cạnh đó, khủng hoảng tài chính cũng có những tác động tích cực lên nền kinh
tế. Nó báo hiệu sự chấm dứt thể độc tôn của các “ông lớn” trên thị trường tài chính, góp
phần làm thay đổi diện mạo của nền kinh tế. Đồng thời, khủng hoảng tài chính cũng buộc
người ta phải xem xét, sửa đổi các nguyên tắc đã quy định lên hệ thống tài chính từ trước lOMoARcPSD|39651089
tới nay, loại bỏ những nguyên tắc đã không còn thích hợp để thích ứng với những biến
đổi trong xã hội, từ đó có cái nhìn đúng đắn hơn và chủ động ứng phó với những cuộc
khủng hoảng trong tương lai.