Kinh tế các nước NICS:
Nước công nghiệp mới thuật ngữ để chỉ các nước nền kinh tế phát triển vượt trội so với
c ớc công nghip khác. Tiền thân của những c này là nhng nước đang phát trin, nền
nông nghiệp nghèo n, lạc hu, trình độ sn xuất thấp, nhưng đã nhanh chóng ơn n tr thành
những nước nền công nghiệp phát triển với cấu kinh tế hiện đại, phù hợp hơn (chủ yếu
ng nghiệp dịch vụ), tốc độ tăng trưởng kinh tế cao với quá trình công nghiệp hóa diễn ra
nhanh chóng. Như vậy: Thuật ngữ nước “công nghiệp mới - NIC” dùng để chỉ những ng lãnh
th trong những thập kỉ gần đây đã trải qua quá trình ng nghiệp a nhanh đạt được trình độ
phát trin kinh tế khá cao, trong đó nổi bật lên bốn nước Châu Á Hồng ng, Đài Loan, n
Quốc, Singapore hay còn gọi c c NICs Châu Á.
Những chỉ tiêu quan trọng để đánh giá các nước công nghiệp mới - NICs :
Tổng sản phẩm quốc dân (GNP) tính theo đầu người phải đạt >10.000 USD/ người.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm cao > 9%.
Tỉ trọng các ngành công nghiệp chế biến chế tạo trong tổng sản phẩm quốc dân
chiếm từ 30 - 40%.
Thu hút nhiều vốn đầu của bản nước ngoài.
Đối với các nước Châu La tinh, thực hiện q trình công nghiệp hóa ngay từ cuối thế
kỷ XIX (sớm hơn so với khu vực các nước đang phát triển khác trên thế giới). Nhưng phải
đến những năm 60 của thế kỉ XX, quá trình công nghiệp hóa những nước này mới thành
công. Braxin, Mêhicô, Achentina những nước thực hiện thành công chiến lược công
nghiệp hóa đạt được nhiều thành tựu đáng kể đó là, một nền kinh tế phát triển mạnh,
tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, thu nhập bình quân đầu người khá... Do đó các nước này đã
được xếp vào hàng ngũ các nước công nghiệp mới - NICs.
Các nước công nghiệp mới trên thế giới nói chung các nước NICs Châu Á nói riêng,
tiền thân từ những nước đang phát triển Trước đây, phần lớn đã từng thuộc địa nửa
thuộc địa của các nước thực dân đế quốc.
Tóm lại: tùy vào điều kiện hoàn cảnh của mỗi nước quá trình phát triển kinh tế
sự khác biệt nhau. Tuy nhiên, các nước này đều chung các đặc điểm:
- Sau khi giành được độc lập, quyền dân sự tự do xã hội của các nước y được cải
thiện đáng kể. Các nước điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường ngày càng mở rộng,
cho phép tự do hóa thương mại với tất cả các nước trên thế giới. Nhờ đó nền kinh tế đã sự
chuyển biến tích cực, bước đầu đã tích lũy nguồn vốn để phát triển đất nước.
- Hầu hết các nước này đều dân số đông, nguồn lao động dồi o, giá nhân
công lao động rẻ,... Đây lợi thế đ thu hút nguồn vốn đầu nước ngoài.
- Chính phủ vai trò to lớn trong việc xác định đường lối phát triển kinh tế.
1
- Các nước này đều nền kinh tế phát triển cao, tốc độ tăng trưởng nhanh, bộ mặt kinh
tế của các ớc sự thay đổi đáng kể, từ những nước nghèo nàn lạc hậu về kinh tế, bất ổn
về chính trị đã nhanh chóng vươn n một cách “thần kì” để trở thành những nước công
nghiệp mới - NICs với vị thế không ngừng được nâng cao trên trường quốc tế.
- cấu nền kinh tế của các nước NICs sự thay đổi theo hướng hiện đại, phù hợp hơn
đó đã chuyển từ nền kinh tế nông nghiệp chủ yếu sang công nghiệp dịch vụ (chiếm
khoảng 30-40% tỉ trọng của các ngành kinh tế).
CHƯƠNG 2
QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ CỦA CÁC NƯỚC NICs CHÂU Á
1. Khái quátchung về quá trìnhphát trin kinh tếca cácnước NICsChâu Á
Về điều kiện t nhiên không đáng kể. Đất đai nhỏ hẹp khoảng 138.796km
2
, địa
hình chủ yếu núi, đồng bằng chỉ chiếm diện tích nhỏ bé. Tr Hàn Quốc thì những cánh
đồng rộng đồi thấp, thể trồng lúa mì, đậu tương, thuốc lá,... một dải đồng bằng nhỏ
hẹp ven biển thuộc Đài Loan. Còn Hồng Kông Singapore không điều kiện để phát
triển nông nghiệp do đất đai nhỏ hẹp, chỉ thể trồng một số cây như chuối, rau quả, ít
thuốc lá... vậy, hàng năm các nước này vẫn phải nhập khẩu lương thực từ các nước khác.
Nguồn tài nguyên khoáng sản t nghèo nàn, đ phát triển kinh tế các nước này đều phải
nhập nguyên nhiên liệu từ các nước khác. Điều này gây khó khăn cho quá trình phát triển
kinh tế. Lợi thế duy nhất điều kiện tự nhiên mang lại cho các nước NICs vào v trí
địa thuận lợi, giúp cho các nước dễ dàng mở cửa hội nhập, mở rộng mối quan giao lưu với
các nước trên thế giới. Mặt khác, do nằm vị trí tiếp giáp biển, lại đường bờ biển bao bọc
xung quanh tạo điều kiện thuận lợi để các nước thể phát triển tổng hợp các ngành kinh tế
biển: giao thông vận tải biển, du lịch biển đặc biệt thuận lợi cho việc xây dựng các hải
cảng (Hồng Kông Singapore hai thương cảng lớn trên thế giới).
Về điều kiện kinh tế hội: các nước NICs dân số đông > 81 triệu người. Người dân
cần cù, chịu khó lại hiếu học, nguồn lao động trẻ, dồi dào, giá nhân công rẻ. Đây nguồn lực
quí giá lợi thế quan trọng để thu hút nguồn vốn đầu từ nước ngoài, phát triển những
ngành công nghiệp đòi hỏi nhiều lao động như: quần áo, giày dép, đồ chơi trẻ em (trừ
Singapore, Hồng Kông dân số ít đã làm hạn chế sức mua của thị trường nội địa. Do đó các nước
này đã thúc đẩy mạnh mở cửa ra thị trường n ngoài).
nhưng các nước NICs Châu Á đã khai thác tối đa những lợi thế sẵn của nh, cùng với việc
lựa chọn chiến lược công nghiệp hóa hướng về xuất khẩ
1.2. Quá trình phát triển kinh tế của các nước NICs Châu Á
Hiện trạng nền kinh tế
2
Các nước NICs Châu Á từng thuộc địa hoặc nửa thuộc địa của bọn thực dân đế quốc,
nền kinh tế phụ thuộc chủ yếu vào bản nước ngoài. Sau khi thoát khỏi chiến tranh, đất
nước được độc lập nhưng nền kinh tế của hầu hết các nước NICs Châu Á đều nghèo nàn, lạc
hậu, nông nghiệp ngành kinh tế chính (Đài Loan, Hàn Quốc), Ngành nông nghiệp địa
phương chỉ thỏa mãn nhu cầu nội địa không khả năng cạnh tranh mạnh trên thị trường thế
giới. Ngành công nghiệp chưa phát triển hoặc nếu phát triển được thì hiệu quả chưa cao.
Nguồn tài nguyên thiên nhiên hạn chế, tiềm năng khoáng sản ít về chủng loại, hạn chế về trữ
lượng không đủ để xây dựng một cấu công nghiệp đồng bộ, thậm chí không đủ để phát
triển ngành công nghiệp khai khoáng. Muốn phát triển các nước đều phải nhập khẩu nguồn
nguyên liệu từ bên ngoài để sản xuất công nghiệp. Điều này ảnh hưởng khá lớn đến q
trình tích lũy tái sản xuất mở rộng làm ảnh hưởng đến q trình phát triển kinh tế. Trong
khi đó, quy ngành công nghiệp t nhỏ bé, thiếu vật thuật, trình đ sản xuất lạc hậu
nên chất lượng sản lượng không cao. Không những thế, trong giai đoạn này tất cả các
nước đều ưu tiên phát triển công nghiệp nặng, công nghiệp khai thác khoáng sản trong khi
nguồn vốn không đủ để đầu tư các trang thiết bị, công nghệ chậm đổi mới, nên hiệu quả nền
kinh tế không cao.
Đứng trước tình hình đó, Chính phủ các nước đã đề ra những mục tiêu, biện pháp khôi phục
nền kinh tế. Trong đó đặc biệt phải nói đến chiến lược công nghiệp hóa hướng ra xuất khẩu.
1.2.2. Chiến lược công nghiệp hóa hướng ra xuất khẩu
Chiến lược ng nghiệp hóa hướng ra xuất khẩu được các nước NICs Châu Á tiến hành từ
những năm của thập niên 60 thế kỉ XX được chia làm ba giai đoạn
Giai đoạn đầu (được thực hiện trong những năm 60)
Trong giai đoạn này, các nước NICs Châu Á chủ trương phát triển kinh tế hướng nội,
khuyến khích phát triển các ngành công nghiệp thay thế nhập khẩu để tiết kiệm nguồn ngoại
tệ kiểm soát nguồn tài chính. Đồng thời, chú trọng phát triển ngành sản xuất hàng tiêu
dùng nhằm đáp ng nhu cầu trong nước thay thế nhập khẩu, nhanh chóng tăng khả năng
xuất khẩu nhưng vẫn phải nhập khẩu thành phẩm, bán thành phẩm, vật để phục vụ cho
quá trình công nghiệp hóa. Mặt khác, do dân số đông, nguồn lao động dồi dào, giá nhân
công lao động rẻ nên các nước NICs đã ưu tiên phát triển ngành công nghiệp nhẹ, những
ngành sử dụng nhiều lao động như: giày dép, quần áo, đồ chơi trẻ em... Nhờ đó đã tạo thêm
việc làm cho người lao động.
Chiến lược ng nghiệp a thay thế nhập khẩu đã mang lại cho các nước NICs Châu Á
những thành tựu to lớn. Nền kinh tế của các nước dần dần phục hồi, tốc đ tăng trưởng kinh
tế cao. Hàn Quốc: 2,3 t USD (1962), GDP/người đạt: 87USD. n Đài Loan: tổng sản
phẩm quốc nội: 148 tỉ USD (1952) lên 250 tỉ USD (1959)... Sản phẩm của các nước NICs đã
chỗ đứng trên thị trường thế giới được tiêu thụ nhanh chóng. Thu nhập từ việc xuất
3
khẩu các mặt hàng tiêu dùng đã giúp các nước NICs Châu Á tích lũy được nguồn vốn lớn,
do đó điều kiện để thực hiện tái sản xuất mở rộng các mặt hàng khác.
Giai đoạn 2 (cuối thập niên 60 đầu thập niên 70)
Mục tiêu của giai đoạn này là: tiếp tục sản xuất các mặt hàng tiêu dùng nhằm phục vụ
nhu cầu trong nước đồng thời, mở cửa ra bên ngoài, mở rộng thị trường cả trong ngoài
nước, nhập vốn đầu tư, công nghệ thuật. Xây dựng phát triển các ngành công nghiệp
mũi nhọn mới, đẩy mạnh xuất khẩu, thu nguồn ngoại tệ lớn.
Nhờ một thời gian dài tiếp cận với công nghệ được chuyển giao từ nước ngoài nên từ
chỗ đuổi kịp thuật trung bình trong việc sản xuất một số mặt hàng tiêu dùng (sản xuất
giấy, giầy dép, quần áo), các nước NICs đã nắm bắt được kỹ thuật cao, thể đầu vào
những ngành đòi hỏi hàm lượng khoa học thuật cao, dung lượng vốn lớn, phát triển công
nghệ cao cấp như vi điện tử, máy tính điện tử, thuật sinh học, người máy...
Giai đoạn 3 (được tiến hành trong giai đoạn hiện nay)
các nước NICs tiếp tục đẩy mạnh xuất khẩu, tạo ra môi trường đầu thông thoáng qua
một hệ thống các chính sách khuyến khích phát triển nền kinh tế thị trường, thu hút đến mức
tối đa nguồn vốn đầu nước ngoài.
đầu phát triển những ngành sản xuất cần hàm lượng khoa học công nghệ cao như: điện
tử, thuật điện tử, tin học, công nghệ sinh học, đồng thời, chuyển giao công nghệ đầu
sản xuất vào các nước đang phát triển kém phát triển như các nước ASEAN, Đông Nam
Á, Trung Quốc...
Chiến lược công nghiệp hóa hướng về xuất khẩu không chỉ đơn thuần xây dựng các
ngành công nghiệp xuất khẩu quan trọng xây dựng cấu công nghiệp mới theo
hướng hiện đại hơn, đủ sức chuyển đổi cấu nền kinh tế. cấu công nghiệp, nông
nghiệp, dịch vụ hoàn thiện đủ sức cạnh tranh để đảm bảo sự tăng trưởng kinh tế. Chiến lược
công nghiệp hóa hướng ngoại đã mở ra cho các nước NICs hội thu hút được vốn
thuật cao, giải quyết công ăn việc làm triển vọng phát triển, tăng trưởng kinh tế nhanh.
Công nghiệp hóa được coi con đường tất yếu đ giúp các nước NICs thoát khỏi tình trạng
nghèo nàn, lạc hậu về kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân..
Những kết quả đạt được trong quá trình phát triển kinh tế
Cùng với sự tăng trưởng kinh tế nhanh chóng, cấu kinh tế nền kinh tế của các nước NICs
Châu Á đã sự thay đổi căn bản: chuyển từ nông nghiệp truyền thống sang các ngành công
nghiệp dịch vụ. Năm 1965, tỉ trọng trong nông nghiệp của các nước NICs chiếm 18%, công
nghiệp: 20%. Đến năm 1984, tỉ trọng của ngành công nghiệp đạt: 28%, còn ngành nông nghiệp
chỉ còn 7%. Riêng Hàn Quốc Đài Loan, cấu nền kinh tế sự thay đổi rệt chuyển từ
nông nghiệp sang công nghiệp dịch vụ. Còn Hồng Kông Singapore, không tiềm năng
4
để phát triển nông nghiệp, nên ngay từ đầu những năm 1960 ngành công nghiệp dịch v đã
chiếm một v trí hết sức quan trọng trong cấu nền kinh tế.
hóa của các nước NICs ngày càng chỗ đứng trên thị trường thế giới thể cạnh
tranh với hàng hóa của nước ngoài. Việc xuất khẩu hàng hóa ra thị trường nước ngoài đã thu
về một nguồn ngoại t lớn cho các nước NICs. Hiện nay trong số 15 nước xuất khẩu lớn
nhất trên thế giới đều mặt các nước NICs Châu Á.
Những khó khăn, thách thức
Hầu hết các nước đều đi lên từ điểm xuất phát thấp, điều kiện tự nhiên lại không mấy ưu
đãi: diện tích đất nông nghiệp ít, tài nguyên khoáng sản hầu như không nên phải nhập
nguồn nguyên, nhiên liệu lương thực, từ nước ngoài gây khó khăn không nhỏ trong quá
trình phát triển kinh tế của các nước NICs.
Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á năm 1997 đã làm cho nền kinh tế của các
nước NICs Châu Á bị sa sút nghiêm trọng. Trong đó, Hàn Quốc nước chịu ảnh hưởng
nặng nề nhất.
phụ thuộc chủ yếu vào nguồn vốn đầu của nước ngoài thị trường xuất khẩu bên
ngoài nên khi thị trường thế giới nhiều biến động ảnh hưởng xấu đến xuất khẩu
làn sóng bảo hộ mậu dịch mới dâng lên đòi đưa các nước và lãnh thổ công nghiệp Châu
Á ra khỏi danh sách các nước được hưởng chế độ ưu đãi về thuế quan. Hàng của các nước
NICs nhập khẩu vào Mỹ bị đánh thuế cao hơn, còn hàng xuất khẩu của các nước NICs sang
một số nước phương Tây khác cũng phải đương đầu với cơn sốt bảo hộ mậu dịch ngày ng
lan rộng làm ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh hàng hóa của các nước NICs.
2.1. HÀN QUỐC
Hàn Quốc hay còn gọi Đại Hàn Dân Quốc - quốc gia theo thể chế cộng hòa nằm nửa
phía Nam của bán đảo Triều Tiên. Với diện tích: 99.000km
2
, dânsố: 48 triệu người. Thủ đô
của Hàn Quốc Seoul.
Hàn Quốc nằm Phía Nam của bán đảo Triều Tiên thuộc khu vực Đông Bắc Á với diện
tích 99.000 km
2
.
Phía Bắc giáp được ngăn ch với Cộng Hòa Dân Chủ Nhân Dân Triều Tiên bởi đường
phân giới quân sự chạy dọc tuyến 38
o
B.
Phía Nam cách Nhật Bản bởi eo biển Triều Tiên.
Phía Đông giáp với biển Nhật Bản.
Phía Tây giáp biển Hoàng Hải tỉnh Sơn Đông của Trung Quốc.
Với vị trí này đã giúp cho Hàn Quốc thể dễ dàng mở cửa giao lưu kinh tế văn hóa với
các nước trong khu vực trên thế giới. Hơn nữa, đường bờ biển dài, tạo điều kiện thuận lợi
cho Hàn Quốc thể phát triển các ngành kinh tế biển đặc biệt thể xây dựng các hải
cảng.
5
Về mặt điều kiện tự nhiên, có nhiều hạn chế. Đất đai không mấy thuận lợi để phát triển
nông nghiệp, chủ yếu đồi núi chiếm 70% diện tích đất tự nhiên của vùng. Chỉ có một dải
đồng bằng nhỏ hẹp ven biển, một ít đất bãi bồi thể trồng trọt được nên hàng năm Hàn
Quốc vẫn phải nhập khẩu lương thực từ các nước. Nguồn tài nguyên khoáng sản nghèo nàn,
chỉ ít than mỡ quặng sắt. Muốn phát triển công nghiệp hầu hết đều phải nhập nguyên
liệu từ bên ngoài. Gây khó khăn cho việc tích lũy nguồn vốn phải chi một khoản ngân
sách khá lớn để nhập khẩu nguồn nguyên nhiên liệu.
Về điều kiện kinh tế hội: Hàn Quốc quốc gia đông dân nhất trong tất cả các nước
NICs, với dân số 48 triệu người. Người dân Hàn Quốc cần cù, yêu lao động, tiết kiệm tự
tôn dân tộc cao. Đặc biệt chịu ảnh hưởng khá sâu sắc của một nền n hóa Khổng giáo. Một
trong những nét đặc trưng của nền văn hóa này người ta đ cao lối sống “nhân bản”, mình
người khác truyền thống hiếu học. Chính phủ n Quốc rất coi trọng công tác giáo
dục đào tạo. Hàn Quốc khoảng 1/3 thanh niên tiếp tục theo học Đại học, số học sinh
Trung học chiếm 85% (trong khi đó Anh tỉ lệ này là: 40%, Pháp: 75%). Hàn Quốc s
lượng tiến tính theo đầu người cao nhất thế giới. những tập đoàn lớn một năm thuê
khoảng 1000 tiến vào làm việc n tập đoàn Daewoo. Đây nguồn lực quan trọng đối
với Hàn Quốc trong quá trình phát triển kinh tế.
Như vậy thể thấy rằng Hàn Quốc không nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển
kinh tế. Với diện tích nhỏ nằm phía Đông Bắc Châu Á, giáp biển Thái Bình Dương, l
lợi thế duy nhất Hàn Quốc được chính là vào vị trí thuận lợi cho giao thông quốc tế,
tạo điều kiện dễ dàng cho Hàn Quốc thể mở rộng mối quan hệ giao lưu với các nước trong
khu vực cũng như trên thế giới
Giai đoạn đầu của chiến lược công nghiệp hóa, Hàn Quốc tập trung chủ yếu vào việc sản
xuất hàng tiêu dùng, phát triển những ngành công nghiệp nhẹ n quần áo, giày dép,... nhằm
đáp ứng nhu cầu trong nước thay thế hàng nhập khẩu, nhưng vẫn phải nhập khẩu thành
phẩm, nguyên vật liệu để phục vụ cho quá trình công nghiệp hóa.
Bước sang giai đoạn 2 của quá trình công nghiệp hóa (1966 - 1971), bên cạnh việc phát
triển những mặt hàng truyền thống, những mặt hàng tiêu dùng phục nhu cầu trong nước, Hàn
Quốc còn đầu tài chính xây dựng sở hạ tầng cho các hoạt động nghiên cứu triển khai
các hoạt động nghiên cứu kỹ nghệ. Hơn nữa, còn chú trọng đầu phát triển những ngành
công nghiệp mũi nhọn, sản xuất những sản phẩm chất lượng cao để cạnh tranh với hàng
hóa của nước ngoài. Đồng thời tập trung sản xuất những mặt hàng thâm dụng thuật, những
mặt hàng đòi hỏi trình độ khoa học công nghệ cao như: máy tính, ti vi, tủ lạnh, điện tử...
Bước sang những năm 1970 - 1980, kinh tế Hàn Quốc bắt đầu tập trung vào phát triển những
ngành công nghiệp nặng, những ngành trình độ khoa học công nghệ cao đồng thời vẫn
6
tiếp tục sản xuất những mặt hàng đáp ứng nhu cầu trong ớc thay thế hàng hóa nhập khẩu
hướng ra xuất khẩu
2.1.3.2. Những kết quả đạt được
Trong những năm qua, nền kinh tế Hàn Quốc đã sự chuyển biến khá mạnh mẽ. Sau
hơn 30 năm từ 1962 - 1995 tổng sản phẩm quốc dân (GNP) của Hàn Quốc tăng 196 lần từ
2,3 tỉ USD (1962) lên 451,7 tỉ USD (1995). Tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 9% (1990) đến
năm 1991 giảm nhẹ n 8,5%. Năm 1992: 4,5% đến 1993: 5,5%. Thu nhập bình quân đầu
người tăng nhanh từ 87 USD (1962) lên 6.800USD (1992) đến năm 1995 đạt 10.076 USD
Hiện nay, Hàn Quốc được đánh giá nền kinh tế phát triển nhất, đứng thứ 3 Châu Á
thứ 10 trên thế giới với GDP đạt 897,4 tỉ USD (2006). GDP (PPP) đạt 1.196 tỉ USD (2006)
đứng thứ 11 thế giới.
Hàn Quốc còn nổi bật trên thế giới với nhiều lĩnh vực công nghiệp hàm lượng công
nghệ cao . Hàn Quốc còn nước sản xuất sợi tổng hợp đứng hàng thứ 4 thế giới đứng thứ 10
thế giới về sản xuất chất dẻo. Ngành sản xuất, lắp ráp ô tô phát triển k mạnh đang cố gắng
để trở thành một trong những nước đứng đầu thế giới về sản xuất ô tô. Ba hãng sản xuất ô lớn
nhất hiện nay Daewoo, Huyndai, Kia đời sống nhân n cũng được ng cao, thu nhập bình
quân đầu người của Hàn Quốc thể ngang bằng hoặc thậm chí cao hơn một số quốc gia
phát triển khác Châu Âu Bắc Mĩ. Năm 2007, thu nhập bình quân đầu người 25.000
USD năm.
Nguyên nhân thành ng
Hàn Quốc đã lựa chọn đúng chiến lược phát triển, đó chiến lược công nghiệp hóa
hướng về xuất khẩu ngay từ kế hoạch 5 năm lần thứ 2 (1966-1971). trong từng giai đoạn,
chính phủ lại đưa ra một mục tiêu khác nhau. Trong gian đầu của chiến lược, Hàn Quốc tập
trung vào việc sản xuất những mặt hàng thâm dụng lao động như: quần áo, đồ chơi trẻ em,
sản xuất hàng tiêu dùng nhằm phục vụ nhu cầu của nhân dân, thay thế hàng nhập khẩu. Sau
đó chuyển sang sản xuất những sản phẩm thâm dụng bản như các ngành công nghiệp
nặng, công nghiệp hóa chất cuối cùng tập trung đầu vào sản xuất các mặt hàng thâm
dụng chất xám, thâm dụng thuật cao như: điện tử cao cấp, công nghệ sinh học, ô tô, máy
bay...
vai trò quyết định thuộc về Chính phủ: Chính phủ Hàn Quốc đã xác định được các mục
tiêu ngắn hạn dài hạn phù hợp với yêu cầu của từng giai đoạn phát triển của nền kinh tế đất
nước Với chương trình “cổ phần hóa toàn dân”, Chính phủ Hàn Quốc còn tạo điều kiện để mọi
người dân quyền mua c phiếu, tránh tập trung vốn quá lớn vào một thế lực nào đó.Với việc
xây dựng các nghiệp quốc doanh, Chính phủ Hàn Quốc đã tỏ vai trò của nh trong việc
thực hiện các chính sách tích lũy tư bản cho quá trình công nghiệp hóa đất nước. Với các chính
sách kinh tế khác, đặc biệt trong lĩnh vực i chính ngoại thương, Chính phủ tạo mọi
7
điều kiện thuận lợi để khai thông nguồn vốn thâm nhập vào thị trường quốc tế. Bên cạnh đó,
Chính phủ n Quốc còn giành mọi sự ưu ái đặc biệt cho các Chacbol (Tập đoàn bản thương
mại) hoạt động, đồng thời không bỏ qua các doanh nghiệp vừa nhỏ.
Hàn Quốc đã dành cho giáo dục một khoản chi ngân sách khá lớn. Trong những năm
1950, ngân sách dành cho giáo dục chiếm 9 - 10% ngân sách của chính phủ. Đến những năm
của thập kỉ 70 17 - 18%. Đầu những năm 80, chiếm 19 - 21% ngân sách của chính phủ. kinh
phí dành cho giáo dục nông thôn cao hơn thành phố, Số lượng tiến Hàn Quốc tính theo
đầu người cao nhất thế giới,
Hàn Quốc đã tranh thủ được sự ủng hộ của Mỹ Nhật Bản ngay từ những năm 50 của
thế kỉ XX.
2.1.3.4. Những khó khăn, thách thức
Hàn Quốc đi lên từ điểm xuất phát thấp. Tài nguyên thiên nhiên thì hầu như không có, Hàn
Quốc đã phải nhập khẩu nguồn nguyên liệu lương thực từ các nước khác.
trong quá trình phát triển kinh tế Hàn Quốc đã chủ trương vay nợ của nước ngoài. Số tiền nợ
nước ngoài của Hàn Quốc năm 1980 mới chỉ 29,5 tỉ USD đến năm 1985 đã lên đến 46,7 tỉ
USD. đã dẫn đến tình trạng thâm hụt cán cân thương mại đạt đến con số 44,5 tỉ USD vào năm
1995,
Năm 1997, cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á đã ảnh hưởng nghiêm trọng tới nền
kinh tế Hàn Quốc. Nguyên nhân do sự yếu kém trong công tác quản của hệ thống ngân
hàng. m 1998, một năm sau cuộc khủng hoảng, tốc độ tăng trưởng kinh tế giảm xuống còn
- 5,8%.Ngay sau cuộc khủng hoảng nổ ra, khoảng 1,24 triệu người thất nghiệp, cứ mỗi
ngày thêm 10.000 người thất nghiệ
sự sụp đổ của các Chacbol (Tập đoàn bản thương mại) đã làm ảnh hưởng nghiêm
trọng đến nền kinh tế Hàn Quốc,. Mục tiêu khi thành lập các Chacbol (1960) là vực dậy nền
kinh tế đổ nát sau chiến tranh Triều Tiên. do khuyến khích mở rộng thất thường lại thiếu kiểm
soát nên hoạt động của các Chacbol bắt đầu hoạt động kém hiệu quả.
năm 2001, nền kinh tế Hàn Quốc gặp một số khó khăn do ảnh hưởng từ sự suy giảm
nền kinh tế Mỹ Nhật Bản làm cho xuất khẩu của Hàn Quốc bị suy giảm dẫn đến tốc độ
tăng trưởng của nền kinh tế Hàn Quốc đã bị suy giảm, năm 2001: 3,1% đến 2008: 5,8%.
sự phát triển kinh tế quá nhanh cũng ảnh hưởng xấu đến hội Hàn Quốc. Việc bùng nổ dân
đô thị đã gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến các vấn đề hội như nhà ở, việc làm, chất thải
công nghiệp gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng.
Tỉ lệ lạm phát tăng cao trong khi nền kinh tế lại đi xuống
2.2. HỒNG KÔNG
. Nằm trên b biển Đông Nam của Trung Quốc. “thuộc địa” vẫn chưa giành được độc
lập.
8
Hồng Kông diện tích: 1.104km
2,
dân số: 6,99 triệu người. Trong đó người Hoa chiếm
95% dân số. Ngôn ngữ chủ yếu tiếng Anh tiếng Quảng Đông. Đặc khu hành chính Hồng
Kông thương cảng quốc tế trung tâm thương mại, tiền tệ quốc tế nổi tiếng. Hồng Kông
từng lãnh thổ phụ thuộc Vương Quốc Anh Bắc Ireland từ năm 1842 đến khi chuyển giao
chủ quyền cho Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa vào ngày 1/7/1997, chấm dứt 156 năm thuộc
địa của Anh. Hồng Kông một trung tâm thành phố Victoria nằm trên bán đảo Hồng Kông
bán đảo Côn Luân
Về điều kiện tự nhiên: Hồng Kông ít đất bằng phẳng. Trong số 1.104 km
2
của lãnh
thổ, chỉ khoảng 25% đất thể sử dụng được. Còn phần lớn đất đồi núi với các sườn
dốc. Hông Kông khoảng 4% diện tích đất dành cho công viên thôn quê các khu dự
trữ. Nguồn tài nguyên khoáng sản thì nghèo nàn. vậy hầu hết nguyên liệu lương thực
đều phải nhập khẩu từ bên ngoài. Bờ biển dài, nhiều vịnh, sông bãi biển đẹp nơi du
lịch hấp dẫn.
Về điều kiện kinh tế - hội: Hồng Kông dân số: 6,99 triệu người (2006). Trong đó
95% người gốc Hoa, còn lại 5% các dân tộc khác. Mật độ dân số: 6.200 người/km
2
. Dân
số Hồng Kông tiếp tục gia tăng do làn sóng di t Trung Hoa Đại Lục khoảng 45.000
người mỗi năm.
, Hồng ng vẫn phải phụ thuộc chịu sự kiểm soát của Trung Quốc . , khác với
Singapore, Hàn Quốc, Đài Loan, ngay từ đầu Hồng Kông đã bỏ qua chiến ợc công nghiệp
hóa thay thế hàng nhập khẩu đi thẳng vào chiến lược công nghiệp hóa hướng về xuất
khẩu. thị trường nội địa quá nhỏ nên chiến lược thay thế hàng nhập khẩu sẽ không
hiệu quả.
Trong giai đoạn đầu của chiến lược công nghiệp hóa hướng về xuất khẩu, Hồng Kông
tập trung chủ yếu vào các ngành công nghiệp nhẹ, công nghiệp tiêu dùng sử dụng nhiều lao
động như quần áo, đồ chơi trẻ em, giày dép... Đến những năm sau này, khi g nhân công lao
động đắt, lợi thế về những mặt hàng tiêu dùng không còn nữa, Hồng Kông đã chuyển giao
công nghệ sản xuất sang các nước láng giềng khác như Trung Quốc, ASEAN. Bước vào thập
niên 1990, Hồng Kông đã chuyển hướng tập trung vào phát triển những ngành đòi hỏi kỹ
thuật cao thâm dụng chất xám như điện tử, thuật điện tử, máy chính xác viễn thông.
cấu kinh tế của Hồng Kông, ngay từ những năm 1960 đã chủ yếu dịch vụ và công
nghiệp. Trong lĩnh vực tài chính ngân hàng, trên 500 quan tài chính ngân hàng của các
nước trên thế giới đặt trụ sở tại Hồng Kông trong đó 85 ngân hàng lớn nhất trên thế giới,
Trong cấu ngành dịch vụ, các lĩnh vực tài chính ngân hàng, du lịch vận tải hàng hải
những lĩnh vực quan trọng đang chiếm ưu thế.
2.2.3.2. Những kết quả đạt được
9
Ngày nay, Hồng Kông đã trở thành những nước nền kinh tế phát triển với tốc
độ tăng trưởng khá cao. Bước sang những năm 1990, nền kinh tế Hồng Kông nhiều biến
động do ảnh hưởng từ cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á năm 1997. Tuy nhiên, tốc
độ tăng trưởng kinh tế vẫn duy trì mức 5,3% (1998).
Năm 2006, GDP của Hồng Kông đạt 253,1 tỷ USD, xếp thứ 40 thế giới. GDP bình quân
đầu người đạt 36.500 USD, xếp thứ 14 thế giới Dự trữ ngoại tệ xếp thứ 7 trên thế giới năm
2006. đời sống của người dân Hồng Kông cũng được nâng cao. Năm 2004, thu nhập bình
quân đầu người của Hồng Kông đạt 26.910 USD. 48% dân số Hồng Kông đã n riêng,
52% được Nhà nước giúp đỡ về chỗ ở, trong đó 39% số người được thuê n của Nhà
nước.
Ngày nay Hồng Kông đã trở thành một trung tâm i chính lớn thứ hai Châu Á chỉ đứng
sau Nhật Bản trong 10 năm liền (1997 - 2007) Hồng Kông được bình chọn là nền kinh tế
tự do nhất thế giới.
Nguyên nhân thành ng
Hồng Kông đã xác định đúng lợi thế của mình, tức cửa ngõ đ đi vào Trung Quốc -
một nền kinh tế rất nhiều tiềm năng để trở thành cường quốc trong tương lai
Hồng Kông còn duy t một nền kinh tế bản chủ nghĩa cao được xây dựng trên nền kinh tế
thị trường ít sự can thiệp của Chính phủ. Chính phủ không vạch kế hoạch phát triển
cho từng thời kỳ như nhiều nước khác (chẳng hạn như Việt Nam) cũng không
ngân hàng Trung ương. Chức năng hoạt động chủ yếu của Chính phủ lo việc xây dựng cơ
sở hạ tầng cung cấp một số dịch vụ công cộng. phải chi phí ít nên các khoản thu của
Chính phủ cũng ít dẫn đến việc thuế thu nhập của Hồng Kông vào loại thấp nhất thế giới,
không thuế hải quan. Chính điều này đã hấp dẫn các nhà đầu và hoạt động mậu dịch
quốc tế cũng điều kiện để phát triển tốt hơn
Hồng Kông một hệ thống pháp luật rất hoàn chỉnh đồng bộ, mọi người dân đều
ý thức sống và làm việc theo pháp luật, cho nên tuy không sự can thiệp sâu vào các
hoạt động của các doanh nghiệp, các nhân, nhưng Chính phủ vẫn đảm bảo được vai trò
của mình.
Hồng ng đã sớm thực hiện chiến ợc công nghiệp hóa hướng về xuất khẩu bỏ
qua chiến lược thay thế hàng nhập khẩu. Hồng Kông đã áp dụng tổng thể các chính sách
khuyến khích xuất khẩu tối đa cùng với đó đa dạng hóa các loại sản phẩm. vậy các
sản phẩm của Hồng Kông rất đa dạng phong phú, mẫu đẹp, chất lượng tốt, phù hợp với
thị hiếu của người tiêu dùng. Hồng Kông khoảng 50% số loại sản phẩm nhập khẩu để
rồi tái chế đi nơi khác. vậy tổng kim ngạch xuất khẩu của Hồng Kông lớn hơn nhiều
so với tổng sản phẩm quốc nội.
10
Hồng Kông một lãnh thổ t lệ đầu cao, thường trên 30% so với GDP. việc hoạch
định các chiến lược phát triển kinh tế cũng như sự nỗ lực của Chính phủ những điều kiện
thuận lợi do các yếu tố khách quan mang lại những nguyên nhân quan trọng dẫn đến sự
thành công của nền kinh tế Hồng Kông
2.2.3.4. Những khó khăn, thách thc
Sau 156 năm thuộc địa của Anh, Hồng Kông đã được trao trả về Trung Quốc ngày
1/7/1997. Trong hơn 10 năm nơi này đã trải qua hai cuộc khủng hoảng kinh tế trong đó
cơn bão táp tài chính Châu Á năm 1997. Cuộc khủng hoảng làm tốc độ tăng trưởng kinh tế
giảm xuống còn 5,3%. Trong khi đó, thị trường cổ phiếu thị trường nhà sa sụt dữ dội,
nền kinh tế xuất hiện tình trạng tăng trưởng âm
Sự kiện ngày 11/9/2001 cũng đã tác động tiêu cực đến nền kinh tế Hồng Kông. Thời điểm
này tốc độ tăng trưởng kinh tế toàn cầu bắt đầu tăng chậm lại, kinh tế Hồng Kông lại một lần
nữa xuống dốc. Hơn nữa, Hồng Kông từng tâm điểm của các đợt bùng phát dịch cúm gia
cầm. Năm 2003, nền kinh tế này đã đã bị ảnh hưởng nghiêm trọng bởi sự bùng nổ dịch
SARS, làm tốc độ tăng trưởng kinh tế giảm xuống còn 2,3%, khiến 300 người thiệt mạng
gây ra nhiều khó khăn cho các hoạt động kinh tế.
các ngành công nghiệp của Hồng Kông chủ yếu nghiêng về ứng dụng, bắt trước, ít
đầu khoa học cơ bản nên những mặt hàng thuật cao chưa điều kiện để phát triển
mạnh Việc thiếu mặt bằng phí tổn cao đang những khó khăn cản trở các nhà đầu tư.
tuy Trung Quốc động lực mạnh nhất của Hồng Kông xét về lâu dài, nhưng trước mắt
những rủi ro của nền kinh tế Trung Quốc trong quá trình cải cách sẽ tác động không nhỏ đến
nền kinh tế Hồng Kông.
2.3. ĐÀI LOAN
Đài Loan một vùng lãnh thổ hải đảo, nằm ngoài khơi Đông Nam Đại Lục Trung
Quốc cách Trung Hoa Lục Địa 150 km theo đường chim bay, gần với tỉnh Phúc Kiến
Trung Quốc. Đài Loan gồm đảo chính đảo Đài Loan trên 80 đảo nhỏ lân cận. Tổng
diện tích của Đài Loan 36.000 km
2
.Dân số: 22.700.000 người. Ngôn ngữ chính tiếng
phổ thông, ngoài ra còn thổ ngữ Hakka Minna (Người Phúc Kiến - Đài Loan). Thành
phần dân tộc chủ yếu người Đài Loan chiếm 84%, người Trung Hoa: 14%, thổ dân: 2%.
Lịch sử Đài Loan trải qua nhiều ớc thăng trầm. Thế kỉ XV, Nhật Bản chiếm giữ phân
nửa phía đông của đảo. Đến năm 1590, người Bồ Đào Nha đã chiếm giữ đảo Đài Loan đặt
tên đảo Formosa nghĩa hòn đảo xinh đẹp”. Trước thế kỷ XVII, Đài Loan thuộc địa
của Lan. Cuối thế kỷ XVII, Trung Quốc bắt đầu cai trị Đài Loan. Đến cuối thế kỷ XIX,
Đài Loan lại được nhượng lại cho Nhật Bản. Sau chiến tranh thế giới thứ II, Đài Loan được
trao trả về Trung Quốc.
11
Đài Loan một vùng lãnh thổ hải đảo, nằm trong khu vực Châu Á - Thái Bình Dương.
Ngoài đảo chính Đài Loan còn trên 80 đảo lớn nhỏ khác nhau. Đảo Đài Loan dài 394 km
rộng 144 km
2
, gồm nhiều dãy núi dốc bao phủ bởi hệ thực vật nhiệt đới.
Phía Bắc Đông Hải của Trung Quốc
Phía Nam giáp Biển Đông
Phía Đông giáp với Thái Bình Dương
Phía Tây giáp eo biển Đài Loan
Đài Loan một vùng lãnh thổ nghèo tài nguyên, chỉ một ít than đá, gỗ hơi đốt. Đất
đai nhỏ hẹp phần lớn lại rừng núi, đất canh tác chỉ chiếm khoảng 25%. Nhưng Đài Loan
vẫn một nền nông nghiệp hoàn hảo với 3 vụ lúa mỗi năm. Trong chiến tranh thế giới thứ
II, Đài Loan nước cung cấp lúa mía cho chính quốc Nhật Bản. Bên cạnh đó, Đài Loan
còn nhiều bến cảng đánh các con tàu đánh bắt trên biển Thái Bình Dương.
Dân số Đài Loan: 22,7 triệu người (2004). Mật độ dân số > 600 người/km
2
. Mức tăng dân
số chỉ 1%. Dự tính 30 năm sau, dân số của Đài Loan cũng chỉ trên 25 triệu người.
Hiện nay, Đài Loan vẫn chỉ được coi là một phần của Trung Hoa Đại Lục. Do đó Đài Loan
gặp rất nhiều khó khăn trong quan hệ ngoại giao với các nước khác trên thế giới nhiều khi
không nhận được sự giúp đỡ của các Tổ chức Tài chính tiền tệ Quốc tế.
2.3.3. Quá trình phát triển kinh tế
ngay từ đầu trong cấu kinh tế, Đài Loan đã ưu tiên phát triển nông nghiệp nhằm tạo vốn
tích lũy ban đầu để phát triển công nghiệp. Đồng thời Chính phủ cải tổ bộ máy Nhà nước,
thành lập hội đồng thẩm quyền để giải quyết các thủ tục một cách nhanh chóng dễ dàng,
tạo điều kiện để thu hút vốn đầu nước ngoài. Mặt khác, Chính phủ còn tiến hành xây dựng
kiến trúc hạ tầng thuận lợi cho việc đi lại, giao thông liên lạc sinh hoạt
Quá trình phát triển nông nghiệp của Đài Loan được chia làm 3 giai đọan:
Giai đoạn 1: Thời cải ch ruộng đất khôi phục sản xuất nông nghiệp.
Chính phủ Đài Loan đã thực hiện giảm tô, bán ruộng đất cho ng n thực hện người cày
ruộng. Ngày 14/4/1949.
Giai đoạn 2: Thời kỳ phát triển nông nghiệp để nuôi dưỡng công nghiệp
(1953-1968)
Tăng sản lượng nông nghiệp bằng các biện pháp thâm canh đa dạng hóa sản phẩm,
đảm bảo đáp ứng đủ nhu cầu lương thực trong nước, tiến tới nâng cao chất lượng dinh
dưỡng trong bữa ăn cho người nông dân.
- Mở rộng xuất khẩu nông sản, từ đó thực hiện cân bằng xuất nhập khẩu.
- Tăng cường cung cấp nguyên liệu lao động cho công nghiệp.
Giai đoạn 3: Thời kỳ phát triển nông nghiệp với sự hỗ trợ của công nghiệp (từ 1970 đến
nay).
12
thay đổi theo hướng giảm tỉ trọng của các ngành nông nghiệp, tăng tỉ trọng của các ngành
công nghiệp dịch vụ. công nghiệp lại hỗ trợ mạnh mẽ cho các ngành nông nghiệp, giúp
nông nghiệp thực hiện giới hóa, thủy lợi hóa, hóa học hóa, mở rộng quy trang trại,
tạo điều kiện để lao động nông nghiệp đi tìm việc làm ngoài trang trại.
Đối với ngành công nghiệp, Đài Loan đã thực hiện chiến lược công nghiệp hóa hướng về
xuất khẩu. Đài Loan chú trọng phát triển các ngành công nghiệp nhẹ, những ngành đòi hỏi
nhiều lao động như: sản xuất các mặt hàng tiêu dùng, chế biến lương thực thực phẩm, dệt
may, da giày, đồ chơi trẻ em,... nhằm đáp ứng nhu cầu trong nước, thay thế các mặt hàng
nhập khẩu. Nhưng Đài Loan vẫn phải nhập khẩu những nguyên liệu, vật tư, bán thành
phẩm... để phục vụ cho quá trình công nghiệp hóa.
giai đoạn 2 của chiến lược ng nghiệp hóa, Đài Loan đã tập trung đầu phát triển một
số ngành công nghiệp nặng, những ngành đòi hỏi hàm lượng khoa học công nghệ cao n
điện tử, thuật điện tử, tin học hóa chất, công ngh sinh học... Đồng thời, chuyển giao công
nghệ đầu sang các nước đang phát triển.
Đài Loan thực hiện theo phương châm: nông dân làm việc thỏa đáng, chính quyền thu
được nhiều thuế, doanh nghiệp lãi.
2.3.3.2. Những kết quả đạt được
Đài Loan đã thu hút sự quan tâm của thế giới bởi tốc đ tăng trưởng kinh tế nhảy
vọt. Trong suốt 40 năm từ (1950 - 1990) tốc độ tăng trưởng kinh tế mỗi năm của Đài Loan
đạt 9%.
Trong thập niên 1960, nhờ sự đầu của nước ngoài, nhiều ngành kỹ thuật tiên tiến
đã được đưa vào Đài Loan. Chẳng mấy chốc, đảo quốc này trở thành một trong những nước
xuất cảng chính các loại máy móc, điện tử, thiết bị điện các sản phẩm bằng plastic. Sang
thập niên 1970, Chính phủ Đài Loan đã tài trợ những dự án quy lớn, trong đó các
ngành công nghiệp bản như: hóa dầu, luyện sắt thép tạo điều kiện thuận lợi cho kỹ
nghệ đóng xe hơi trong nước phát triển lớn mạnh. Thập niên 1980, đánh dấu thời k tăng
trưởng mạnh các ngành kỹ thuật điện tử, chế tạo máy tin học Đài Loan. thập kỷ 1990,
Đài Loan đã trở thành một trong những vùng lãnh thổ hàng đầu về công nghiệp viễn thông
bán dẫn với giá trị sản xuất đứng thứ ba thế giới.
Tốc độ tăng trưởng trung bình hàng năm đạt gần 8%. GDP - tỉ lệ tăng trưởng thực:
4,6% (2006).Tổng sản phẩm quốc nội(GNP) của Đài Loan đạt 310,7 tỉ USD (2004). Hiện
trên 1/2 công nhân viên Đài Bắc đi làm bằng xe hơi riêng, 1/3 thu nhập gia đình được dùng
vào việc giải trí, đặc biệt nhu cầu du lịch ngày càng tăng n
cấu ngành kinh tế của Đài Loan đã sự thay đổi đáng kể. Năm1990, nông nghiệp
chiếm 4,2%, công nghiệp: 43,4%, dịch vụ: 52,4%. Đến năm 2005: nông nghiệp chiếm: 1,6%.
Công nghiệp chiếm 29,3% dịch vụ chiếm: 72,7%. Lao động làm trong các ngành
13
kinh tế cũng đã sự thay đổi đáng kể. Năm 2005, lực lượng lao động làm trong ngành nông
nghiệp là: 6%, trong công nghiệp là: 35,8%, dịch vụ là: 58,2%.
Ngày nay, Đài Loan nước dự trữ ngoại tệ hàng đầu thế giới (chỉ đứng thứ 3 sau Nhật
Bản Trung Quốc).
2.3.3.3. Nguyên nhân thành công
Đài Loan đã xác định được trọng tâm phát triển kinh tế của mỗi thời kỳ. Lúc đầu chú
trọng phát triển nông nghiệp, lấy nông nghiệp nuôi dưỡng công nghiệp để rồi sau này, khi
công nghiệp phát triển sẽ hỗ trợ mạnh mẽ cho ngành ng nghiệp phát triển. Do vậy mà
cấu kinh tế của Đài Loan qua 40 năm đã thay đổi theo hướng nông nghiệp giảm dần, công
nghiệp dịch vụ tăng lên.
Chính phủ Đài Loan vai to lớn trong việc hoạch định các chính sách phát triển kinh
tế trong mỗi thời kỳ, Chính phủ Đài Loan đều xác định hướng đi cho từng ngành, giúp
cho cấu ngành ngày càng hoàn thiện hơn. Vai t của Chính phủ Đài Loan còn thể hiện
nét trong quá trình phát triển các loại hình doanh nghiệp lãnh thổ này. Thời đầu, các
doanh nghiệp nhà nước đóng một vai trò quan trọng. Các doanh nghiệp nhà nước hoạt động
chủ yếu trong các ngành như: năng lượng, giao thông, công nghiệp quốc phòng, công nghiệp
chế tạo quy lớn.
Vào năm 1990, các doanh nghiệp nhân đã chiếm tới 89% tổng giá trị sản lượng công
nghiệp, tổng số các doanh nghiệp quốc doanh chỉ chiếm khoảng 11%. Do sự hoạt động yếu
kém của các doanh nghiệp nhà nước, Chính phủ Đài Loan đã đưa ra nhiều chủ trương biện
pháp nhằm thúc đẩy các doanh nghiệp nhân phát triển. các doanh nghiệp quy vừa
nhỏ được khuyến khích phát triển rất mạnh mẽ. Đến năm 1999, Đài Loan đã tới
1.060.738 doanh nghiệp vừa nhỏ chiếm 97,7% tổng số các doanh nghiệp. Đài Loan
nhanh chóng vượt qua được khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á năm 1997.
Chính phủ Đài Loan còn rất chú trọng đến phát triển thương mại quốc tế. đã áp dụng tổng
thể các biện pháp khuyến khích xuất khẩu bao gồm cả việc phá giá đồng nội tệ, giảm thuế
đánh vào các sản phẩm ng nghiệp xuất khẩu, đa dạng hóa thị trường tiêu thụ sản phẩm
nhằm thoát khỏi sự lệ thuộc vào Nhật Bản và Mỹ đối phó với chính sách bảo h mậu dịch
của phương Tây. Nhờ đó ngoại thương của Đài Loan đã bước tăng trưởng đáng kể.
. Nếu năm 1971 chỉ mới đạt 216 triệu USD đến năm 1990 là 12,49 tỷ USD. Năm 1995
tăng lên 13,31 tỷ USD năm 2004 đạt tới 16,6 tỷ USD. Nhờ việc xuất siêu liên tục
Đài Loan đã trở thành một trong những nước d trữ ngoại tệ đứng hàng đầu thế giới.
thực thi những giải pháp để chuyển giao một số công nghệ chủ chốt được lựa chọn từ các nước
tiên tiến đồng thời thành lập các viện, trung tâm nghiên cứu để khám phá cấy những công
nghệ học hỏi được này vào Đài Loan.
14
Hơn nữa, Đài Loan còn biết thâm nhập khéo léo vào thị trường vốn quốc tế bằng cách
đầu mạnh mẽ ra nước ngoài.
, yếu tố quan trọng nhất vẫn con người. Hiến pháp của Đài Loan quy định trên toàn bộ
lãnh thổ, tỷ lệ ngân sách dành cho giáo dục tối thiểu phải 15%, cấp tỉnh, thành phố tối
thiểu phải 25%, còn cấp huyện phải 35%. Đài Loan, phổ cập giáo dục bắt buộc
cấp 2 (9 năm). , nền giáo dục của Đài Loan được đánh giá một trong những nền giáo dục
chất lượng cao của Châu Á. Môi trường giáo dục Đài Loan thân thiện, chất lượng tốt,
chi p cho giáo dục tốt. Chính phủ Đài Loan luôn dành nhiều sự quan tâm đầu cho
giáo dục.
2.3.3.4. Những khó khăn, thách thc
Nhiều nước không dám công khai quan hệ của mình với Đài Loan sợ mếch lòng Trung
Quốc Đài Loan không phải một quốc gia theo nghĩa đầy đủ. Năm 1997, do ảnh hưởng
bởi cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á nên tốc độ ng trưởng kinh tế của Đài Loan đã bị
suy giảm đi nhiều. Năm 1997, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Đài Loan 6,42% đến m 1998 -
một năm sau cuộc khủng hoảng, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Đài Loan ch n 4,57%. Năm
2003, Đài Loan còn phải hứng chịu một số tổn thất nặng nề do dịch SARS gây ra. Đỉnh điểm
của dịch SARS kéo dài từ tháng 4 đến tháng 5.
23/7/2007, kinh tế Đài Loan đang tình trạng khó khăn nhất trong vòng 20 năm nay, do
cầu trên toàn thế giới đối với sản phẩm công nghệ cao suy giảm mạnh. Đài Loan đang phải
đối đầu với tình trạng thiếu lao động, g nhân công ngày càng đắt làm giảm đi tính cạnh
tranh hàng hóa so với một số nước khác trong khu vực nhất Trung Quốc ASEAN. Vụ
khủng bố ngày 11/9/2001 Mỹ đã làm kim ngạch xuất khẩu của Đài Loan vào thị trường
này giảm hẳn.
một số vấn đề xã hội, môi trường như nạn thất nghiệp, ma túy, mại dâm,.. đang những
vấn đề bức xúc đang đặt ra cần phải giải quyết đối với Đài Loan, đặc biệt tệ nạn ma túy.
2.4. SINGAPORE
Cộng hòa Singapore là quốc gia nhỏ nhất của Đông Nam Á. Singapore nằm phía Nam
bán đảo Malaisia, giữa Thái Bình Dương Ấn Độ Dương. Đây trung tâm của Đông Nam
Á được coi ngã của Châu Á”. Singapore là hải cảng lớn nhất của Đông Nam Á,
thành phố thương nghiệp trung tâm giao dịch trọng yếu đồng thời trung tâm tiền tệ
hàng không quốc tế. Singapore diện tích 692,7 km
2
. n số: 4.492.150 người (ước tính
đến tháng 7/2006). Thủ đô của Singapore là Singapore. Ngôn ngữ: Tiếng Hoa (35%), tiếng
Anh (23%), tiếng Malay (14.1%). Tôn giáo chính: Hồi giáo, Thiên chúa giáo, Phật giáo, Hin
đu. Đơn vị tiền tệ: Dollar Singapore (SGD).
. Đến thế kỷ XIX, Singapore trở thành thuộc địa của Anh (1867) một cảng khẩu thương
mại căn cứ quan trọng của Anh tại Châu Á. Đế quốc Anh đã nhanh chóng đưa Singapore
15
trở thành trung tâm tập trung phân phối dựa vào vị trí rất quan trọng của trên con
đường biển nối giữa Châu Âu Trung Quốc. Trong thế chiến thứ II (1942-1945), Nhật Bản
chiếm đóng Singapore đổi n Singapore thành “Syonan-to” nghĩa “Ánh sáng miền
Nam”. Năm 1959, Singapore được trao trả độc lập sau đó tự nguyện gia nhập và trở thành
một liên bang của Malaisia. Năm 1965, Singapore tách ra khỏi Malaisia thành lập một
nhà nước độc lập.
2.4.2. Điều kiện để phát triển kinh tế
Singapore một hòn đảo hình dạng một viên kim cương bao quanh bởi nhiều đảo nhỏ
khác. quốc gia nhỏ nhất trong các nước NICs, nằm phía Nam bán đảo Malacca cách xích
đạo 137 km nằm phía Bắc đảo Riau của Indonesia. Singapore gồm một đảo lớn là
Singapore 50 đảo nhỏ. Đảo Singapore nối với đất liền bằng đập tông, dài >1km, được xây
dựng từ thời thuộc địa của Anh gồm một đường ô tô, một đường sắt một đường ống dẫn
nước.
Singapore một đất ớc đất không rộng nhưng ưu thế lớn nhất vào vị trí chiến lược
rất quan trọng, nằm trên đường giao thông quốc tế từ Tây sang Đông, một bến cảng, một trạm
dừng chân của các tàu biển từ Thái Bình Dương qua Ấn Độ Dương ngược lại. Singapore
đường bờ biển dài thể nối các nơi trên lục địa. Hàng hóa vận chuyển qua cảng mỗi năm
khoảng 30 - 40 triệu tấn, trong đó 75% khối lượng hàng dầu mỏ. Hiện nay Singapore hải
cảng lớn thứ 4 trên thế giới lớn nhất của khu vực Đông Nam Á.
Về điều kiện tự nhiên, hầu như không đáng kể. Quỹ đất nông ít, diện tích đất canh tác hẹp
chỉ chiếm khoảng 1,9% tổng diện tích đất tự nhiên 4,5% diện tích đất rừng. Do đó không
khả năng để phát triển nông nghiệp. Đất đai đây ch thể trồng được một số loại cây như:
cao su, dừa, rau một số loại cây ăn quả. Vì vậy, để đáp ứng đủ nhu cầu trong nước, hàng năm
Singapore vẫn phải nhập khẩu lương thực từ các nước khác. Không đất, Singapore đã mở
mang lãnh thổ bằng cách lấy đất từ những ngọn đồi, đáy biển các nước vùng lân cận. Nhờ
đó, diện tích của Singapore đã tăng lên từ 581,5 km
2
thập niên 1960 hiện nay n đến 692,7
km
2
(xấp xỉ diện tích huyện Cần Giờ - Thành phố Hồ Chí Minh) thể diện tích đất của
Singapore sẽ tăng thêm 100 km
2
vào năm 2030.
Tài nguyên khoáng sản thì nghèo nàn, chỉ ít than, chì, nham thạch, một ít đất đá, vật liệu
xây dựng và một trung tâm chứa lọc dầu của Anh quốc để lại sau chiến tranh. Tài nguyên
nước phong phú nhưng chủ yếu nước mặn, nguồn nước ngọt của Singapore rất ít. Không có
nước ngọt từ sông hồ, nguồn cung cấp nước chủ yếu của Siangapore từ những trận mưa
rào được giữ lại trong những hồ chứa nước hoặc lưu vực sông. Mưa rào cung cấp khoảng 50%
lượng nước, phần còn lại được nhập khẩu từ Malaisia hoặc lấy từ nguồn nước tái chế - một loại
nước có được sau quá trình khử muối. Nhiều nhà máy sản xuất nước tái chế đang được đề xuất
xây dựng nhằm hạn sự phụ thuộc vào việc nhập khẩu nước ngọt.
16
Về điều kiện kinh tế hội: dân số của Singapore chỉ hơn 4 triệu người (bằng khoảng
một nửa số dân của Thành phố Hồ Chí Minh). Thành phần dân tộc chủ yếu người Hoa:
76,8%, người Lai: 13,9%, người Ấn Độ, người Pakistan XriLanka chiếm khoảng:
7,9%, người gốc khác chiếm 1,4%. Dân số Singapore tuy ít nhưng chất lượng nguồn lao
động của Singapore được đánh giá vào loại tốt nhất Châu Á. Lực lượng lao động của
Singapore được đào tạo tốt, họ vừa có chuyên môn lại thạo tiếng Anh, vừa thái độ lao
động nghiêm túc nên hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài. Singapore rất chú trọng đến công
tác đào tạo nghiên cứu khoa học. Singapo, ngoài trường Đại học quốc gia còn khu
vườn khoa học, trung tâm nghiên cứu công nghệ cao cấp, các viện nghiên cứu nhà nước
nhân... Trình độ dân trí của người dân ngày càng được nâng cao. Đội ngũ n bộ khoa học
kỹ thuật ngày ng đông. Singapore còn là một dân tộc năng động nhạy cảm, tài trong
việc làm ăn kinh doanh.
Nhưng Singapore lại nằm một vị trí hết sức thuận lợi nằm trên đường giao thông quốc
tế từ Bắc xuống Nam, từ Tây sang Đông, một trạm dừng chân của tàu biển khi đi từ Thái
Bình Dương qua Ấn Độ Dương. Ngày nay, Singapore đã trở thành một đất nước phồn thịnh,
giàu có, được xếp vào hàng n những nước công nghiệp mới -
2.4.3. Quá trình phát triển kinh tế
Chính phủ Singapore đã đưa ra nhiều biện pháp lựa chọn chiến lược công nghiệp hóa
hướng về xuất khẩu nhằm đưa Singapore vươn tới một thị trường rộng lớn hơn bên ngoài.
Trong giai đoạn đầu, Singapore tập trung đầu sản xuất các mặt hàng thâm dụng lao
động như dệt may, giày dép, quần áo, đ chơi trẻ em,... với mục đích tạo thêm việc làm cho
người lao động đồng thời thay thế hàng nhập khẩu.
Bước sang giai đoạn 2 của chiến lược công nghiệp hóa (thập niên 1970) Singapore tập
trung vào sản xuất những ngành công nghiệp nặng thâm dụng vốn như đóng tàu, lọc dầu.
Chính phủ Singapore cũng đặc biệt chú ý đến việc tăng cường cơ s kinh tế hạ tầng bản,
việc nâng cao chuyên n nghiệp vụ tay nghề cho công nhân, mở rộng chuyển giao, đổi
mới công nghệ với các nước bản phát triển như Mỹ, Nhật Bản, Tây Âu,...
Sang thập kỷ 80, Singapore lại tập trung đầu vào một số ngành công nghiệp kỹ thuật
cao như: luyện kim, chế tạo máy, máy chính xác, quang học, y học, điện tử, thuật điện
tử,.. Đến thập niên 90, Singapore chú ý nhiều đến một ngành cầu nối giữa các quốc gia
trong xu hướng toàn cầu hóa, đó ngành công nghệ thông tin. Với dự án “xây dựng đảo
quốc thông minh”, Singapore sẽ nối mạng máy tính đến 100% gia đình, tức là thực hiện toàn
dân sử dụng Internet. Ngày nay, Singapore khoảng 50% số gia đình nối mạng Internet.
2.4.3.2. Những kết quả đạt được
17
Tổng GDP năm 2004 đạt 116,3 t USD, đến năm 2005 đạt 124,3 tỉ USD và GDP (PPP)
đạt 138,6 tỉ USD (2006). Tổng sản phẩm quốc dân liên tục tăng. Trong vòng 25 năm (1966-
1991), tổng sản phẩm quốc dân tăng 8,6 lần, mức tăng trung bình hàng năm 8,9%.
cấu kinh tế của Singapore cũng đã sự thay đổi ngày ng phù hợp hơn. Nông
nghiệp: 0%, công nghiệp: 3,6%, dịch vụ: 66,4%.
Trong lĩnh vực dịch vụ, Singapore chú trọng đầu phát triển trong các lĩnh vực ngân
hàng, tài chính, bảo hiểm, giao thông vận tải, đặc biệt trong lĩnh vực du lịch. Ngày nay,
Singapore một hệ thống giao thông vận tải rất phát triển kể cả hệ thống giao thông đường
biển đường hàng không.
Đối với ngành giao thông vận tải: Singapore đang xây dựng các cảng côngtenơ đầu tiên
Đông Nam Á cảng Singapore trở thành hải cảng hàng đầu trên thế giới về số lượng
côngtenơ bốc dỡ.
Singapore còn chú trọng đầu xây dựng các sân bay lớn, hiện đại, các khách sạn đạt tiêu
chuẩn quốc tế hệ thống thông tin liên lạc hoàn chỉnh. Singapore hiện trở thành đầu mối
giao lưu thương mại quốc tế quan trọng.
Trong lĩnh vực tài chính, hiện Sinagpore trở thành trung tâm tài chính quốc tế Châu Á
với số lượng lớn các ngân hàng, công ty tài chính, thị trường chứng khoán bảo hiểm.
Singapore còn trung tâm trao đổi ngoại tệ lớn thứ 4 thế giới sau Luân Đôn, New york,
Tôk.
Bên cạnh đó, Singapore một nền giáo dục tiên tiến hiện đại, khoảng 1/3 số sinh viên đi
du học nước ngoài. Khoảng cách giữa người giàu người nghèo ngày càng thu hẹp.
Ngày nay, Singapore là một trong những nền kinh tế thịnh vượng nhất thế giới. khi nói
đến Singapore người ta liên tưởng ngay đến một đất nước của du lịch, của các ngành kỹ
thuật mới, của một thành phố cảng đầy năng động vững mạnh như chính tên gọi “Sư tử”
của nó.
2.4.3.3. Nguyên nhân thành công
Chính phủ Singapore vai trò quan trọng trong việc hoạch định các chiến lược phát
triển kinh tế. Singapore đã sớm lựa chọn chiến lược công nghiệp hóa hướng ra xuất khẩu.
Đây bước đi p hợp bởi lẽ, xuất phát từ điều kiện cụ thể của một đất nước đất không
rộng, dân số t quá ít, thị trường nội địa không thể s cho việc vận hành nền kinh tế
phải hướng mạnh ra bên ngoài phải dựa vào thị trường thế giới.
Singapore diện tích nhỏ - nhỏ nhất trong số 4 nước NICs, tài nguyên thiên nhiên nghèo
nàn, tiềm năng đ phát triển nông nghiệp hầu n không nên ngay từ đầu, trong cấu
ngành kinh tế Singapore đã phát triển công nghiệp dịch vụ. Đây 2 ngành bản nhất của
nền kinh tế quốc dân, trong đó ngành dịch vụ được chú trọng phát triển hơn cả.
18
Đối với ngành công nghiệp, trong giai đoạn đầu Singapore đã tập trung đầu phát triển
những ngành công nghiệp Singapore nhiều lợi thế như sản xuất hàng tiêu dùng, công
nghiệp dệt may, da giày,... để vừa thể đáp ứng nhu cầu trong nước vừa thay thế các mặt hàng
nhập khẩu.
đến những năm sau này, Singapore tập trung đầu phát triển những ngành công nghiệp
thâm dụng vốn, ngành công nghiệp đòi hỏi trình độ khoa học công nghệ cao. Singapore đã sớm
bước vào phát triển nền kinh tế tri thức với các ngành công nghệ thông tin, công nghệ sinh học,
sản xuất y khí chính xác, điện tử, thuật điện tử.
Singapore còn chú trọng đầu xây dựng các sân bay, bến cảng hiện đại. Trong đó, sân
bay Changi được đánh giá vào loại tốt nhất bởi chất lượng phục vụ mức độ tiện nghi an
toàn cao. ng với bến cảng Singapore sân bay Changhi một trong những sân bay
bến cảng hiện đại nhất thế giới Điều này không chỉ giúp cho Singapore trở thành trung tâm
kinh tế, thương mại giao lưu quốc tế còn nơi hấp dẫn khách du lịch là nơi quá
cảnh thuận lợi cho mọi hoạt động của con người.
Singapore còn tạo ra môi trường kinh doanh thông thoáng, hấp dẫn để thu hút nguồn vốn
đầu từ nước ngoài. Singapore đã sử dụng nguồn vốn đầu ấy một cách hiệu quả, tiếp
cận trực tiếp với các công ty đa quốc gia.
So với các nước NICs khác, tỷ lệ đầu của Singapore thường cao nhất luôn đạt trên 40%
so với GDP.nước này đã một bộ máy lãnh đạo tuyệt vời. Chính phủ nước này không chỉ
quan tâm đến việc phát triển kinh tế còn quan tâm đến các vấn đề hội, luôn đề cao
truyền thống Á Đông lên trên hết. Chính phủ Singapore đặc biệt quan tâm đến vấn đề giáo
dục, đào tạo nhân tài.
Bởi ngay từ đầu, Chính phủ Singapore đã thực hiện một chính sách tỷ giá thích ứng, thả
nổi đồng dollar Singapore để tạo động lực xuất khẩu. Hơn thế nữa, Singapore vốn một
nước sở kinh tế chính trị vững mạnh, tỷ lệ lãi xuất tiết kiệm cao, các khoản thặng
ngân sách nhiều dự trữ ngoại tệ lớn > 80 tỷ USD, đầu trực tiếp nước ngoài nhiều...
nên Singapore đã nhanh chóng thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng, tốc độ tăng trưởng kinh tế
của Singapore thời kỳ này vẫn đạt tới 8,5% - cao nhất trong số các nước NICs.
2.4.3.4. Những khó khăn, thách thc
Năm 1997, cuộc khủng hoảng tài chính tiền t Châu Á đã lan rộng ra toàn khu vực Châu
Á-Thái Bình Dương, nước chịu ảnh hưởng nặng nề nhất bởi cuộc khủng hoảng tài chính này
Hàn Quốc. Singapore ít chịu tác động bởi cuộc khủng hoảng hơn so với các nước trong
khu vực.
Năm 2001, Singapore rơi vào suy thoái lần đầu tiên do chịu ảnh hưởng nặng nề của suy
thoái kinh tế toàn cầu. Theo đánh giá của các nhà kinh tế thì đây cuộc suy thoái tồi tệ nhất
trong lịch sử 36 năm của đảo quốc y, tốc độ tăng trưởng kinh tế thời này giảm xuống n
19
- 2,4%, tỷ lệ thất nghiệp mức 4,5% cao hơn cả trong thời kỳ diễn ra cuộc khủng hoảng tài
chính năm 1997. : Thứ nhất, do sự chững lại của các nền kinh tế lớn trên thế giới n Mỹ, EU,
Nhật Bản. Thứ hai, do sự suy giảm nhanh chóng của các ngành công nghiệp máy tính
điện tử trên phạm vi toàn thế giới. , tác động của thảm họa ngày 11/9/2001 Mỹ càng làm cho
khó khăn của Singapore thêm chồng chất.
Nhưng bản thân nền kinh tế Singapore vẫn còn tồn tại những mặt hạn chế, đó sự thiếu hụt
ngun nhân công lao động kéo theo việc tăng tiền lương việc mất đi kh năng cạnh tranh với các
con hổ Đông Nam Á. n thế nữa, những bt bình đẳng v mặt lợi tc trong hi Singapore
ngày ng lớn, người Hoa chiếm gi nhng ngành kinh tế quan trọng, ch chốt, n những người
thiểu số Lai, Ấn Độ luôn những thành phần nghèo.
Những vấn đề về mặt đời sống, hội như nhà ở, việc làm, nạn thất nghiệp, ô nhiễm môi trường
đang những vấn đề khá gay gắt Singapore. Hiện nay, tỷ lệ lạm phát Singapore ngày càng
gia tăng.
CHƯƠNG 3
NGUYÊN NHÂN THÀNH CÔNG I HỌC KINH NGHIỆM
1. Nguyên nhân thành công
Trước hết, các nước NICs Châu Á đã xác định cho mình một chiến lược phát triển kinh tế
đúng đắn. Đó chiến lược công nghiệp hóa hướng ngoại đã thực hiện khá thành công.
Chiến lược công nghiệp hóa hướng ngoại của các nước NICs đều được chia làm 3 giai đoạn:
Giai đoạn 1: Chiến lược công nghiệp hóa thay thế nhập khẩu. Trong giai đoạn này, do trình
độ công nghệ chưa cao, sức mua của thị trường chưa lớn lắm, thị hiếu của người tiêu dùng
đơn giản do thu nhập thấp nên các nước NICs đã tập trung vào sản xuất các mặt hàng tiêu
dùng nhằm đáp ứng nhu cầu trong nước thay thế hàng nhập khẩu, nhưng vẫn phải nhập
khẩu thành phẩm, bán thành phẩm, nguyên nhiên liệu từ bên ngoài để phục vụ cho quá trình
phát triển kinh tế.
Giai đoạn 2: Chiến lược công nghiệp hóa hướng về xuất khẩu (những năm 1970). Trong
giai đoạn này, các nước NICs đã sử dụng kinh tế đối ngoại làm đòn bẩy cho q trình công
nghiệp hóa, thực hiện mở của giao lưu kinh tế với bên ngoài, nhập vốn đầu tư, công nghệ kỹ
thuật phát triển các ngành công nghiệp mũi nhọn mới, đẩy mạnh xuất khẩu hàng tiêu
dùng để thu v ngoại tệ. Với nguồn ngoại tệ thu được này, các nước NICs tập trung phát
triển một số ngành công nghiệp cần nhiều vốn. Đồng thời cũng đẩy mạnh những ngành công
nghiệp truyền thống như quần áo, giày dép, đồ chơi,... Chiến lược công nghiệp hóa hướng
ngoại đã mang lại cho các nước NICs nhiều thành ng ngày nay các nước NICs không
còn đóng vai t kho hàng tái xuất thuần túy thực s trở thành những nước xuất khẩu
nhiều sản phẩm công nghiệp, thậm chí cả các sản phẩm công nghiệp mang hàm lượng
vốn lớn khoa học kỹ thuật cao.
20

Preview text:

Kinh tế các nước NICS:
Nước công nghiệp mới là thuật ngữ để chỉ các nước có nền kinh tế phát triển vượt trội so với
các nước công nghiệp khác. Tiền thân của những nước này là những nước đang phát triển, có nền
nông nghiệp nghèo nàn, lạc hậu, trình độ sản xuất thấp, nhưng đã nhanh chóng vươn lên trở thành
những nước có nền công nghiệp phát triển với cơ cấu kinh tế hiện đại, phù hợp hơn (chủ yếu là
công nghiệp và dịch vụ), có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao với quá trình công nghiệp hóa diễn ra
nhanh chóng. Như vậy: Thuật ngữ nước “công nghiệp mới - NIC” dùng để chỉ những vùng lãnh
thổ trong những thập kỉ gần đây đã trải qua quá trình công nghiệp hóa nhanh và đạt được trình độ
phát triển kinh tế khá cao, trong đó nổi bật lên bốn nước ở Châu Á là Hồng Kông, Đài Loan, Hàn
Quốc, Singapore hay còn gọi là các nước NICs Châu Á.
Những chỉ tiêu quan trọng để đánh giá các nước công nghiệp mới - NICs là:
 Tổng sản phẩm quốc dân (GNP) tính theo đầu người phải đạt >10.000 USD/ người.
 Tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm cao > 9%.
 Tỉ trọng các ngành công nghiệp chế biến và chế tạo trong tổng sản phẩm quốc dân chiếm từ 30 - 40%.
 Thu hút nhiều vốn đầu tư của tư bản nước ngoài.
Đối với các nước ở Châu Mĩ La tinh, thực hiện quá trình công nghiệp hóa ngay từ cuối thế
kỷ XIX (sớm hơn so với khu vực các nước đang phát triển khác trên thế giới). Nhưng phải
đến những năm 60 của thế kỉ XX, quá trình công nghiệp hóa ở những nước này mới thành
công. Braxin, Mêhicô, Achentina là những nước thực hiện thành công chiến lược công
nghiệp hóa và đạt được nhiều thành tựu đáng kể đó là, có một nền kinh tế phát triển mạnh,
tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, thu nhập bình quân đầu người khá. . Do đó các nước này đã
được xếp vào hàng ngũ các nước công nghiệp mới - NICs.
Các nước công nghiệp mới trên thế giới nói chung và các nước NICs ở Châu Á nói riêng,
tiền thân là từ những nước đang phát triển Trước đây, phần lớn đã từng là thuộc địa và nửa
thuộc địa của các nước thực dân đế quốc.
Tóm lại: tùy vào điều kiện và hoàn cảnh của mỗi nước mà có quá trình phát triển kinh tế có
sự khác biệt nhau. Tuy nhiên, các nước này đều có chung các đặc điểm:
- Sau khi giành được độc lập, quyền dân sự và tự do xã hội của các nước này được cải
thiện đáng kể. Các nước có điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường ngày càng mở rộng,
cho phép tự do hóa thương mại với tất cả các nước trên thế giới. Nhờ đó nền kinh tế đã có sự
chuyển biến tích cực, bước đầu đã có tích lũy và có nguồn vốn để phát triển đất nước.
- Hầu hết các nước này đều có dân số đông, nguồn lao động dồi dào, giá nhân
công lao động rẻ,. . Đây là lợi thế để thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài.
- Chính phủ có vai trò to lớn trong việc xác định đường lối phát triển kinh tế. 1
- Các nước này đều có nền kinh tế phát triển cao, tốc độ tăng trưởng nhanh, bộ mặt kinh
tế của các nước có sự thay đổi đáng kể, từ những nước nghèo nàn lạc hậu về kinh tế, bất ổn
về chính trị đã nhanh chóng vươn lên một cách “thần kì” để trở thành những nước công
nghiệp mới - NICs với vị thế không ngừng được nâng cao trên trường quốc tế.
- Cơ cấu nền kinh tế của các nước NICs có sự thay đổi theo hướng hiện đại, phù hợp hơn
đó là đã chuyển từ nền kinh tế nông nghiệp là chủ yếu sang công nghiệp và dịch vụ (chiếm
khoảng 30-40% tỉ trọng của các ngành kinh tế). CHƯƠNG 2
QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ CỦA CÁC NƯỚC NICs CHÂU Á 1.
Khái quát chung về quá trìnhphát triển kinhtế của các nước NICs Châu Á
Về điều kiện tự nhiên không có gì đáng kể. Đất đai nhỏ hẹp khoảng 138.796km2, địa
hình chủ yếu là núi, đồng bằng chỉ chiếm diện tích nhỏ bé. Trừ Hàn Quốc thì có những cánh
đồng rộng và đồi thấp, có thể trồng lúa mì, đậu tương, thuốc lá,. . Và một dải đồng bằng nhỏ
hẹp ven biển thuộc Đài Loan. Còn Hồng Kông và Singapore không có điều kiện để phát
triển nông nghiệp do đất đai nhỏ hẹp, chỉ có thể trồng một số cây như chuối, rau quả, ít
thuốc lá. . Vì vậy, hàng năm các nước này vẫn phải nhập khẩu lương thực từ các nước khác.
Nguồn tài nguyên khoáng sản thì nghèo nàn, để phát triển kinh tế các nước này đều phải
nhập nguyên nhiên liệu từ các nước khác. Điều này gây khó khăn cho quá trình phát triển
kinh tế. Lợi thế duy nhất mà điều kiện tự nhiên mang lại cho các nước NICs là ở vào vị trí
địa lí thuận lợi, giúp cho các nước dễ dàng mở cửa hội nhập, mở rộng mối quan giao lưu với
các nước trên thế giới. Mặt khác, do nằm ở vị trí tiếp giáp biển, lại có đường bờ biển bao bọc
xung quanh tạo điều kiện thuận lợi để các nước có thể phát triển tổng hợp các ngành kinh tế
biển: giao thông vận tải biển, du lịch biển đặc biệt là thuận lợi cho việc xây dựng các hải
cảng (Hồng Kông và Singapore là hai thương cảng lớn trên thế giới).
Về điều kiện kinh tế xã hội: các nước NICs có dân số đông > 81 triệu người. Người dân
cần cù, chịu khó lại hiếu học, nguồn lao động trẻ, dồi dào, giá nhân công rẻ. Đây là nguồn lực
quí giá và là lợi thế quan trọng để thu hút nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài, phát triển những
ngành công nghiệp đòi hỏi nhiều lao động như: quần áo, giày dép, đồ chơi trẻ em (trừ
Singapore, Hồng Kông dân số ít đã làm hạn chế sức mua của thị trường nội địa. Do đó các nước
này đã thúc đẩy mạnh mở cửa ra thị trường bên ngoài).
nhưng các nước NICs Châu Á đã khai thác tối đa những lợi thế sẵn có của mình, cùng với việc
lựa chọn chiến lược công nghiệp hóa hướng về xuất khẩ
1.2. Quá trình phát triển kinh tế của các nước NICs Châu Á
Hiện trạng nền kinh tế 2
Các nước NICs Châu Á từng là thuộc địa hoặc nửa thuộc địa của bọn thực dân đế quốc,
nền kinh tế phụ thuộc chủ yếu vào tư bản nước ngoài. Sau khi thoát khỏi chiến tranh, đất
nước được độc lập nhưng nền kinh tế của hầu hết các nước NICs Châu Á đều nghèo nàn, lạc
hậu, nông nghiệp là ngành kinh tế chính (Đài Loan, Hàn Quốc), Ngành nông nghiệp ở địa
phương chỉ thỏa mãn nhu cầu nội địa không có khả năng cạnh tranh mạnh trên thị trường thế
giới. Ngành công nghiệp chưa phát triển hoặc nếu có phát triển được thì hiệu quả chưa cao.
Nguồn tài nguyên thiên nhiên hạn chế, tiềm năng khoáng sản ít về chủng loại, hạn chế về trữ
lượng không đủ để xây dựng một cơ cấu công nghiệp đồng bộ, thậm chí không đủ để phát
triển ngành công nghiệp khai khoáng. Muốn phát triển các nước đều phải nhập khẩu nguồn
nguyên liệu từ bên ngoài để sản xuất công nghiệp. Điều này ảnh hưởng khá lớn đến quá
trình tích lũy và tái sản xuất mở rộng làm ảnh hưởng đến quá trình phát triển kinh tế. Trong
khi đó, quy mô ngành công nghiệp thì nhỏ bé, thiếu vật tư kĩ thuật, trình độ sản xuất lạc hậu
nên chất lượng và sản lượng không cao. Không những thế, trong giai đoạn này tất cả các
nước đều ưu tiên phát triển công nghiệp nặng, công nghiệp khai thác khoáng sản trong khi
nguồn vốn không đủ để đầu tư các trang thiết bị, công nghệ chậm đổi mới, nên hiệu quả nền kinh tế không cao.
Đứng trước tình hình đó, Chính phủ các nước đã đề ra những mục tiêu, biện pháp khôi phục
nền kinh tế. Trong đó đặc biệt phải nói đến chiến lược công nghiệp hóa hướng ra xuất khẩu.
1.2.2. Chiến lược công nghiệp hóa hướng ra xuất khẩu
Chiến lược công nghiệp hóa hướng ra xuất khẩu được các nước NICs Châu Á tiến hành từ
những năm của thập niên 60 thế kỉ XX và được chia làm ba giai đoạn
Giai đoạn đầu (được thực hiện trong những năm 60)
Trong giai đoạn này, các nước NICs Châu Á chủ trương phát triển kinh tế hướng nội,
khuyến khích phát triển các ngành công nghiệp thay thế nhập khẩu để tiết kiệm nguồn ngoại
tệ và kiểm soát nguồn tài chính. Đồng thời, chú trọng phát triển ngành sản xuất hàng tiêu
dùng nhằm đáp ứng nhu cầu trong nước và thay thế nhập khẩu, nhanh chóng tăng khả năng
xuất khẩu nhưng vẫn phải nhập khẩu thành phẩm, bán thành phẩm, vật tư để phục vụ cho
quá trình công nghiệp hóa. Mặt khác, do dân số đông, nguồn lao động dồi dào, giá nhân
công lao động rẻ nên các nước NICs đã ưu tiên phát triển ngành công nghiệp nhẹ, những
ngành sử dụng nhiều lao động như: giày dép, quần áo, đồ chơi trẻ em. . Nhờ đó đã tạo thêm
việc làm cho người lao động.
Chiến lược công nghiệp hóa thay thế nhập khẩu đã mang lại cho các nước NICs Châu Á
những thành tựu to lớn. Nền kinh tế của các nước dần dần phục hồi, tốc độ tăng trưởng kinh
tế cao. Ở Hàn Quốc: 2,3 tỉ USD (1962), GDP/người đạt: 87USD. Còn ở Đài Loan: tổng sản
phẩm quốc nội: 148 tỉ USD (1952) lên 250 tỉ USD (1959). . Sản phẩm của các nước NICs đã
có chỗ đứng trên thị trường thế giới và được tiêu thụ nhanh chóng. Thu nhập từ việc xuất 3
khẩu các mặt hàng tiêu dùng đã giúp các nước NICs Châu Á tích lũy được nguồn vốn lớn,
do đó có điều kiện để thực hiện tái sản xuất mở rộng các mặt hàng khác.
Giai đoạn 2 (cuối thập niên 60 đầu thập niên 70)
Mục tiêu của giai đoạn này là: tiếp tục sản xuất các mặt hàng tiêu dùng nhằm phục vụ
nhu cầu trong nước đồng thời, mở cửa ra bên ngoài, mở rộng thị trường cả trong và ngoài
nước, nhập vốn đầu tư, công nghệ kĩ thuật. Xây dựng và phát triển các ngành công nghiệp
mũi nhọn mới, đẩy mạnh xuất khẩu, thu nguồn ngoại tệ lớn.
Nhờ có một thời gian dài tiếp cận với công nghệ được chuyển giao từ nước ngoài nên từ
chỗ đuổi kịp kĩ thuật trung bình trong việc sản xuất một số mặt hàng tiêu dùng (sản xuất
giấy, giầy dép, quần áo), các nước NICs đã nắm bắt được kỹ thuật cao, có thể đầu tư vào
những ngành đòi hỏi hàm lượng khoa học kĩ thuật cao, dung lượng vốn lớn, phát triển công
nghệ cao cấp như vi điện tử, máy tính điện tử, kĩ thuật sinh học, người máy. .
Giai đoạn 3 (được tiến hành trong giai đoạn hiện nay)
các nước NICs tiếp tục đẩy mạnh xuất khẩu, tạo ra môi trường đầu tư thông thoáng qua
một hệ thống các chính sách khuyến khích phát triển nền kinh tế thị trường, thu hút đến mức
tối đa nguồn vốn đầu tư nước ngoài.
đầu tư phát triển những ngành sản xuất cần hàm lượng khoa học công nghệ cao như: điện
tử, kĩ thuật điện tử, tin học, công nghệ sinh học, đồng thời, chuyển giao công nghệ và đầu tư
sản xuất vào các nước đang phát triển và kém phát triển như các nước ASEAN, Đông Nam Á, Trung Quốc. .
Chiến lược công nghiệp hóa hướng về xuất khẩu không chỉ đơn thuần là xây dựng các
ngành công nghiệp xuất khẩu mà quan trọng là xây dựng cơ cấu công nghiệp mới theo
hướng hiện đại hơn, có đủ sức chuyển đổi cơ cấu nền kinh tế. Cơ cấu công nghiệp, nông
nghiệp, dịch vụ hoàn thiện đủ sức cạnh tranh để đảm bảo sự tăng trưởng kinh tế. Chiến lược
công nghiệp hóa hướng ngoại đã mở ra cho các nước NICs cơ hội thu hút được vốn và kĩ
thuật cao, giải quyết công ăn việc làm và có triển vọng phát triển, tăng trưởng kinh tế nhanh.
Công nghiệp hóa được coi là con đường tất yếu để giúp các nước NICs thoát khỏi tình trạng
nghèo nàn, lạc hậu về kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân.
Những kết quả đạt được trong quá trình phát triển kinh tế
Cùng với sự tăng trưởng kinh tế nhanh chóng, cơ cấu kinh tế nền kinh tế của các nước NICs
Châu Á đã có sự thay đổi căn bản: chuyển từ nông nghiệp truyền thống sang các ngành công
nghiệp và dịch vụ. Năm 1965, tỉ trọng trong nông nghiệp của các nước NICs chiếm 18%, công
nghiệp: 20%. Đến năm 1984, tỉ trọng của ngành công nghiệp đạt: 28%, còn ngành nông nghiệp
chỉ còn 7%. Riêng Hàn Quốc và Đài Loan, cơ cấu nền kinh tế có sự thay đổi rõ rệt chuyển từ
nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ. Còn Hồng Kông và Singapore, không có tiềm năng 4
để phát triển nông nghiệp, nên ngay từ đầu những năm 1960 ngành công nghiệp và dịch vụ đã
chiếm một vị trí hết sức quan trọng trong cơ cấu nền kinh tế.
hóa của các nước NICs ngày càng có chỗ đứng trên thị trường thế giới và có thể cạnh
tranh với hàng hóa của nước ngoài. Việc xuất khẩu hàng hóa ra thị trường nước ngoài đã thu
về một nguồn ngoại tệ lớn cho các nước NICs. Hiện nay trong số 15 nước xuất khẩu lớn
nhất trên thế giới đều có mặt các nước NICs Châu Á.
Những khó khăn, thách thức
Hầu hết các nước đều đi lên từ điểm xuất phát thấp, điều kiện tự nhiên lại không mấy ưu
đãi: diện tích đất nông nghiệp ít, tài nguyên khoáng sản hầu như không có nên phải nhập
nguồn nguyên, nhiên liệu và lương thực, từ nước ngoài gây khó khăn không nhỏ trong quá
trình phát triển kinh tế của các nước NICs.
Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á năm 1997 đã làm cho nền kinh tế của các
nước NICs Châu Á bị sa sút nghiêm trọng. Trong đó, Hàn Quốc là nước chịu ảnh hưởng nặng nề nhất.
phụ thuộc chủ yếu vào nguồn vốn đầu tư của nước ngoài và thị trường xuất khẩu bên
ngoài nên khi thị trường thế giới có nhiều biến động ảnh hưởng xấu đến xuất khẩu
làn sóng bảo hộ mậu dịch mới dâng lên đòi đưa các nước và lãnh thổ công nghiệp ở Châu
Á ra khỏi danh sách các nước được hưởng chế độ ưu đãi về thuế quan. Hàng của các nước
NICs nhập khẩu vào Mỹ bị đánh thuế cao hơn, còn hàng xuất khẩu của các nước NICs sang
một số nước phương Tây khác cũng phải đương đầu với cơn sốt bảo hộ mậu dịch ngày càng
lan rộng làm ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh hàng hóa của các nước NICs. 2.1. HÀN QUỐC
Hàn Quốc hay còn gọi là Đại Hàn Dân Quốc - là quốc gia theo thể chế cộng hòa nằm ở nửa
phía Nam của bán đảo Triều Tiên. Với diện tích: 99.000km2, dânsố: 48 triệu người. Thủ đô của Hàn Quốc là Seoul.
Hàn Quốc nằm ở Phía Nam của bán đảo Triều Tiên thuộc khu vực Đông Bắc Á với diện tích 99.000 km2.
Phía Bắc giáp được ngăn cách với Cộng Hòa Dân Chủ Nhân Dân Triều Tiên bởi đường
phân giới quân sự chạy dọc vĩ tuyến 38oB.
Phía Nam cách Nhật Bản bởi eo biển Triều Tiên.
Phía Đông giáp với biển Nhật Bản.
Phía Tây giáp biển Hoàng Hải và tỉnh Sơn Đông của Trung Quốc.
Với vị trí này đã giúp cho Hàn Quốc có thể dễ dàng mở cửa giao lưu kinh tế văn hóa với
các nước trong khu vực và trên thế giới. Hơn nữa, đường bờ biển dài, tạo điều kiện thuận lợi
cho Hàn Quốc có thể phát triển các ngành kinh tế biển đặc biệt là có thể xây dựng các hải cảng. 5
Về mặt điều kiện tự nhiên, có nhiều hạn chế. Đất đai không mấy thuận lợi để phát triển
nông nghiệp, chủ yếu là đồi núi chiếm 70% diện tích đất tự nhiên của vùng. Chỉ có một dải
đồng bằng nhỏ hẹp ven biển, một ít đất bãi bồi là có thể trồng trọt được nên hàng năm Hàn
Quốc vẫn phải nhập khẩu lương thực từ các nước. Nguồn tài nguyên khoáng sản nghèo nàn,
chỉ có ít than mỡ và quặng sắt. Muốn phát triển công nghiệp hầu hết đều phải nhập nguyên
liệu từ bên ngoài. Gây khó khăn cho việc tích lũy nguồn vốn vì phải chi một khoản ngân
sách khá lớn để nhập khẩu nguồn nguyên nhiên liệu.
Về điều kiện kinh tế xã hội: Hàn Quốc là quốc gia đông dân nhất trong tất cả các nước
NICs, với dân số 48 triệu người. Người dân Hàn Quốc cần cù, yêu lao động, tiết kiệm và tự
tôn dân tộc cao. Đặc biệt chịu ảnh hưởng khá sâu sắc của một nền văn hóa Khổng giáo. Một
trong những nét đặc trưng của nền văn hóa này là người ta đề cao lối sống “nhân bản”, mình
vì người khác và có truyền thống hiếu học. Chính phủ Hàn Quốc rất coi trọng công tác giáo
dục và đào tạo. Ở Hàn Quốc khoảng 1/3 thanh niên tiếp tục theo học Đại học, số học sinh
Trung học chiếm 85% (trong khi đó ở Anh tỉ lệ này là: 40%, ở Pháp: 75%). Ở Hàn Quốc số
lượng tiến sĩ tính theo đầu người là cao nhất thế giới. Có những tập đoàn lớn một năm thuê
khoảng 1000 tiến sĩ vào làm việc như tập đoàn Daewoo. Đây là nguồn lực quan trọng đối
với Hàn Quốc trong quá trình phát triển kinh tế.
Như vậy có thể thấy rằng Hàn Quốc không có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển
kinh tế. Với diện tích nhỏ bé nằm ở phía Đông Bắc Châu Á, giáp biển Thái Bình Dương, có lẽ
lợi thế duy nhất mà Hàn Quốc có được chính là ở vào vị trí thuận lợi cho giao thông quốc tế,
tạo điều kiện dễ dàng cho Hàn Quốc có thể mở rộng mối quan hệ giao lưu với các nước trong
khu vực cũng như trên thế giới
Giai đoạn đầu của chiến lược công nghiệp hóa, Hàn Quốc tập trung chủ yếu vào việc sản
xuất hàng tiêu dùng, phát triển những ngành công nghiệp nhẹ như quần áo, giày dép,. . nhằm
đáp ứng nhu cầu trong nước và thay thế hàng nhập khẩu, nhưng vẫn phải nhập khẩu thành
phẩm, nguyên vật liệu để phục vụ cho quá trình công nghiệp hóa.
Bước sang giai đoạn 2 của quá trình công nghiệp hóa (1966 - 1971), bên cạnh việc phát
triển những mặt hàng truyền thống, những mặt hàng tiêu dùng phục nhu cầu trong nước, Hàn
Quốc còn đầu tư tài chính xây dựng cơ sở hạ tầng cho các hoạt động nghiên cứu và triển khai
các hoạt động nghiên cứu kỹ nghệ. Hơn nữa, còn chú trọng đầu tư phát triển những ngành
công nghiệp mũi nhọn, sản xuất những sản phẩm có chất lượng cao để cạnh tranh với hàng
hóa của nước ngoài. Đồng thời tập trung sản xuất những mặt hàng thâm dụng kĩ thuật, những
mặt hàng đòi hỏi trình độ khoa học công nghệ cao như: máy tính, ti vi, tủ lạnh, điện tử. .
Bước sang những năm 1970 - 1980, kinh tế Hàn Quốc bắt đầu tập trung vào phát triển những
ngành công nghiệp nặng, những ngành có trình độ khoa học công nghệ cao đồng thời vẫn 6
tiếp tục sản xuất những mặt hàng đáp ứng nhu cầu trong nước thay thế hàng hóa nhập khẩu và hướng ra xuất khẩu
2.1.3.2. Những kết quả đạt được
Trong những năm qua, nền kinh tế Hàn Quốc đã có sự chuyển biến khá mạnh mẽ. Sau
hơn 30 năm từ 1962 - 1995 tổng sản phẩm quốc dân (GNP) của Hàn Quốc tăng 196 lần từ
2,3 tỉ USD (1962) lên 451,7 tỉ USD (1995). Tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 9% (1990) đến
năm 1991 giảm nhẹ còn 8,5%. Năm 1992: 4,5% đến 1993: 5,5%. Thu nhập bình quân đầu
người tăng nhanh từ 87 USD (1962) lên 6.800USD (1992) và đến năm 1995 đạt 10.076 USD
Hiện nay, Hàn Quốc được đánh giá là nền kinh tế phát triển nhất, đứng thứ 3 ở Châu Á và
thứ 10 trên thế giới với GDP đạt 897,4 tỉ USD (2006). GDP (PPP) đạt 1.196 tỉ USD (2006) đứng thứ 11 thế giới.
Hàn Quốc còn nổi bật trên thế giới với nhiều lĩnh vực công nghiệp có hàm lượng công
nghệ cao . Hàn Quốc còn là nước sản xuất sợi tổng hợp đứng hàng thứ 4 thế giới và đứng thứ 10
thế giới về sản xuất chất dẻo. Ngành sản xuất, lắp ráp ô tô phát triển khá mạnh và đang cố gắng
để trở thành một trong những nước đứng đầu thế giới về sản xuất ô tô. Ba hãng sản xuất ô tô lớn
nhất hiện nay là Daewoo, Huyndai, Kia đời sống nhân dân cũng được nâng cao, thu nhập bình
quân đầu người của Hàn Quốc có thể ngang bằng hoặc thậm chí cao hơn một số quốc gia
phát triển khác ở Châu Âu và Bắc Mĩ. Năm 2007, thu nhập bình quân đầu người 25.000 USD năm.
Nguyên nhân thành công
Hàn Quốc đã lựa chọn đúng chiến lược phát triển, đó là chiến lược công nghiệp hóa
hướng về xuất khẩu ngay từ kế hoạch 5 năm lần thứ 2 (1966-1971). Và trong từng giai đoạn,
chính phủ lại đưa ra một mục tiêu khác nhau. Trong gian đầu của chiến lược, Hàn Quốc tập
trung vào việc sản xuất những mặt hàng thâm dụng lao động như: quần áo, đồ chơi trẻ em,
sản xuất hàng tiêu dùng nhằm phục vụ nhu cầu của nhân dân, thay thế hàng nhập khẩu. Sau
đó chuyển sang sản xuất những sản phẩm thâm dụng tư bản như các ngành công nghiệp
nặng, công nghiệp hóa chất và cuối cùng tập trung đầu tư vào sản xuất các mặt hàng thâm
dụng chất xám, thâm dụng kĩ thuật cao như: điện tử cao cấp, công nghệ sinh học, ô tô, máy
bay. . vaitròquyếtđịnhthuộcvềChínhphủ:ChínhphủHànQuốcđãxácđịnhđượccácmục
tiêu ngắn hạn và dài hạn phù hợp với yêu cầu của từng giai đoạn phát triển của nền kinh tế đất
nước Với chương trình “cổ phần hóa toàn dân”, Chính phủ Hàn Quốc còn tạo điều kiện để mọi
người dân có quyền mua cổ phiếu, tránh tập trung vốn quá lớn vào một thế lực nào đó.Với việc
xây dựng các xí nghiệp quốc doanh, Chính phủ Hàn Quốc đã tỏ rõ vai trò của mình trong việc
thực hiện các chính sách tích lũy tư bản cho quá trình công nghiệp hóa đất nước. Với các chính
sách kinh tế vĩ mô khác, đặc biệt là trong lĩnh vực tài chính và ngoại thương, Chính phủ tạo mọi 7
điều kiện thuận lợi để khai thông nguồn vốn và thâm nhập vào thị trường quốc tế. Bên cạnh đó,
Chính phủ Hàn Quốc còn giành mọi sự ưu ái đặc biệt cho các Chacbol (Tập đoàn tư bản thương
mại) hoạt động, đồng thời không bỏ qua các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Hàn Quốc đã dành cho giáo dục một khoản chi ngân sách khá lớn. Trong những năm
1950, ngân sách dành cho giáo dục chiếm 9 - 10% ngân sách của chính phủ. Đến những năm
của thập kỉ 70 là 17 - 18%. Đầu những năm 80, chiếm 19 - 21% ngân sách của chính phủ. kinh
phí dành cho giáo dục ở nông thôn cao hơn ở thành phố, Số lượng tiến sĩ ở Hàn Quốc tính theo
đầu người cao nhất thế giới,
Hàn Quốc đã tranh thủ được sự ủng hộ của Mỹ và Nhật Bản ngay từ những năm 50 của thế kỉ XX.
2.1.3.4. Những khó khăn, thách thức
Hàn Quốc đi lên từ điểm xuất phát thấp. Tài nguyên thiên nhiên thì hầu như không có, Hàn
Quốc đã phải nhập khẩu nguồn nguyên liệu và lương thực từ các nước khác.
trong quá trình phát triển kinh tế Hàn Quốc đã chủ trương vay nợ của nước ngoài. Số tiền nợ
nước ngoài của Hàn Quốc năm 1980 mới chỉ 29,5 tỉ USD đến năm 1985 đã lên đến 46,7 tỉ
USD. đã dẫn đến tình trạng thâm hụt cán cân thương mại đạt đến con số 44,5 tỉ USD vào năm
1995, Năm 1997, cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á đã ảnh hưởng nghiêm trọng tới nền
kinh tế Hàn Quốc. Nguyên nhân là do sự yếu kém trong công tác quản lí của hệ thống ngân
hàng. Năm 1998, một năm sau cuộc khủng hoảng, tốc độ tăng trưởng kinh tế giảm xuống còn
- 5,8%.Ngay sau cuộc khủng hoảng nổ ra, có khoảng 1,24 triệu người thất nghiệp, cứ mỗi
ngày có thêm 10.000 người thất nghiệ
sự sụp đổ của các Chacbol (Tập đoàn tư bản thương mại) đã làm ảnh hưởng nghiêm
trọng đến nền kinh tế Hàn Quốc,. Mục tiêu khi thành lập các Chacbol (1960) là vực dậy nền
kinh tế đổ nát sau chiến tranh Triều Tiên. do khuyến khích mở rộng thất thường lại thiếu kiểm
soát nên hoạt động của các Chacbol bắt đầu hoạt động kém hiệu quả.
năm 2001, nền kinh tế Hàn Quốc gặp một số khó khăn do ảnh hưởng từ sự suy giảm
nền kinh tế Mỹ và Nhật Bản làm cho xuất khẩu của Hàn Quốc bị suy giảm dẫn đến tốc độ
tăng trưởng của nền kinh tế Hàn Quốc đã bị suy giảm, năm 2001: 3,1% đến 2008: 5,8%.
sự phát triển kinh tế quá nhanh cũng ảnh hưởng xấu đến xã hội Hàn Quốc. Việc bùng nổ dân
đô thị đã gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến các vấn đề xã hội như nhà ở, việc làm, chất thải
công nghiệp gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng.
Tỉ lệ lạm phát tăng cao trong khi nền kinh tế lại đi xuống 2.2. HỒNG KÔNG .
Nằm trên bờ biển Đông Nam của Trung Quốc. Là “thuộc địa” vẫn chưa giành được độc lập. 8
Hồng Kông có diện tích: 1.104km2, dân số: 6,99 triệu người. Trong đó người Hoa chiếm
95% dân số. Ngôn ngữ chủ yếu là tiếng Anh và tiếng Quảng Đông. Đặc khu hành chính Hồng
Kông là thương cảng quốc tế và là trung tâm thương mại, tiền tệ quốc tế nổi tiếng. Hồng Kông
từng là lãnh thổ phụ thuộc Vương Quốc Anh và Bắc Ireland từ năm 1842 đến khi chuyển giao
chủ quyền cho Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa vào ngày 1/7/1997, chấm dứt 156 năm là thuộc
địa của Anh. Hồng Kông có một trung tâm là thành phố Victoria nằm trên bán đảo Hồng Kông và bán đảo Côn Luân
Về điều kiện tự nhiên: Hồng Kông có ít đất bằng phẳng. Trong số 1.104 km2 của lãnh
thổ, chỉ có khoảng 25% là đất có thể sử dụng được. Còn phần lớn là đất đồi núi với các sườn
dốc. Ở Hông Kông có khoảng 4% diện tích đất dành cho công viên thôn quê và các khu dự
trữ. Nguồn tài nguyên khoáng sản thì nghèo nàn. Vì vậy hầu hết nguyên liệu và lương thực
đều phải nhập khẩu từ bên ngoài. Bờ biển dài, có nhiều vịnh, sông và bãi biển đẹp là nơi du lịch hấp dẫn.
Về điều kiện kinh tế - xã hội: Hồng Kông có dân số: 6,99 triệu người (2006). Trong đó
95% là người gốc Hoa, còn lại 5% là các dân tộc khác. Mật độ dân số: 6.200 người/km2. Dân
số Hồng Kông tiếp tục gia tăng do làn sóng di cư từ Trung Hoa Đại Lục khoảng 45.000 người mỗi năm.
, Hồng Kông vẫn phải phụ thuộc và chịu sự kiểm soát của Trung Quốc . , khác với
Singapore, Hàn Quốc, Đài Loan, ngay từ đầu Hồng Kông đã bỏ qua chiến lược công nghiệp
hóa thay thế hàng nhập khẩu mà đi thẳng vào chiến lược công nghiệp hóa hướng về xuất
khẩu. Vì thị trường nội địa quá nhỏ bé nên chiến lược thay thế hàng nhập khẩu sẽ không có hiệu quả.
Trong giai đoạn đầu của chiến lược công nghiệp hóa hướng về xuất khẩu, Hồng Kông
tập trung chủ yếu vào các ngành công nghiệp nhẹ, công nghiệp tiêu dùng sử dụng nhiều lao
động như quần áo, đồ chơi trẻ em, giày dép. . Đến những năm sau này, khi giá nhân công lao
động đắt, lợi thế về những mặt hàng tiêu dùng không còn nữa, Hồng Kông đã chuyển giao
công nghệ sản xuất sang các nước láng giềng khác như Trung Quốc, ASEAN. Bước vào thập
niên 1990, Hồng Kông đã chuyển hướng tập trung vào phát triển những ngành đòi hỏi kỹ
thuật cao và thâm dụng chất xám như điện tử, kĩ thuật điện tử, máy chính xác viễn thông.
Cơ cấu kinh tế của Hồng Kông, ngay từ những năm 1960 đã chủ yếu là dịch vụ và công
nghiệp. Trong lĩnh vực tài chính ngân hàng, có trên 500 cơ quan tài chính ngân hàng của các
nước trên thế giới đặt trụ sở tại Hồng Kông trong đó có 85 ngân hàng lớn nhất trên thế giới,
Trong cơ cấu ngành dịch vụ, các lĩnh vực tài chính ngân hàng, du lịch và vận tải hàng hải là
những lĩnh vực quan trọng và đang chiếm ưu thế.
2.2.3.2. Những kết quả đạt được 9
Ngày nay, Hồng Kông đã trở thành những nước có nền kinh tế phát triển với tốc
độ tăng trưởng khá cao. Bước sang những năm 1990, nền kinh tế Hồng Kông có nhiều biến
động do ảnh hưởng từ cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á năm 1997. Tuy nhiên, tốc
độ tăng trưởng kinh tế vẫn duy trì ở mức 5,3% (1998).
Năm 2006, GDP của Hồng Kông đạt 253,1 tỷ USD, xếp thứ 40 thế giới. GDP bình quân
đầu người đạt 36.500 USD, xếp thứ 14 thế giới Dự trữ ngoại tệ xếp thứ 7 trên thế giới năm
2006. đời sống của người dân Hồng Kông cũng được nâng cao. Năm 2004, thu nhập bình
quân đầu người của Hồng Kông đạt 26.910 USD. 48% dân số Hồng Kông đã có nhà riêng,
52% được Nhà nước giúp đỡ về chỗ ở, trong đó có 39% số người được thuê nhà của Nhà nước.
Ngày nay Hồng Kông đã trở thành một trung tâm tài chính lớn thứ hai ở Châu Á chỉ đứng
sau Nhật Bản và trong 10 năm liền (1997 - 2007) Hồng Kông được bình chọn là nền kinh tế tự do nhất thế giới.
Nguyên nhân thành công
Hồng Kông đã xác định đúng lợi thế của mình, tức là cửa ngõ để đi vào Trung Quốc -
một nền kinh tế có rất nhiều tiềm năng để trở thành cường quốc trong tương lai
Hồng Kông còn duy trì một nền kinh tế tư bản chủ nghĩa cao được xây dựng trên nền kinh tế
thị trường và ít có sự can thiệp của Chính phủ. Chính phủ không vạch kế hoạch phát triển
cho từng thời kỳ như ở nhiều nước khác (chẳng hạn như ở Việt Nam) và cũng không có
ngân hàng Trung ương. Chức năng hoạt động chủ yếu của Chính phủ là lo việc xây dựng cơ
sở hạ tầng và cung cấp một số dịch vụ công cộng. Vì phải chi phí ít nên các khoản thu của
Chính phủ cũng ít dẫn đến việc thuế thu nhập của Hồng Kông vào loại thấp nhất thế giới,
không có thuế hải quan. Chính điều này đã hấp dẫn các nhà đầu tư và hoạt động mậu dịch
quốc tế cũng có điều kiện để phát triển tốt hơn
Hồng Kông có một hệ thống pháp luật rất hoàn chỉnh và đồng bộ, mọi người dân đều
có ý thức sống và làm việc theo pháp luật, cho nên tuy không có sự can thiệp sâu vào các
hoạt động của các doanh nghiệp, các cá nhân, nhưng Chính phủ vẫn đảm bảo được vai trò của mình.
Hồng Kông đã sớm thực hiện chiến lược công nghiệp hóa hướng về xuất khẩu mà bỏ
qua chiến lược thay thế hàng nhập khẩu. Hồng Kông đã áp dụng tổng thể các chính sách
khuyến khích xuất khẩu tối đa cùng với đó là đa dạng hóa các loại sản phẩm. Vì vậy mà các
sản phẩm của Hồng Kông rất đa dạng phong phú, mẫu mã đẹp, chất lượng tốt, phù hợp với
thị hiếu của người tiêu dùng. Ở Hồng Kông có khoảng 50% số loại sản phẩm nhập khẩu để
rồi tái chế đi nơi khác. Vì vậy mà tổng kim ngạch xuất khẩu của Hồng Kông lớn hơn nhiều
so với tổng sản phẩm quốc nội. 10
Hồng Kông là một lãnh thổ có tỉ lệ đầu tư cao, thường trên 30% so với GDP. việc hoạch
định các chiến lược phát triển kinh tế cũng như sự nỗ lực của Chính phủ và những điều kiện
thuận lợi do các yếu tố khách quan mang lại là những nguyên nhân quan trọng dẫn đến sự
thành công của nền kinh tế Hồng Kông
2.2.3.4. Những khó khăn, thách thức
Sau 156 năm là thuộc địa của Anh, Hồng Kông đã được trao trả về Trung Quốc ngày
1/7/1997. Trong hơn 10 năm nơi này đã trải qua hai cuộc khủng hoảng kinh tế trong đó có
cơn bão táp tài chính Châu Á năm 1997. Cuộc khủng hoảng làm tốc độ tăng trưởng kinh tế
giảm xuống còn 5,3%. Trong khi đó, thị trường cổ phiếu và thị trường nhà ở sa sụt dữ dội,
nền kinh tế xuất hiện tình trạng tăng trưởng âm
Sự kiện ngày 11/9/2001 cũng đã tác động tiêu cực đến nền kinh tế Hồng Kông. Thời điểm
này tốc độ tăng trưởng kinh tế toàn cầu bắt đầu tăng chậm lại, kinh tế Hồng Kông lại một lần
nữa xuống dốc. Hơn nữa, Hồng Kông từng là tâm điểm của các đợt bùng phát dịch cúm gia
cầm. Năm 2003, nền kinh tế này đã đã bị ảnh hưởng nghiêm trọng bởi sự bùng nổ dịch
SARS, làm tốc độ tăng trưởng kinh tế giảm xuống còn 2,3%, khiến 300 người thiệt mạng
gây ra nhiều khó khăn cho các hoạt động kinh tế.
các ngành công nghiệp của Hồng Kông chủ yếu nghiêng về ứng dụng, bắt trước, ít
đầu tư khoa học cơ bản nên những mặt hàng kĩ thuật cao chưa có điều kiện để phát triển
mạnh Việc thiếu mặt bằng và phí tổn cao đang là những khó khăn cản trở các nhà đầu tư.
tuy Trung Quốc là động lực mạnh nhất của Hồng Kông xét về lâu dài, nhưng trước mắt
những rủi ro của nền kinh tế Trung Quốc trong quá trình cải cách sẽ tác động không nhỏ đến nền kinh tế Hồng Kông. 2.3. ĐÀI LOAN
Đài Loan là một vùng lãnh thổ hải đảo, nằm ở ngoài khơi Đông Nam Đại Lục Trung
Quốc và cách Trung Hoa Lục Địa 150 km theo đường chim bay, gần với tỉnh Phúc Kiến
Trung Quốc. Đài Loan gồm có đảo chính là đảo Đài Loan và trên 80 đảo nhỏ lân cận. Tổng
diện tích của Đài Loan là 36.000 km2.Dân số: 22.700.000 người. Ngôn ngữ chính là tiếng
phổ thông, ngoài ra còn có thổ ngữ Hakka và Minna (Người Phúc Kiến - Đài Loan). Thành
phần dân tộc chủ yếu là người Đài Loan chiếm 84%, người Trung Hoa: 14%, thổ dân: 2%.
Lịch sử Đài Loan trải qua nhiều bước thăng trầm. Thế kỉ XV, Nhật Bản chiếm giữ phân
nửa phía đông của đảo. Đến năm 1590, người Bồ Đào Nha đã chiếm giữ đảo Đài Loan và đặt
tên đảo là Formosa nghĩa là “hòn đảo xinh đẹp”. Trước thế kỷ XVII, Đài Loan là thuộc địa
của Hà Lan. Cuối thế kỷ XVII, Trung Quốc bắt đầu cai trị Đài Loan. Đến cuối thế kỷ XIX,
Đài Loan lại được nhượng lại cho Nhật Bản. Sau chiến tranh thế giới thứ II, Đài Loan được trao trả về Trung Quốc. 11
Đài Loan là một vùng lãnh thổ hải đảo, nằm trong khu vực Châu Á - Thái Bình Dương.
Ngoài đảo chính Đài Loan còn có trên 80 đảo lớn nhỏ khác nhau. Đảo Đài Loan dài 394 km
và rộng 144 km2, gồm nhiều dãy núi dốc và bao phủ bởi hệ thực vật nhiệt đới.
Phía Bắc là Đông Hải của Trung Quốc Phía Nam giáp Biển Đông
Phía Đông giáp với Thái Bình Dương
Phía Tây giáp eo biển Đài Loan
Đài Loan là một vùng lãnh thổ nghèo tài nguyên, chỉ có một ít than đá, gỗ và hơi đốt. Đất
đai nhỏ hẹp phần lớn lại là rừng núi, đất canh tác chỉ chiếm khoảng 25%. Nhưng Đài Loan
vẫn có một nền nông nghiệp hoàn hảo với 3 vụ lúa mỗi năm. Trong chiến tranh thế giới thứ
II, Đài Loan là nước cung cấp lúa và mía cho chính quốc Nhật Bản. Bên cạnh đó, Đài Loan
còn có nhiều bến cảng đánh cá và các con tàu đánh bắt trên biển Thái Bình Dương.
Dân số Đài Loan: 22,7 triệu người (2004). Mật độ dân số > 600 người/km2. Mức tăng dân
số chỉ có 1%. Dự tính 30 năm sau, dân số của Đài Loan cũng chỉ có trên 25 triệu người.
Hiện nay, Đài Loan vẫn chỉ được coi là một phần của Trung Hoa Đại Lục. Do đó Đài Loan
gặp rất nhiều khó khăn trong quan hệ ngoại giao với các nước khác trên thế giới và nhiều khi
không nhận được sự giúp đỡ của các Tổ chức Tài chính tiền tệ Quốc tế.
2.3.3. Quá trình phát triển kinh tế
ngay từ đầu trong cơ cấu kinh tế, Đài Loan đã ưu tiên phát triển nông nghiệp nhằm tạo vốn
tích lũy ban đầu để phát triển công nghiệp. Đồng thời Chính phủ cải tổ bộ máy Nhà nước,
thành lập hội đồng có thẩm quyền để giải quyết các thủ tục một cách nhanh chóng dễ dàng,
tạo điều kiện để thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Mặt khác, Chính phủ còn tiến hành xây dựng
kiến trúc hạ tầng thuận lợi cho việc đi lại, giao thông liên lạc và sinh hoạt
Quá trình phát triển nông nghiệp của Đài Loan được chia làm 3 giai đọan:
Giai đoạn 1: Thời kì cải cách ruộng đất và khôi phục sản xuất nông nghiệp.
Chính phủ Đài Loan đã thực hiện giảm tô, bán ruộng đất cho nông dân và thực hện người cày có ruộng. Ngày 14/4/1949.
Giai đoạn 2: Thời kỳ phát triển nông nghiệp để nuôi dưỡng công nghiệp (1953-1968)
Tăng sản lượng nông nghiệp bằng các biện pháp thâm canh và đa dạng hóa sản phẩm,
đảm bảo đáp ứng đủ nhu cầu lương thực trong nước, tiến tới nâng cao chất lượng dinh
dưỡng trong bữa ăn cho người nông dân.
- Mở rộng xuất khẩu nông sản, từ đó thực hiện cân bằng xuất nhập khẩu.
- Tăng cường cung cấp nguyên liệu và lao động cho công nghiệp.
Giai đoạn 3: Thời kỳ phát triển nông nghiệp với sự hỗ trợ của công nghiệp (từ 1970 đến nay). 12
thay đổi theo hướng giảm tỉ trọng của các ngành nông nghiệp, tăng tỉ trọng của các ngành
công nghiệp và dịch vụ. công nghiệp lại hỗ trợ mạnh mẽ cho các ngành nông nghiệp, giúp
nông nghiệp thực hiện cơ giới hóa, thủy lợi hóa, hóa học hóa, và mở rộng quy mô trang trại,
tạo điều kiện để lao động nông nghiệp đi tìm việc làm ngoài trang trại.
Đối với ngành công nghiệp, Đài Loan đã thực hiện chiến lược công nghiệp hóa hướng về
xuất khẩu. Đài Loan chú trọng phát triển các ngành công nghiệp nhẹ, những ngành đòi hỏi
nhiều lao động như: sản xuất các mặt hàng tiêu dùng, chế biến lương thực thực phẩm, dệt
may, da giày, đồ chơi trẻ em,. . nhằm đáp ứng nhu cầu trong nước, thay thế các mặt hàng
nhập khẩu. Nhưng Đài Loan vẫn phải nhập khẩu những nguyên liệu, vật tư, bán thành
phẩm. . để phục vụ cho quá trình công nghiệp hóa.
giai đoạn 2 của chiến lược công nghiệp hóa, Đài Loan đã tập trung đầu tư phát triển một
số ngành công nghiệp nặng, những ngành đòi hỏi hàm lượng khoa học công nghệ cao như
điện tử, kĩ thuật điện tử, tin học hóa chất, công nghệ sinh học. . Đồng thời, chuyển giao công
nghệ và đầu tư sang các nước đang phát triển.
Đài Loan thực hiện theo phương châm: nông dân làm việc có thỏa đáng, chính quyền thu
được nhiều thuế, doanh nghiệp có lãi.
2.3.3.2. Những kết quả đạt được
Đài Loan đã thu hút sự quan tâm của thế giới bởi tốc độ tăng trưởng kinh tế nhảy
vọt. Trong suốt 40 năm từ (1950 - 1990) tốc độ tăng trưởng kinh tế mỗi năm của Đài Loan
đạt 9%.Trongthậpniên1960,nhờcósựđầutưcủanướcngoài,nhiềungànhkỹthuậttiêntiến
đã được đưa vào Đài Loan. Chẳng mấy chốc, đảo quốc này trở thành một trong những nước
xuất cảng chính các loại máy móc, điện tử, thiết bị điện và các sản phẩm bằng plastic. Sang
thập niên 1970, Chính phủ Đài Loan đã tài trợ những dự án quy mô lớn, trong đó có các
ngành công nghiệp cơ bản như: hóa dầu, luyện sắt thép và tạo điều kiện thuận lợi cho kỹ
nghệ đóng xe hơi trong nước phát triển lớn mạnh. Thập niên 1980, đánh dấu thời kỳ tăng
trưởng mạnh các ngành kỹ thuật điện tử, chế tạo máy và tin học ở Đài Loan. thập kỷ 1990,
Đài Loan đã trở thành một trong những vùng lãnh thổ hàng đầu về công nghiệp viễn thông
và bán dẫn với giá trị sản xuất đứng thứ ba thế giới.
Tốc độ tăng trưởng trung bình hàng năm đạt gần 8%. GDP - tỉ lệ tăng trưởng thực:
4,6% (2006).Tổng sản phẩm quốc nội(GNP) của Đài Loan đạt 310,7 tỉ USD (2004). Hiện có
trên 1/2 công nhân viên Đài Bắc đi làm bằng xe hơi riêng, 1/3 thu nhập gia đình được dùng
vào việc giải trí, đặc biệt là nhu cầu du lịch ngày càng tăng lên
Cơ cấu ngành kinh tế của Đài Loan đã có sự thay đổi đáng kể. Năm1990, nông nghiệp
chiếm 4,2%, công nghiệp: 43,4%, dịch vụ: 52,4%. Đến năm 2005: nông nghiệp chiếm: 1,6%.
Công nghiệp chiếm 29,3% và dịch vụ chiếm: 72,7%. Lao động làm trong các ngành 13
kinh tế cũng đã có sự thay đổi đáng kể. Năm 2005, lực lượng lao động làm trong ngành nông
nghiệp là: 6%, trong công nghiệp là: 35,8%, và dịch vụ là: 58,2%.
Ngày nay, Đài Loan là nước có dự trữ ngoại tệ hàng đầu thế giới (chỉ đứng thứ 3 sau Nhật Bản và Trung Quốc).
2.3.3.3. Nguyên nhân thành công
Đài Loan đã xác định được trọng tâm phát triển kinh tế của mỗi thời kỳ. Lúc đầu là chú
trọng phát triển nông nghiệp, lấy nông nghiệp nuôi dưỡng công nghiệp để rồi sau này, khi
công nghiệp phát triển sẽ hỗ trợ mạnh mẽ cho ngành nông nghiệp phát triển. Do vậy mà cơ
cấu kinh tế của Đài Loan qua 40 năm đã thay đổi theo hướng nông nghiệp giảm dần, công
nghiệp và dịch vụ tăng lên.
Chính phủ Đài Loan có vai tò to lớn trong việc hoạch định các chính sách phát triển kinh
tế Ở trong mỗi thời kỳ, Chính phủ Đài Loan đều xác định rõ hướng đi cho từng ngành, giúp
cho cơ cấu ngành ngày càng hoàn thiện hơn. Vai trò của Chính phủ Đài Loan còn thể hiện rõ
nét trong quá trình phát triển các loại hình doanh nghiệp ở lãnh thổ này. Thời kì đầu, các
doanh nghiệp nhà nước đóng một vai trò quan trọng. Các doanh nghiệp nhà nước hoạt động
chủ yếu trong các ngành như: năng lượng, giao thông, công nghiệp quốc phòng, công nghiệp chế tạo quy mô lớn.
Vào năm 1990, các doanh nghiệp tư nhân đã chiếm tới 89% tổng giá trị sản lượng công
nghiệp, tổng số các doanh nghiệp quốc doanh chỉ chiếm khoảng 11%. Do sự hoạt động yếu
kém của các doanh nghiệp nhà nước, Chính phủ Đài Loan đã đưa ra nhiều chủ trương biện
pháp nhằm thúc đẩy các doanh nghiệp tư nhân phát triển. các doanh nghiệp có quy mô vừa
và nhỏ được khuyến khích và phát triển rất mạnh mẽ. Đến năm 1999, ở Đài Loan đã có tới
1.060.738 doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm 97,7% tổng số các doanh nghiệp. mà Đài Loan
nhanh chóng vượt qua được khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á năm 1997.
Chính phủ Đài Loan còn rất chú trọng đến phát triển thương mại quốc tế. đã áp dụng tổng
thể các biện pháp khuyến khích xuất khẩu bao gồm cả việc phá giá đồng nội tệ, giảm thuế
đánh vào các sản phẩm công nghiệp xuất khẩu, đa dạng hóa thị trường tiêu thụ sản phẩm
nhằm thoát khỏi sự lệ thuộc vào Nhật Bản và Mỹ và đối phó với chính sách bảo hộ mậu dịch
của phương Tây. Nhờ đó mà ngoại thương của Đài Loan đã có bước tăng trưởng đáng kể. .
Nếu năm 1971 chỉ mới đạt 216 triệu USD đến năm 1990 là 12,49 tỷ USD. Năm 1995
tăng lên là 13,31 tỷ USD và năm 2004 đạt tới 16,6 tỷ USD. Nhờ việc xuất siêu liên tục mà
Đài Loan đã trở thành một trong những nước có dự trữ ngoại tệ đứng hàng đầu thế giới.
thực thi những giải pháp để chuyển giao một số công nghệ chủ chốt được lựa chọn từ các nước
tiên tiến đồng thời thành lập các viện, trung tâm nghiên cứu để khám phá và cấy những công
nghệ học hỏi được này vào Đài Loan. 14
Hơn nữa, Đài Loan còn biết thâm nhập khéo léo vào thị trường vốn quốc tế bằng cách
đầu tư mạnh mẽ ra nước ngoài.
, yếu tố quan trọng nhất vẫn là con người. Hiến pháp của Đài Loan quy định rõ trên toàn bộ
lãnh thổ, tỷ lệ ngân sách dành cho giáo dục tối thiểu phải là 15%, ở cấp tỉnh, thành phố tối
thiểu phải là 25%, còn ở cấp huyện phải là 35%. Ở Đài Loan, phổ cập giáo dục bắt buộc là
cấp 2 (9 năm). , nền giáo dục của Đài Loan được đánh giá là một trong những nền giáo dục
có chất lượng cao của Châu Á. Môi trường giáo dục ở Đài Loan thân thiện, chất lượng tốt,
chi phí cho giáo dục tốt. Chính phủ Đài Loan luôn dành nhiều sự quan tâm và đầu tư cho giáo dục.
2.3.3.4. Những khó khăn, thách thức
Nhiều nước không dám công khai quan hệ của mình với Đài Loan vì sợ mếch lòng Trung
Quốc và vì Đài Loan không phải là một quốc gia theo nghĩa đầy đủ. Năm 1997, do ảnh hưởng
bởi cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á nên tốc độ tăng trưởng kinh tế của Đài Loan đã bị
suy giảm đi nhiều. Năm 1997, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Đài Loan là 6,42% đến năm 1998 -
một năm sau cuộc khủng hoảng, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Đài Loan chỉ còn 4,57%. Năm
2003, Đài Loan còn phải hứng chịu một số tổn thất nặng nề do dịch SARS gây ra. Đỉnh điểm
của dịch SARS kéo dài từ tháng 4 đến tháng 5.
23/7/2007, kinh tế Đài Loan đang ở tình trạng khó khăn nhất trong vòng 20 năm nay, do
cầu trên toàn thế giới đối với sản phẩm công nghệ cao suy giảm mạnh. Đài Loan đang phải
đối đầu với tình trạng thiếu lao động, giá nhân công ngày càng đắt làm giảm đi tính cạnh
tranh hàng hóa so với một số nước khác trong khu vực nhất là Trung Quốc và ASEAN. Vụ
khủng bố ngày 11/9/2001 ở Mỹ đã làm kim ngạch xuất khẩu của Đài Loan vào thị trường này giảm hẳn.
một số vấn đề xã hội, môi trường như nạn thất nghiệp, ma túy, mại dâm,. đang là những
vấn đề bức xúc đang đặt ra cần phải giải quyết đối với Đài Loan, đặc biệt là tệ nạn ma túy. 2.4. SINGAPORE
Cộng hòa Singapore là quốc gia nhỏ nhất của Đông Nam Á. Singapore nằm ở phía Nam
bán đảo Malaisia, giữa Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương. Đây là trung tâm của Đông Nam
Á và được coi là “ngã tư của Châu Á”. Singapore là hải cảng lớn nhất của Đông Nam Á, là
thành phố thương nghiệp và trung tâm giao dịch trọng yếu đồng thời là trung tâm tiền tệ và
hàng không quốc tế. Singapore có diện tích 692,7 km2. Dân số: 4.492.150 người (ước tính
đến tháng 7/2006). Thủ đô của Singapore là Singapore. Ngôn ngữ: Tiếng Hoa (35%), tiếng
Anh (23%), tiếng Malay (14.1%). Tôn giáo chính: Hồi giáo, Thiên chúa giáo, Phật giáo, Hin
đu. Đơn vị tiền tệ: Dollar Singapore (SGD).
. Đến thế kỷ XIX, Singapore trở thành thuộc địa của Anh (1867) và là một cảng khẩu thương
mại và căn cứ quan trọng của Anh tại Châu Á. Đế quốc Anh đã nhanh chóng đưa Singapore 15
trở thành trung tâm tập trung và phân phối dựa vào vị trí rất quan trọng của nó trên con
đường biển nối giữa Châu Âu và Trung Quốc. Trong thế chiến thứ II (1942-1945), Nhật Bản
chiếm đóng Singapore và đổi tên Singapore thành “Syonan-to” nghĩa là “Ánh sáng miền
Nam”. Năm 1959, Singapore được trao trả độc lập sau đó tự nguyện gia nhập và trở thành
một liên bang của Malaisia. Năm 1965, Singapore tách ra khỏi Malaisia và thành lập một nhà nước độc lập.
2.4.2. Điều kiện để phát triển kinh tế
Singapore là một hòn đảo có hình dạng một viên kim cương bao quanh bởi nhiều đảo nhỏ
khác. Là quốc gia nhỏ nhất trong các nước NICs, nằm ở phía Nam bán đảo Malacca cách xích
đạo 137 km và nằm ở phía Bắc đảo Riau của Indonesia. Singapore gồm một đảo lớn là
Singapore và 50 đảo nhỏ. Đảo Singapore nối với đất liền bằng đập bê tông, dài >1km, được xây
dựng từ thời thuộc địa của Anh gồm một đường ô tô, một đường sắt và một đường ống dẫn nước.
Singapore là một đất nước đất không rộng nhưng có ưu thế lớn nhất là ở vào vị trí chiến lược
rất quan trọng, nằm trên đường giao thông quốc tế từ Tây sang Đông, một bến cảng, một trạm
dừng chân của các tàu biển từ Thái Bình Dương qua Ấn Độ Dương và ngược lại. Singapore có
đường bờ biển dài có thể nối các nơi trên lục địa. Hàng hóa vận chuyển qua cảng mỗi năm
khoảng 30 - 40 triệu tấn, trong đó 75% khối lượng hàng là dầu mỏ. Hiện nay Singapore là hải
cảng lớn thứ 4 trên thế giới và lớn nhất của khu vực Đông Nam Á.
Về điều kiện tự nhiên, hầu như không đáng kể. Quỹ đất nông ít, diện tích đất canh tác hẹp
chỉ chiếm khoảng 1,9% tổng diện tích đất tự nhiên và 4,5% là diện tích đất rừng. Do đó không
có khả năng để phát triển nông nghiệp. Đất đai ở đây chỉ có thể trồng được một số loại cây như:
cao su, dừa, rau và một số loại cây ăn quả. Vì vậy, để đáp ứng đủ nhu cầu trong nước, hàng năm
Singapore vẫn phải nhập khẩu lương thực từ các nước khác. Không có đất, Singapore đã mở
mang lãnh thổ bằng cách lấy đất từ những ngọn đồi, đáy biển và các nước vùng lân cận. Nhờ
đó, diện tích của Singapore đã tăng lên từ 581,5 km2 ở thập niên 1960 và hiện nay lên đến 692,7
km2 (xấp xỉ diện tích huyện Cần Giờ - Thành phố Hồ Chí Minh) và có thể diện tích đất của
Singapore sẽ tăng thêm 100 km2 vào năm 2030.
Tài nguyên khoáng sản thì nghèo nàn, chỉ có ít than, chì, nham thạch, một ít đất đá, vật liệu
xây dựng và một trung tâm chứa và lọc dầu của Anh quốc để lại sau chiến tranh. Tài nguyên
nước phong phú nhưng chủ yếu là nước mặn, nguồn nước ngọt của Singapore rất ít. Không có
nước ngọt từ sông và hồ, nguồn cung cấp nước chủ yếu của Siangapore là từ những trận mưa
rào được giữ lại trong những hồ chứa nước hoặc lưu vực sông. Mưa rào cung cấp khoảng 50%
lượng nước, phần còn lại được nhập khẩu từ Malaisia hoặc lấy từ nguồn nước tái chế - một loại
nước có được sau quá trình khử muối. Nhiều nhà máy sản xuất nước tái chế đang được đề xuất
và xây dựng nhằm hạn sự phụ thuộc vào việc nhập khẩu nước ngọt. 16
Về điều kiện kinh tế xã hội: dân số của Singapore chỉ hơn 4 triệu người (bằng khoảng
một nửa số dân của Thành phố Hồ Chí Minh). Thành phần dân tộc chủ yếu là người Hoa:
76,8%, người Mã Lai: 13,9%, người Ấn Độ, người Pakistan và XriLanka chiếm khoảng:
7,9%, người gốc khác chiếm 1,4%. Dân số Singapore tuy ít nhưng chất lượng nguồn lao
động của Singapore được đánh giá vào loại tốt nhất Châu Á. Lực lượng lao động của
Singapore được đào tạo tốt, họ vừa có chuyên môn lại thạo tiếng Anh, vừa có thái độ lao
động nghiêm túc nên hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài. Singapore rất chú trọng đến công
tác đào tạo và nghiên cứu khoa học. Ở Singapo, ngoài trường Đại học quốc gia còn có khu
vườn khoa học, trung tâm nghiên cứu công nghệ cao cấp, các viện nghiên cứu nhà nước và
tư nhân. . Trình độ dân trí của người dân ngày càng được nâng cao. Đội ngũ cán bộ khoa học
kỹ thuật ngày càng đông. Singapore còn là một dân tộc năng động và nhạy cảm, có tài trong
việc làm ăn và kinh doanh.
Nhưng Singapore lại nằm ở một vị trí hết sức thuận lợi nằm trên đường giao thông quốc
tế từ Bắc xuống Nam, từ Tây sang Đông, một trạm dừng chân của tàu biển khi đi từ Thái
Bình Dương qua Ấn Độ Dương. Ngày nay, Singapore đã trở thành một đất nước phồn thịnh,
giàu có, được xếp vào hàng ngũ những nước công nghiệp mới -
2.4.3. Quá trình phát triển kinh tế
Chính phủ Singapore đã đưa ra nhiều biện pháp và lựa chọn chiến lược công nghiệp hóa
hướng về xuất khẩu nhằm đưa Singapore vươn tới một thị trường rộng lớn hơn ở bên ngoài.
Trong giai đoạn đầu, Singapore tập trung đầu tư sản xuất các mặt hàng thâm dụng lao
động như dệt may, giày dép, quần áo, đồ chơi trẻ em,. . với mục đích tạo thêm việc làm cho
người lao động đồng thời thay thế hàng nhập khẩu.
Bước sang giai đoạn 2 của chiến lược công nghiệp hóa (thập niên 1970) Singapore tập
trung vào sản xuất những ngành công nghiệp nặng thâm dụng vốn như đóng tàu, lọc dầu.
Chính phủ Singapore cũng đặc biệt chú ý đến việc tăng cường cơ sở kinh tế hạ tầng cơ bản,
việc nâng cao chuyên môn nghiệp vụ và tay nghề cho công nhân, mở rộng chuyển giao, đổi
mới công nghệ với các nước tư bản phát triển như Mỹ, Nhật Bản, Tây Âu,. .
Sang thập kỷ 80, Singapore lại tập trung đầu tư vào một số ngành công nghiệp kỹ thuật
cao như: luyện kim, chế tạo máy, máy chính xác, quang học, y học, điện tử, kĩ thuật điện
tử,. Đến thập niên 90, Singapore chú ý nhiều đến một ngành là cầu nối giữa các quốc gia
trong xu hướng toàn cầu hóa, đó là ngành công nghệ thông tin. Với dự án “xây dựng đảo
quốc thông minh”, Singapore sẽ nối mạng máy tính đến 100% gia đình, tức là thực hiện toàn
dân sử dụng Internet. Ngày nay, ở Singapore có khoảng 50% số gia đình nối mạng Internet.
2.4.3.2. Những kết quả đạt được 17
Tổng GDP năm 2004 đạt 116,3 tỉ USD, đến năm 2005 đạt 124,3 tỉ USD và GDP (PPP)
đạt 138,6 tỉ USD (2006). Tổng sản phẩm quốc dân liên tục tăng. Trong vòng 25 năm (1966-
1991), tổng sản phẩm quốc dân tăng 8,6 lần, mức tăng trung bình hàng năm là 8,9%.
Cơ cấu kinh tế của Singapore cũng đã có sự thay đổi ngày càng phù hợp hơn. Nông
nghiệp: 0%, công nghiệp: 3,6%, dịch vụ: 66,4%.
Trong lĩnh vực dịch vụ, Singapore chú trọng đầu tư phát triển trong các lĩnh vực ngân
hàng, tài chính, bảo hiểm, giao thông vận tải, đặc biệt là trong lĩnh vực du lịch. Ngày nay,
Singapore có một hệ thống giao thông vận tải rất phát triển kể cả hệ thống giao thông đường
biển và đường hàng không.
Đối với ngành giao thông vận tải: Singapore đang xây dựng các cảng côngtenơ đầu tiên ở
Đông Nam Á và cảng Singapore trở thành hải cảng hàng đầu trên thế giới về số lượng côngtenơ bốc dỡ.
Singapore còn chú trọng đầu tư xây dựng các sân bay lớn, hiện đại, các khách sạn đạt tiêu
chuẩn quốc tế và hệ thống thông tin liên lạc hoàn chỉnh. Singapore hiện trở thành đầu mối
giao lưu thương mại quốc tế quan trọng.
Trong lĩnh vực tài chính, hiện Sinagpore trở thành trung tâm tài chính quốc tế ở Châu Á
với số lượng lớn các ngân hàng, công ty tài chính, thị trường chứng khoán và bảo hiểm.
Singapore còn là trung tâm trao đổi ngoại tệ lớn thứ 4 thế giới sau Luân Đôn, New york, Tôkiô.
Bên cạnh đó, Singapore có một nền giáo dục tiên tiến hiện đại, khoảng 1/3 số sinh viên đi
du học ở nước ngoài. Khoảng cách giữa người giàu và người nghèo ngày càng thu hẹp.
Ngày nay, Singapore là một trong những nền kinh tế thịnh vượng nhất thế giới. Và khi nói
đến Singapore người ta liên tưởng ngay đến một đất nước của du lịch, của các ngành kỹ
thuật mới, của một thành phố cảng đầy năng động và vững mạnh như chính tên gọi “Sư tử” của nó.
2.4.3.3. Nguyên nhân thành công
Chính phủ Singapore có vai trò quan trọng trong việc hoạch định các chiến lược phát
triển kinh tế. Singapore đã sớm lựa chọn chiến lược công nghiệp hóa hướng ra xuất khẩu.
Đây là bước đi phù hợp bởi lẽ, xuất phát từ điều kiện cụ thể của một đất nước đất không
rộng, dân số thì quá ít, thị trường nội địa không thể là cơ sở cho việc vận hành nền kinh tế
mà phải hướng mạnh ra bên ngoài và phải dựa vào thị trường thế giới.
Singapore có diện tích nhỏ bé - nhỏ nhất trong số 4 nước NICs, tài nguyên thiên nhiên nghèo
nàn, tiềm năng để phát triển nông nghiệp hầu như không có nên ngay từ đầu, trong cơ cấu
ngành kinh tế Singapore đã phát triển công nghiệp và dịch vụ. Đây là 2 ngành cơ bản nhất của
nền kinh tế quốc dân, trong đó ngành dịch vụ được chú trọng phát triển hơn cả. 18
Đối với ngành công nghiệp, trong giai đoạn đầu Singapore đã tập trung đầu tư phát triển
những ngành công nghiệp mà Singapore có nhiều lợi thế như sản xuất hàng tiêu dùng, công
nghiệp dệt may, da giày,. . để vừa có thể đáp ứng nhu cầu trong nước vừa thay thế các mặt hàng nhập khẩu.
Và đến những năm sau này, Singapore tập trung đầu tư phát triển những ngành công nghiệp
thâm dụng vốn, ngành công nghiệp đòi hỏi trình độ khoa học công nghệ cao. Singapore đã sớm
bước vào phát triển nền kinh tế tri thức với các ngành công nghệ thông tin, công nghệ sinh học,
sản xuất máy cơ khí chính xác, điện tử, kĩ thuật điện tử.
Singapore còn chú trọng đầu tư xây dựng các sân bay, bến cảng hiện đại. Trong đó, sân
bay Changi được đánh giá vào loại tốt nhất bởi chất lượng phục vụ và mức độ tiện nghi an
toàn cao. Cùng với bến cảng Singapore và sân bay Changhi là một trong những sân bay và
bến cảng hiện đại nhất thế giới Điều này không chỉ giúp cho Singapore trở thành trung tâm
kinh tế, thương mại và giao lưu quốc tế mà còn là nơi hấp dẫn khách du lịch và là nơi quá
cảnh thuận lợi cho mọi hoạt động của con người.
Singapore còn tạo ra môi trường kinh doanh thông thoáng, hấp dẫn để thu hút nguồn vốn
đầu tư từ nước ngoài. Singapore đã sử dụng nguồn vốn đầu tư ấy một cách có hiệu quả, tiếp
cận trực tiếp với các công ty đa quốc gia.
So với các nước NICs khác, tỷ lệ đầu tư của Singapore thường cao nhất luôn đạt trên 40%
so với GDP.nước này đã có một bộ máy lãnh đạo tuyệt vời. Chính phủ nước này không chỉ
quan tâm đến việc phát triển kinh tế mà còn quan tâm đến các vấn đề xã hội, luôn đề cao
truyền thống Á Đông lên trên hết. Chính phủ Singapore đặc biệt quan tâm đến vấn đề giáo dục, đào tạo nhân tài.
Bởi ngay từ đầu, Chính phủ Singapore đã thực hiện một chính sách tỷ giá thích ứng, thả
nổi đồng dollar Singapore để tạo động lực xuất khẩu. Hơn thế nữa, Singapore vốn là một
nước có cơ sở kinh tế và chính trị vững mạnh, tỷ lệ lãi xuất tiết kiệm cao, các khoản thặng
dư ngân sách nhiều và dự trữ ngoại tệ lớn > 80 tỷ USD, đầu tư trực tiếp nước ngoài nhiều. .
nên Singapore đã nhanh chóng thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng, tốc độ tăng trưởng kinh tế
của Singapore thời kỳ này vẫn đạt tới 8,5% - cao nhất trong số các nước NICs.
2.4.3.4. Những khó khăn, thách thức
Năm 1997, cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á đã lan rộng ra toàn khu vực Châu
Á-Thái Bình Dương, nước chịu ảnh hưởng nặng nề nhất bởi cuộc khủng hoảng tài chính này
là Hàn Quốc. Singapore ít chịu tác động bởi cuộc khủng hoảng hơn so với các nước trong khu vực.
Năm 2001, Singapore rơi vào suy thoái lần đầu tiên do chịu ảnh hưởng nặng nề của suy
thoái kinh tế toàn cầu. Theo đánh giá của các nhà kinh tế thì đây là cuộc suy thoái tồi tệ nhất
trong lịch sử 36 năm của đảo quốc này, tốc độ tăng trưởng kinh tế thời kì này giảm xuống còn 19
- 2,4%, tỷ lệ thất nghiệp ở mức 4,5% cao hơn cả trong thời kỳ diễn ra cuộc khủng hoảng tài
chính năm 1997. : Thứ nhất, do sự chững lại của các nền kinh tế lớn trên thế giới như Mỹ, EU,
Nhật Bản. Thứ hai, là do sự suy giảm nhanh chóng của các ngành công nghiệp máy tính và
điện tử trên phạm vi toàn thế giới. , tác động của thảm họa ngày 11/9/2001 ở Mỹ càng làm cho
khó khăn của Singapore thêm chồng chất.
Nhưng bản thân nền kinh tế Singapore vẫn còn tồn tại những mặt hạn chế, đó là sự thiếu hụt
nguồn nhân công lao động kéo theo việc tăng tiền lương và việc mất đi khả năng cạnh tranh với các
“con hổ” ở Đông Nam Á. Hơn thế nữa, những bất bình đẳng về mặt lợi tức trong xã hội Singapore
ngày càng lớn, người Hoa chiếm giữ những ngành kinh tế quan trọng, chủ chốt, còn những người
thiểu số Mã Lai, Ấn Độ luôn là những thành phần nghèo.
Những vấn đề về mặt đời sống, xã hội như nhà ở, việc làm, nạn thất nghiệp, ô nhiễm môi trường
đang là những vấn đề khá gay gắt ở Singapore. Hiện nay, tỷ lệ lạm phát ở Singapore ngày càng gia tăng. CHƯƠNG 3
NGUYÊN NHÂN THÀNH CÔNG VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM 1.
Nguyên nhân thành công
Trước hết, các nước NICs Châu Á đã xác định cho mình một chiến lược phát triển kinh tế
đúng đắn. Đó là chiến lược công nghiệp hóa hướng ngoại và đã thực hiện khá thành công.
Chiến lược công nghiệp hóa hướng ngoại của các nước NICs đều được chia làm 3 giai đoạn:
Giai đoạn 1: Chiến lược công nghiệp hóa thay thế nhập khẩu. Trong giai đoạn này, do trình
độ công nghệ chưa cao, sức mua của thị trường chưa lớn lắm, thị hiếu của người tiêu dùng
đơn giản do thu nhập thấp nên các nước NICs đã tập trung vào sản xuất các mặt hàng tiêu
dùng nhằm đáp ứng nhu cầu trong nước và thay thế hàng nhập khẩu, nhưng vẫn phải nhập
khẩu thành phẩm, bán thành phẩm, nguyên nhiên liệu từ bên ngoài để phục vụ cho quá trình phát triển kinh tế.
Giai đoạn 2: Chiến lược công nghiệp hóa hướng về xuất khẩu (những năm 1970). Trong
giai đoạn này, các nước NICs đã sử dụng kinh tế đối ngoại làm đòn bẩy cho quá trình công
nghiệp hóa, thực hiện mở của giao lưu kinh tế với bên ngoài, nhập vốn đầu tư, công nghệ kỹ
thuật và phát triển các ngành công nghiệp mũi nhọn mới, đẩy mạnh xuất khẩu hàng tiêu
dùng để thu về ngoại tệ. Với nguồn ngoại tệ thu được này, các nước NICs tập trung phát
triển một số ngành công nghiệp cần nhiều vốn. Đồng thời cũng đẩy mạnh những ngành công
nghiệp truyền thống như quần áo, giày dép, đồ chơi,. . Chiến lược công nghiệp hóa hướng
ngoại đã mang lại cho các nước NICs nhiều thành công và ngày nay các nước NICs không
còn đóng vai trò là kho hàng tái xuất thuần túy mà thực sự trở thành những nước xuất khẩu
nhiều sản phẩm công nghiệp, thậm chí có cả các sản phẩm công nghiệp mang hàm lượng
vốn lớn và khoa học kỹ thuật cao. 20