
















Preview text:
t
BÀI 5. TỔNG CẦU VÀ TỔNG CUNG Hướng dẫn học
Để học tốt bài này, học viên cần tham khảo các phương pháp học sau:
Học đúng lịch trình của môn học theo tuần, làm các bài luyện tập đầy đủ và tham gia thảo luận trên diễn đàn. Đọc tài liệu:
1. Bộ môn Kinh tế vĩ mô (Đại học Kinh tế Quốc dân), Giáo trình nguyên lý kinh tế học vĩ
mô, Nhà Xuất Bản Lao động, 2012.
2. Bộ môn Kinh tế vĩ mô (Đại học Kinh tế Quốc dân), Bài tập nguyên lý kinh tế vĩ mô,
Nhà Xuất Bản Lao động, 2012.
Tìm hiểu mô hình tổng cầu –tổng cung để lý giải được các biến động kinh tế trong ngắn hạn, quá
trình tự điều chỉnh trong dài hạn và vai trò của các chính sách vĩ mô trong ổn định kinh tế.
Học viên làm việc theo nhóm và trao đổi với giảng viên trực tiếp tại lớp học ONLINE hoặc qua email. Trang Web môn học. Mục tiêu
Giúp học viên hiểu được các nhân tố gây ra những biến động về sản lượng và mức giá
trong nền kinh tế thông qua việc nghiên cứu mô hình tổng cầu –tổng cung.
Giúp học viên vận dụng được mô hình tổng cầu –tổng cung để lý giải biến động kinh tế
trong ngắn hạn, quá trình tự điều chỉnh trong dài hạn và vai trò của các chính sách vĩ mô trong ổn định kinh tế. Nội dung
Mô hình Tổng cầu và Tổng cung (AD – AS)
Giải thích biến động kinh tế, quá trình tự điều chỉnh và chính sách ổn định
Chính sách tài khóa và
tổng cầu: Hiệu ứng số nhân và hiệu ứng lấn át
Tình huống dẫn nhập
Năm 2008-2009 khủng hoảng tài chính toàn cầu nổ ra đã có những ảnh hưởng không nhỏ
đến tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam, Hình 5.1. cho thấy năm 2009 tốc độ tăng trưởng kinh
tế chỉ còn đạt được 5,4% thấp hơn nhiều so với với những năm ngay trước đó. Tại sao
tăng trưởng kinh tế của Việt Nam lại bị suy giảm mạnh trong thời kỳ 2008-2009 như vậy?
Và chính phủ đã làm gì để chặn đà suy giảm kinh tế?
Hình 5.1. Tỷ lệ tăng trưởng GDP của Việt Nam 2006-2007 (năm cơ sở 2010)
Nguồn: Tổng cục Thống kê (GSO)
Một trong những lý do có thể lý giải được điều này đó là cuộc khủng hoảng tài chính toàn
cầu đã đẩy các bạn hàng chủ lực của Việt Nam rơi vào tình trạng suy thoái kinh tế, theo số
liệu thống kê của GSO thì trong thời gian này năm trong bảy bạn hàng lớn của Việt Nam
đã giảm nhu cầu mua hàng hóa của Việt Nam. Điều này làm xuất khẩu của Việt Nam
giảm, cán cân thương mại của Việt Nam xấu đi và làm tổng cầu bị sụt giảm. Để chống lại
sự suy giảm kinh tế, Chính phủ đã thực hiện đồng bộ các chính sách trong đó có chính
sách tài khóa và chính sách tiền tệ mở rộng để kích cầu nhằm chống suy giảm kinh tế ở Việt Nam.
Để hiểu được những vấn đề này, chúng ta cần làm rõ:
1. Những nguyên nhân nào gây ra những biến động kinh tế trong ngắn hạn?
2. Chính phủ có thể làm gì để giảm thiểu những biến động kinh tế trong ngắn hạn?
Tất cả những vấn đề trên sẽ được nghiên cứu trong bài học này t
Trong bài này, chúng ta sẽ nghiên cứu Mô hình tổng cung và tổng cầu (AD –AS). Một
trong những cách tiếp cận cơ bản được các nhà kinh tế sử dụng rộng rãi để giải thích những
biến động của nền kinh tế trong ngắn hạn. Sau khi nghiên cứu xong bài này, các học viên sẽ
biết cách vận dụng mô hình AD –AS để giải thích nguyên nhân gây ra biến động kinh tế và
vai trò của chính sách nhằm bình ổn nền kinh tế là mục tiêu chính của bài này. 5.1. (AD AS)
Mô hình tổng cung và tổng cầu chỉ ra cách thức tổng cầu và tổng cung quyết định mức
giá và sản lượng của một nền kinh tế. Hai biến số được mô hình tập trung giải thích là tổng
sản lượng hàng hoá và dịch vụ được sản xuất trong nước (Y) và mức giá chung (P). Các nhà
kinh tế thường sử dụng đồ thị để trình bày mô hình tổng cung và tổng cầu trong đó mức giá
được biểu diễn trên trục tung và sản lượng được biểu diễn ở trục hoành. Bây giờ, chúng ta sẽ
lần lượt giới thiệu hai thành tố của mô hình, đó là các đường tổng cầu và tổng cung. 5.1.1. (AD)
Tổng cầu là lượng hàng hóa và dịch vụ được sản xuất trong nước mà các tác nhân kinh Tổng cầu là
tế sẵn sàng và có khả năng mua tại mỗi mức giá. lượng hàng hóa và dịch vụ
Trong một nền kinh tế mở, tổng cầu hình thành từ bốn nguồn: được sản xuất i.
cầu tiêu dùng (C), như chi tiêu mua lương thực, thực phẩm, tivi, hay quần áo,.. trong nước mà
do khu vực hộ gia đình trong nước thực hiện; các tác nhân kinh tế sẵn ii.
cầu đầu tư (I), bao gồm các khoản mà doanh nghiệp chi cho xây dựng nhà sàng và có khả
xưởng mới, mua sắm máy móc, thiết bị mới; hộ gia đình mua nhà ở mới; và năng mua tại
các doanh nghiệp bổ sung thêm vào hàng tồn kho; mỗi mức giá iii.
chi tiêu chính phủ (G), bao gồm cả hàng hoá và dịch vụ do chính phủ mua cho
tiêu dùng hiện tại (tiêu dùng công) và hàng hoá và dịch vụ cho các lợi ích
tương lai như đường xá, cầu cống, bến cảng,.. (đầu tư công); và iv.
cầu xuất khẩu ròng (NX), chênh lệch giữa giá trị của hàng hoá và dịch vụ được
sản xuất trong nước mà người nước ngoài sẵn sàng và có khả năng mua, tức là
cầu xuất khẩu (X), và giá trị của hàng hoá và dịch vụ sản xuất ở nước ngoài mà
các hộ gia đình, doanh nghiệp và chính phủ trong nước sẵn sàng và có khả
năng mua, tức là cầu trong nước về hàng nhập khẩu (IM).
AD = C + I + G + NX
a) Đường tổng cầu
Đường tổng cầu cho biết mối quan hệ giữa lượng tổng cầu và mức giá. Đường tổng
cầu dốc xuống hàm ý nếu những biến số khác không thay đổi, thì khi mức giá chung
giảm, ví dụ từ P0 xuống P1, sẽ có xu hướng làm cho lượng tổng cầu về hàng hóa và dịch
vụ được sản xuất trong nước tăng, ví dụ từ Y0 lên Y1 (xem Hình 5.2) .
Hình 5.2. đường tổng cầu
b) Tại sao đường tổng cầu dốc xuống?
Đường tổng cầu dốc xuống phản ánh thực tế là sự thay đổi mức giá có ảnh hưởng
ngược chiều đến lượng tổng cầu. Trong bốn thành tố của tổng cầu, chi tiêu chính phủ là
biến chính sách do chính phủ quyết định tùy thuộc vào mục tiêu của điều tiết vĩ mô trong
mỗi thời kỳ và do đó không phụ thuộc vào mức giá. Chính vì vậy, để hiểu tại sao đường
tổng cầu dốc xuống chúng ta cần làm rõ sự thay đổi trong mức có giá ảnh hưởng như thế
nào đến ba thành tố còn lại của tổng cầu, bao gồm: tiêu dùng, đầu tư và xuất khẩu ròng.
Chúng ta sẽ lần lượt xem xét từng ảnh hưởng đó
Mức giá và tiêu dùng: Hiệu ứng của cải
Khi mức giá chung giảm, tức là mức giá bình quân của tất cả các hàng hóa và dịch
vụ giảm, thì lượng tiền trong ví hay trong tài khoản ngân hàng của bạn trở nên có
giá trị hơn vì chúng có thể mua được nhiều hàng hoá và dịch vụ hơn. Như vậy,
một sự cắt giảm trong mức giá chung làm cho các hộ gia đình trở nên giàu có hơn
và do vậy họ sẽ sẵn sàng và có khả năng mua nhiều hàng hoá và dịch vụ hơn. Sự
tăng lên trong mức tiêu dùng có nghĩa là lượng tổng cầu về hàng hóa và dịch vụ
được sản xuất trong nước tăng lên.
Mức giá và đầu tư: Hiệu ứng lãi suất
Tại mức giá thấp hơn, công chúng sẽ cần giữ ít tiền hơn để mua lượng hàng hoá và
dịch vụ theo kế hoạch. Điều này hàm ý một phần trong số tiền họ đang nắm giữ để
phục vụ cho động cơ giao dịch trở nên dư thừa. Nhiều hộ gia đình và doanh nghiệp
sẽ tìm cách cắt giảm lượng tiền nắm giữ bằng cách chuyển một số tiền mặt và tài
khoản tiền gửi có thể viết séc thành các tài sản sinh lãi như trái phiếu hay tiền gửi
ngân hàng có kỳ hạn, và kết quả là lãi suất sẽ giảm. Giảm lãi suất, đến lượt nó có
tác dụng khuyến khích các hãng đầu tư nhiều hơn vào nhà xưởng và thiết bị mới,
và các hộ gia đình mua nhiều nhà ở mới hơn. Như vậy, một mức giá thấp hơn làm
giảm lãi suất, khuyến khích chi tiêu vào các hàng hoá đầu tư và do đó làm tăng lượng tổng cầu.
Mức giá và xuất khẩu ròng: Hiệu ứng thay thế quốc tế
Trong bối cảnh mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế, sự giảm giá của hàng trong
nước làm cho hàng hóa và dịch vụ của Việt Nam trở nên rẻ hơn một cách tương
đối so với hàng hóa và dịch vụ sản xuất ở nước ngoài tại một mức tỷ giá hối đoái t
cho trước. Khi đó, một số người tiêu dùng trong nước và ở nước ngoài có xu
hướng dịch chuyển từ mua hàng của nước khác sang mua hàng hóa và dịch vụ sản
xuất tại Việt Nam. Kết quả là xuất khẩu được khuyến khích và nhập khẩu bị hạn
chế, làm tăng xuất khẩu ròng và làm tăng lượng tổng cầu về hàng hóa và dịch vụ
được sản xuất tại Việt Nam.
Tóm lại, cả ba hiệu ứng trên đều cho thấy có một mối quan hệ ngược chiều giữa mức
giá và khối lượng hàng hoá và dịch vụ sản xuất trong nước được mua: giảm mức giá
chung làm tăng lượng tổng cầu về sản lượng trong nước và ngược lại, tăng mức giá chung
làm giảm lượng tổng cầu về sản lượng trong nước. Trên hệ trục toạ độ trong đó mức giá
được biểu diễn trên trục tung và sản lượng được biểu diễn trên trục hoành mối quan hệ
này được biểu diễn bằng đường tổng cầu dốc xuống.
c) Sự dịch chuyển của đường tổng cầu
Khi có bất kỳ một sự kiện nào đó làm thay đổi lượng tổng cầu tại một mức giá cho
trước, thì đường tổng cầu sẽ dịch chuyển. Đường tổng cầu sẽ dịch chuyển sang bên
phải khi lượng tổng cầu tăng lên tại một mức giá cho trước. Ngược lại, đường tổng cầu
sẽ dịch chuyển sang bên trái khi lượng tổng cầu giảm xuống tại một mức giá cho
trước. Hình 5.3 dưới đây minh họa sự dịch chuyển sang bên phải hay ra phía ngoài của
đường tổng cầu từ AD0 đến AD1. Tại mức giá P0, lượng tổng cầu bây giờ đã tăng lên Y1. Hình 5.3
. Sự dịch chuyển của đường AD
Tổng cầu của một nền kinh tế mở gồm bốn thành tố đó là: tiêu dùng của các hộ gia
đình, đầu tư của khu vực tư nhân, chi tiêu chính phủ và xuất khẩu ròng. Do đó, nguyên
nhân gây ra sự dịch chuyển của đường tổng cầu là do một trong bốn thành tố của tổng
cầu thay đổi hoặc cả bốn.
- Sự dịch chuyển bắt nguồn từ những thay đổi trong tiêu dùng. Nếu người Việt Nam
trở nên an tâm hơn về triển vọng việc làm và thu nhập trong tương lai, hoặc nếu giá
cổ phiếu tăng làm cho nhiều hộ gia đình trở nên giàu có hơn, hay chính phủ giảm
thuế thu nhập, thì các hộ gia đình sẽ chi tiêu nhiều hơn cho tiêu dùng tại mỗi mức
giá cho trước và kết quả là đường tổng cầu sẽ dịch chuyển sang bên phải từ AD0
đến AD1 như được biểu diễn trong Hình 5.3.
- Sự dịch chuyển bắt nguồn từ những thay đổi trong đầu tư. Nếu các doanh nghiệp
trở nên lạc quan vào triển vọng mở rộng thị trường trong tương lai và quyết định
xây thêm nhiều nhà máy mới, mua thêm máy móc, thiết bị mới, hoặc nếu chính phủ
giảm thuế cho các dự án đầu tư mới, hay ngân hàng trung ương tăng cung ứng tiền
tệ làm giảm lãi suất, thì mức đầu tư sẽ tăng và đường tổng cầu sẽ dịch chuyển sang bên phải.
- Sự dịch chuyển bắt nguồn từ những thay đổi trong chi tiêu chính phủ. Nếu chính
phủ quyết định tăng chi tiêu nhằm ngăn chặn suy giảm kinh tế, thì đường tổng cầu
sẽ dịch chuyển sang bên phải.
- Sự dịch chuyển bắt nguồn từ những thay đổi trong xuất khẩu ròng. Nếu thế giới bên
ngoài tăng trưởng mạnh và mua nhiều hàng của Việt Nam hơn, hoặc đồng Việt
Nam giảm giá so với tiền của các đối tác thương mại, thì xuất khẩu ròng của Việt
Nam sẽ tăng và kết quả là đường tổng cầu sẽ dịch chuyển sang bên phải. 5.1.2.
Tổng cung của một nền kinh tế là lượng hàng hóa và dịch vụ mà các doanh nghiệp sẵn Tổng cung
sàng và có khả năng sản xuất trong nước tại mỗi mức giá. của một nền
kinh tế là Lượng tổng cung phụ thuộc vào quyết định của các doanh nghiệp trong việc sử dụng lượng hàng
lao động và các nguồn lực khác để sản xuất ra hàng hoá và dịch vụ bán cho các hộ gia hóa và dịch
đình, chính phủ, và các doanh nghiệp khác cũng như để xuất khẩu ra thế giới bên vụ mà các ngoài. doanh nghiệp sẵn sàng
Đường tổng cung dài hạn (ASL ) R
và đường tổng cung ngắn hạn (ASSR hay thường viết và có khả năng
gọn là AS). Đường tổng cung dài hạn thẳng đứng, trong khi đường tổng cung ngắn sản xuất
hạn dốc lên như được vẽ trong Hình 5.4. trong nước
Hình 5.4. đường tổng cung dài hạn và ngắn hạn
Đường tổng cung dài hạn là đường thẳng đứng thể hiện tính chất của sản lượng chỉ do
cung quyết định. Bất kế đường tổng cầu có dịch chuyển như thế nào thì nền kinh tế sẽ
di chuyển dọc trên đường tổng cung thẳng đứng và do đó chỉ có mức giá thay đổi còn
sản lượng vẫn giữ nguyên tại mức tiềm năng hay còn gọi là sản lượng tự nhiên Y*. t Hình 5.5 . tổng cung dài hạn
Tại sao đường tổng cung dài hạn dịch chuyển: Do đường tổng cung dài hạn là đường
thẳng đứng tại mức sản lượng tiềm năng, bất kỳ nhân tố nào làm thay đổi mức sản
lượng tiềm năng sẽ làm dịch chuyển đường tổng cung dài hạn. Do mức sản lượng tiềm
năng phụ thuộc vào cung lao động, tư bản, tài nguyên thiên nhiên và trình độ công
nghệ nên khih các nhân tố sản xuất này thay đổi sẽ là nguyên nhân làm dịch chuyển
đường tổng cung dài hạn.
- Sự dịch chuyển xuất phát từ lao động. Nếu một nền kinh tế có nhiều lao động ra
nước ngoài làm việc, thì cung về lao động trong nền kinh tế giảm. Do số lao động
làm việc ít hơn, lượng hàng hoá và dịch vụ mà nền kinh tế có thể sản xuất ra sẽ nhỏ
hơn. Kết quả là đường tổng cung dài hạn dịch chuyển sang bên trái. Ngược lại, nếu
nền kinh tế có nhiều công nhân nhập cư thì đường tổng cung sẽ dịch chuyển sang bên phải.
- Sự dịch chuyển xuất phát từ tư bản. Một sự tăng trưởng trong số lượng tư bản sẽ
nâng cao năng suất và do đó làm tăng lượng hàng hoá và dịch vụ mà nền kinh tế
sản xuất ra. Kết quả là đường tổng cung dài hạn dịch chuyển sang bên phải. Ngược
lại, một sự suy giảm trong lượng tư bản sẽ làm giảm năng suất và giảm cung về
hàng hoá và dịch vụ khiến cho đường tổng cung dài hạn dịch chuyển sang bên trái.
- Lô gíc này không chỉ áp dụng cho tư bản hữu hình mà cả vốn nhân lực. Sự tăng lên
số lượng máy móc hay số người tốt nghiệp đại học, cao đẳng, các trường dạy nghề
đều góp phần nâng cao năng lực sản xuất hàng hoá và dịch vụ. Do vậy, chúng đều
làm cho đường tổng cung dài hạn dịch chuyển sang bên phải.
- Sự dịch chuyển xuất phát từ tài nguyên thiên nhiên. Mức sản xuất của một quốc gia
phụ thuộc nhiều vào tài nguyên thiên nhiên như đất đai, khoáng sản và thời tiết.
Việc phát hiện và bắt đầu khai thác một mỏ khoáng sản mới có thể làm dịch chuyển
đường tổng cung dài hạn sang bên phải. Thời tiết trở nên khắc nghiệt có thể làm
cho việc trồng trọt và chăn nuôi trở nên khó khăn hơn, làm giảm năng suất cây
trồng và vật nuôi và do đó sẽ làm cho đường tổng cung dài hạn dịch chuyển sang bên trái.
- Sự dịch chuyển xuất phát từ trình độ công nghệ. Có lẽ lý do quan trọng nhất để
chúng ta hôm nay sản xuất ra nhiều hàng hoá và dịch vụ hơn các thế hệ trước là sự
tiến bộ công nghệ. Những phát minh đã giúp chúng ta sản xuất ra nhiều hàng hoá
và dịch vụ hơn với cùng một lượng lao động, tư bản và tài nguyên thiên nhiên. Kết
quả là, đường tổng cung dài hạn dịch chuyển sang bên phải.
Tại sao đường tổng cung ngắn hạn dốc lên? Có ba mô hình khác nhau giải thích về
đường tổng cung ngắn hạn: (1) mô hình tiền lương cứng nhắc; (2) mô hình nhận thức
sai lầm; và (3) mô hình giá cả cứng nhắc. Các mô hình này có một số đặc điểm chung,
và mỗi mô hình chỉ giải thích được một số khía cạnh nhất định của nền kinh tế thực.
Hình 5.6. tổng cung ngắn hạn
Tại sao đường tổng cung ngắn hạn có thể dịch chuyển? Các yếu tố tác động làm dịch
chuyển đường tổng cung ngắn hạn có thể kể đến đó là: kỳ vọng của công chúng về
mức giá, sự thay đổi giá cả của các nhân tố sản xuất...
- Kỳ vọng của mọi người về mức giá. Như chúng ta đã thảo luận, lượng tổng cung về
hàng hoá và dịch vụ trong ngắn hạn phụ thuộc vào nhận thức sai lầm, thông tin
không hoàn hảo, tiền lương cứng nhắc và giá cả cứng nhắc. Thế nhưng nhận thức,
tiền lương và giá cả đều được xây dựng dựa vào kỳ vọng về mức giá. Cho nên khi
kỳ vọng thay đổi, đường tổng cung ngắn hạn dịch chuyển.
- Để làm cho ý tưởng này cụ thể hơn, chúng ta hãy xem xét một lý thuyết cụ thể về
tổng cung - đó là lý thuyết tiền lương cứng nhắc. Theo lý thuyết này, nếu mọi người
dự báo mức giá cao, họ sẽ quy định tiền lương cao. Tiền lương tăng làm tăng chi
phí của doanh nghiệp, và tại mức giá thực tế bất kỳ cho trước, nó làm giảm lượng
hàng hoá và dịch vụ mà các doanh nghiệp cung ứng. Do vậy, khi mức giá dự kiến
tăng, tiền lương sẽ tăng, chi phí sẽ tăng và các doanh nghiệp quyết định cung ứng ít
hàng hoá và dịch vụ hơn tại bất kỳ mức giá thực tế cho trước nào. Do vậy, đường
tổng cung ngắn hạn dịch chuyển sang trái. Ngược lại, khi mức giá dự kiến giảm,
tiền lương sẽ giảm, chi phí sẽ giảm, các doanh nghiệp tăng sản lượng và đường
tổng cung ngắn hạn dịch sang bên phải.
- Lô gích tương tự cũng được áp dụng cho các lý thuyết khác. Bài học chung là: Sự
gia tăng mức giá dự kiến làm giảm tổng cung hàng hoá và dịch vụ, qua đó dịch t
chuyển đường tổng cung ngắn hạn sang bên trái. Sự giảm sút mức giá dự kiến làm
tăng tổng cung về hàng hoá và dịch vụ, qua đó dịch chuyển đường tổng cung ngắn
hạn sang phải. Như chúng ta sẽ thấy trong phần sau, ảnh hưởng của kỳ vọng về
mức giá đối với vị trí của đường tổng cung ngắn hạn đóng vai trò then chốt trong
việc điều hòa hành vi của nền kinh tế trong ngắn hạn và dài hạn. Trong ngắn hạn,
kỳ vọng được cố định và nền kinh tế nằm ở giao điểm của đường tổng cầu và
đường tổng cung ngắn hạn. Trong dài hạn, kỳ vọng được điều chỉnh và đường tổng
cung ngắn hạn dịch chuyển. Sự dịch chuyển này cuối cùng sẽ đưa nền kinh tế đến
giao điểm của đường tổng cầu và đường tổng cung dài hạn.
- Ngoài ra, đường tổng cung ngắn ngạn còn dịch chuyển do sự thay đổi giá cả của
các nhân tố sản xuất. Mỗi đường tổng cung ngắn hạn được xây dựng với giả thiết
giá cả của các nhân tố sản xuất cho trước. Do đó, đường tổng cung ngắn hạn sẽ dịch
chuyển khi giá các nhân tố sản xuất thay đổi. Với một mức giá cho trước, việc tăng
giá các đầu vào sản xuất (tăng lương, tăng giá nguyên, nhiên, vật liệu...) sẽ làm tăng
chi phí sản xuất và làm giảm lợi nhuận của các doanh nghiệp và các doanh nghiệp
sẽ buộc phải thu hẹp mức sản xuất. Điều này hàm ý đường tổng cung dịch chuyển
sang bên trái. Ngược lại, việc giảm giá các đầu vào sản xuất sẽ làm giảm chi phí
sản xuất và làm tăng lợi nhuận tại mức giá cho trước và do đó khuyến khích các
doanh nghiệp mở rộng sản xuất. Trên đồ thị, đường tổng cung sẽ dịch chuyển sang bên phải. 5.1.3.
Trong Hình 5.7 giao điểm của đường tổng cung AS0 và đường tổng cầu AD0 là E0 xác
định mức sản lượng cân bằng là Y0 và mức giá cân bằng là P0. Chúng ta mô tả tổ hợp của
sản lượng Y0 và mức g
iá P0 là trạng thái cân bằng của nền kinh tế .
Giả sử ban đầu mức giá là P1, thấp hơn mức giá cân bằng P0. Tại mức giá thấp hơn này,
sản lượng mà các doanh nghiệp mong muốn cung ứng thấp hơn mức mà mọi người muốn
mua. Cuộc canh tranh giữa những người mua để mua được hàng sẽ đẩy mức giá tăng lên
và điều này đến lượt nó lại khuyến khích các doanh nghiệp sản xuất nhiều hơn. Kết quả là
thị trường có xu hướng tự điều chỉnh trở về trạng thái cân bằng một khi mức giá vẫn còn thấp hơn P0.
Hình 5.7 xác định trạng thái cân bằng
Tương tự, khi mức giá cao hơn P0, chẳng hạn P2, cuộc cạnh tranh giành giật khách hàng
giữa các nhà cung ứng để bán được hàng sẽ đẩy mức giá giảm xuống. Như vậy, chỉ tại
giao điểm của hai đường tổng cầu và tổng cung (E0), cả người mua và người bán đều thỏa
mãn: mọi nhu cầu của người mua đều được đáp ứng và toàn bộ sản lượng mà các doanh
nghiệp sản xuất và cung ứng đều được bán hết. Kết quả là thị trường ổn định và không có áp lực điều chỉnh.
Trạng thái cân bằng không nhất thiết là trạng thái tối ưu hay là trạng thái đáng mong
muốn. Nó có thể tương ứng với trạng thái phát triển quá nóng (khi sản lượng cao hơn mức
tự nhiên và lạm phát cao) hoặc nền kinh tế đang lâm vào suy thoái (khi sản lượng thấp
hơn mức tự nhiên) 5.2.
Sau khi đã được nghiên cứu mô hình tổng cung và tổng cầu, bây giờ chúng ta sẽ vận dụng
những kiến thức đã học ở trên để xem xét các nguyên nhân gây ra các biến động kinh tế trong ngắn hạn.
Khi phân tích cách thức tác động của một sự kiện nào đó tới nền kinh tế, chúng ta nên tiến
hành theo qui trình ba bước. Thứ nhất, chúng ta xác định xem sự kiện xảy ra tác động tới
đường tổng cung, đường tổng cầu hay cả hai đường (trong một số tình huống). Thứ hai,
chúng ta xác định xem các đường này dịch chuyển sang phải hay sang trái. Cuối cùng,
chúng ta sử dụng đồ thị tổng cầu và tổng cung để xem xét sự dịch chuyển đó tác động tới
mức giá và sản lượng cân bằng như thế nào 5.2.1.
Khi đường tổng cung có độ dốc dương, các cú sốc ngoại sinh tác động đến tổng cầu (được
gọi là cú sốc cầu) sẽ gây ra sự thay đổi của sản lượng và mức giá. Sự biến động của sản
lượng xung quanh mức tự nhiên được gọi là chu kỳ kinh doanh. t
Hình 5.8. Ảnh hưởng của sự suy giảm tổng cầu đến sản lượng và mức giá
Các nhà đầu tư và các hộ gia đình đột nhiên trở nên bi quan hơn về triển vọng phát triển
của nền kinh tế trong tương lai và do đó cắt giảm mức chi tiêu trong hiện tại, thì điều này
sẽ làm giảm tổng cầu. Trong Hình ,
5.8 đường tổng cầu dịch chuyển sang bên trái từ AD0
đến AD1. Trong ngắn hạn, nền kinh tế di chuyển dọc theo đường tổng cung ngắn hạn AS0
từ A đến B. Khi nền kinh tế chuyển đến B, sản lượng giảm xuống Y1 và mức giá giảm
xuống P1. Sự sụt giảm sản lượng cho thấy nền kinh tế lâm vào suy thoái. Các doanh
nghiệp phản ứng lại sự giảm sút doanh số bán ra bằng cách cắt giảm một số việc làm và
thất nghiệp có xu hướng tăng lên.
Các nhà hoạch định chính sách nên làm gì khi đối mặt với một cuộc suy thoái như vậy?
Một khả năng là thực hiện các biện pháp kích thích tổng cầu, làm cho đường tổng cầu
dịch chuyển sang bên phải. Nếu các nhà hoạch định chính sách hành động kịp thời và
chính xác, họ có thể triệt tiêu hoàn toàn tác động của cú sốc đến tổng cầu, đẩy đường
tổng cầu trở về AD0 và đưa nền kinh tế trở lại điểm A. Trong các chương tiếp theo, chúng
ta sẽ thảo luận chi tiết về cách mà chính phủ có thể sử dụng để điều tiết tổng cầu.
Ngay cả khi các nhà hoạch định chính sách không can thiệp thì nền kinh tế thị trường
cũng sẽ có cơ chế tự phục hồi sau một khoảng thời gian. Do tổng cầu giảm, mức giá giảm
xuống. Có thể, kỳ vọng bắt kịp thực tế và mứ
c giá dự kiến cũng giảm. Do sự giảm sút của
mức giá dự kiến làm thay đổi nhận thức, tiền lương và giá cả, nên nó làm cho đường tổng
cung ngắn hạn dịch sang phải, từ AS0 đến AS1 như trong Hình . 5.8 Theo thời gian, quá
trình hiệu chỉnh này của kỳ vọng cho phép nền kinh tế tiến dần đến điểm C, điểm mà
đường tổng cầu mới (AD1) cắt đường tổng cung dài hạn.
Tóm lại, sự dịch chuyển của đường tổng cầu đem lại cho chúng ta hai bài học quan trọng:
Trong ngắn hạn, sự dịch chuyển của đường tổng cầu gây ra sự biến động về sản
lượng và việc làm trong nền kinh tế.
Trong dài hạn, sự dịch chuyển của đường tổng cầu ảnh hưởng tới mức giá
chung, nhưng không ảnh hưởng đến sản lượng. 5.2.2.
Các cú sốc cung xảy ra do sự thay đổi giá cả các yếu tố đầu vào hay sự thay đổi các
nguồn lực trong nền kinh tế. Các cú sốc làm giảm tổng cung được gọi là cú sốc cung
bất lợi. Ngược lại, các cú sốc làm tăng tổng cung được gọi là cú . sốc cung có lợi
Các cú sốc cung bất lợi làm tăng chi phí sản xuất. Với mức giá không thay đổi, nhiều
doanh nghiệp hoạt động trở nên không hiệu quả buộc phải thu hẹp hoặc đóng cửa sản
xuất và do đó làm giảm tổng cung. Trong Hình ,
6.9 đường tổng cung ngắn hạn dịch
chuyển sang bên trái và lên phía trên từ AS0 đến AS1. Trong ngắn hạn, nền kinh tế di
chuyển dọc theo đường tổng cầu từ điểm A đến điểm B. Sản lượng của nền kinh tế
giảm từ Y* xuống Y1, trong khi mức giá tăng từ P0 lên P1. Do nền kinh tế vừa lâm
vào suy thoái (sản lượng giảm), vừa trải qua lạm phát (mức giá tăng) nên hiện
tượng này được gọi là lạm phát đi kèm suy thoái (stagflation).
Hình 5.9. Cú sốc cung bất lợi và phản ứng chính sách
Các nhà hoạch định chính sách nên làm gì khi đối mặt với hiện tượng lạm phát đi kèm
suy thoái này? Một trong những khả năng là các nhà hoạch định chính sách có thể
muốn triệt tiêu tác động bất lợi của sự dịch chuyển đường tổng cung ngắn hạn đến sản
lượng bằng cách tăng tổng cầu. Khi đó, chính phủ cần kích cầu để dịch chuyển đường
tổng cầu tới AD1 vừa đủ để duy trì mức sản lượng ban đầu. Nền kinh tế chuyển đến
điểm C. Sản lượng trở về mức tự nhiên và mức giá tiếp tục tăng lên P2. Như vậy, các
nhà hoạch định chính sách đã thích ứng với sự dịch chuyển của đường tổng cung và
cho phép sự tăng lên trong chi phí ảnh hưởng đến giá cả một cách lâu dài.
Ngược lại, nếu muốn triệt tiêu tác động bất lợi của cú sốc cung này đến mức giá, các
nhà hoạch định chính sách cần chủ động cắt giảm tổng cầu. Trên đồ thị ở Hình 5.9,
đường tổng cầu dịch chuyển từ AD0 đến AD2 vừa đủ để duy trì mức giá ban đầu. Nền
kinh tế chuyển đến điểm D. Mức giá trở về P0, còn sản lượng tiếp tục giảm xuống Y2.
Phân tích ở trên cho thấy sự dịch chuyển của đường tổng cung có hai hàm ý quan trọng:
Sự dịch chuyển của đường tổng cung có thể gây ra lạm phát kèm suy thoái, tức t
là kết hợp giữa suy thoái (sản lượng giảm) và lạm phát (mức giá tăng).
Các nhà hoạch định chính sách, những người có thể ảnh hưởng đến tổng cầu,
không thể đồng thời làm triệt tiêu cả hai ảnh hưởng bất lợi này. 5.3.
Chính sách tài khóa và
Như chúng ta đã biết các nền kinh tế thị trường thường xuyên biến động. Bất kỳ nỗ
lực nào của chính phủ được sử dụng để bình ổn nền kinh tế đều được gọi là chính sách ổn
định. Hai chính sách ổn định quan trọng nhất trong các nền kinh tế thị trường hiện đại là chính
sách tài khóa và chính sách tiền tệ. Tuy nhiên, trong phần này sẽ đi sâu thảo luận về vai trò
của chính sách tài khóa trong nỗ lực ổn định nền kinh tế trong ngắn hạn, còn chính sách tiền
tệ sẽ được giới thiệu ở bài 6 tiếp theo bài 5 này. Chính sách tài khoá là những nỗ lực của
chính phủ nhằm cải thiện các kết quả hoạt động của nền kinh tế thông qua việc thay đổi chi
tiêu chính phủ và thuế. Mặc dù, chính sách tài khoá có thể ảnh hưởng đến tiết kiệm, đầu tư và
tăng trưởng kinh tế trong dài hạn như đã được đề cập ở bài 3, tuy nhiên trong ngắn hạn, chính
sách tài khoá chủ yếu ảnh hưởng đến tổng cầu về hàng hoá và dịch vụ. 5.3.1.
Chính phủ có thể lựa chọn thay đổi chi tiêu hoặc thuế hoặc đồng thời cả chi tiêu và thuế
để mở rộng hay cắt giảm tổng cầu nhằm bình ổn nền kinh tế. Chính sách tài khoá nhằm kích
thích tổng cầu và tăng sản lượng cân bằng thông qua việc tăng chi tiêu chính phủ hoặc giảm
thuế được gọi là chính sách tài khoá mở rộng hay chính sách tài khoá lỏng. Ngược lại, chính
sách tài khoá nhằm cắt giảm tổng cầu để kiềm chế lạm phát được gọi là chính sách tài khoá thắt chặt.
Chính sách tài khóa mở rộng thường được thực hiện khi nền kinh tế đối mặt với mức sản
lượng thấp hơn mức sản lượng tự nhiên, các nhà hoạch định chính sách có thể giúp nền
kinh tế phục hồi trạng thái toàn dụng nguồn lực thông qua việc tăng chi tiêu chính phủ và/hoặc giảm thuế.
Chính sách tài khóa thắt chặt được thực hiện khi chính phủ nhận thấy nền kinh tế có tổng
chi tiêu vượt quá năng lực sản xuất hiện có và có thể đẩy nền kinh tế vào trạng thái phát
triển quá nóng. Phản ứng chính sách cần thiết là chính phủ nên cắt giảm tổng cầu để kiềm chế lạm phát.
Những thay đổi trong chi tiêu của chính phủ và tổng cầu
Chúng ta hay xem xét một tình huống giả định sau đây: chính phủ quyết định tăng chi tiêu
16 tỷ USD cho việc xây dựng sân bay Long Thành. Để có sân bay mới, chính phủ (chủ đầu
tư) phải ký các hợp đồng đối với từng nhà thầu cho các hạng mục của sân bay. Điều này làm
gia tăng cầu về các sản phẩm mà các doanh nghiệp cung cấp theo hợp đồng xây dựng sân bay
cho chính phủ. Bởi vậy, các doanh nghiệp này sẽ phải mở rộng sản xuất, thuê nhiều lao động
hơn. Qua trình này sẽ làm cho cầu về hàng hóa và dịch vụ trong nền kinh tế tăng tại mỗi mức
giá cho trước. Kết quả làm đường tổng cầu dịch chuyển sang phải. Như vậy, khi chính phủ
tăng chi tiêu 16 tỷ USD để xây sân bay Long Thành sẽ làm cho tổng cầu dịch chuyển sang
phải một lượng là bao nhiều? với giả định các yếu tố khác không thay đổi, câu trả lời là tổng
cầu và cuối cùng là sản lượng sẽ tăng 16 tỷ USD? Tuy nhiên, câu trả lời trên là không chính
xác. Bởi việc tăng chi tiêu của chính phủ sẽ chịu ảnh hưởng của hai tác động: (i) tác động của
hiệu ứng số nhân làm cho tổng cầu tăng (đường tổng cầu dịch phải) nhiều hơn 16 tỷ USD và
(ii) Tác động lấn át làm tổng cầu giảm (đường tổng cầu dịch trái) do vậy làm tổng cầu tăng ít hơn.
Hiệu ứng số nhân: Khi chính phủ dùng 16 tỷ USD để xây sân bay, thu nhập dưới
dạng tiền công của người công nhân và lợi nhuận của người sản xuất tăng. Những
người nhận được mức thu nhập mới này tăng chi tiêu mua hàng tiêu dùng, điều này
làm làm tăng thu nhập cho những người làm việc trong các doanh nghiệp khác, do đó
làm tăng tiêu dùng của họ và quá trình này cứ tiếp diễn trong nền kinh tế. Kết quả là
việc chi tiêu chính phủ tăng làm tăng nhu cầu sản phẩm của nhiều doanh nghiệp khác
nhau trong nền kinh tế. Do đó, tổng cầu tăng nhiều hơn mức tăng của mua sắm chính
phủ, chi tiêu chính phủ được coi là có ảnh hưởng theo số nhân đến tổng cầu. Có một
công thức để tính giá trị của số nhân chi tiêu. Công thức này chỉ ra rằng cứ mỗi đồng
chính phủ mua sắm thêm, đường tổng cầu dịch chuyển sang phải là [1/(1 - MPC)]
đồng, trong đó MPC là xu hướng tiêu dùng biên (MPC=C/Yd) – phản ánh phần thu
nhập khả dụng tăng thêm ( Yd) mà hộ gia đình bỏ ra để mua thêm hàng tiêu dùng
( C). Ví dụ, nếu MPC là 0,75 thì số nhân chi tiêu sẽ là 1/(1 - 0,75) = 1/0,25 = 4. Điều
đó có nghĩa mỗi đồng chính phủ tiêu dùng thêm làm dịch chuyển đường tổng cầu sang
phải là 4 đồng. MPC tăng làm tăng giá trị của số nhân chi tiêu. Như vậy, trong tình
huống trên nếu MPC=0,75 thì sản lượng sẽ tăng theo hiệu ứng số nhân bằng:
Y = mG = 416=64 tỷ USD. P
2. …nhưng do có tác động của hiệu ứng
số nhân tổng cầu tiếp tục dịch sang phải. 16 tỷ $
1. Chính phủ tăng chi tiêu 16 tỷ
$, ban đầu tổng cầu tăng 16 tỷ $ Y
Hình 5.10. Hiệu ứng số nhân m=1/(1-MPC)
Bên cạnh số nhân, sự gia tăng mua sắm của chính phủ có thể làm cho các
doanh nghiệp tăng chi tiêu cho đầu tư vào thiết bị mới, làm tăng hơn nữa phản
ứng của tổng cầu đối với sự gia tăng ban đầu của chi tiêu chính phủ mua hàng t
hoá và dịch vụ. Điều này được gọi là gia tốc đầu tư. Khi đó, số nhân chi tiêu có giá trị lớn hơn.
Như vậy, do có ảnh hưởng khuyếch đại theo số nhân, đường tổng cầu có thể dịch chuyển
nhiều hơn mức thay đổi trong chi tiêu chính phủ. Lôgíc của hiệu ứng số nhân được cũng được
áp dụng đối với những thay đổi trong các thành tố khác của tổng cầu. Ví dụ, những cú sốc làm
thay đổi tiêu dùng, đầu tư, và xuất khẩu ròng đều có thể gây ảnh hưởng khuyếch đại đến tổng cầu theo số nhân.
Hiệu ứng lấn át: Hiệu ứng này hoạt động ngược chiều với hiệu ứng số nhân. Sự gia
tăng chi tiêu chính phủ (như trường hợp trên) làm tăng thu nhập. Kết quả là, lãi suất sẽ
tăng. Tuy nhiên khi lãi suất tăng thì khu vực tư nhân sẽ cắt giảm chi tiêu cho đầu tư.
Như vậy, sự gia tăng chi tiêu chính phủ làm tăng lãi suất, làm giảm hay lấn át đầu tư
của khu vực tư nhân. Do có hiệu ứng lấn át, đường tổng cầu có thể dịch chuyển sang
phải ít hơn mức tăng của chi tiêu chính phủ. Chúng ta có thể tóm tắt cơ chế hoạt động
của hiệu ứng lấn át khi chính phủ thực hiện chính sách tài khoá mở rộng như sau:
Chi tiêu chính phủ (G) tăng AD tăng Y tăng lãi suất (i) tăng Đầu tư
(I) giảm AD lại giảm.
Sự dịch chuyển cuối cùng của đường tổng cầu là lớn hơn hay nhỏ hơn mức
thay đổi ban đầu của chi tiêu chính phủ phụ thuộc vào mối tương quan về độ
lớn giữa hiệu ứng số nhân và hiệu ứng lấn át. Nếu hiệu ứng số nhân lớn hơn
hiệu ứng lấn át thì đường tổng cầu sẽ dịch chuyển sang phải nhiều hơn mức
thay đổi ban đầu của chi tiêu chính phủ và ngược lại.
Những thay đổi trong chính sách thuế của chính phủ và tổng cầu
Một công cụ khác của chính sách tài khoá là thuế. Chính phủ cũng có thể kích cầu bằng
cách giảm thuế. Cơ chế tác động của giảm thuế đến tổng cầu hoàn toàn tương tự như khi
chính phủ tăng chi tiêu: giảm thuế làm tăng thu nhập khả dụng và do đó khuyến khích tiêu
dùng của các hộ gia đình. Sự khác biệt duy nhất bắt nguồn từ thực tế là tăng chi tiêu chính
phủ ban đầu làm tăng tổng cầu một lượng tương ứng. Tuy nhiên, khi chính phủ giảm thuế một
đồng (T=-1) sẽ làm thu nhập khả dụng của hộ gia đình tăng 1 đồng (Yd=1) vì Yd= - Y T,
nhưng hộ gia đình lại không chi tiêu hết phần tăng thêm của thu nhập khả dụng đó mà chỉ
tăng chi tiêu thêm là MPC lần của phần thu nhập tăng thêm, nghĩa là C= -MPC T. Như
vậy, theo hiệu ứng số nhân cuối cùng tổng cầu và sản lượng sẽ tăng thêm được một lượng bằng: Y = m(-MPC T)
Kết quả trên cho thấy, nếu thuế giảm 1 đồng thì sản lượng sẽ tăng [m(-MPC)] lần và
ngược lại nếu thuế tăng thì sản lượng sẽ giảm. Hệ số nhân này được biết đến với tên gọi là số
nhân thuế (mT). Do thuế các tác động ngược chiều với tổng cầu và sản lượng, bởi vậy số nhân
là một số âm: mT = Y/T= -MPCm. Như vậy, công thức trên có thể viết lại như sau: Y = [m(-MPC)] T=mT T
Như vậy, giảm thuế làm dịch chuyển đường tổng cầu sang phải, còn tăng thuế làm dịch
đường tổng cầu sang trái. Mức độ dịch chuyển của đường tổng cầu cũng phụ thuộc vào độ lớn
tương đối giữa hiệu ứng số nhân và hiệu ứng lấn át như đã chỉ ra ở trên. Đồng thời, chính sách
giảm thuế được các hộ gia đình nhận thức là lâu dài có tác dụng cải thiện đáng kể tình hình tài
chính của họ, bởi việc chính sách giảm thuế nếu chỉ là là tạm thời sẽ ít có tác động làm tăng tổng cầu. 5.3.2.
Cơ chế tự ổn định đề cập đến những thay đổi trong ngân sách chính phủ có tác dụng
kích thích tổng cầu khi nền kinh tế lâm vào suy thoái và cắt giảm tổng cầu khi nền kinh tế
phát triển quá nóng mà không cần bất kỳ sự điều chỉnh nào của các nhà hoạch định chính sách.
Cơ chế tự ổn định quan trọng nhất trong các nền kinh tế thị trường hiện đại là hệ thống
thuế. Khi nền kinh tế rơi vào một cuộc suy thoái, doanh thu từ thuế của chính phủ sẽ tự động
giảm vì hầu hết các loại thuế đều liên quan chặt chẽ với các hoạt động kinh tế. Ví dụ như thuế
thu nhập cá nhân phụ thuộc vào thu nhập của các hộ gia đình và thuế thu nhập doanh nghiệp
phụ thuộc vào lợi nhuận của các hãng. Vì các khoản thu nhập này đều giảm xuống trong thời
kỳ suy thoái nên doanh thu từ thuế của chính phủ cũng giảm. Sự cắt giảm thuế tự động như
thế sẽ có tác dụng kích thích tổng cầu, và do đó, góp phần thu hẹp biên độ của các chu kỳ kinh doanh.
Một số khoản mục chi tiêu của chính phủ cũng hoạt động như những cơ chế tự ổn định.
Khi nền kinh tế lâm vào suy thoái, số người mất việc làm tăng lên, vì thế đơn xin trợ cấp thất
nghiệp, bảo hiểm xã hội và các loại hình hỗ trợ thu nhập khác đều tăng lên. Sự gia tăng tự
động trong chi tiêu của chính phủ sẽ kích thích tổng cầu đúng vào thời điểm tổng cầu không
đủ mạnh để duy trì mức sản lượng tiềm năng.
Cơ chế tự ổn định trong nền kinh tế ở các nước đều không đủ mạnh để loại bỏ hoàn toàn
những biến động kinh tế vĩ mô trong ngắn hạn. Tuy nhiên, nếu không có các cơ chế tự ổn
định như thế, sản lượng và việc làm trên thực tế chắc hẳn đã dao động mạnh hơn rất nhiều. t
Tóm lược nội dung
Tổng cầu là lượng hàng hóa và dịch vụ được sản xuất trong nước mà các tác nhân kinh
tế sẵn sàng và có khả năng mua tại mỗi mức giá
Bốn thành tố của tổng cầu: AD = C + I + G + NX
Có ba hiệu ứng để giải thích độ dốc của đường AD đó là hiệu ứng của cải, hiệu ứng lãi
suất; hiệu ứng tỷ giá.
Tổng cung là lượng hàng hóa và dịch vụ mà các doanh nghiệp sẵn sàng và có khả
năng sản xuất, cung ứng tại mỗi mức giá
Sản lượng tiềm năng hay sản lượng tự nhiên (Y*): Mức sản lượng được tạo ra khi các
nguồn lực được sử dụng đầy đủ
Trong ngắn hạn, những nhân tố thay đổi làm dịch chuyển tổng cầu là nguyên nhân gây
ra những biến động về sản lượng và việc làm.
Một cú sốc cung bất lợi làm dịch chuyển đường tổng cung ngắn hạn lên trên và sang
bên trái, làm giảm sản lượng và làm tăng mức giá - sự kết hợp này được gọi là lạm phát đi kèm suy thoái.
Chính phủ có thể thực hiện chính sách tài kinh tế vĩ mô mở rộng để chống suy giảm
kinh tế hoặc khi nền kinh tế bị suy thoái; và thực hiện chính sách thắt chặt để chống lạm phát.
Khi chính phủ thay đổi chi tiêu hoặc thuế thông qua chính sách tài khóa, chính phủ có
thể tác động vào AD. Tuy nhiên, tổng cầu thay đổi nhiều hay ít còn phụ thuộc vào hai
hiệu ứng đó là hiệu ứng số nhân chi tiêu và hiệu ứng lấn át. Câu hỏi ôn tập
1. Tổng cầu là gì? Và các nhân tố ảnh hưởng đến tổng cầu?
2. Tổng cung là gì? Và các nhân tố ảnh hưởng đến tổng cung?
3. Các thành tố cấu thành tổng cầu là gì?
4. Hãy cho biết các thành phần cấu thành đầu tư của khu vực tư nhân?
5. Sản lượng tiềm năng là gì?
Bài tập vận dụng
1. Hãy cho biết câu bình luận sau, Đúng/Sai và giải thích ngắn gọn: trong ngắn hạn khi
các hộ gia đình bi quan về triển vọng thu nhập và việc làm trong tương lại. Điều này sẽ
làm cả tiêu dùng và tiết kiệm của hộ gia đình đều giảm. (Gợi ý: dựa và mối quan hệ giữa
tiêu dùng và tiết kiệm để trả lời)
2. Chính phủ có thể sử dụng chính sách tài khóa tác động vào tổng cầu như thế nào để ổn
định sản lượng nếu nền kinh tế gặp phải cú sốc bất lợi từ phía tổng cung? Nếu biết
MPC=0,75 và giả sử không có hiệu ứng lấn át, để sản lượng tăng thêm 1000 tỷ thì chính
phủ cần cắt giảm thuế một lượng bằng bao nhiêu? (Gợi ý: hãy đọc lại phần 2.2 nói về vai
trò của các chính sách ổn định và phần 2.3 )
3. Hãy sử dụng mô hình AD-AS phân tích những sự kiện dưới đây ảnh hưởng đến sản
lượng và mức giá của nền kinh tế trong ngăn hạn:
a) Chính phủ tăng chi tiêu đầu tư công cho phát triển cơ sở hạ tầng giao thông
b) Xuất khẩu của Việt Nam tăng mạnh trong năm nay
c) Giá dầu mỏ trên thị trường thế giới tăng mạnh
(Gợi ý: xem lại phần phân tích về các nhân tác động làm dịch chuyển đường AD và đường AS)