
















Preview text:
t
BÀI 4. THẤT NGHIỆP Hướng dẫn học
Để học tốt bài này, học viên cần tham khảo các phương pháp học sau:
Học đúng lịch trình của môn học theo tuần, làm các bài luyện tập đầy
đủ và tham gia thảo luận trên diễn đàn. Đọc tài liệu:
1. Bộ môn Kinh tế vĩ mô (Đại học Kinh tế Quốc dân), Giáo trình
nguyên lý kinh tế học vĩ mô, Nhà Xuất Bản Lao động, 2012.
2. Bộ môn Kinh tế vĩ mô (Đại học Kinh tế Quốc dân), Bài tập nguyên
lý kinh tế vĩ mô, Nhà Xuất Bản Lao động, 2012.
Học viên làm việc theo nhóm và trao đổi với giảng viên trực tiếp tại lớp học hoặc qua email. Trang Web môn học. Mục tiêu
Để học tốt chương này, các bạn trước tiên cần nắm rõ khái niệm như
người thất nghiệp là gì, tỷ lệ thất nghiệp tính như thế nào.
Sau đó, bạn cần hiểu rõ các nguyên nhân dẫn tới tình trạng thất nghiệp
dựa theo cách thức phân loại mà tài liệu giảng dạy đã nêu ra.
Và cuối cùng, dựa trên những nguyên nhân dẫn tới thất nghiệp, bạn cần
rút ra được chính phủ có thể làm gì để giúp giảm bớt những dạng thất nghiệp kể trên. Nội dung
Khái niệm người thất nghiệp
Cách đo lường tỷ lệ thất nghiệp trong nền kinh tế
Phân loại nguyên nhân thất nghiệp
Chi phí mà thất nghiệp gây ra cho nền kinh tế
Tác động của các chính sách để giúp giảm bớt tỷ lệ thất nghiệp
Tình huống dẫn nhập
Cúc là một người vợ ở nhà chăm sóc con cái, quán xuyến công
việc nội trợ để chồng có thể tập trung vào công việc và kiếm tiền
cho gia đình. Trúc là một sinh viên Kinh tế, sau khi tốt nghiệp ra
trường đang đi tìm việc, tuy nhiên cô vẫn chưa tìm được một công
việc thật sự ưng ý. Mai cũng đã tốt nghiệp ra trường, tuy nhiên do
những thay đổi về công nghệ mà ngành đào tạo của cô không còn
được xã hội cần, và hệ quả là cô vẫn chưa thể tìm được công việc.
Theo bạn, ai trong ba người trên được coi là người thất nghiệp và
trạng thái thất nghiệp của ai là đáng lo ngại nhất?
Chính phủ đang cân nhắc vấn đề điều chỉnh tiền lương tối thiểu.
Những người ủng hộ cho rằng việc nâng tiền lương tối thiểu là cần
thiết nhằm đảm bảo điều kiện sống cho người lao động, đặc biệt là
những lao động nghèo và lao động yếu thế. Tuy nhiên, cũng có
những người phản đối vì cho rằng việc nâng lương tối thiểu sẽ làm
gia tăng số người thất nghiệp và gây ra sự bất bình đẳng về tiền
lương trong xã hội. Theo bạn, tại sao nâng tiền lương tối thiểu lại
khiến tăng số người thất nghiệp? Những người bị thất nghiệp do
tiền lương tối thiểu được nâng lên sẽ rơi vào nhóm lao động kỹ
năng cao hay thấp, và tại sao?
Để hiểu được những vấn đề này, chúng ta cần làm rõ: 1. Thất nghiệp là gì?
2. Lực lượng lao động là gì?
3. Các nguyên nhân gây ra thất nghiệp?
4. Chính phủ có thể làm gì để giảm tỷ lệ thất nghiệp?
Tất cả những vấn đề trên sẽ được nghiên cứu trong bài học này t
4.1 Khái niệm và đo lường thất nghiệp
4.1.1 Khái niệm thất nghiệp
Ở Việt Nam, số liệu về thất nghiệp được thu thập từ Điều tra Lao động và Người thất
Việc làm do Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội thực hiện (trước năm nghiệp là
2007) và Tổng cục Thống kê thực hiện (từ năm 2007 đến nay). Đây là người trưởng thành, có
cuộc điều tra chọn mẫu được thực hiện theo phương thức phỏng vấn trực mong muốn
tiếp. Dựa vào trả lời cho các câu hỏi điều tra, mỗi người trưởng thành (từ và khả năng
đủ 15 tuổi trở lên) trong các hộ gia đình điều tra được xếp vào một trong làm việc hai nhóm, đó là (hay còn gọi là nhưng chưa có việc làm.
dân số hoạt động kinh tế, gồm có người có việc làm và người thất nghiệp) và nhóm
(hay còn gọi là nhóm dân số
không hoạt động kinh tế).
: Theo Tổng cục Thống kê, người có việc làm là
những người trong 7 ngày trước khi tiến hành điều tra đã làm việc ít
nhất 1 giờ để tạo thu nhập hoặc làm cho gia đình mà không đòi hỏi
tiền công. Gồm có: người làm công ăn lương, người làm kinh doanh
hoặc lao động trong ruộng vườn, trang trại của họ. Những người lao
động tình nguyện, làm giúp (thanh niên tình nguyện, làm giúp người
khác…), làm từ thiện, nhân đạo… thì không được tính là người có việc làm.
: Theo Tổng cục Thống kê, người thất nghiệp bao
gồm những người từ 15 tuổi trở lên mà trong tuần điều tra không làm
việc nhưng sẵn sàng làm việc và đang tìm việc làm. Tính trong tuần
tham chiếu (7 ngày trước ngày phỏng vấn/điều tra), nhóm người thất
nghiệp bao gồm cả những người hiện không làm việc nhưng đang
chuẩn bị khai trương các hoạt động kinh doanh của mình hoặc nhận
một công việc mới sau thời kỳ tham chiếu; hoặc những người luôn sẵn
sàng làm việc nhưng đã không tìm kiếm việc làm do ốm đau tạm thời,
bận việc riêng (lo hiếu, hỷ…), do thời tiết xấu, đang chờ thời vụ…
: Gồm những người không
thuộc hai nhóm trên. Chẳng hạn sinh viên đang theo học hệ tập trung
dài hạn, người nội trợ, người đã nghỉ hưu hoặc không có khả năng lao động…
4.1.2 Đo lường tỷ lệ thất nghiệp
Trên cơ sở phân nhóm như trên, một chỉ tiêu thống kê quan trọng đối với
thị trường lao động được tính toán. −
Gồm những người sẵn sàng và có khả
năng lao động. LLLĐ gồm có những người đang có việc làm và
những người thất nghiệp. −
: Tỷ lệ phần trăm của lực lượng lao
động so với quy mô dân số trưởng thành: = 100 (%)
Chỉ tiêu thống kê này cho chúng ta biết phần dân số hoạt động kinh tế
trong dân số trưởng thành. −
Tỷ lệ phần trăm của lực lượng lao động bị thất nghiệp: = 100 (%)
Hình 4.1: Tỷ lệ thất nghiệp ở Việt Nam trong giai đoạn 2000-2016
Nguồn: Tổng cục thống kê (2017) 4.2.
Phân loại thất nghiệp
Kinh tế vĩ mô thường chia thất nghiệp thành hai nhóm: thất nghiệp dài
hạn và những biến động của thất nghiệp trong ngắn hạn. Khái niệm
được dùng để chỉ mức thất nghiệp tồn tại ngay cả trong dài hạn. t T
biểu thị sự khác biệt giữa thất nghiệp thực tế so với
mức thất nghiệp tự nhiên do những biến động của nền kinh tế trong ngắn hạn.
4.2.1. Thất nghiệp tự nhiên Thất nghiệp tự
Thất nghiệp tự nhiên được dùng để chỉ mức thất nghiệp mà bình thường nhiên là dạng thất nghiệp
nền kinh tế trải qua. Thuật ngữ tự nhiên không hàm ý rằng tỷ lệ thất luôn tồn tại
nghiệp này là đáng mong muốn, không thay đổi theo thời gian hoặc ngay cả trong
không bị ảnh hưởng bởi chính sách kinh tế. Nó đơn giản là mức thất điều kiện bình
nghiệp được duy trì ngay cả trong dài hạn. Các dạng thất nghiệp được thường của nền
tính vào thất nghiệp tự nhiên gồm có , kinh tế. và .
a. Thất nghiệp tạm thời
Trong hầu hết các thị trường, giá cả điều chỉnh để cân bằng cung cầu.
Trong thị trường lao động lý tưởng, tiền lương sẽ điều chỉnh để triệt tiêu
tình trạng thất nghiệp. Tuy nhiên, thực tế cho thấy là ngay cả khi nền kinh
tế vận hành tốt thì thất nghiệp vẫn tồn tại.
Thất nghiệp tạm thời bắt nguồn từ sự dịch chuyển bình thường của thị
trường lao động. Một nền kinh tế vận hành tốt là nền kinh tế có sự ăn
khớp giữa lao động và việc làm. Trong một nền kinh tế phức tạp, chúng ta
không thể hy vọng những sự ăn khớp như vậy xuất hiện tức thì vì trên
thực tế người lao động có những sở thích và năng lực khác nhau, trong
khi việc làm cũng có những thuộc tính khác nhau. Hơn nữa, các luồng
thông tin về người muốn tìm việc và chỗ làm việc còn trống không phải
lúc nào cũng trùng pha, ăn khớp cũng như sự cơ động về mặt địa lý của Thất nghiệp
người lao động cũng không thể diễn ra ngay lập tức. Như vậy, chúng ta tạm thời là một dạng của
cần phải dự tính và phải coi một mức thất nhiệp nhất định là cần thiết và thất nghiệp tự
đáng mong muốn trong các xã hội hiện đại. Người lao động thường không nhiên, bắt
nhận ngay công việc đầu tiên được yêu cầu và doanh nghiệp không thuê nguồn từ việc người lao
người lao động đầu tiên nộp đơn xin việc. Trái lại, họ cần bỏ ra thời gian động cần một
và sức lực cần thiết để tạo ra sự ăn khớp tốt nhất giữa người lao động và khoảng thời
doanh nghiệp. Ví dụ, sau khi tốt nghiệp đại học, bạn cần phải có khoảng gian nhất định
thời gian cần thiết để đi tìm việc làm. Trong thời gian đó bạn được tính là để đi tìm việc.
thất nghiệp. Loại thất nghiệp này được gọi là i.
Hình 4.2: Khoảng thời gian thất nghiệp bình quân ở Mỹ (số tuần)
trong giai đoạn 1990-2017
Nguồn: The Statistics Portal (2018)
Một nguồn quan trọng của thất nghiệp tạm thời là thanh niên mới gia
nhập lực lượng lao động. Nguồn khác là những người đang trong quá
trình chuyển việc. Một số có thể bỏ việc do không thoả mãn với công việc
hiện tại hay điều kiện làm việc hiện tại; trong khi một số khác có thể bị sa
thải. Bất kể lý do là gì thì họ vẫn cần phải tìm một công việc mới, nhưng
điều này cần có thời gian và cần phải chấp nhận thất nghiệp trong một thời gian nhất định.
b. Thất nghiệp cơ cấu
Thất nghiệp cơ cấu phát sinh từ sự không ăn khớp giữa cung và cầu trên
các thị trường lao động cụ thể. Mặc dù số người đang tìm việc làm đúng
bằng số việc làm còn trống, nhưng người tìm việc và việc tìm người lại
không khớp nhau về kỹ năng, ngành nghề hoặc địa điểm. Ví dụ, một công
nhân bậc 7 có thể làm việc hơn 25 năm trong ngành dệt nhưng có thể trở
thành người thất nghiệp ở tuổi 50 khi ngành dệt đang bị thu hẹp do đối
mặt với sự cạnh tranh từ phía nước ngoài. Người công nhân này có thể
phải đào tạo thêm một kỹ năng mới mà nền kinh tế lúc đó đang có nhu
cầu. Tuy nhiên, các doanh nghiệp có thể không muốn tuyển và đào tạo
những công nhân lớn tuổi nên người công nhân này sẽ trở thành nạn nhân
của tình trạng thất nghiệp cơ cấu.
Sự thay đổi đi kèm với tăng trưởng kinh tế làm thay đổi cơ cấu của cầu t
lao động. Cầu lao động tăng lên ở các khu vực đang mở rộng và có triển Thất nghiệp cơ
vọng, trong khi lại giảm ở các khu vực đang bị thu hẹp hoặc ít triển vọng cấu là một dạng
hơn. Cầu lao động tăng đối với những người lao động có những kỹ năng của thất nghiệp
nhất định (như lập trình viên hay kỹ sư điện tử…) và cầu lao động giảm tự nhiên, bắt nguồn từ việc
đối với các ngành, nghề khác (như công nhân cơ khí…). Sự thay đổi theo kỹ năng của
hướng mở rộng khu vực dịch vụ và tái cơ cấu trong tất cả các ngành trước người lao động
sự đổi mới về công nghệ có lợi cho những công nhân có trình độ học vấn không đáp ứng
cao hơn. Để thích ứng những thay đổi đó, cấu trúc của lực lượng lao động được yêu cầu
cần thay đổi. Một số công nhân đang có việc làm cần được đào tạo lại và của thị trường
một số người mới gia nhập lực lượng lao động cần nắm bắt được các kỹ lao động.
năng lao động phù hợp với yêu cầu mới của thị trường. Tuy nhiên, quá
trình chuyển đổi thường tương đối khó khăn, đặc biệt đối với công nhân
có tay nghề cao mà kỹ năng của họ đã trở nên lạc hậu so với yêu cầu mới
về phát triển kinh tế. Thất nghiệp cơ cấu xuất hiện khi những điều chỉnh
như vậy diễn ra chậm chạp và thất nghiệp tăng lên ở các khu vực, các
ngành nghề mà cầu về các yếu tố sản xuất giảm nhanh hơn nguồn cung ứng.
c. Thất nghiệp theo lý thuyết Cổ điển
Một nguyên nhân khác góp phần giải thích tại sao chúng ta quan sát thấy
có một số thất nghiệp ngay cả trong dài hạn là sự cứng nhắc của tiền
lương thực tế. Mô hình Cổ điển giả định rằng tiền lương thực tế điều
chỉnh để cân bằng thị trường lao động, đảm bảo trạng thái đầy đủ việc
làm. Điều này phù hợp với cách tiếp cận cân bằng thị trường, đó là giá cả
sẽ điều chỉnh để đảm bảo cân bằng giữa cung và cầu. Tuy nhiên, thực tế
cho thấy là thất nghiệp luôn tồn tại.
Các nhà kinh tế Cổ điển cho rằng các lực lượng khác nhau trên thị trường Thất nghiệp cổ
lao động, gồm có luật pháp, thể chế và truyền thống, có thể ngăn cản tiền điển là một
lương thực tế điều chỉnh đủ mức để duy trì trạng thái đầy đủ việc làm. dạng của thất
Nếu tiền lương thực tế không thể giảm xuống mức đầy đủ việc làm thì nghiệp tự nhiên,
thất nghiệp sẽ xuất hiện. Loại thất nghiệp này thường được gọi là bắt nguồn từ việc không có
. Ba nguyên nhân chủ yếu có thể làm cho đủ việc làm do
tiền lương thực tế cao hơn mức cân bằng thị trường trong các nền kinh tế mặt bằng tiền
hiện đại, đó là: luật tiền lương tối thiểu; hoạt động công đoàn; và tiền lương bị đẩy lên
lương hiệu quả. Cả ba lý thuyết này đều giải thích lý do tiền lương thực tế cao hơn mức
có thể duy trì ở mức “quá cao” khiến một số người lao động có thể bị thất lương cân bằng. nghiệp.
Hình 4.3: Thất nghiệp theo lý thuyết cổ điển Tiền lương Dư cung lao động = Thất nghiệp Cung lao động Tiền lương tối thiểu WE Cầu lao động 0 LD L LS Số lao động :
Các đạo luật về tiền lương tối thiểu quy định mức lương thấp nhất mà
người thuê lao động phải trả cho người lao động. Giả sử rằng do luật tiền
lương tối thiểu quy định khiến tiền lương buộc phải duy trì ở mức cao
hơn tiền lương cân bằng thì lượng cung lao động tăng lên LS và lượng cầu
lao động giảm xuống LD. Mức dư cung về lao động (LS - LD) chính là số
người thất nghiệp tăng thêm. Như vậy, tiền lương tối thiểu làm tăng thu
nhập của những người lao động có việc làm, nhưng lại làm giảm thu nhập
của một số người lao động không tìm được việc làm do quy định này.
Để hiểu biết đầy đủ về tác động của tiền lương tối thiểu đến thị trường lao
động thì vấn đề quan trọng cần ghi nhớ là nền kinh tế không chỉ bao gồm
một thị trường lao động đơn lẻ mà gồm nhiều thị trường lao động cho các
loại lao động khác nhau. Ảnh hưởng của tiền lương tối thiểu phụ thuộc
vào kỹ năng và kinh nghiệm của người lao động, nhưng nhìn chung thì
những lao động có kỹ năng và kinh nghiệm ít bị ảnh hưởng bởi quy định
này vì mức lương cân bằng của họ cao hơn nhiều mức tiền lương tối
thiểu. Đối với những lao động có kỹ năng và kinh nghiệm, mức tiền
lương tối thiểu không mang tính ràng buộc.
Tiền lương tối thiểu có tác động mạnh nhất tới thị trường lao động thanh
niên. Tiền lương tối thiểu cho đối tượng lao động này có xu hướng thấp vì
họ nằm trong số những người lao động ít kỹ năng và kinh nghiệm nhất
trong lực lượng lao động. Kết quả là, tiền lương tối thiểu thường có tính
ràng buộc nhiều hơn đối với lao động thanh niên so với các đối tượng
khác của lực lượng lao động. t :
Ở các nước Tây Âu và Bắc Mỹ, công đoàn là một hiệp hội của những
người lao động nhằm thương lượng tập thể với người thuê lao động (hay
người sử dụng lao động) về tiền lương và các điều kiện làm việc. Công
đoàn là một dạng các-ten vì nó được tạo ra bởi một nhóm người và thành
một lực lượng có sức mạnh thị trường. Nếu công đoàn và doanh nghiệp
thất bại trong việc đi tới đồng thuận, công đoàn có thể - đó là
việc rút dịch vụ lao động khỏi doanh nghiệp. Ở phương Tây, mối đe doạ
đình công đến hoạt động sản xuất nên người lao động là đoàn viên công
đoàn thường nhận được tiền lương cao hơn so với những lao động không
tham gia công đoàn khoảng 10% đến 20%.
Do yêu cầu của công đoàn, tiền lương có thể tăng lên trên mức lương cân Công đoàn là
bằng. Điều này khiến lượng cung lao động tăng và lượng lượng cầu lao một tổ chức đại
động giảm và gây ra thất nghiệp. Cũng giống như Luật tiền lương tối diện cho tập thể người lao động,
thiểu, những ai có việc làm được lợi, nhưng những ai thất nghiệp bị tổn đứng ra để đàm
thất. Các nhà kinh tế đôi khi mô tả tình huống này như là một sự xung đột phán với giới giữa những và . Các công nhân tham chủ về chế độ
gia công đoàn là những người trong cuộc; còn những người thất nghiệp là đãi ngộ và điều kiện làm việc
những người ngoài cuộc. Nếu những người trong cuộc đủ mạnh thì những của người lao
người ngoài cuộc có thể vẫn không được doanh nghiệp thuê ngay cả với động. tiền lương thấp hơn.
Những người phê phán công đoàn lập luận rằng công đoàn chỉ là một
dạng các-ten. Khi công đoàn làm tăng tiền lương lên cao hơn mức cân
bằng trên thị trường cạnh tranh nên nó làm giảm lượng cầu về lao động
khiến một số người lao động bị thất nghiệp và làm giảm tiền lương ở bộ
phận còn lại của nền kinh tế. Theo lập luận của những người phê phán, sự
phân bổ lao động nảy sinh từ đó vừa không hiệu quả, vừa không công
bằng. Nó không hiệu quả bởi tiền lương của các đoàn viên công đoàn cao
làm giảm việc làm ở các doanh nghiệp có công đoàn xuống thấp hơn ở
mức cạnh tranh hiệu quả. Nó không công bằng bởi một số công nhân
được lợi, còn những người khác lại bị tổn thất.
Những người bênh vực công đoàn khẳng định rằng công đoàn là đối trọng
cần thiết để chống lại sức mạnh thị trường của doanh nghiệp thuê công
nhân. Trường hợp cực đoan của sức mạnh thị trường là “thành phố công
ty” – đó là nơi một công ty duy nhất thuê hầu hết lao động trong một
vùng lãnh thổ. Trong “thành phố công ty”, nếu công nhân không chấp
nhận tiền lương và các điều kiện lao động do doanh nghiệp đưa ra, họ chỉ
còn cách chuyển đi nơi khác hoặc không làm việc. Do đó, nếu không có
công đoàn, doanh nghiệp có thể sẽ sử dụng sức mạnh thị trường để trả
lương thấp hơn và cung cấp điều kiện lao động tồi hơn so với trường hợp
có công đoàn. Như vậy, trong trường hợp này công đoàn có thể cần thiết
để đối trọng với sức mạnh thị trường của doanh nghiệp nhằm bảo vệ công
nhân trước sự đối xử bất công của chủ doanh nghiệp. Ngoài ra, những
người ủng hộ công đoàn còn lập luận rằng tổ chức công đoàn sẽ mang
lại hiệu quả bởi vì các doanh nghiệp không cần phải thương lượng với
từng công nhân về tiền lương và các khoản phúc lợi khác. Nghĩa là, công
đoàn góp phần cắt giảm chi phí giao dịch.
Như vậy, không có sự nhất trí giữa các nhà kinh tế về việc công đoàn là
có lợi hay gây tổn hại cho nền kinh tế. Giống như nhiều thể chế khác, ảnh
hưởng của công đoàn có lẽ có lợi trong một số tình huống và bất lợi trong các tình huống khác. :
Nguyên nhân tiếp theo lý giải vì sao nền kinh tế luôn có thất nghiệp do lý
thuyết tiền lương hiệu quả đưa ra. Theo lý thuyết này, doanh nghiệp sẽ
hoạt động có hiệu quả hơn nếu trả tiền lương cao hơn mức cân bằng thị
trường vì doanh nghiệp có thể có lợi nếu giữ tiền lương ở mức cao ngay
cả khi có tình trạng dư cung về lao động.
Trên một số phương diện, thất nghiệp nảy sinh từ tiền lương hiệu quả
tương tự như thất nghiệp nảy sinh từ luật tiền lương tối thiểu và công
đoàn. Trong cả ba trường hợp, thất nghiệp là kết quả của việc tiền lương
cao hơn mức cho phép cân bằng thị trường lao động. Tuy nhiên, các lý
thuyết này cũng có những khác biệt quan trọng. Luật tiền lương tối thiểu
và công đoàn ngăn cản các doanh nghiệp hạ thấp tiền lương khi có tình
trạng dư cung về lao động. Lý thuyết tiền lương hiệu quả lại cho rằng các Lý thuyết tiền
biện pháp đó có thể không cần thiết vì doanh nghiệp có thể tự nguyện trả lương hiệu quả
tiền lương cao hơn mức cân bằng. phản ánh những lợi ích
Vì sao doanh nghiệp lại sẵn sàng trả tiền lương hơn mức cân bằng. Trên mà doanh
một phương diện nào đó, quyết định này dường như không hợp lý vì tiền nghiệp nhận
lương là một bộ phận lớn trong chi phí của đa số các doanh nghiệp. được khi trả
Thông thường, chúng ta dự kiến rằng doanh nghiệp có động cơ tối đa hóa lương cho
lợi nhuận sẽ muốn giữ cho chi phí và do đó tiền lương càng thấp càng tốt. người lao động
Triết lý của lý thuyết tiền lương hiệu quả là doanh nghiệp có thể được lợi cao hơn mức cân bằng của
khi trả lương cao vì tiền lương cao có thể làm tăng hiệu quả làm việc của thị trường.
công nhân trong doanh nghiệp.
Có nhiều dạng lý thuyết tiền lương hiệu quả. Mỗi một dạng đưa ra một
cách giải thích khác nhau về nguyên nhân làm cho doanh nghiệp muốn trả
lương cao. Bây giờ chúng ta hãy xem xét bốn dạng chính. t
Dạng đầu tiên và đơn giản nhất của lý thuyết tiền lương hiệu quả nhấn
mạnh đến mối liên kết giữa tiền lương và sức khoẻ của công nhân. Công
nhân được trả lương cao hơn sẽ có được chế độ dinh dưỡng tốt hơn nên sẽ
khoẻ mạnh hơn và có năng suất lao động cao hơn. Một doanh nghiệp có
thể nhận thấy có lợi hơn khi trả lương cao và có công nhân mạnh khoẻ,
năng suất hơn so với trả lương thấp hơn và có công nhân yếu hơn, năng suất kém hơn.
Dạng lý thuyết tiền lương hiệu quả này không phù hợp với thực tế ở
những nước giàu. Ở những nước này, tiền lương cân bằng khá cao và trên
mức cần thiết để đảm bảo bữa ăn đủ dinh dưỡng. Các doanh nghiệp
không cho rằng việc trả tiền lương cân bằng sẽ làm tổn hại đến sức khoẻ của công nhân.
Lý thuyết tiền lương hiệu quả thích hợp hơn với các doanh nghiệp ở các
nước kém phát triển, nơi chế độ dinh dưỡng không đầy đủ là vấn đề
thường thấy hơn. Ví dụ, thất nghiệp cao ở các đô thị của nhiều nước Châu
Phi nghèo. Ở những nước này, các doanh nghiệp thực sự lo ngại rằng biện
pháp cắt giảm tiền lương thực ra sẽ có ảnh hưởng bất lợi tới sức khoẻ và
năng suất của công nhân. Nói cách khác, quan tâm đến dinh dưỡng có thể
là một lý do để hiểu vì sao các doanh nghiệp không cắt giảm tiền lương
mặc dù có dư thừa lao động.
Dạng thứ hai của lý thuyết tiền lương hiệu quả nhấn mạnh đến mối liên
kết giữa tiền lương và sự luân chuyển công nhân. Công nhân thôi việc vì
nhiều lý do như có việc làm ở doanh nghiệp khác, chuyển tới vùng khác
của đất nước, rời khỏi lực lượng lao động... Tần suất bỏ việc của họ phụ
thuộc vào tất cả các kích thích mà họ đối mặt, trong đó có lợi ích của
hành động bỏ việc và lợi ích của việc ở lại. Doanh nghiệp trả tiền lương
cho công nhân của mình càng cao thì công nhân càng ít bỏ việc. Trả
lương cao là một hình thức giảm bớt sự luân chuyển công nhân.
Tại sao doanh nghiệp quan tâm đến sự luân chuyển công nhân? Lý do là
doanh nghiệp phải chịu chi phí gắn liền với việc tuyển dụng và đào tạo
công nhân mới. Hơn nữa, ngay cả sau khi được đào tạo, công nhân mới
cũng không phải là người có năng suất cao như những công nhân có kinh
nghiệm. Do đó, doanh nghiệp có sự luân chuyển công nhân cao hơn sẽ có
chi phí sản suất cao hơn. Các doanh nghiệp có thể nhận thấy có lợi hơn
khi trả lương cao hơn mức cân bằng để giảm bớt sự luân chuyển công nhân.
Dạng thứ ba của lý thuyết tiền lương hiệu quả nhấn mạnh đến mối liên kết
giữa tiền lương và nỗ lực của công nhân. Trong nhiều trường hợp, công
nhân có quyền tự do nhất định trong việc quyết định làm việc chăm chỉ
đến mức nào. Do vậy, các doanh nghiệp phải giám sát nỗ lực làm việc của
công nhân, và những công nhân thiếu trách nhiệm bị phát hiện sẽ bị phạt
tiền và thậm chí bị sa thải. Nhưng không phải tất cả công nhân lơ là đều
bị phát hiện ngay lập tức vì việc giám sát công nhân lại tốn kém và không
hoàn hảo. Doanh nghiệp có thể phản ứng bằng cách trả tiền lương cao
hơn mức cân bằng. Tiền lương cao hơn tạo cho công nhân cố giữ được
việc làm và do đó kích thích họ nỗ lực hết sức mình.
Dạng đặc biệt của lý thuyết tiền lương hiệu quả này giống như quan điểm
“đội quân thất nghiệp hậu bị” của C. Mác. Mác cho rằng giới chủ được lợi
từ thất nghiệp vì sự đe doạ của thất nghiệp góp phần nâng cao kỷ luật đối
với công nhân đang làm việc. Theo dạng này của lý thuyết tiền lương hiệu
quả, thất nghiệp đóng vai trò tương tự. Tiền lương ở mức cân bằng thì
công nhân ít có lý do để làm việc chăm chỉ vì nếu bị sa thải, họ sẽ nhanh
chóng tìm được việc làm mới với cùng mức lương. Do đó, doanh nghiệp
có thể quyết định tăng lương lên cao hơn mức cân bằng và gây ra thất
nghiệp, nhưng tạo ra động cơ cho công nhân phải làm việc tích cực.
Dạng thứ tư của lý thuyết tiền lương hiệu quả nhấn mạnh đến mối liên hệ
giữa tiền lương và chất lượng công nhân. Bằng cách trả lương cao, doanh
nghiệp thu hút được nhiều công nhân có trình độ cao đến xin việc và vì
thế mà có thể lựa chọn được những lao động ưu tú nhất.
4.2.2. Thất nghiệp chu kỳ
Thất nghiệp chu kỳ được dùng để chỉ những biến động của thất nghiệp từ Thất nghiệp
năm này đến năm khác xung quanh mức thất nghiệp tự nhiên và nó gắn chu kỳ là lượng thất
liền với những biến động kinh tế trong ngắn hạn. Các nền kinh tế thường nghiệp tăng
xuyên biến động, thể hiện bằng tăng trưởng cao trong một số thời kỳ và lên bắt nguồn
tăng trưởng thấp trong các thời kỳ khác và thậm chí có thể suy thoái. Khi từ tình trạng
nền kinh tế mở rộng, thất nghiệp chu kỳ biến mất; ngược lại, khi nền kinh thu hẹp sản
tế thu hẹp, thất nghiệp chu kỳ rất cao. xuất và suy thoái kinh tế.
Thất nghiệp chu kỳ xuất hiện khi tổng cầu không đủ để cân đối với toàn
bộ sản lượng tiềm năng của nền kinh tế hay sản lượng thực tế thấp hơn
sản lượng tiềm năng và điều này gây ra suy thoái. Thất nghiệp chu kỳ có
thể đo lường bằng số người có thể có việc làm khi sản lượng ở mức tiềm
năng trừ đi số người hiện đang làm việc trong nền kinh tế. Khi thất nghiệp
chu kỳ bằng 0, toàn bộ thất nghiệp hiện tại đều là thất nghiệp tạm thời,
thất nghiệp cơ cấu hay thất nghiệp theo lý thuyết Cổ điển, và khi đó tỷ lệ thất nghiệp chính là
Trong dài hạn, nền kinh tế có thể tự quay trở lại trạng thái toàn dụng
thông qua sự điều chỉnh của tiền lương và giá cả nên thất nghiệp chu kỳ
sẽ tự mất đi. Tuy nhiên, trong ngắn hạn, thất nghiệp chu kỳ là một phần
trong tổng số thất nghiệp mà Chính phủ có thể góp phần giảm bớt bằng t
cách sử dụng chính sách tài khóa và tiền tệ để tăng tổng cầu, chứ không
phải bằng cách chờ cho tiền lương và giá cả giảm. 4.3.
Chi phí của thất nghiệp
Thất nghiệp gây ra những chi phí đáng kể đối với xã hội, nhưng điều quan
trọng cần hiểu các chi phí này một cách chính xác để giúp các nhà hoạch
định chính sách có những cách điều chỉnh thích hợp.
Một đặc điểm quan trọng của thất nghiệp là nó phân bổ không đồng đều
đến toàn xã hội. Do đó, chi phí của nó cũng phân bổ không đều. Thất
nghiệp thường ảnh hưởng mạnh nhất đến thanh niên và những nhóm dân cư nghèo trong xã hội.
Đối với cá nhân, thất nghiệp là một gánh nặng. Khi bị mất việc, thu nhập
của công nhân giảm, ảnh hưởng xấu đến mức sống, đồng thời họ cũng dễ
bị tổn thương về tâm lý. Nếu thất nghiệp kéo dài, các kỹ năng lao động
của công nhân cũng bị mai một. Mối quan hệ gia đình có thể trở nên căng
thẳng khi người trụ cột trong gia đình bị thất nghiệp.
Rất khó đo lường các chi phí này một cách chính xác. Các nhà kinh tế đã
tìm cách đo lường một chi phí khác của thất nghiệp, sản lượng mất mát do
mức sử dụng lao động trong nền kinh tế giảm. Điều quan trọng ở đây là
cần phân biệt giữa thất nghiệp tự nhiên và thất nghiệp chu kỳ.
4.3.1. Đối với thất nghiệp tự nhiên
Thất nghiệp tự nhiên là mức thất nghiệp mà bình thường nền kinh tế phải
chịu. Thực ra thuật ngữ tự nhiên không hàm ý rằng mức thấp nghiệp này
là đáng mong muốn. Như phân tích ở trên cho thấy thất nghiệp tự nhiên
lại phản ánh rất nhiều các hiện tượng và lực lượng khác nhau: thất nghiệp
tạm thời, phát sinh khi công nhân cần thời gian để tìm việc; thất nghiệp cơ
cấu phát sinh do có sự không ăn khớp giữa cơ cấu của cầu và cung lao
động; và thất nghiệp theo lý thuyết cổ điển xảy ra khi tiền lương được chủ
động duy trì cao hơn mức cân bằng thị trường.
Rõ ràng không phải mọi bộ phận của thất nghiêp tự nhiên đều phản ánh
sự lãng phí nguồn lực. Trong một chừng mực nào đó thất nghiệp tạm thời
có thể là một điều tốt, người ta không chấp nhận công việc đầu tiên mà họ
được yêu cầu. Quá trình tìm việc sẽ giúp người lao động có thể kiếm được
việc làm tốt hơn, phù hợp hơn với nguyện vọng và năng lực của họ. Điều
này còn có một lợi ích xã hội: làm cho lao động và việc làm khớp nhau
hơn và do đó các nguồn lực sẽ được sử dụng một cách có hiệu quả hơn,
góp phần làm tăng tổng sản lượng của nền kinh tế trong dài hạn.
Thất nghiệp cũng có nghĩa là công nhân có nhiều thời gian nghỉ ngơi hơn.
Bằng cách từ bỏ làm việc, một số người sẽ nhận thấy rằng nghỉ ngơi thêm
mang lại cho họ nhiều giá trị hơn so với khoản thu nhập mà lẽ ra họ có
thể nhận nếu làm việc.
Tuy nhiên chỉ một phần của thất nghiệp tự nhiên thuộc loại này. Một số
công nhân bị mất việc trong thời gian dài, mà không có cơ hội thực sự tìm
được việc làm. Điều quan trọng cần hiểu là phải chăng những trở ngại để
có việc là do sự khiếm khuyết của thị trường và liệu các khiếm khuyết
này có thể được khắc phục bằng các chính sách.
4.3.2. Đối với thất nghiệp chu kỳ
Vấn đề hoàn toàn khác khi chúng ta đề cập đến thất nghiệp chu kỳ, tức là
mức thất nghiệp cao hơn mức tự nhiên. Trong trường hợp này, sản lượng
có thể tăng lên bằng cách sử dụng đầy đủ hơn các nguồn lực hiện có. Qui
-kun – kết quả rút ra từ các phân tích thực nghiệm về mối quan hệ
giữa thất nghiệp và sản lượng đối với nền kinh tế Mỹ – đã chỉ ra rằng khi
thất nghiệp thực tế cao hơn 1% so với thất nghiệp tự nhiên, sản lượng
thực tế thấp hơn sản lượng tiềm năng 2,5%. Khi sản lượng ở dưới mức tự
nhiên, những tổn thất của thất nghiệp là rõ ràng. Những cá nhân thất
nghiệp bị mất tiền lương và nhận trợ cấp thất nghiệp, Chính phủ mất thu
nhập từ thuế và phải trả thêm trợ cấp và các doanh nghiệp bị giảm lợi nhuận.
Tuy nhiên thất nghiệp chu kỳ cũng có những tác động tích cực. Điều này
cho phép giảm phần nào những chi phí ở trên. Một người mất việc sẽ
được nghỉ ngơi và thời gian nhàn rỗi cũng có một giá trị nào đó, ngay cả
khi phần lớn thời gian nhàn rỗi này là không tự nguyện và do đó lợi ích từ
thất nghiệp chu kỳ có giá trị rất nhỏ so với thu nhập bị mất và tăng sức ép
tâm lý do thất nghiệp gây ra.
Xã hội với tư cách là một tổng thể chịu nhiều tổn thất hơn so với các cá
nhân thất nghiệp về mặt thu nhập. Bởi vì một công nhân có việc sẽ nộp
thuế cho Chính phủ, trong khi một công nhân thất nghiệp có thể được
nhận trợ cấp. Chi phí về sản lượng đối với xã hội của một công nhân thất
nghiệp chu kỳ bao gồm 3 thành phần: thu nhập mất mát của các công
nhân thất nghiệp sau khi trừ đi trợ cấp thất nghiệp; giá trị của trợ cấp thất
nghiệp do Chính phủ trả; và sự mất mát nguồn thu do thu nhập từ thuế giảm. 4.4.
Chính sách đối với thất nghiệp
Nếu thông tin về việc làm mới và số lao động đang có nhu cầu làm việc
được truyền đi nhanh chóng thì lao động và doanh nghiệp sẽ dễ gặp nhau
hơn. Ví dụ, Internet có thể tạo thuận lợi cho quá trình tìm việc và làm
giảm thất nghiệp tạm thời. Ngoài ra, chính sách công có thể đóng một vai
trò nhất định. Ví dụ, nếu chính sách có thể làm giảm bớt thời gian mà t
công nhân thất nghiệp cần thiết để tìm được việc làm mới, thì nó có thể
làm giảm tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên của nền kinh tế.
Chính sách của Chính phủ có thể tác động đến thất nghiệp tạm thời theo
nhiều cách khác nhau. Việc thành lập các văn phòng giới thiệu việc làm
có chức năng cung cấp thông tin về những việc làm còn trống và người
lao động có nhu cầu tìm việc sẽ tạo thuận lợi cho người lao động dễ tìm được việc làm hơn.
Một chương trình của Chính phủ có xu hướng làm tăng quy mô thất nghiệp tạm thời là
. Trợ cấp thất nghiệp cho phép
người lao động mất việc nhận được một khoản thu nhập từ Chính phủ
khi họ không có việc làm. Đây là một chính sách được thiết kế nhằm
giúp người lao động đối phó với thất nghiệp vì nó góp phần làm giảm tổn
thất và tính dễ tổn thương cho người thất nghiệp và gia đình của họ. Tuy
nhiên, chính sách này lại làm tăng thất nghiệp tạm thời trong nền kinh tế.
Trợ cấp thất nghiệp cho phép công nhân mất việc nhận được một khoản
thu nhập từ Chính phủ trong khi họ không có việc làm. Điều này làm
giảm sức ép đối với các công nhân bị mất việc tìm kiếm việc làm mới và
rất có thể họ không chấp nhận các công việc không hấp dẫn, nhất là khi
mức trợ cấp thất nghiệp lại cao. Do vậy, để giảm bớt thất nghiệp tạm thời,
chính phủ có thể duy trì mức trợ cấp thất nghiệp hợp lý, cũng như rút
ngắn thời gian được hưởng trợ cấp thất nghiệp để gây áp lực buộc người
thất nghiệp phải nhanh chóng tìm việc.
Các chương trình hỗ trợ đào tạo nghề sẽ giúp giảm bớt được thất nghiệp
cơ cấu thông qua việc giúp người lao động trang bị những kỹ năng mới,
và nhờ vậy có thể tìm được công việc mới dễ dàng hơn.
Hạn chế bớt sức mạnh của công đoàn sẽ giúp tiền lương không bị đẩy lên
quá cao và gây ra tình trạng thất nghiệp.
Tóm lược nội dung
Tỷ lệ thất nghiệp là phần trăm những người trưởng thành sẵn sàng và
có khả năng làm việc, nhưng không có việc làm.
Thất nghiệp thường được chia thành hai nhóm: thất nghiệp tự nhiên và
thất nghiệp chu kỳ. Thất nghiệp tự nhiên biểu thị mức thất nghiệp bình
thường mà nền kinh tế phải chịu, còn thất nghiệp chu kỳ biểu thị
những dao động ngắn hạn của thất nghiệp xung quanh mức tự nhiên.
Một nguyên nhân của thất nghiệp là thời gian cần thiết để công nhân
tìm được việc làm thích hợp với sở thích và kỹ năng của họ. Trợ cấp
thất nghiệp là chính sách của Chính phủ có tác dụng ổn định thu nhập
cho công nhân, lại làm tăng thất nghiệp tạm thời.
Nguyên nhân thứ hai gây ra thất nghiệp là do có sự không ăn khớp
giữa cung và cầu lao động trên các thị trường lao động cụ thể. Các
chương trình đào tạo lại của Chính phủ sẽ giúp công nhân dễ dàng
chuyển đổi từ các ngành bị suy giảm sang các ngành đang mở rộng.
Nguyên nhân thứ ba lý giải vì sao nền kinh tế của chúng ta luôn có
một số thất nghiệp là do lương bị đẩy lên quá cao dưới tác động của
luật tiền lương tối thiểu, sức mạnh của công đoàn, và lý thuyết tiền lương hiệu quả nêu ra.
Thất nghiệp có cả tác động tiêu cực lẫn tích cực đến nền kinh tế. Đối
với cá nhân, thất nghiệp gây ra sự mất mát thu nhập và tổn thương về
mặt tâm lý. Đối với xã hội, thất nghiệp chu kỳ làm cho sản lượng giảm
xuống dưới mức tự nhiên, nguồn thu ngân sách giảm... Lợi ích cơ bản
của thất nghiệp là tạo điều kiện để xếp đúng người vào đúng việc và
làm tăng năng suất lao động.
Cung cấp thông tin về việc làm đầy đủ hơn, hạ thấp mức trợ cấp thất
nghiệp và khoảng thời gian trợ cấp, hỗ trợ đào tạo nghề, giảm bớt sức
mạnh công đoàn là một số chính sách có thể giúp hạ bớt tỷ lệ thất
nghiệp trong nền kinh tế. t Câu hỏi ôn tập
1. Các nhà thống kê lao động chia dân số trưởng thành thành ba nhóm
nào? Họ tính lực lượng lao động, tỷ lệ thất nghiệp và tỷ lệ tham gia
lực lượng lao động như thế nào?
2. Vì sao thất nghiệp tạm thời là không thể tránh khỏi? Chính phủ có
thể làm gì để cắt giảm thất nghiệp tạm thời?
3. Thất nghiệp cơ cấu là gì? Biện pháp nào mà Chính phủ có thể sử
dụng để cắt giảm thất nghiệp cơ cấu?
4. Công đoàn ảnh hưởng như thế nào tới tình trạng thất nghiệp và
phân phối tiền lương trong nền kinh tế?
5. Hãy giải thích bốn cách mà doanh nghiệp có thể tăng lợi nhuận
bằng cách trả lương cho công nhân cao hơn mức cân bằng thị trường. Bài tập vận dụng
1. Đúng/Sai và giải thích: Việc thúc đẩy sự phát triển của công đoàn
sẽ giúp tạo nhiều việc làm hơn cho người lao động ( )
2. Hãy so sánh tác động của việc nâng tiền lương tối thiểu tới những
người lao động giản đơn và kỹ năng thấp với những người lao động kỹ năng cao. ( ).
3. Cho biết số người trưởng thành là 40 triệu, trong đó có 5 triệu
người đang không có nhu cầu làm việc. Số người có việc làm hiện
giờ là 32 triệu người. Hãy tính tỷ lệ tham gia lực lượng lao động và tỷ lệ thất nghiệp? ( )