















Preview text:
lOMoAR cPSD| 61432759
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN -------***------- BÀI TẬP LỚN
MÔN: TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN ĐỀ BÀI
Làm rõ quan điểm của triết học Mác-Lênin về con đường biện chứng của sự
nhận thức chân lý. Từ đó rút ra ý nghĩa về nghiên cứu khoa học và học tập của bản thân.
Giảng viên hướng dẫn: Ts. Nghiêm Thị Châu Giang
Họ và tên : Bùi Thu Trang
Mã sinh viên : 11226333
Lớp : Triết học Mác-Lênin_20 Khóa: 64A
Hà Nội, tháng 7 năm 2023 lOMoAR cPSD| 61432759 NỘI DUNG
I.CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NHẬN THỨC CHÂN LÝ
1.Nhận thức là gì?
Để phân tích con đường biện chứng của quá trình nhận thức chân lý, trước hết
chúng ta cần hiểu rõ về nhận thức.
Nhận thức được định nghĩa cơ bản chính là một quá trình phản ánh tích cực, tự
giác và sáng tạo thế giới khách quan vào bộ óc của con người dựa trên cơ sở của
thực tiễn, nhằm mục đích để có thể thông qua đó sáng tạo ra những tri thức về thế giới khách quan đó.
Đây là một quá trình phức tạp, quá trình nảy sinh và giải quyết mâu thuẫn chứ
không phải quá trình máy móc giản đơn, thụ động và nhất thời: “Nhận thức là sự
tiến gần mãi mãi và vô tận của tư duy đến khách thể. Phản ánh của giới tự nhiên
trong tư tưởng con người phải được hiểu không phải một cách “chết cứng”, “trừu
tượng”, không phải không vận động, không mâu thuẫn mà là quá trình vĩnh viễn của
vận động, của sự nảy sinh mâu thuẫn và sự giải quyết những mâu thuẫn đó”.
Quan niệm được nêu cụ thể bên trên đây về nhận thức trên thực tế cũng chính
là quan niệm duy vật biện chứng về bản chất của nhận thức. Thực chất thì quan niệm
cụ thể này xuất phát từ bốn nguyên tắc cơ bản như sau:
– Nguyên tắc thừa nhận thế giới vật chất luôn tồn tại một cách khách quan,thế
giới vật chất độc lập với ý thức của con người.
– Nguyên tắc thừa nhận con người đều có khả năng nhận thức được thế
giớikhách quan vào trong chính bộ óc của con người, đây cũng chính là hoạt động
tìm hiểu khách thể của chủ thể; nguyên tắc thừa nhận không có cái gì là không thể
nhận thức được mà trên thực tế chỉ có những cái mà con người chưa thể nào có thể nhận thức được.
– Nguyên tắc khẳng định sự phản ánh đó chính là một quá trình biện chứng,tích
cực, tự giác và sáng tạo. Quá trình phản ánh đó trên thực tế sẽ diễn ra theo trình tự
cụ thể đó là từ chưa biết đến biết, từ biết ít đến nhiều, từ chưa sâu sắc, chưa toàn diện
đến sâu sắc và toàn diện hơn, và nhiều các trình tự khác.
– Nguyên tắc coi thực tiễn là cơ sở chủ yếu và trực tiếp nhất của nhận thức; thực
tiễn cũng chính là động lực, mục đích của nhận thức và là tiêu chuẩn để nhằm mục
đích có thể kiểm tra chân lý.
2. Phân tích con đường biện chứng của quá trình nhận thức
Trong tác phẩm Bút ký triết học, V.I.Lênin đã khái quát con đường biện chứng
của sự nhận thức chân lý như sau: Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng và
từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn – đó là con đường biện chứng của sự nhận thức
chân lý, của sự nhận thức hiện thực khách quan.
Theo sự khái quát này, con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý (tức là
phản ánh đúng đắn đối với hiệt thực khách quan) là một quá trình. Đó lá quá trình
bắt đầu từ “trực quan sinh động” (nhận thức cảm tính) tiến đến “tư duy trừu tượng” lOMoAR cPSD| 61432759
(nhận thức lý tính). Nhưng những sự trừu tượng đó không phải là điểm cuối cùng
của một chu kỳ nhận thức, mà nhận thức phải tiếp tục tiến tới thực tiễn. Chính trong
thực tiễn mà nhận thức có thể kiểm tra và chứng minh tính đúng đắn của nó và tiếp
tục vòng khâu tiếp theo của quá trình nhận thức. Thực tiễn ở đây vừa là cơ sở, động
lực mục đích của quá trình nhận thức vừa là mắt khâu kiểm tra chân lý khách quan;
vừa là yếu tố kết thúc một vòng khâu của sự nhận thức, vừa là điểm bắt đầu của vòng
khâu mới của sự nhận thức. Cứ thế, sự nhận thức của con người là một quá trình
không có điểm cuối. Đây cũng chính là quy luật chung của quá trình con người nhận
thức về hiện thực khách quan.
2.1 Giai đoạn từ nhận thức cảm tính đến nhận thức lý tính (từ trực quan sinh
động đến tư duy trừu tượng)
2.1.1 Nhận thức cảm tính
Nhận thức cảm tính là giai đoạn mở đầu của quá trình nhận thức. Đó là giai
đoạn nhận thức mà con người, trong hoạt động thực tiễn, sử dụng các giác quan để
tiến hành phản ánh các sự vật, hiện tượng khách quan, mang tính chất cụ thể, với
những biểu hiện phong phú của nó trong mối quan hệ với sự quan sát của con người.
Ở giai đoạn này, nhận thức mới chỉ phản ánh được cái hiện tượng, cái biểu hiện bên
ngoài của sự vật cụ thể, trong hiện thực khách quan, chưa phản ánh được cái bản
chất, quy luật, nguyên nhân của những hiện tượng quan sát được. Do đó, đây chính
là giai đoạn thấp của quá trình nhận thức. Trong giai đoạn này nhận thức được thực
hiện qua ba hình thức cơ bản là: cảm giác, tri giác và biểu tượng.
Cảm giác của con người về sự vật, hiện tượng khách quan là hình thức đầu tiên
của quá trình nhận thức và là nguồn gốc của sự hiểu biết. Khi các sự vật trực tiếp tác
động vào các giác quan của chúng ta thì gây nên trong ta những cảm giác. Mỗi cảm
giác giúp ta nhận biết một thuộc tính nào đó của sự vật, hiện tượng, có nội dung
khách quan, mắc dù nó thuộc về sự phản ánh chủ quan của con người. Có thể nói
nguồn gốc và nội dung của cảm giác đó chính là thế giới khách quan, còn bản chất
của cảm giác thì đó lại là hình ảnh chủ quan về thế giới đó. Nó là cơ sở để hình thành
nên tri giác. VD: Nhìn thấy bông hoa hồng chúng ta thấy hoa có màu đỏ thẫm.
Khi tiếp xúc với sự vật mà cùng một lúc tác động lên nhiều giác quan của chúng
ta, chúng ta cảm nhận được nhiều thuộc tính của nó một cách toàn vẹn trực tiếp. Sự
tổng hợp nhiều thuộc tính khác nhau của sự vật do cảm giác đem lại được gọi là tri
giác. Tri giác là sự phản ánh tương đối toàn vẹn của con người về những biểu hiện
của sự vật, hiện tượng khách quan, cụ thể, cảm tính, được hình thành trên cơ sở liên
kết, tổng hợp những cảm giác về sự vật, hiện tượng. So với cảm giác, tri giác là hình
thức nhận thức cao hơn, đầy đủ hơn, phong phú hơn, nhưng đó vẫn chỉ là sự phản
ánh đối với những biểu hiện bên ngoài của sự vật, hiện tượng khách quan, chưa phản
ánh được cái bản chất, quy luật khách quan. VD: Một bông hoa hồng với thị giác ta
nhìn thấy hoa có màu đỏ thẫm, lá có màu xanh tươi, với khứu giác ta ngửi thấy có
mùi thơm dịu nhẹ, với xúc giác ta thấy cánh hoa mềm mại, bằng cách vận dụng nhiều
giác quan chúng ta cảm nhận được một cách trọn vẹn nhất vẻ đẹp của bông hoa đó. lOMoAR cPSD| 61432759
Biểu tượng là sự tái hiện hình ảnh về sự vật, hiện tượng khách quan vốn đã
được phản ánh bởi cảm giác và tri giác; nó là hình thức phản ánh cao nhất và phức
tạp nhất của giai đoạn nhận thức cảm tính, đồng thời nó cũng chính là bước quá độ
từ giai đoạn nhận thức cảm tính lên nhận thức lý tính. VD: Vẫn với bông hoa đó,
chúng ta không còn được quan sát trực tiếp nữa nhưng chúng ta vẫn có thể tưởng
tượng ra bông hoa đó như thế nào, nhờ vào sự hồi tưởng do cảm giác, tri giác đem lại trước đó.
Ở đây sự tưởng tượng đã mang tính chủ động, sáng tạo của con người. Tưởng
tượng có vai trò rất lớn trong hoạt động sáng tạo khoa học và sáng tạo nghệ thuật.
Biểu tượng tuy vẫn còn mang tính chất cụ thể, sinh động của nhận thức cảm tính,
song đã bắt đầu mang tính khái quát và gián tiếp. Có thể xem biểu tượng như là hình
thức trung gian quá độ cần thiết để chuyển từ nhận thức cảm tính lên nhận thức lý
tính. Tuy nhiên giai đoạn nhận thức cảm tính đem lại cho ta những hiểu biết còn
dừng lại ở cái bề ngoài, cái hiện tượng, cái đơn nhất mà ở đó chưa thể phản ánh khám
phá được những thuộc tính bản chất, những quy luật vận động của sự vật hiện tượng.
Nhận thức chỉ thực hiện được điều đó trong giai đoạn kế tiếp của mình, đó là tư duy trừu tượng
2.1.2. Nhận thức lý tính
Nhận thức lý tính hay tư duy trừu tượng được đặt nền móng từ nhận thức cảm
tính, nhưng phản ánh hiện thực sâu sắc hơn, rõ nét hơn, tức là có thể phản ánh được
những thuộc tính và mối quan hệ bản chất, mang tính quy luật của sự vật trên cơ sở
trừu tượng hóa và khái quát hóa những tài liệu do nhận thức cảm tính cung cấp. Nhận
thức lý tính được thực hiện thông qua ba hình thức cơ bản là: khái niệm, phán đoán và suy lý (suy luận).
Khái niệm là hình thức cơ bản của nhận thức lý tính, phản ánh những đặc tính
bản chất của sự vật, hiện tượng. Sự hình thành khái niệm là kết quả của sự khái quát,
tổng hợp biện chứng các đặc điểm, thuộc tính của sự vật, hiện tượng hay một lớp các
sự vật, hiện tượng. Con người dùng khái niệm để bao quát thế giới, thế giới dù to
đến mấy thì cũng nằm gọn trong những khái niệm, hay dù đi sâu vào chi tiết thì cũng
có những khái niệm rất cụ thể. Nó là cơ sở hình thành nên những phán đoán trong
quá trình con người tư duy về sự vật, hiện tượng khách quan. VD: khái niêm
“Nguyên tử” đại diện cho đơn vị cơ bản của vật chất. Chúng ta có thể sử dụng khái
niệm này để diễn tả và nghiên cứu về các quy luật và quá trình liên quan đến nguyên tử.
Phán đoán là hình thức liên hệ giữa các khái niệm, phản ánh mối liên hệ giữa
các sự vật, hiện tượng của thế giới trong ý thức của con người. Phán đoán là một
hình thức tư duy trừu tượng, bằng cách liên kết các khái niệm lại nhằm khẳng định
hay phủ định một thuộc tính nào đó của sự vật. Như vậy, phán đoán là hình thức biểu
đạt các quy luật khách quan. Một phán đoán phản ánh đúng đăn hiện thực khách
quan sẽ mang lại giá trị chân thực, nếu phản ánh không chân thực là giả dối. VD:
Trường Đại học Kinh tế quốc dân là trường đại học hàng đầu Việt Nam, cái được lOMoAR cPSD| 61432759
phán đoán không phải là những sự vật được nêu ra trong các khái niệm, mà là mối
quan hệ Trường Đại học Kinh tế quốc dân, trường đại học hàng đầu Việt Nam.
Theo trình độ phát triển của nhận thức, phán đoán được chia làm ba loại: phán
đoán đơn nhất, phán đoán đặc thù và phán đoán phổ biến. Phán đoán phổ biến là
hình thức phản ánh thể hiện sự bao quát rộng lớn nhất về thực tại khách quan.
Suy lý là hình thức cơ bản của nhận thức lý tính, được hình thành trên cơ sở
liên kết các phán đoán nhằm rút ra tri thức mới về sự vật, hiện tượng. Điều kiện để
có bất cứ một suy lý nào cũng phải là trên cơ sở những tri thức đã có dưới hình thức
là những phán đoán, đồng thời tuân theo những quy tắc lôgích của các loại hình suy
luận, đó là suy luận quy nạp (đi từ những cái riêng đến cái chung) và suy luận diễn
dịch (đi từ cái chung đến mỗi cái riêng, cái cụ thể).VD: Nếu chúng ta biết rằng “Tất
cả những người yêu thích hát đều yêu thích âm nhạc”, và “ Cô Giang rất thích hát”
vậy chúng ta có thể suy luận rằng: “ Cô Giang là người yêu thích âm nhạc.”
2.2 Mối quan hệ giữa nhận thức cảm tính, nhận thức lý tính với thực tiễn
Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính là những nấc thang hợp thành chu trình
nhận thức. Trên thực tế, chúng thường diễn ra đan xen vào nhau trong một quá trình
nhận thức, song chúng có những chức năng và nhiệm vụ khác nhau. Nếu nhận thức
cảm tính gắn liền với thực tiễn, với sự tác động của khách thể cảm tính, là cơ sở cho
nhận thức lý tính thì nhận thức lý tính, nhờ có tính khái quát cao, lại có thể hiểu biết
được bản chất, quy luật vận động và phát triển sinh động của sự vật, hiện tượng giúp
cho nhận thức cảm tính có được sự định hướng đúng và trở nên sâu sắc hơn.
Tuy nhiên, nếu dừng lại ở nhận thức lý tính thì con người mới chỉ có được
những tri thức về đối tượng, còn bản thân những tri thức đó có thật sự chính xác hay
không thì con người vẫn chưa thể biết được. Trong khi đó, nhận thức đòi hỏi phải
xác định xem những tri thức đó có chân thực hay không. Để thực hiện điều này thì
nhận thức nhất thiết phải trở về với thực tiễn, dùng thực tiễn làm tiêu chuẩn, làm
thước đo tính chân thực của những tri thức đã đạt được trong quá trình nhận thức.
Mặt khác, mọi nhận thức suy đến cùng đều là xuất phát từ nhu cầu thực tiễn và trở
lại phục vụ thực tiễn.
Như vậy, có thể thấy quy luật chung, có tính chu kỳ lặp đi lặp lại của quá trình
vận động, phát triển của nhận thức là: từ thực tiễn đến nhận thức – từ nhận thức trở
về với thực tiễn – từ thực tiễn tiếp tục quá trình phát triển nhận thức, V.V.. Quá trình
này lặp đi lặp lại, không có điểm dừng cuối cùng, trình độ của nhận thức và thực tiễn
ở chu kỳ sau thường cao hơn chu kỳ trước, nhờ đó mà quá trình nhận thức đạt dần
tới những tri thức ngày càng đúng đắn hơn, đầy đủ hơn và sâu sấc hơn về thực tại
khách quan. Đây cũng chính là quan điểm về tính tương đối của nhận thức của con
người trong quá trình phản ánh thực tế khách quan. Quy luật chung của sự nhận thức
cũng là một sự biểu hiện cụ thể, sinh động của những quy luật chung trong phép biện
chứng duy vật: quy luật phủ định của phủ định, quy luật chuyển hóa từ những thay
đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược lại, quy luật thống nhất và
đấu tranh giữa các mặt đối lập. Sự vận động của quy luật chung trong quá trình vận lOMoAR cPSD| 61432759
động, phát triển nhận thức chính là quá trình con người, loài người ngày càng tiến
dần tới chân lý. 3. Chân lý và vai trò của chân lý đối với thực tiễn
3.1 Quan niệm về chân lý
Mọi quá trình nhận thức đều dẫn tới sự sáng tạo ra những tri thức, tức những
hiểu biết của con người về thực tại khách quan, nhưng không phải mọi tri thức đều
có nội dung phù hợp với thực tại khách quan, bởi vì nhận thức thuộc về sự phản
ánh của con người đối với thực tại khách quan đó. Thực tế lịch sử nhận thức của
toàn nhân loại cũng như của mỗi con người đã chứng minh rằng, những tri thức mà
con người đã và đang đạt được không phải bao giờ cũng phù hợp với thực tế khách
quan; trái lại, có rất nhiều trường hợp không phù hợp, thậm chí hoàn toàn đối lập
với thực tế khách quan.
Trong phạm vi lý luận nhận thức của chủ nghĩa Mác – Lênin, khái niệm chân
lý được dùng để chỉ những tri thức có nội dung phù hợp với thực tế khách quan; sự
phù hợp đó được kiểm tra và chứng minh bởi thực tiễn.
Theo nghĩa đó, khái niệm chân lý không đồng nhất với khái niệm tri thức,
cũng không đồng nhất với khái niệm giả thuyết. Đồng thời, chân lý cũng là một
quá trình. Theo V.I.Lênin: “Sự phù hợp giữa tư tưởng và khách thể là một quá
trình: tư tưởng (= con người) không nên hình dung chân lý dưới dạng một sự đứng
im chết cứng, một bức tranh (hình ảnh) đơn giản, nhợt nhạt (lờ mờ), không khuynh
hướng, không vận động”.
Chân lý thuộc về vấn đề nhận thức. Bởi vì, nhiệm vụ của nhận thức là phải đạt
đến chân lý, nghĩa là đạt đến tri thức có nội dung phù hợp với hiện thực khách
quan; nhưng không phải sự nhận thức nói chung, mà là sự nhận thức đúng về hiện
thực khách quan. Không thể có chân lý chủ quan, hoặc chân lý tồn tại tự nó một
cách trừu tượng thuần túy ở trong hiện thực khách quan như quan điểm của triết
học duy tâm đã thừa nhận. Hoặc có quan điểm không đúng cho rằng chân lý thuộc
về số đông, tức là tư tưởng đó được nhiều người thừa nhận, hoặc nó thuộc về
những người có quyền lực, người giàu có,…
3.2 Các tính chất của chân lý
Mọi chân lý đều có tính khách quan, tính tương đối, tính tuyệt đối và tính cụ thể.
Tính khách quan của chân lý là chỉ tính độc lập về nội dung phản ánh của nó
đối với ý chí chủ quan của con người; nội dung của tri thức phải phù hợp với thực
tế khách quan chứ không phải ngược lại. Điều đó có nghĩa là nội dung của những
tri thức đúng đắn không phải là sản phẩm thuần túy chủ quan, không phải là sự xác
lập tùy tiện của con người hoặc có sẵn ở trong nhận thức; trái lại nội dung đó thuộc
về thế giới khách quan, do thế giới khách quan quy định.
Khẳng định chân lý có tính khách quan là một trong những điểm cơ bản phân
biệt quan niệm về chân lý của chủ nghĩa duy vật biện chứng với chủ nghĩa duy tâm lOMoAR cPSD| 61432759
và thuyết bất khả tri – là những học thuyết phủ nhận sự tồn tại khách quan của thế
giới vật chất và phủ nhận khả năng con người nhận thức được thế giới đó.
Chân lý không chỉ có tính khách quan mà còn có tính tuyệt đối và tính tương
đối. Tính tuyệt đối của chân lý là chỉ tính phù hợp hoàn toàn và đầy đủ giữa nội dung
phản ánh của tri thức với hiện thực khách quan về nguyên tắc, chúng ta có thể đạt
đến chân lý tuyệt đối. Bởi vì, trong thế giới khách quan không tồn tại một sự vật,
hiện tượng nào mà con người hoàn toàn không thể nhận thức được. Khả năng đó
trong quá trình phát triển là vô hạn. Song khả năng đó lại bị hạn chế bởi những điều
kiện cụ thể của từng thế hệ khác nhau, của từng thực tiễn cụ thể và bởi điều kiện xác
định về không gian và thời gian của đối tượngđược phản ánh. Do đó, chân lý có tính tương đối.
Tính tương đối của chân lý là tính phù hợp nhưng chưa hoàn toàn đầy đủ giữa
nội dung phản ánh của những tri thức đã đạt được với hiện thực khách quan mà nó
phản ánh. Điều đó có nghĩa là giữa nội dung của chân lý với khách thể được phản
ánh chỉ mới đạt được sự phù hợp từng phần, từng bộ phận, ở một số mặt, một số khía
cạnh nào đó trong những điều kiện nhất định.
Chân lý tương đối và chân lý tuyệt đối không tồn tại tách rời nhau mà có sự
thống nhất biện chứng với nhau. Một mặt, chân lý tuyệt đối là tổng số của các chân
lý tuơng đối. Mặt khác, trong mỗi chân lý mang tính tương đối bao giờ cũng chứa
đựng những yếu tố của tính tuyệt đối. V.I.Lênin viết: “Chân lý tuyệt đối được cấu
thành từ tổng số những chân lý tương đối đang phát triển; chân lý tương đối là những
phản ảnh tương đối đúng của một khách thể tồn tại độc lập đối với nhân loại; những
phản ánh ấy ngày càng trở nên chính xác hơn; mỗi chân lý khoa học, dù là có tính
tương đối, vẫn chứa đựng một yếu tố của chân lý tuyệt đối”
Nhận thức một cách đúng đắn mối quan hệ biện chứng giữa tính tương đối và
tính tuyệt đối của chân lý có một ý nghĩa quan trọng trong việc phê phán và khắc
phục những sai lầm cực đoan trong nhận thức và trong hành động. Nếu cường điệu
tính tuyệt đối của chân lý, hạ thấp tính tương đối của nó sẽ rơi vào quan điểm siêu
hình, chủ nghĩa giáo điều, bệnh bảo thủ, trì trệ. Ngược lại, nếu tuyệt đối hóa tính
tương đối của chân lý, hạ thấp vai trò của tính tuyệt đối của nó sẽ rơi vào chủ nghĩa
tương đối. Từ đó dẫn đến chủ nghĩa chủ quan, chủ nghĩa xét lại, thuật ngụy biện,
thuyết hoài nghi và thuyết bẩt khả tri.
Ngoài tính khách quan, tính tuyệt đối và tính tương đối, chân lý còn có tính cụ
thể. Tính cụ thể của chân lý là đặc tính gắn liền và phù hợp giữa nội dung phản ánh
với một đối tượng nhất định cùng các điều kiện, hoàn cảnh lịch sử – cụ thể. Điều đó
có nghĩa là mỗi tri thức đúng đắn bao giờ cũng có một nội dung cụ thể, xác định.
Nội dung đó không phái là sự trừu tượng thuần túy, thoát ly hiện thực mà nó luôn
luôn gắn liền với một đối tượng xác định, diễn ra trong một không gian, thời gian
hay một hoàn cảnh nào đó, trong một mối liên hệ, quan hệ cụ thể. Vì vậy, bất kỳ
chân lý nào cũng gắn liền với những điều kiện lịch sử – cụ thể, tức là có tính cụ thể.
Nếu thoát ly những điều kiện lịch sử – cụ thể thì những tri thức được hình thành
trong quá trình nhận thức sẽ rơi vào sự trừu tượng thuần túy. Vì thế, nó không phải lOMoAR cPSD| 61432759
là những tri thức đúng đắn và không được coi là chân lý. Khi nhấn mạnh đặc tính
này, V.I.Lênin đã khẳng định: “không có chân lý trừu tượng”, “chân lý luôn luôn là
cụ thể”. Việc nắm vững nguyên tắc về tính cụ thể của chân lý có một ý nghĩa phương
pháp luận quan trọng trong hoại động nhận thức và hoạt động thực tiễn. Nó đòi hỏi
khi xem xét, đánh giá mỗi sự vật, hiện tượng, mỗi việc làm của con người phải dựa
trên quan điểm lịch sử – cụ thể; phải xuất phát từ những điều kiện lịch sử – cụ thể
mà vận dụng những lý luận chung cho phù hợp. Theo V.I.Lênin: bản chất, linh hồn
sống của chủ nghĩa Mác là phân tích cụ thế mỗi tình hình cụ thể; rằng phương pháp
của Mác trước hết là xem xét nội dung khách quan của quá trình lịch sử trong một
thời điểm cụ thể nhất định.
VD: Có một bạn A năm nay 6 tuối. Theo như đúng sự phát triển, bạn A sẽ được
nhận sự chăm sóc của gia đình và được đi học. Tuy nhiên, không may bố mẹ A gặp
tai nạn và qua đời. Vì thế, bạn A không nhận được tình yêu thương, sự chăm sóc của
gia đình và A thay vì được đi học thì phải kiếm kế mưu sinh. Không may, A bị đám
bạn xấu dụ dỗ đi vào con đường tội lỗi và A bị mọi người xa lánh, chửi rủa và nghĩ
ở độ tuổi đó không chịu học hành…
Nếu không đặt A vào hoàn cảnh đó, thì nhiều người sẽ nghĩ A là đứa trẻ hư
hỏng. Thế nhưng, nếu hiểu rõ được hoàn cảnh của A thì ta sẽ thấy A vừa đáng thương
cũng vừa đáng trách, xét cho cùng thì A cũng là nạn nhân của hoàn cảnh.
3.3. Vai trò của chân lý đối với thực tiễn
Để sinh tồn và phát triển, con người phải tiến hành những hoạt động thực tiễn.
Đó là các hoạt động cải biến môi trường tự nhiên và xã hội đồng thời cũng qua đó
con người thực hiện một cách tự giác hay không tự giác quá trình hoàn thiện và phát
triển chính bản thân mình. Chính quá trình này đã làm phát sinh và phát triển hoạt
động nhận thức của con người. Hoạt động thực tiễn chỉ có thể thành công và có hiệu
quả một khi con người vận dụng được những tri thức đúng đắn về thực tế khách quan
trong chính hoạt động thực tiễn của mình. Vì vậy, chân lỷ là một trong những điều
kiện tiên quyết bảo đảm sự thành công và tính hiệu quả trong hoạt động thực tiễn.
Mối quan hệ giữa chân lý và hoạt động thực tiễn là mối quan hệ song trùng
trong quá trình vận động, phát triển của cả chân lý và thực tiễn: chân lý phát triển
nhờ thực tiễn và thực tiễn phát triển nhờ vận dụng đúng đắn những chân lý mà con
người đã đạt được trong hoạt động thực tiễn.
Quan điểm biện chứng về mối quan hệ giữa chân lý và thực tiễn đòi hỏi trong
hoạt động nhận thức con người cần phải xuất phát từ thực tiễn để đạt được chân lý,
phải coi chân lý cũng là một quá trình. Đồng thời, phải thường xuyên tự giác vận
dụng chân lý vào trong hoạt động thực tiễn để phát triển thực tiễn, nâng cao hiệu quả
hoạt động cải biến giới tự nhiên và xã hội.
Coi trọng tri thức khoa học và tích cực vận dụng sáng tạo những tri thức đó vào
trong các hoạt động kinh tế – xã hội, nâng cao hiệu quả của những hoạt động đó về
thực chất cũng chính là phát huy vai trò của chân lý khoa học trong thực tiễn hiện nay. lOMoAR cPSD| 61432759
II. Ý NGHĨA NGHIÊN CỨU KHOA HỌC VÀ BÀI HỌC CỦA BẢN THÂN
1. Nghiên cứu khoa học
Bằng việc phân tích con đường biện chứng về con đường của sự nhận thức chân
lý và rút ra những vai trò quan trọng của chân lý đối với thực tiễn. Đây được coi là
kim chỉ nam trong việc ứng dụng vào nghiên cứu khoa học và rút ra cho bản thân những bài học.
Như chúng ta đã biết nghiên cứu khoa học đóng một vai trò quan trọng trong
việc mở rộng hiểu biết của chúng ta về thế giới xung quanh và tìm ra giải pháp cho
các vấn đề khác nhau. Vậy làm cách nào để có phương pháp hiệu quả cho bản thân
trong việc nghiên cứu khoa học, chúng ta hãy cùng nhau bàn luận về vấn đề này. 1.1. Khái niệm
Nghiên cứu khoa học là một họat động tìm kiếm, xem xét, điều tra, hoặc thử
nghiệm. Dựa trên những số liệu, tài liệu, kiến thức,… đạt được từ các thí nghiệm
NCKH để phát hiện ra những cái mới về bản chất sự vật, về thế giới tự nhiên và xã
hội, và để sáng tạo phương pháp và phương tiện kỹ thuật mới cao hơn, giá trị hơn.
Con người muốn làm NCKH phải có kiến thức nhất định về lãnh vực nghiên cứu và
cái chính là phải rèn luyện cách làm việc tự lực, có phương pháp từ lúc ngồi trên ghế nhà trường. 1.2. Vai trò
Nghiên cứu khoa học góp phần nâng cao kiến thức bằng cách khám phá những
hiểu biết mới. Thông qua quá trình điều tra nghiêm ngặt, các nhà khoa học có thể
mở rộng hiểu biết của chúng ta về các hiện tượng khác nhau, cho dù đó là trong lĩnh
vực y học, công nghệ hay khoa học xã hội. Sự tích lũy kiến thức thu được thông qua
nghiên cứu khoa học đóng vai trò là nền tảng cho sự tiến bộ trong xã hội.
Nghiên cứu khoa học giúp chúng ta giải quyết các vấn đề phức tạp. Bằng cách
sử dụng các phương pháp khoa học, các nhà nghiên cứu có thể xác định nguyên nhân
gốc rễ của các vấn đề và phát triển các giải pháp dựa trên những dẫn chứng cụ thể.
Cho dù đó là tìm ra phương pháp chữa trị bệnh, giảm thiểu tác động của biến đổi khí
hậu hay cải thiện hệ thống giáo dục, nghiên cứu khoa học đều đóng vai trò then chốt
trong việc giải quyết vấn đề.
Nghiên cứu khoa học thúc đẩy đổi mới và khám phá. Nó khuyến khích các nhà
khoa học suy nghĩ vượt trội, thách thức các lý thuyết hiện có và khám phá những
khả năng mới. Thông qua thử nghiệm và phân tích, các nhà nghiên cứu có thể mở
rộng ranh giới của kiến thức, dẫn đến những bước đột phá và cách mạng hóa các
ngành công nghiệp cũng như cải thiện chất lượng cuộc sống cho cả cộng đồng.
Trong nền kinh tế tri thức, khi khoa học công nghệ phát triển mạnh mẽ như gia
đoạn hiện nay, nghiên cứu khoa học đóng vai trò rất lớn trong việc phát triển kinh tế
và xã hội. Nó tạo cơ sở để phát triển các ngành công nghiệp, nâng cao trình độ giáo lOMoAR cPSD| 61432759
dục và đào tạo, tăng cường đời sống của cộng đồng và tạo ra những lợi ích đáng kể cho xã hội.
1.3. Phương pháp nghiên cứu khoa học
1.3.1. Bản chất của quan sát
Trên con đường khám phá, tìm hiểu bản chất của sự vật hiện tượng, ta thường
bắt đầu bằng việc quan sát và trực quan sinh học. Trước đây, con người dựa vào
niềm tin để giải thích những gì thấy được xảy ra trong thế giới xung quanh mà
không có kiểm chứng hay thực nghiệm để chứng minh tính vững chắc của những
quan niệm, tư tưởng, học thuyết mà họ đưa ra. Ngoài ra, con người cũng không sử
dụng phương pháp khoa học để có câu trả lời cho câu hỏi. VD: ở thời đại của
Aristotle (thế kỷ IV trước công nguyên), con người (kể cả một số nhà khoa học) tin
rằng: các sinh vật đang sống có thể tự xuất hiện, các vật thể trơ (không có sự
sống) có thể biến đổi thành vật thể hay sinh vật sống, và cho rằng côn trùng, bọ,
ếch nhái,… xuất hiện từ bùn lầy, bụi đất khi ngập lũ xảy ra.
Ngày nay, các nhà khoa học không ngừng quan sát, theo dõi sự vật, hiện
tượng, qui luật của sự vận động, mối quan hệ, … trong thế giới xung quanh và dựa
vào kiến thức, kinh nghiệm hay các nghiên cứu có trước để khám phá, tìm ra kiến
thức mới, giải thích các qui luật vận động, mối quan hệ giữa các sự vật một cách
khoa học. Bản chất của quan sát là cảm giác được cảm nhận nhờ giác quan như thị
giác, thính giác, xúc giác, khướu giác và vị giác. Các giác quan này giúp cho nhà
nghiên cứu phát hiện hay tìm ra “vấn đề” NCKH. Khi quan sát phải khách quan,
không được chủ quan, vì quan sát chủ quan thường dựa trên các ý kiến cá nhân và
niềm tin thì không thuộc lĩnh vực khoa học. VD: Trong nghiên cứu về thực vật, nhà
khoa học có thể quan sát sự phát triển của cây trên một khoảng thời gian dài. Họ
sẽ chú ý đến các yếu tố như kích thước cây, hình dạng, màu sắc và lá và quá trình
chuyển hóa sinh trưởng.
Tóm lại, quan sát hiện tượng, sự vật là quá trình mà ý nghĩ hay suy nghĩ phát
sinh trước cho bước đầu làm NCKH. Việc quan sát kết hợp với kiến thức có trước
của nhà nghiên cứu là cơ sở cho việc hình thành câu hỏi và đặt ra giả thuyết để nghiên cứu.
1.3.2. “Vấn đề” nghiên cứu khoa học
Khi nghiên cứu và tìm hiểu sâu về lĩnh vực nghiên cứu, sau bước quan sát đầu
tiên, với những cảm giác mà chúng ta đã trải nghiệm sẽ hình thành nên biểu tượng,
những hình ảnh, tính chất cơ bản của sự vật được định hình trong đầu, chúng ta cần
tìm hiểu về các khái niệm đã được định nghĩa trong lĩnh vực đó và xem xét các
định nghĩa đã được công nhận. Bước xác định “ khái niệm” trong nghiên cứu khoa
học đóng một vai trò quan trọng trong việc hiểu và định nghĩa các đối tượng, hiện
tượng và quan hệ nghiên cứu. Quá trình này không chỉ đòi hỏi sự tinh tế trong tư lOMoAR cPSD| 61432759
duy, mà còn đòi hỏi sự sáng tạo và linh hoạt trong việc tiếp cận và hiểu vấn đề nghiên cứu.
Ta có thể xác định khái niệm thông qua việc đọc và nghiên cứu tài liệu, bài
báo, nghiên cứu trước đây liên quan để thu thập thông tin cần thiết. Sau đó, ta cần
phân tích và tách biệt các thành phần trong hiện tượng hoặc đối tượng nghiên cứu.
Từ đó, ta xác định các yếu tố quan trọng, đặc trưng và mối quan hệ giữa chúng.
Qua việc phân tích này, ta có thể nhìn thấy sự tương quan và tương tác giữa các khái niệm.
Bản chất của việc quan sát và tìm hiểu các khái niệm là thường đặt ra những
câu hỏi, từ đó đặt ra “vấn đề” nghiên cứu cho các nhà khoa học và người nghiên
cứu. Câu hỏi đặt ra phải đơn giản, cụ thể, rõ ràng (xác định giới hạn, phạm vi
nghiên cứu) và làm sao có thể thực hiện thí nghiệm để kiểm chứng, trả lời. VD:
câu hỏi: “Có bao nhiêu học sinh đến trường hôm nay?”. Câu trả lời được thực
hiện đơn giản bằng cách đếm số lượng học sinh hiện diện ở trường. Nhưng một
câu hỏi khác đặt ra: “Tại sao bạn đến trường hôm nay?”. Rõ ràng cho thấy rằng,
trả lời câu hỏi này thực sự hơi khó thực hiện, thí nghiệm khá phức tạp vì phải tiến
hành điều tra học sinh.
Việc đặt vấn đề bắt đầu bằng việc nhận ra sự không đồng nhất và mâu thuẫn
trong hiện thực, trong tri thức hiện tại. Ta không chấp nhận tri thức là tĩnh lặng và
không thay đổi, mà luôn tìm kiếm những câu hỏi mới và những vấn đề còn chưa
được giải quyết. Điều này yêu cầu ta phải có sự tư duy sáng tạo và khả năng phân
tích sự phức tạp của hiện thực. Ta cần hiểu rõ vấn đề, xác định rõ mục tiêu và đặt
câu hỏi một cách cụ thể và rõ ràng.
Cách đặt câu hỏi thường bắt đầu như sau: Làm thế nào, bao nhiêu, xảy ra ở
đâu, nơi nào, khi nào, ai, tại sao, cái gì, …? Đặt câu hỏi hay đặt “vấn đề” nghiên
cứu là cơ sở giúp nhà khoa học chọn chủ đề nghiên cứu (topic) thích hợp. Sau khi
chọn chủ đề nghiên cứu, một công việc rất quan trọng trong phương pháp nghiên
cứu là thu thập tài liệu tham khảo.
Các “vấn đề” nghiên cứu khoa học thường được hình thành trong các tình huống sau:
* Quá trình nghiên cứu, đọc và thu thập tài liệu nghiên cứu giúp cho nhà khoa
học phát hiện hoặc nhận ra các “vấn đề” và đặt ra nhiều câu hỏi cần nghiên cứu
(phát triển “vấn đề” rộng hơn để nghiên cứu). Đôi khi người nghiên cứu thấy một
điều gì đó chưa rõ trong những nghiên cứu trước và muốn chứng minh lại.
Đây là tình huống quan trọng nhất để xác định “vấn đề” nghiên cứu.
* Trong các hội nghị chuyên đề, báo cáo khoa học, kỹ thuật, … đôi khi có
những bất đồng, tranh cải và tranh luận khoa học đã giúp cho các nhà khoa học
nhận thấy được những mặt yếu, mặt hạn chế của “vấn đề” tranh cải và từ đó người
nghiên cứu nhận định, phân tích lại và chọn lọc rút ra “vấn đề” cần nghiên cứu. lOMoAR cPSD| 61432759
* Trong mối quan hệ giữa con người với con người, con người với tự nhiên,
qua hoạt động thực tế lao động sản xuất, yêu cầu kỹ thuật, mối quan hệ trong xã
hội, cư xử, … làm cho con người không ngừng tìm tòi, sáng tạo ra những sản phẩm
tốt hơn nhằm phục vụ cho nhu cầu đời sống con người trong xã hội. Những hoạt
động thực tế này đã đặt ra cho người nghiên cứu các câu hỏi hay người nghiên cứu
phát hiện ra các “vấn đề” cần nghiên cứu.
* “Vấn đề” nghiên cứu cũng được hình thành qua những thông tin bức xúc, lời
nói phàn nàn nghe được qua các cuộc nói chuyện từ những người xung quanh mà
chưa giải thích, giải quyết được “vấn đề” nào đó.
* Các “vấn đề” hay các câu hỏi nghiên cứu chợt xuất hiện trong suy nghĩ của
các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu qua tình cờ quan sát các hiện tượng của tự
nhiên, các hoạt động xảy ra trong xã hội hàng ngày.
* Tính tò mò của nhà khoa học về điều gì đó cũng đặt ra các câu hỏi hay “vấn đề” nghiên cứu.
1.3.3. Thu thập tài liệu và đặt giả thuyết
Bước “ phán đoán” trong nghiên cứu khoa học là một giai đoạn quan trọng
trong quá trình xây dựng kiến thức mới và đưa ra các giả thuyết để giải thích hiện
tượng. Để thực hiện bước này, việc thu thập tài liệu và đặt giả thuyết là hai hoạt động cốt lõi.
Trước hết thu thập và nghiên cứu tài liệu là một công việc quan trọng cần thiết
cho bất kỳ hoạt động nghiên cứu khoa học nào. Các nhà nghiên cứu khoa học luôn
đọc và tra cứu tài liệu có trước để làm nền tảng cho NCKH. Đây là nguồn kiến
thức quí giá được tích lũy qua quá trình nghiên cứu mang tính lịch sử lâu dài. Qua
việc thu thập tài liệu, chúng ta có thể nắm vững kiến thức sẵn có và hiểu rõ quan
điểm và kết quả nghiên cứu trước đây liên quan đến vấn đề của chúng ta.
Tài liệu có thể bao gồm sách, bài báo, báo cáo nghiên cứu, tài liệu tham khảo
và các nguồn tư liệu khác liên quan đến lĩnh vực nghiên cứu hoặc người nghiên
cứu tự thu thập, phỏng vấn trực tiếp. Một số vấn đề nghiên cứu có rất ít tài liệu, vì
vậy cần phải điều tra để tìm và khám phá ra các nguồn tài liệu chưa được biết.
Người nghiên cứu cần phải tổ chức, thiết lập phương pháp để ghi chép, thu thập số liệu.
Tiếp theo, trong quá trình phán đoán, việc đặt giả thuyết là cần thiết để xác
định hướng đi và giải thích hiện tượng nghiên cứu. Giả thuyết là câu trả lời ướm
thử hoặc là sự tiên đoán để trả lời cho câu hỏi hay “vấn dề” nghiên cứu. Chúng ta
đặt giả thuyết dựa trên thông tin sẵn có từ tài liệu và cảm tính trực quan sinh động
về vấn đề nghiên cứu.
Đặt giả thuyết yêu cầu sự sáng tạo và linh hoạt trong việc suy nghĩ và tư duy.
Chúng ta phải suy nghĩ sâu và nhìn nhận các yếu tố và mối quan hệ giữa chúng từ
nhiều góc độ khác nhau. Đặt giả thuyết giúp chúng ta tạo một khung lý thuyết ban
đầu để tiến hành nghiên cứu và thu thập dữ liệu để kiểm chứng. lOMoAR cPSD| 61432759
Qua việc thu thập tài liệu và đặt giả thuyết, chúng ta có cơ sở để tiếp tục
nghiên cứu và đưa ra các câu hỏi cụ thể để tìm hiểu sâu hơn về vấn đề nghiên cứu.
Bước “Phán đoán” là cầu nối giữa việc tìm hiểu và lý giải hiện tượng, mở cánh cửa
cho quá trình nghiên cứu khoa học và mang lại những tri thức mới đầy sáng tạo.
1.3.4. Mối quan hệ giữa giả thuyết và “vấn đề” khoa học
Sau khi xác định câu hỏi hay “vấn đề” nghiên cứu khoa học, người nghiên cứu
hình thành ý tưởng khoa học, tìm ra câu trả lời hoặc sự giải thích tới vấn đề chưa
biết (đặt giả thuyết). Ý tưởng khoa học này còn gọi là sự tiên đoán khoa học hay
giả thuyết giúp cho người nghiên cứu có động cơ, hướng đi đúng hay tiếp cận tới
mục tiêu cần nghiên cứu. Trên cơ sở những quan sát bước đầu, những tình huống
đặt ra (câu hỏi hay vấn đề), những cơ sở lý thuyết (tham khảo tài liệu, kiến thức đã
có,…), sự tiên đoán và những dự kiến tiến hành thực nghiệm sẽ giúp cho người
nghiên cứu hình thành một cơ sở lý luận khoa học để xây dựng giả thuyết khoa học.
Ví dụ khi đặt ra vấn đề: “ nghiên cứu tác động của việc tập thể dục đều đặn đối với
sức khỏe tim mạch.”, ta đưa ra một giả thuyết: “ việc tập thể dục đều đặn sẽ cải
thiện sức khỏe tim mạch và giảm nguy cơ mắc các bệnh tim mạch”. Dựa trên giả
thuyết, chúng ta có thể thiết lập một phương pháp nghiên cứu, bao gồm việc chọn
ngẫu nhiên, đo lường các chỉ số sức khỏe, tim mạch như nhịp tim, huyết áp,
cholesterol, và tiến hành các thử nghiệm hoặc khảo sát để đánh giá sự thay đổi của
các chỉ số này sau một thời gian tập thể dục đều đặn. Qua quá trình nghiên cứu,
chúng ta có thể thu thập dữ liệu, phân tích kết quả so sánh với kết quả ban đầu.
Nếu kết quả nghiên cứu cho thấy việc tập thể dục đều đặn thực sự cải thiện sức
khỏe tim mạch và giảm nguy cơ mắc các bệnh tim mạch thì giả thuyết được chấp
nhận. Ngược lại, nếu kết quả không chứng minh sự thay đổi đáng kể, chúng ta có
thể điều chỉnh giả thuyết hoặc tiếp tục nghiên cứu để tìm hiểu rõ hơn về tác động
của việc tập thể dục đối với sức khỏe tim mạch.
Điều quan trọng là việc đặt giả thuyết và đối mặt với vấn đề trong quá trình nghiên
cứu giúp chúng ta tập trung và hướng dẫn nghiên cứu của mình theo một hướng cụ
thể. Nó cũng giúp chúng ta xác định mục tiêu và phương pháp nghiên cứu phù hợp
để trả lời câu hỏi nghiên cứu và đưa ra những khám phá mới trong lĩnh vực khoa học.
1.3.5. Từ những kết luận khoa học đến thực tiễn
Kết luận khoa học là kết quả của quá trình nghiên cứu và nhận thức chân lý.
Tuy nhiên, ý nghĩa thực sự của nghiên cứu không chỉ dừng lại ở việc đạt được kết
quả và kết luận, mà còn trong việc áp dụng và đưa ra những ứng dụng thực tiễn.
Từ kết luận khoa học, chúng ta có thể áp dụng kiến thức đã được xác định và kiểm
nghiệm vào thực tế. Việc này giúp chúng ta giải quyết các vấn đề, đáp ứng nhu cầu lOMoAR cPSD| 61432759
và tạo ra những thay đổi tích cực trong xã hội. Bằng cách áp dụng kiến thức và kết
luận khoa học, chúng ta có thể cải thiện quy trình sản xuất, nâng cao chất lượng
cuộc sống, bảo vệ môi trường, phát triển công nghệ, và nhiều lĩnh vực khác.
Ví dụ, nghiên cứu về năng lượng tái tạo có thể dẫn đến việc phát triển các
công nghệ mới nhằm thay thế nguồn năng lượng hóa thạch, giảm lượng khí thải
gây ô nhiễm và hạn chế biến đổi khí hậu. Kết quả của nghiên cứu này có thể được
áp dụng vào việc xây dựng các hệ thống năng lượng tái tạo, tạo ra nguồn điện sạch
và bền vững cho các địa phương và quốc gia.
Thực tế, vòng khâu của nhận thức từ trực quan sinh động đến tư duy trừu
tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn được lặp đi lặp lại, cứ thế trở thành quá
trình không có điểm cuối. Nhìn rộng ra trong sự phát triển lịch sử loài người khi
chúng ta phát minh ra một thành tựu khoa học nào đó, nó không tồn tại mãi, mà
luôn có những mâu thuẫn nảy sinh là mâu thuẫn giữa chưa biết và biết ít, biết ít và
biết nhiều, giữa chân lý và sai lầm. Sự phát triển của thời đại đã không ngừng hoàn
thiện các kết luận, các thành tựu khoa học đồng thời đào thải những cái cũ đã lỗi thời.
Ví dụ, vào thế kỉ XIX, Alexander Graham Bell phát minh ra chiếc điện thoại
đầu tiên với chức năng chỉ dùng đẻ truyền tín hiệu giữa hai điểm, và người dùng
phải sử dụng các trình tự nút bấm để gửi và nhận phát triển. Qua thời gian, chiếc
điện thoại trải qua nhiều lần phát minh và thử nghiệm, đến thời điểm hiện tại nó đã
tích hợp rất nhiều chức năng và khác xa so với thời điểm nó bắt đầu.
2.Bài học cho bản thân
Con đường chân lý trong triết học Mác-Lênin liên quan đến việc tiếp cận và hiểu
được bản chất thực tế xã hội. Mác-Lênin khẳng định rằng thực tế xã hội không phải
là một thực thể tĩnh, mà là một quá trình liên tục của sự phát triển. Để hiểu được
thực tế xã hội, ta cần phân tích các mâu thuẫn và xung đột xã hội, từ đó tìm ra
những quy luật tồn tại và phát triển của xã hội.
Đối với bản thân em việc áp dụng con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý
vào việc rút ra bài học cho bản thân là một quá trình giúp chúng ta hiểu rõ hơn về
thế giới xung quanh và phát triển sự nhận thức cá nhân. Bằng cách tiếp cận vấn đề
một cách toàn diện, từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu
tượng đến thực tiễn, chúng ta có thể xác định những nguyên tắc chung và luật lệ
bên trong các hiện tượng và quá trình.
Bài học quan trọng mà chúng ta có thể rút ra từ con đường biện chứng là sự quan
tâm và sự coi trọng đến sự thay đổi và phát triển. Để có được nhận thức chân lý,
chúng ta cần khám phá và đối mặt với sự phức tạp của thế giới, không ngừng thử
nghiệm và kiểm chứng ý tưởng, và luôn sẵn lòng thay đổi quan điểm và tiếp thu
kiến thức mới. Qua quá trình này, chúng ta có thể cải thiện khả năng phân tích, suy
luận và đánh giá thông tin, từ đó đưa ra những kết luận chính xác hơn và đáng tin
cậy. Thế giới luôn biến động và thay đổi không ngừng, những gì chúng ta biết hôm lOMoAR cPSD| 61432759
nay có thể ngày mai không con đúng nữa. Để làm chủ bản thân, không để bị động
trước những biến động đó, bản thân cần có một thái độ tích cực, có những mục tiêu
rõ ràng để theo đuổi và không ngừng tiến về phía trước.
Qua những lý luận ở phần I, chúng ta hiểu rằng tri thức là ở xung quanh chúng ta,
điều quan trọng là chúng ta phải quan sát nó, đặt ra câu hỏi và đi tìm hướng giải
quyết. Theo quan điểm này đòi hỏi chúng ta không chỉ nắm bắt cái hiện đang tồn
tại của sự vật, mà còn thấy rõ khuynh hướng phát triển trong tương lại của chúng;
phải thấy được những biến đổi đi lên cũng như những biến đổi có tính chất thụt lùi,
khuynh hướng chung là phát triển đi lên, tức là phải thấy tính quanh co, phức tạp
của sự vật, hiện tượng trong quá trình phát triển của nó.
Bài học tư duy phản biện là một kỹ năng quan trọng để chúng ta có thể đánh giá và
suy xét một cách logic, khách quan và sáng tạo. Mác-Lênin khuyến khích việc nhìn
nhận các quan điểm và lợi ích đa dạng trong xã hội. Thay vì chấp nhận một ý kiến
một cách mù quáng, chúng ta cần tìm hiểu và khám phá các nguồn thông tin đa
dạng, kiếm tra tín xác thực và độ tin cậy của chúng. Điều này giúp chúng ta đánh
giá một cách khách quan và đáng tin cậy, tránh sự thiên lệch thông tin và lập luận
không hợp lý. Bài học về tư duy phản biện cũng hướng chúng ta tìm kiếm sự đa
dạng và khác biệt trong quan điểm và ý kiến. Thay vì chỉ tìm kiếm sự đồng thuận,
chúng ta cần coi trọng sự đa mặt và tranh luận xây dựng. Điều này khuyến khích
chúng ta lắng nghe và xem xét các quan điểm khác nhau, cùng với việc đưa ra lập
luận và bằng chứng hợp lý để ủng hộ quan điểm của mình. Qua đó, chúng ta có thể
đạt được những đánh giá chính xác hơn và hiểu rõ hơn về vấn đề đang xem xét.
Con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý còn chỉ ra vai trò rất quan trọng
của thực tiễn. Bản thân chúng ta cũng vậy, việc học chỉ đạt hiệu quả khi nó được
gắn với thực tế, học phải đi đôi với hành. Hành để nhận biết được tính khách quan
của sự vật hiện tượng. Mác- Lênin nhận thức rằng chân lý không hoàn toàn khách
quan, mà bị ảnh hưởng bởi điều kiện xã hội, văn hóa và giai cấp. Hơn nữa mỗi con
người chúng ta khi sinh ra đều có thiên kiến kiến xác nhận, chúng ra nhận định một
sự việc nào đó theo ý nghĩ chủ quan của bản thân mình, qua thực tế kiểm nghiệm
và chứng minh thì chúng ta mới khẳng định được quan điểm đó là đúng hay sai.
Tóm lai, áp dụng con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý để rút ra bài học
cho bản thân đòi hỏi sự quan tâm, sự tò mò, sức sáng tạo và lòng kiên nhẫn. Bởi vì
như Einstein đã từng nói: “Tôi không phải thiên tài dặc biệt, tôi chỉ là một người
vô cùng tò mò mà thôi”. Bản thân ông được thúc đẩy bỏi trí tò mò và đam mê
khám phá thế giới. Sự sáng tạo không ngừng cho phép thế giới quan của ông mở
rộng không giới hạn. Chúng ta tin tưởng bản thân mỗi người sẽ trở nên hiểu biết
hơn về thế giới và bản thân, không ngừng nâng cao giá trị của chính mình khi
chúng ta nắm rõ phương pháp học tập, nắm rõ con đường tư duy biện chứng của sự nhận thức lOMoAR cPSD| 61432759 KẾT LUẬN