

















Preview text:
lOMoAR cPSD| 44985297
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA NGOẠI NGỮ KINH TẾ ----- -----
BÀI TẬP LỚN Môn: Triết học Mác-Lê nin
Đề: Làm rõ quan điểm của triết học Mác về con đường biện chứng của sự nhận thức
chân lý. Từ đó rút ra ý nghĩa trong nghiên cứu khoa học và học tập của bản thân
Họ và tên: Vũ Thị Hồng Thắm
Lớp: THMLN 34_Ngôn ngữ Anh 64C Mã SV:11225741
Giảng viên: Nghiêm Thị Châu Giang Hà Nội-2023 MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 4 lOMoAR cPSD| 44985297
PHẦN NỘI DUNG ............................................................................................................ 4
Phần 1: Các vấn đề nghiên cứu liên quan ....................................................................... 4
1.1. Tìm hiểu về nhận thức ............................................................................................ 4 1.2.Tìm hiểu về chân
lý…………………………………………………………………5 ................................... 5
1.2.1.Khái niệm chânlý? ................................................................................................ 5
1.2.2. Các tính chất của chân lý? ............................................................................. 5
Phần 2: Cơ sở lý luận ........................................................................................................ 7
2.1.Nhận thức từ trực quan sinh động............................................................................. 7
2.1.1. Quá trình nhận thức trực quan sinh động là sự nhận thức cảm tính: ..... 7
2.1.2.Các cấp độ của nhận thức cảm tính (trực quan sinh động) .......................... 7
2.1.3. Đặc điểm của nhận thức cảm tính ........................................................... 8
2.2.Quá trình nhận thức tư duy trừu tượng là sự nhận thức lý tính 2.2.1.Khái niệm 9
2.2.2. Các cấp độ của nhận thức lý tính .................................................................... 9
2.2.3.Mối quan hệ giữa nhận thức nhận thức cảm tính, nhận thức lý tính ........ 10
2.3. Thực tiễn.................................................................................................................... 10
2.3.1. Thực tiễn là gì? Các hình thức cơ bản của thực tiễn .................................. 11
2.3.2.Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức ......................................................... 11
2.3.2.1. Thực tiễn là cơ sở của nhận thức ....................................................... 11
2.3.2.2.Thực tiễn là động lực cơ bản thúc đẩy nhận thức phát triển và là mục đích tối
cao của nhận thức ............................................................................................................ 12
2.3.2.3.Thực tiễn là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý ..................................................... 12
Phần 3: Ý nghĩa của con đường biện chứng nhận thức chân lý trong học tập và Nghiên
cứu Khoa học ................................................................................................................... 12
3.1. Vận dụng trong học tập ........................................................................................... 12
3.2. Vận dụng trong nghiên cứu khoa học .................................................................... 13
PHẦN KẾT LUẬN .......................................................................................................... 17
TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................................. 17 lOMoAR cPSD| 44985297 lOMoAR cPSD| 44985297 PHẦN MỞ ĐẦU
Ngày nay cùng với sự phát triển và bùng nổ của thời đại công nghệ triết học vẫn là một
phần không thể thiếu ,không thể tách rời trong chương trình học tập ở đại học, thạc sĩ
Việt Nam.Vì vậy chúng ta không thể phủ nhận tầm quan trọng của Triết học .Điều đó cho
thấy vai trò quan trọng của triết học trong việc đào tạo một người có đủ phẩm chất yếu tố
để cống hiến, xây dựng một xã hội văn minh, phát triển.
Để tiếp nối cho sự phát triển sau này của xã hội, chính nhận thức và thực tiễn là hai tác
nhân góp phần rất lớn, chúng có mối quan hệ chặt chẽ, gắn bó với nhau và không thể tách
rời.Vì sao thực tiễn lại trở thành khâu kiểm nghiệm tính chân lý của những nhận thức
chính là minh chứng cho sự quan trọng của thực tiễn trong mỗi giai đoạn của nhận thức
Sự hiểu biết và nhận thức là những sự hiện diện không thể thiếu trong cuộc sống con
người. Chúng không chỉ mở rộng tầm nhìn của chúng ta về môi trường xung quanh, mà
còn giúp chúng ta tìm ra ý thức về chính mình. Tuy nhiên, việc tìm hiểu chân lý không
phải là một quá trình đơn giản và dễ dàng. Trong triết học Mác-Lê nin, người ta xem con
đường biện chứng của nhận thức chân lý là một phương thức để tìm ra chân lý.
Nhận thức chân lý là một quá trình tăng dần, liên tục phát triển và thay đổi. Con đường
biện chứng của sự nhận thức chân lý do Các-Mác Ăng-ghen đã được truyền đạt và áp
dụng trong các lĩnh vực và chuyên môn khác nhau. Các nhà triết học và nhà khoa học
cũng sử dụng con đường biện chứng để giải thích và tìm ra chân lý trong những vấn đề
phức tạp và khó giải quyết PHẦN NỘI DUNG
Phần 1: Các vấn đề nghiên cứu liên quan
1.1. Tìm hiểu về nhận thức
Sự ra đời của chủ nghĩa duy vật biện chứng đã tạo ra một cuộc cách mạng trong lý
luận nhận thức.Trước khi tìm hiểu vấn đề con đường biện chứng của quá trình nhận thức,
ta cần hiểu rõ nhận thức là gì?
Nhận thức là một quá trình phản ánh năng động tích cực, tự giác và sáng tạo thế giới
khách quan vào bộ óc con người trên cơ sở thực tiễn, nhằm sáng tạo ra những tri thức về
thế giới khách quan đó.
Nhận thức là quá trình biện chứng phức tạp luôn luôn xuất hiện và giải quyết các
mâu thuẫn cơ bản: Giữa chủ thể và khách thể nhận thức; giữa nhận thức và thực tiễn; giữa
nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính; giữa chân lý và sai lầm.
Trong quá trình đó, con người nhận thức thế giới ngày càng đầy đủ, chính xác…,
nhưng không bao giờ có thể nhận thức được hoàn toàn thế giới tức là không có chân lý
cuối cùng, bởi vì thế giới vô cùng rộng lớn và luôn vận động, phát triển. “ Nhận thức chỉ
tiệm cận tới chân lý khái quát tuyệt đối” lOMoAR cPSD| 44985297
Quan niệm trên đây về nhận thức cũng chính là quan niệm duy vật biện chứng về
bản chất của nhận thức. Quan niệm này xuất phát dựa trên bốn nguyên tắc cơ bản sau đây:
Một là, thừa nhận thế giới vật chất tồn tại khách quan, độc lập với ý thức của con người.
Hai là, thừa nhận con người có khả năng nhận thức được thế giới khách quan vào bộ óc
của con người, là hoạt động tìm hiểu khách thể của chủ thể; thừa nhận không có cái gì là
không thể nhận thức được mà chỉ có những cái mà con người chưa nhận thức được.
Ba là, khẳng định sự phản ánh đó là một quá trình biện chứng, tích cực, tự giác và sáng
tạo. Quá trình phản ánh diễn ra theo trình tự từ chưa biết đến biết, từ biết ít đến nhiều,đi từ
hiện tượng đến bản chất, từ chưa sâu sắc, chưa toàn diện đến sâu sắc và toàn diện hơn, …
Bốn là, coi thực tiễn là cơ sở chủ yếu và trực tiếp nhất của nhận thức, là động lực, mục đích
của nhận thức và là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý.
1.2.Tìm hiểu về chân lý
1.2.1.Khái niệm chân lý?
Trong phạm vi lý luận nhận thức của chủ nghĩa Mác-Lênin, khái niệm chân lý được
dùng để chỉ những tri thức có nội dung phù hợp với thực tế khách quan mà sự phù hợp đó
đã được kiểm tra và chứng minh bởi thực tiễn.
Chân lý là tri thức (lý luận, lý thuyết, học thuyết..) phù hợp với khách thể mà nó
phản ánh và được kiểm nghiệm bởi thực tiễn.
1.2.2. Các tính chất của chân lý?
Chân lý có tính khách quan, tính tương đối, tính tuyệt đối và tính cụ thể. Tính khách
quan của chân lý là tính độc lập về nội dung phản ánh của nó đối với ý thức của con người
và loài người. Tính tuyệt đối của chân lý là tính phù hợp hoàn toàn và đầy đủ giữa nội dung
phản ánh của tri thức với hiện thực khách quan. Tính tương đối của chân lý là tính phù hợp
nhưng chưa hoàn toàn đầy đủ giữa nội dung phản ánh của những tri thức với hiện thực
khách quan. Tính tương đối và tính tuyệt đối của chân lý không tồn tại tách rời nhau mà có
sự thống nhất biện chứng với nhau. Ngoài tính khách quan, tính tuyệt đối và tính tương
đối, chân lý còn có tính cụ thể. Tính cụ thể của chân lý là đặc tính gắn liền và phù hợp giữa
nội dung phản ánh với một đối tượng nhất định cùng các điều kiện, hoàn cảnh lịch sử, cụ lOMoAR cPSD| 44985297
thể. Nhận thức một cách đúng đắn mối quan hệ biện chứng giữa tính tương đối và tính
tuyệt đối của chân lý có một ý nghĩa quan trọng trong việc phê phán và khắc phục những
sai lầm cực đoan trong nhận thức và trong hành động
Theo nghĩa như vậy, khái niệm chân lý không đồng nhất với khái niệm tri thức, cũng
không đồng nhất với khái niệm giả thuyết; đồng thời, chân lý cũng là một quá trình: “tư
tưởng con người không nên hình dung chân lý dưới dạng một sự đứng im, chết cứng, một
bức tranh đơn giản, nhợt nhạt, không khuynh hướng, không vận động”
Chân lý thuộc về vấn đề nhận thức. Bởi vì, nhiệm vụ của nhận thức là phải đạt đến
chân lý, nghĩa là đạt đến tri thức có nội dung phù hợp với hiện thực khách quan; nhưng
không phải là sự nhận thức nói chung, mà là sự nhận thức đúng về hiện thực khách quan.
Chân lý cũng không phải bản thân hiện thực khách quan nói chung, mà chỉ là hiện thực
khách quan đã được phản ánh đúng bởi nhận thức của con người. Không thể có chân lý
chủ quan, hoặc chân lý tồn tại tự nó một cách trừu tượng thuần túy ở trong hiện thực khách
quan như quan điểm của triết học duy tâm đã thừa nhận. Hoặc có quan điểm không đúng
cho rằng chân lý thuộc về số đông, tức là tư tưởng đó được nhiều người thừa nhận, hoặc
nó thuộc về những người có quyền lực, người giàu có v.v…
V.I.Lênin viết: “Chân lý tuyệt đối được cấu thành từ tổng số những chân lý tương đối
đang phát triển; chân lý tương đối là những phản ánh tương đối đúng của một khách thể
tồn tại độc lập với nhân loại; những phản ánh ấy ngày càng trở nên chính xác hơn; mỗi
chân lý khoa học, dù là có tính tương đối, vẫn chứa đựng một yếu tố của chân lý tuyệt đối”
Như vậy, mỗi chân lý đều có tính khách quan, tính tương đối, tính tuyệt đối và tính
cụ thể. Các tính chất đó của chân lý có quan hệ chặt chẽ với nhau, không tách rời nhau.
Thiếu một trong các tính chất đó thì những tri thức đạt được trong quá trình nhận thức
không thể có giá trị đối với đời sống của con người.
Để sinh tồn và phát triển, con người phải tiến hành những hoạt động thực tiễn. Đó
là các hoạt động cải biến môi trường tự nhiên và xã hội đồng thời cũng qua đó con người
thực hiện một cách tự giác hay không tự giác quá trình hoàn thiện và phát triển chính bản
thân mình. Chính quá trình này đã làm phát sinh và phát triển hoạt động nhận thức của con
người. Hoạt động thực tiễn chỉ có thể thành công và có hiệu quả một khi con người vận
dụng được những tri thức đúng đắn về thực tế khách quan trong chính hoạt động thực tiễn lOMoAR cPSD| 44985297
của mình. Vì vậy, chân lý là một trong những điều kiện tiên quyết bảo đảm sự thành công
và tính hiệu quả trong hoạt động thực tiễn.
Phần 2: Cơ sở lý luận
Theo triết học Mác-Lênin, nhận thức thực chất không phải là sự phản ánh thụ động,
giản đơn, mà nhận thức là một quá trình biện chứng.Nhận thức là quá trình diễn ra rất phức
tạp, bao gồm nhiều giai đoạn, trình độ, vòng khâu khác nhau. Trong tác phẩm Bút ký triết
học, V.I.Lênin đã khái quát con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý như sau “Từ
trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn con đường
biện chứng của sự nhận thức chân lý, của sự nhận thức hiện thực khách quan”. Như vậy,
nhận thức của con người bao gồm hai giai đoạn diễn ra bên trong đầu óc con người là:
“Trực quan sinh động” hay nhận thức cảm tính và “Tư duy trừu tượng” hay nhận thức lý
tính. Từ tư duy trừu tượng trở về thực tiễn để phục vụ thực tiễn cải tạo thế giới và tiếp cận
những khách thể mới để tiếp tục phát triển. Nhưng những sự trừu tượng đó không phải là
điểm cuối cùng của một chu kỳ nhận thức, mà nhận thức phải tiếp tục tiến tới thực tiễn.
Chính trong thực tiễn mà nhận thức có thể kiểm tra và chứng minh tính đúng đắn của nó
và tiếp tục vòng khâu tiếp theo của quá trình nhận thức. Đây cũng chính là quy luật chung
của quá trình con người nhận thức về hiện thực khách quan
2.1.Nhận thức từ trực quan sinh động
2.1.1. Quá trình nhận thức trực quan sinh động là sự nhận thức cảm tính:
Nhận thức cảm tính là giai đoạn mở đầu và cũng là giai đoạn thấp của quá trình nhận thức.
Trong hoạt động thực tiễn, con người sử dụng các giác quan để tiến hành phản ánh
trực tiếp các sự vật khách quan, hoạt động này mang tính chất cụ thể, cảm tính với những
biểu hiện phong phú của nó trong mối quan hệ với sự quan sát của con người.
Nhận thức cảm tính (trực quan sinh động) được hiểu cơ bản chính là những tri thức
do các giác quan mang lại. Nét đặc trưng cơ bản ở giai đoạn nhận thức cảm tính (trực quan
sinh động) là nhận thức sẽ được thực hiện trong mối liên hệ trực tiếp với thực tiễn thông
qua các nấc thang cụ thể như là cảm giác, tri giác, biểu tượng
2.1.2.Các cấp độ của nhận thức cảm tính (trực quan sinh động):
Cảm giác: được hiểu cơ bản chính là tri thức được sinh ra do sự tác động trực tiếp
của các sự vật, hiện tượng lên các giác quan cụ thể của con người. Cảm giác phản ánh đến
từng mặt, từng khía cạnh, từng thuộc tính riêng lẻ của các sự vật, hiện tượng. Nguồn gốc lOMoAR cPSD| 44985297
và nội dung của cảm giác đó chính là thế giới khách quan, còn bản chất của cảm giác thì
đó lại là hình ảnh chủ quan về thế giới đó. Cảm giác là nguồn gốc của mọi sự hiểu biết, là
kết quả của sự chuyển hóa những năng lượng kích thích từ bên ngoài thành yếu tố của ý
thức. Chính vì thế mà Lê-nin đã viết: “ Cảm giác là hình ảnh chủ quan của thế giới trực quan”.
Tri giác: là hình ảnh tương đối toàn vẹn về sự vật khi sự vật đó đang trực tiếp tác
động vào các giác quan. Tri giác nảy sinh dựa trên cơ sở của cảm giác, là sự tổng hợp của
nhiều cảm giác. So với cảm giác thì tri giác là hình thức nhận thức cao hơn, đầy đủ hơn,
phong phú hơn về sự vật.
Biểu tượng: là hình thức phản ánh cao nhất và phức tạp nhất của giai đoạn trực quan
sinh động. Đó là hình ảnh có tính đặc trưng và tương đối hoàn chỉnh còn lưu lại trong bộ
óc người về sự vật khi sự vật đó không còn trực tiếp tác động vào các giác quan. Biểu tượng
được hình thành nhờ sự phối hợp, bổ sung lẫn cho nhau của các giác quan nhưng đã có sự
tham gia của các yếu tố phân tích, tổng hợp và ít nhiều mang tính chất trừu tượng hóa.
Trong biểu tượng thì cũng đã có những phản ánh gián tiếp về sự vật, hiện tượng và
với biểu tượng, con người cũng đã có thể hình dung được cơ bản về sự khác nhau và mâu
thuẫn nhưng con người về căn bản vẫn chưa nắm được sự chuyển hóa từ sự vật, hiện tượng
này sang sự vật, hiện tượng khác. Các cấp độ này có mối quan hệ hữu cơ với nhau, nếu
không có cấp độ thấp thì sẽ không có cấp độ cao
2.1.3 - Đặc điểm của nhận thức cảm tính:
Là sự phản ánh trực tiếp đối tượng bằng các giác quan của con người. Nhận thức
cảm tính chỉ phản ánh được cái bề ngoài, cái hiện tượng… mà chưa phản ánh được cái bản
chất của sự vật,hiện tượng. Muốn hiểu được bản chất sự vật hiện tượng nhất thức phải
chuyển lên giai đoạn lý tính
Như vậy cảm giác, tri giác và biểu tượng là những giai đoạn kế tiếp nhau của hình
thức nhận thức cảm tính. Trong nhận thức cảm tính đã tồn tại cả cái bản chất lẫn không bản
chất, cả cái tất yếu và ngẫu nhiên, cả cái bên trong lẫn bên ngoài về sự vật. Nhưng ở đây,
con người chưa phân biệt được cái gì là bản chất với không bản chất, đâu là tất yếu với
ngẫu nhiên, đâu là cái bên trong với cái bên ngoài. Yêu cầu của nhận thức đòi hỏi phải tách
ra và nắm lấy cái bản chất, tất yếu, bên trong, chỉ có chúng mới có vai trò quan trọng cho
hoạt động thực tiễn và nhận thức của con người. Như vậy, dừng lại ở nhận thức cảm tính
sẽ gặp phải mâu thuẫn giữa một bên là thực trạng chưa phân biệt được đâu là cái bản chất,
tất yếu, bên trong, đâu là cái không bản chất, ngẫu nhiên bên ngoài với một nhu cầu tất yếu
phải phân biệt được những cái đó thì con người mới có thể nắm được quy luật vận động và
phát triển của sự vật. Khi giải quyết mâu thuẫn ấy, nhận thức sẽ vượt lên một trình độ mới,
cao hơn về chất, đó là tư duy trừu tượng. lOMoAR cPSD| 44985297
2.2.Quá trình nhận thức tư duy trừu tượng là sự nhận thức lý tính 2.2.1.Khái niệm
Nhận thức lý tính là giai đoạn cao của quá trình nhận thức, là quá trình tư duy mà
khái quát là: khái niệm, phán đoán, suy luận. Nhận thức lý tính là sự phản ánh gián tiếp,
trừu tượng và khái quát những thuộc tính, những đặc điểm, bản chất của sự vật khách quan.
Đây là giai đoạn nhận thức thực hiện chức năng quan trọng nhất là tách và nắm được bản
chất có tính quy luật của các sự vật, hiện tượng. Đây là giai đoạn nhận thức thực hiện chức
năng quan trọng nhất là tách ra và nắm lấy cái bản chất có tính quy luật của các sự vật, hiện tượng.
2.2.2. Các cấp độ của nhận thức lý tính
Khái niệm: là hình thức cơ bản của tư duy trừu tượng, phản ánh những đặc tính bản
chất của sự vật. Sự hình thành khái niệm là kết quả của sự khái quát, tổng hợp biện chứng
các đặc điểm, thuộc tính của sự vật hay một lớp sự vật. Vì vậy, các khái niệm vừa có tính
khách quan vừa có tính chủ quan, vừa có mối quan hệ tác động qua lại với nhau, vừa
thường xuyên vận động và phát triển. Nó chẳng những rất linh động, mềm dẻo, năng động
mà còn là "điểm nút" của quá trình tư duy trừu tượng, là cơ sở để hình thành phán đoán.
(Ví dụ: vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan, được đem lại
cho con người trong cảm giác, được cảm giác của con người chép lại, chụp lại, phản ánh,
tồn tại độc lập, không phụ thuộc vào ý chí của con người.)
Phán đoán: là hình thức của tư duy liên kết các khái niệm lại với nhau để khẳng
định hoặc phủ định một đặc điểm, một thuộc tính nào đó của đối tượng. Theo chất, phán
đoán được phân thành phán đoán khẳng định và phán đoán phủ định. Còn theo trình độ
phát triển của nhận thức, phán đoán được phân chia làm ba loại là phán đoán đơn nhất (ví
dụ :đồng dẫn điện), phán đoán đặc thù(ví dụ: đồng là kim loại) và phán đoán phổ biến(ví
dụ:mọi kim loại đều dẫn điện). Phán đoán phổ biến là hình thức thể hiện sự bao quát rộng
lớn nhất về đối tượng
(Ví dụ: ma sát sinh ra nhiệt, bất kỳ vận động cơ giới nào ở trong một quá trình ma sát cũng
nhất định chuyển thành nhiệt)
Suy luận: là hình thức cao nhất của tư duy liên kết các phán đoán lại với nhau để
rút ra tri thức mới bằng các phán đoán mới. Tùy theo sự kết hợp các phán đoán theo trật
tự từ phán đoán kém chung đến phán đoán chung hơn hoặc ngược lại, mà người ta có được
hình thức suy luận quy nạp hay diễn dịch…
(Ví dụ, nếu liên kết phán đoán "Kim loại thì dẫn điện" với phán đoán "Đồng là kim loại"
ta rút ra được một phán đoán mới là "Đồng dẫn điện".) lOMoAR cPSD| 44985297
Tùy theo sự kết hợp các phán đoán theo trật tự nào (từ phán đoán đơn nhất qua phán đoán
đặc thù, rồi tới phán đoán phổ biến hoặc ngược lại) mà người ta có được hình thức suy luận quy nạp hay diễn dịch.
2.2.3.Mối quan hệ giữa nhận thức nhận thức cảm tính, nhận thức lý tính
Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính là những nấc thang hợp thành chu trình
nhận thức. Trên thực tế, chúng thường diễn ra đan xen vào nhau trong một quá trình nhận
thức; song chúng có những nhiệm vụ và chức năng khác nhau. Nếu nhận thức cảm tính gắn
liền với hoạt động thực tiễn, với sự tác động của khách thể cảm tính, là cơ sở cho nhận thức
lý tính thì nhận thức lý tính, nhờ có tính khái quát cao, lại có thể hiểu biết được bản chất,
quy luật vận động và phát triển sinh động của sự vật; giúp cho nhận thức cảm tính có định
hướng đúng và trở nên sâu sắc hơn. Tuy nhiên, nếu dừng lại ở nhận thức lý tính thì con
người mới chỉ có được những tri thức về đối tượng, còn bản thân những tri thức ấy có chân
thực hay không thì con người chưa Nếu không có nhận thức cảm tính thì không có nhận
thức lý tính. Nếu không có nhận thức lý tính thì không có tri thức và lý luận, không thể đạt
tới chân lý do đó không nhận thức được bản chất sâu sa của sự vật, hiện tượng và thế
giới.biết được. Hai giai đoạn không tách biệt mà tồn tại đan xen, luôn bổ xung, hỗ trợ cho nhau.
Trong khi đó, nhận thức đòi hỏi phải xác định xem những tri thức ấy có chân thực
hay không. Để thực hiện điều đó, nhận thức nhất thiết phải trở về với thực tiễn, dùng thực
tiễn làm tiêu chuẩn, làm thước đo tính chân thực của những tri thức đã đạt được trong quá trình nhận thức.
Nhận thức phải quay trở về thực tiễn là vì:
Một là, Mục đích của nhận thức là phục vụ thực tiễn, để cải tạo hiện thực, thúc đẩy thực
tiễn phát triển và phục vụ cuộc sống
Hai là, Thực tiễn có vai trò kiểm nghiệm tri thức đã nhận thức được (kiểm tra tính chân lý).
Ba là, nhận thức trở về thực tiễn để tiếp cận những khách thể mới, để tiếp tục tiến lên tri
thức mới vô tận bao la của thế giới 2.3. Thực tiễn
C.Mác và Ph.Ăngghen đã đưa ra một quan niệm đúng đắn, khoa học về thực tiễn và
vai trò của nó đối với nhận thức cũng như đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội loài
người. Với việc đưa phạm trù thực tiễn vào lý luận nhận thức, các nhà kinh điển của chủ
nghĩa Mác - Lênin đã tạo nên một bước chuyển biến cách mạng trong triết học nói chung
và trong lý luận nhận thức nói riêng. lOMoAR cPSD| 44985297
2.3.1. Thực tiễn là gì? Các hình thức cơ bản của thực tiễn.
Thực tiễn là toàn bộ những hoạt động vật chất có mục đích, mang tính lịch sử - xã
hội của con người nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội phục vụ nhân loại tiến bộ.
Thực tiễn biểu hiện rất đa dạng với nhiều hình thức ngày càng phong phú, song có
ba hình thức cơ bản là: Hoạt động sản xuất vật chất, Hoạt động chính trị xã hội và Hoạt
động thực nghiệm khoa học.
Mỗi hình thức hoạt động cơ bản của thực tiễn có một chức năng quan trọng khác
nhau, không thể thay thế được cho nhau song giữa chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau,
tác động qua lại lẫn nhau. Trong mối quan hệ đó, hoạt động sản xuất vật chất là hoạt động
cơ bản nhất, đóng vai trò quyết định đối với các hoạt động khác. Bởi vì, nó là hoạt động
nguyên thuỷ nhất và tồn tại một cách khách quan, thường xuyên nhất trong đời sống của
con người và nó tạo ra những điều kiện, của cải thiết yếu có tính quyết định đối với sự sinh
tồn và phát triển của con người. Không có hoạt động sản xuất vật chất thì không thể có các
hình thức hoạt động khác. Các hình thức hoạt động khác suy cho cùng cũng xuất phát từ
hoạt động sản xuất vật chất và phục vụ cho hoạt động sản xuất của con người. Tuy nhiên
hai hình thức thực tiễn kia có ảnh hưởng quan trọng tới sản xuất vật chất. Chính sự tác
động qua lại lẫn nhau của các hình thức hoạt động cơ bản đó làm cho thực tiễn vận động,
phát triển không ngừng và ngày càng có vai trò quan trọng đối với nhận thức.
2.3.2.Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức
Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức được thể hiện trước hết ở chỗ: Thực tiễn là
cơ sở của nhận thức, là động lực của nhận thức, là mục đích của nhận thức và là tiêu chuẩn
để kiểm tra chân lý.Từ vai trò của thực tiễn đối với nhận thức, chúng ta nhận thấy cần phải
quán triệt quan điểm thực tiễn trong nhận thức và hoạt động.Quan điểm thực tiễn yêu cầu
nhận thức sự vật phải gắn với nhu cầu thực tiễn : phải lấy thực tiễn làm tiêu chuẩn kiểm tra
sự đúng sai của kết quả nhận thức : tăng cường tổng kết thực tiễn để rút ra những kết luận
góp phần bổ sung, hoàn thiện, phát triển nhận thức,lý luận.
2.3.2.1. Thực tiễn là cơ sở của nhận thức
Thực tiễn đã cải tạo và hoàn thiện các giác quan, cùng bộ óc và năng lực tư duy của
con người. Thực tiễn nối dài và tăng cường những khả năng của bộ óc và các giác quan
con người, bằng chính các công cụ lao động và các phương tiện, thiết bị quan sát, thí
nghiệm, tính toán ngày càng tinh vi, hiện đại. Thực tiễn là cái tác động vào các khách thể
vật chất, bắt chúng bộc lộ thuộc tính, đặc điểm…, nhờ đó mà con người có thể nhận thức
được thế giới. Thực tiễn còn cung cấp cho nhận thức các điều kiện vật chất cần thiết, như
các tư liệu sinh hoạt và cơ sở vật chất cho các hoạt động khoa học, giáo dục lOMoAR cPSD| 44985297
2.3.2.2.Thực tiễn là động lực cơ bản thúc đẩy nhận thức phát triển và là mục đích tối
cao của nhận thức
Mọi quá trình phát triển của nhận thức đều có nguyên nhân từ nhu cầu giải quyết
các vấn đề trong thực tiễn, nhằm thúc đẩy thực tiễn phát triển. Thực tiễn đặt ra nhu cầu đòi
hỏi nhận thức phải phát triển để giải quyết. Mục đích tối cao của nhận thức là phục vụ hoạt
động thực tiễn, giúp cho thực tiễn phát triển .Từ đó thực tiễn sau có năng suất, chất lượng,
hiệu quả cao hơn thực tiễn trước và sẽ phục vụ cuộc sống con người tốt hơn.
2.3.2.3.Thực tiễn là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý
Thực tiễn chẳng những là cơ sở, động lực, mục đích của nhận thức mà nó còn đóng
vai trò là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý. Điều này có nghĩa là thực tiễn là thước đo giá trị
của những tri thức đã đạt được trong nhận thức. Đồng thời thực tiễn không ngừng bổ sung,
điều chỉnh, sửa chữa, phát triển và hoàn thiện nhận thức. C.Mác đã viết: “Vấn đề tìm hiểu
xem tư duy của con người có thể đạt tới chân lý khách quan hay không, hoàn toàn không
phải là vấn đề lý luận mà là một vấn đề thực tiễn. Chính trong thực tiễn mà con người phải chứng minh chân lý.”
Phần 3: Ý nghĩa của con đường biện chứng nhận thức chân lý trong học tập và Nghiên cứu Khoa học
Trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học và cũng như là trong học tập các nhà nghiên
cứu và học sinh, sinh viên phải theo sát thực tiễn, chân lý và phải hiểu biết toàn diện về ý
thức và hoạt động thực tiễn của vấn đề cần nghiên cứu. Họ cần phải xem xét các sự vật,
hiện tượng được đặt trong mối quan hệ biện chứng giữa các bộ phận, các yếu tố xung quanh
3.1. Vận dụng trong học tập
Con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý có ý nghĩa rất quan trọng trong học
tập. Nó không chỉ giúp cho các học sinh, sinh viên hiểu rõ hơn về quá trình tư duy và tìm
ra giải pháp cho các vấn đề mà còn giúp cho họ phát triển tư duy và tư duy sáng tạo.
Học tập đòi hỏi các quá trình nhận thức liên quan đến việc tiếp nhận những điều
mới, tổng hợp thông tin và tích hợp nó với kiến thức trước đó. Thay vì phải học thuộc lòng
và áp dụng trích dẫn rành mạch để trả lời câu hỏi của giáo viên, con đường biện chứng của
sự nhận thức chân lý giúp cho học sinh, sinh viên có thể tư duy và cảm nhận về thực tế một
cách sâu sắc hơn, từ đó giúp cho họ tự thấy được giá trị của kiến thức và phát triển tư duy
trên cơ sở hiểu biết của mình. Nó cũng giúp cho học sinh, sinh viên có thể tìm ra những
giải pháp mới và sáng tạo cho các vấn đề trong việc học tập và phát triển bản thân.
Nhận thức là một quá trình, lặp đi lặp lại không có điểm dừng: từ thực tiễn tới nhận
thức – từ nhận thức lại trở về thực tiễn – từ thực tiễn tiếp tục quá trình nhận thức và loài
người càng tiến dần đến chân lý. Sinh viên phải nhận thức được chân lý là khách quan,
chống những quan điểm chủ quan cho rằng chân lý là thuộc về kẻ mạnh, chân lý thuộc về
đa số, chân lý là lý lẽ hợp lý, chân lý gắn với lợi ích…; phê phán chủ nghĩa tuyệt đối và lOMoAR cPSD| 44985297
chủ nghĩa tương đối, cần xác định chân lý vừa mang tính tương đối, vừa mang tính tuyệt
đối và chân lý là cụ thể. Theo Lênin: “bản chất, linh hồn sống của chủ nghĩa Mác là phân
tích cụ thể ở mỗi tình hình cụ thể; rằng phương pháp của Mác trước hết là xem xét nội dung
khách quan của quá trình lịch sử trong một thời điểm cụ thể nhất định”
Rèn luyện cho sinh viên có quan điểm phát triển trong nhận thức và trong hoạt động
thực tiễn. Quan điểm phát triển đòi hỏi sinh viên không chỉ nắm bắt cái hiện đang tồn tại
của sự vật, mà còn phải thấy rõ khuynh hướng phát triển trong tương lai của chúng; phải
thấy được những biến đổi đi lên cũng như những biến đổi có tính chất thụt lùi, khuynh
hướng chung là phát triển đi lên, tức phải thấy được tính quanh co, phức tạp của sự vật,
hiện tượng trong quá trình phát triển của nó. Sinh viên phải biết phân chia quá trình phát
triển của sự vật thành từng giai đoạn, từ đó có cách tác động phù hợp thúc đẩy sự vật phát
triển. Cần giúp sinh viên nhận diện và phê phán quan điểm bảo thủ, trì trệ, định kiến trong
nhận thức và hành động
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, con người muốn cải tạo được thế giới
cần phải có những hiểu biết về nó, nhưng những hiểu biết ấy không có sẵn trong con người.
Muốn có hiểu biết (tri thức), con người phải tác động vào thế giới khách quan thông qua
hoạt động thực tiễn. Trên cơ sở đó con người tích lũy được những tri thức kinh nghiệm.
Tuy nhiên, những tri thức kinh nghiệm đó mới chỉ đem lại sự hiểu biết về từng mặt riêng
lẻ, bề ngoài của sự vật. Ph.Ăngghen đã chỉ rõ: “Sự quan sát dựa vào kinh nghiệm tự nó
không bao giờ có thể chứng minh được đầy đủ tính tất yếu”(1). Do đó, để hiểu được tính tất
yếu, bản chất của sự vật, con người phải khái quát những tri thức, kinh nghiệm thành lý
luận. Thực tiễn là cơ sở góp phần rèn luyện giác quan của con người, làm cho chúng phát
triển tinh tế, hoàn thiện hơn. Trên cơ sở đó giúp con người nhận thức hiệu quả hơn, khái
quát lý luận đúng đắn hơn. Thông qua hoạt động thực tiễn, con người cũng cải biến chính
bản thân, phát triển năng lực, trí tuệ của mình.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Học đi đôi với hành. Học mà không hành thì học vô
ích. Hành mà không học thì hành không trôi chảy”. Học tập phải gắn liền với thực hành,
thực nghiệm; phải kết hợp kiến thức học được ở trường, lớp, ở trên trang sách với hoạt
động, việc làm cụ thể, không được học chay, lí thuyết suông. Mọi điều học được ở trường,
ở lớp phải được tập luyện, rèn luyện thành kĩ năng, kĩ xảo. Do đó lý thuyết với hiện thực
phải đi đôi với nhau mới tạo ra hiệu quả( chân lý khách quan)
Vì vậy, con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý giúp cho học sinh, sinh viên
có thể hiểu rõ hơn về các phương pháp và quá trình học tập, từ đó giúp cho họ phát triển
tư duy và tư duy sáng tạo cũng như có được sự hiểu biết và phát triển tốt hơn trong học tập
3.2. Vận dụng trong Nghiên cứu khoa học
Từ những cơ sở lý luận đã được nêu trên ,con đường biện chứng của sự nhận thức
chân lý có ý nghĩa rất quan trọng trong nghiên cứu khoa học. Nó giúp cho các nhà khoa lOMoAR cPSD| 44985297
học có thể hiểu rõ hơn về bản chất của sự thật thông qua quá trình tìm kiếm và đưa ra những
kết quả có giá trị về một vấn đề nhất định. Khi sử dụng con đường biện chứng của sự nhận
thức chân lý, các nhà khoa học bắt đầu từ một nguyên mẫu về một vấn đề, từ đó tìm hiểu
và phân tích dữ liệu một cách đầy đủ và hợp lý để có thể tìm ra những sự thật có giá trị về một vấn đề.
Ví dụ, khi nghiên cứu về tác động của chất độc trong môi trường đến sức khỏe con
người, các nhà khoa học có thể sử dụng con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý
để tìm hiểu và phân tích dữ liệu một cách đầy đủ và hợp lý để có thể đưa ra những kết luận
có giá trị về về tình hình sử dụng chất độc trong môi trường.
3.2.1.Ý nghĩa nhận thức cảm tính trong nghiên cứu khoa học
Vai trò của việc nhận thức cảm tính rất quan trọng trong nghiên cứu khoa học. Đây
là giai đoạn mà mỗi chúng ta đều phải tiến hành trước khi đến một nhận thức sâu xa hơn
và mang tính cụ thể hơn. Bước đầu tiên của việc nghiên cứu khoa học là phải vận dụng các
giác quan của mình để nhận thức vấn đề chính, chủ thể của đề tài nghiên cứu. Nhận thức
cảm tính giúp cho ta xác định rõ hơn phạm vi nghiên cứu rõ ràng và tránh bị lạc đề.
Xuất phát với “Cảm giác” chúng ta sẽ đưa ra cảm nhận ban đầu, nắm bắt thông tin
cơ bản về vấn đề nghiên cứu. Đây là bước nhận thức cơ bản nhất, nhưng là bước nhất định
phải có: nếu không có chúng ta sẽ cảm thấy mơ hồ mông lung, không rõ hướng đi tiếp theo.
Tiếp theo đến “Tri giác”.Ở giai đoạn này dựa trên cơ sở của cảm giác thì các nghiên
cứu sinh sẽ tổng hợp các thông tin cảm giác của sự vật hiện tượng. Đây là quá trình đánh
giá thông tin có liên quan đến một tình huống vấn đề nghiên cứu.Từ đó hiểu rõ hơn tình
huống, đồng thời giúp chúng ta đưa ra nhứng quyết định phù hợp để nghiên cứu thuận lợi.
Sau khi tổng hợp những thông tin cần thiết và quan trọng thì đến “ Biểu tượng”.Các
nghiên cứu sinh sẽ đi vào phân tích, ít nhiều mang tính trừu tượng. Ở giai đoạn này chúng
ta đã dần hình dung ra các hình ảnh, các mạch suy nghĩa chặt chẽ hơn bởi vừa kết hợp cảm
giác của những giác quan cho đến những hình ảnh sắc nét.(VD: Nghiên cứu về tác động
của môi trường đối với sự phát triển của trẻ em:Trong giai đoạn biểu tượng, thông tin về
những tác động của môi trường đến sự phát triển của trẻ em được lưu trữ trong trí nhớ.
Trên cơ sở đó, các nhà nghiên cứu có thể gọi lại thông tin này và sử dụng nó để đưa ra
những giải pháp phù hợp để giảm thiểu những tác động không tốt của môi trường đối với
sự phát triển của trẻ em.)
VD: Nghiên cứu về mối quan hệ giữa sức khỏe và dinh dưỡng:
Nhận thức cảm tính giúp các nhà khoa học hiểu sâu sắc hơn về những cảm xúc và
suy nghĩ của các đối tượng nghiên cứu khi họ phải đối mặt với những vấn đề liên quan đến lOMoAR cPSD| 44985297
sức khỏe và dinh dưỡng. Điều này có thể giúp các nhà khoa học tìm ra những giải pháp
phù hợp cho những vấn đề sức khỏe và dinh dưỡng của người dân.
3.2.2.Ý nghĩa của nhận thức lý tính và thực tiễn trong nghiên cứu khoa học
Chỉ sự dụng nhận thức cảm tính thôi là chưa đủ mà cần phải áp dụng nhận thức lý
tính vào nghiên cứu. Việc đầu tiên khi đi vào nghiên cứu chuyên sâu một vấn đề nào đó thì
cần tìm hiểu những khái niệm liên quan. “Khái niệm” là những tư duy, lí thuyết, nguyên lý
hay định nghĩa giúp chúng ta hiểu rõ hơn về một chủ đề hoặc một vấn đề cụ thể. Trong
nghiên cứu khoa học, khái niệm là những công cụ rất quan trọng cho việc phân tích và giải
quyết những vấn đề một cách chính xác và logic.
VD: Nghiên cứu về tác động của môi trường đối với sự phát triển của trẻ em:
Khái niệm về môi trường có thể giúp chúng ta hiểu rõ hơn về những tác động của môi
trường đối với sự phát triển của trẻ em. từ những khái niệm này, các nhà nghiên cứu có thể
tìm ra những giải pháp phù hợp để giảm thiểu những tác động không tốt của môi trường
đối với sự phát triển của trẻ em.
Tiếp đến một giai đoạn là “Phán đoán”. Sau khi tiếp nhận những kiến thức cụ thể,
hoàn chỉnh chúng ta phải có những phán đoán dựa vào các khái niệm đó, ở giai đoạn này
chúng ta tự có những quan điểm riêng, những nhận thức riêng để hoàn chỉnh hơn. Nếu chỉ
biết tiếp nhận những khái niệm đơn thuần, mà không biết liên kết chúng lại với nhau thì
những khái niệm chúng ta có cũng chỉ là vô dụng. Phán đoán là hoạt động đánh giá hay
đánh giá sự việc, tình huống hoặc một người nào đó sau khi đã phân tích, nghiên cứu và sử
dụng thông tin một cách logic và có hệ thống
Cuối cùng là “Suy luận”.Đây là giai đoạn rất quan trọng, nếu chỉ dừng ở phán đoán
thì sẽ là một thiếu sót rất lớn. Suy luận là hoạt động dùng thông tin đã có để suy ra hoặc
đưa ra những kết luận mới, giúp chúng ta tìm ra những giải pháp và hành động phù hợp để
giải quyết những vấn đề một cách chính xác và hiệu quả. Suy luận còn rèn luyện tư duy,
khiến cho chúng ta phải suy nghĩ
Như vậy nhận thức lý tính là một trong hai loại nhận thức trong nghiên cứu khoa
học, kết hợp của cái đầu và lý trí để tìm ra sự thật về vấn đề của chúng ta đang nghiên cứu.
Nhận thức lý tính giúp chúng ta tìm ra các giải pháp mới và sáng tạo cho các vấn đề trong
cuộc sống của chúng ta.
Ví dụ về nhận thức lý tính trong nghiên cứu khoa học khi nghiên cứu về một chất bảo quản
trong thực phẩm. Các nhà khoa học có thể sử dụng nhận thức lý tính của mình để tìm ra
các giải pháp mới và sáng tạo để hiểu rõ hơn về tác dụng của chất bảo quản trong thực
phẩm để có thể đưa ra những kết luận có giá trị về về tình hình sử dụng chất bảo quản trong lOMoAR cPSD| 44985297
thực phẩm.. Chính nhận thức lý tính này cũng giúp cho các nhà khoa học có thể tìm ra các
giải pháp mới và sáng tạo cho các vấn đề khác liên quan đến thực phẩm như việc sử dụng
chất bảo quản quá nhiều trong thực phẩm và tác hại của chất bảo quản đối với sức khỏe con người.
Nhận thức cảm tình và nhận thức lý tính đều có vai trò quan trọng trong việc hướng
dẫn nghiên cứu khoa học. Cảm thức cảm tính giúp chúng ta hiểu rõ hơn về những cảm xúc
và tình huống, nhờ đó có thể đưa ra những quyết định phù hợp. Trong khi đó, cảm thức lý
tính giúp chúng ta phân tích và giải quyết những vấn đề một cách chính xác và logic. Để
làm nên thành công của một bài nghiên cứu khoa học chúng ta cần kết hợp cả hai nhận thức
Không những thế chúng ta cần phải xem xét thực tiễn. Thực tiễn trong nghiên cứu
khoa học là việc sử dụng các kết quả nghiên cứu khoa học để giải quyết các vấn đề của xã
hội hoặc cho mục đích phát triển. Thực tiễn trong nghiên cứu khoa học không phải là một
thuật ngữ kĩ thuật mà nó là một quá trình, một cách thức để đưa các kiến thức khoa học đi
vào cuộc sống để giải quyết các vấn đề của xã hội. Quá trình thực tiễn trong nghiên cứu
khoa học bao gồm việc áp dụng các phương pháp nghiên cứu vào các vấn đề thực tiễn,
phân tích dữ liệu và sử dụng các kết quả nghiên cứu để đưa ra các đánh giá và các quyết
định liên quan đến vấn đề đó. Thông qua quá trình thực tiễn trong nghiên cứu khoa học các
nhà khoa học có thể nhận được các thông tin quan trọng từ thực tiễn để cải thiện các phương
pháp nghiên cứu của họ và nâng cao giá trị của các kết quả nghiên cứu. Ngoài ra, quá trình
thực tiễn trong nghiên cứu khoa học cũng giúp cho các nhà khoa học có thể hiểu rõ hơn về
nhu cầu và mong muốn của xã hội và đưa ra các giải pháp mới và sáng tạo để phục vụ cho xã hội tốt hơn. lOMoAR cPSD| 44985297 PHẦN KẾT LUẬN
Triết học Mác chủ trương sự phát triển của kiến thức con người phải đi theo con đường
biện chứng. Cụ thể, việc nhận thức chân lý phải dựa trên quá trình phản biện và tương tác
giữa nhận thức và sự thật (trên phương diện vật lý).
Theo cách nhìn của triết học Mác, sự thật không tồn tại cố định và tuyệt đối, mà luôn luôn
biến đổi theo thời đại. Vì vậy, để nhận thức được sự thật, con người phải trải qua quá
trình biểu hiện và tương tác với thực tại. Việc tìm ra chân lý đòi hỏi con người phải dựa
vào hành động và việc biến đổi thực tại thông qua việc cải cách xã hội.
Triết học Mác cho rằng, việc hiểu biết chân lý đòi hỏi một quá trình biểu hiện và tự thể
thức hóa. Tuy nhiên, quá trình này không hề đơn giản và rất khó có thể hoàn thành dễ
dàng. Nó cần có các phương pháp và công cụ để có thể nhìn nhận và phân tích sự thật,
đồng thời phải tự nhiên và liên tục.
Vì vậy, trong triết học Mác, con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý là sự kết hợp
giữa lý luận và thực hành. Điều này có nghĩa là, để có thể nhận thức được chân lý, con
người cần phải chủ động và liên tục đưa ra các sáng kiến và hành động để cải thiện và phát triển thực tại.
Con đường biện chứng về nhận thức chân lý của triết học Mác đã giúp cho con người
hiểu rõ được bản chất của sự thật, đồng thời cũng cho thấy tầm quan trọng của việc áp
dụng lý luận vào thực tế, từ đó giúp cho con người có được sự hiểu biết đầy đủ và sâu rộng về thế giới.
Điều này cũng có ý nghĩa quan trọng đối với nghiên cứu khoa học và học tập của bản
thân. Một người nghiên cứu phải học cách áp dụng lý thuyết vào thực tế, tìm kiếm các
giải pháp cho vấn đề thông qua việc phân tích và suy nghĩ, từ đó giúp cho họ tiếp thu kiến
thức và hiểu những bài học mới. Trong khi đó, một người học tập phải học cách vận dụng
lý luận vào thực tiễn và tìm ra những giải pháp mới cho các vấn đề.
Vì vậy, việc hiểu biết con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý giúp cho chúng ta
có thể nghiên cứu và tiếp thu kiến thức một cách sâu rộng, đồng thời cũng giúp cho
chúng ta có thể rút ra được những bài học có giá trị cho bản thân và từ đó giúp cho chúng
ta có được sự hiểu biết và phát triển tốt hơn trong nghiên cứu và học tập.
TÀI LIỆU THAM KHẢO TÀI LIỆU lOMoAR cPSD| 44985297
1.Giáo trình Triết học-Mác Lê nin –NXB Chính trị quốc gia sự thật
2.Bộ giáo dục và đào tạo: https://kmacle.duytan.edu.vn/uploads/75770b9b-cdbf4038-
90e2-f25e1f4426fe_triethocmaclenin.pdf?
fbclid=IwAR0LHt9Ai1JeDdOwCog2j1YGr6jZFqDQv_xtwlMOMu7w9MdQ253Ob eZeV_k
3. Con đường nhận thức của sự nhận thức chân lý:
https://vienphapluatungdung.vn/con-duong-bien-chung-cua-su-nhan-thuc- chanly.html
4. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2016), “Giáo Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác
– Lênin”, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
5. C.Mác và Ph.Ăngghen (1994), “Toàn tập, t.20”, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.