














Preview text:
lOMoAR cPSD| 61463864
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI KHOA VIỆT NAM HỌC BÀI TIỂU LUẬN
HỌC PHẦN: CÁC TỘC NGƯỜI Ở VIỆT NAM
Học kỳ 1 năm học 2020-2021
Tên chủ đề: LỄ HỘ I LỒNG TỒNG CỦA TỘC NGƯỜI TÀY HÀ NỘI-2021 lOMoAR cPSD| 61463864
Số phách (để trống):……………
Số phách (để trống):………………… TÊN HỌC PHẦN:
Thông tin cá nhân sinh viên:
Các tộc người ở Việt Nam
Điểm bài thi sau thống nhất:
Họ tên sinh viên: Đặng Quỳnh Chi Ngày sinh: 05/07/2002 Bằng
số:………………………… Mã sinh viên: 705616014
Bằng chữ: ..……………………..
Lớp tín chỉ: VNSS 246-K70QTDL.2_LT SBD:
……………………………………. Cán bộ chấm thi 1
Chủ đề số: 06: LỄ HỘI LỒNG TỒNG
(ký ghi rõ họ tên)
CỦA TỘC NGƯỜI TÀY
…………………………………….. Cán bộ chấm thi 2
(ký ghi rõ họ tên)
…………………………………… … MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1
1. Lý do chọn đề tài .......................................................................................... 1
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .............................................................. 2 lOMoAR cPSD| 61463864
3. Mục đích nghiên cứu ................................................................................... 2
4. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................ 2
5. Bố cục tiểu luận ............................................................................................ 2
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ TỘC NGƯỜI TÀY ....................................... 3
CHƯƠNG 2: TÌM HIỂU VỀ LỄ HỘI LỒNG TỒNG CỦA NGƯỜI TÀY .. 4
1. Nguồn gốc lễ hội ........................................................................................... 4
2. Thời gian và địa điểm tổ chức lễ hội .......................................................... 4
3. Nội dung tổ chức lễ hội ................................................................................ 4
3.1. Quá trình chuẩn bị ................................................................................... 4
3.2. Phần lễ ..................................................................................................... 5
3.3. Phần hội ................................................................................................... 6
CHƯƠNG 3: GIÁ TRỊ, BIẾN ĐỔI HIỆN NAY VÀ MỘT SỐ ĐỀ XUẤT
NHẰM PHÁT HUY GIÁ TRỊ VĂN HÓA CỦA LỄ HỘI LỒNG TỒNG ..... 7
1. Giá trị văn hóa của lễ hội ............................................................................ 7
2. Biến đổi hiện nay của lễ hội ........................................................................ 7
3. Một số đề xuất nhằm phát huy giá trị văn hóa của lễ hội ........................ 8
KẾT LUẬN .......................................................................................................... 8
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH ............................................ 9
PHỤ LỤC ẢNH ................................................................................................... 9 lOMoAR cPSD| 61463864
Tên chủ đề: LỄ HỘI LỒNG TỒNG CỦA TỘC NGƯỜI TÀY MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Việt Nam - đất nước có truyền thống văn hóa lâu đời, có thể được coi là một
trong số những quốc gia có nhiều lễ hội nhất thế giới. Các lễ hội này được tổ chức
quanh năm suốt tháng ở bất kể tỉnh thành nào trên cả nước bởi có đến 54 dân tộc
anh em sinh sống. Được lưu giữ từ xưa đến nay với truyền thống “Uống nước nhớ
nguồn”, những giá trị văn hóa đặc sắc ấy vừa có “lễ” thể hiện sự linh thiêng,
nghiêm trang mà vừa có “hội” mang theo phần hứng khởi, tấp nập. Cũng có những
lễ hội để ghi nhớ công ơn của các vị anh hùng dân tộc, để thờ cúng các vị thần
của tạo hóa, hay các vị tổ nghề truyền thống,… Đa phần các lễ hội ở Việt Nam
diễn ra vào đầu năm theo lịch âm - tức mùa xuân hàng năm, đó là khi thời tiết đẹp
nhất, trăm hoa đua nở, mọi vật, mọi việc đều là những khởi đầu mới. Vì vậy dân
gian mới truyền câu “Tháng giêng là tháng ăn chơi”. Lễ hội diễn ra mang nhiều
ý nghĩa, mục đích khác nhau nhưng có một điểm chung lớn là nhằm cầu chúc cho
một năm mới an khang - thịnh vượng - vạn sự như ý, an cư lập nghiệp, mùa màng
bội thu, gặp nhiều may mắn trong cuộc sống.
Không có bất kì lễ hội nào giống nhau, lễ hội nào cũng mang trong mình nét
riêng như: lễ hội Đền Hùng để ghi nhớ công ơn các vị vua Hùng, lễ hội Gầu Tào
nhằm nhờ thần phù hộ xin thuận đường con cái,… Lễ hội Lồng Tồng cũng không
ngoại lệ, còn gọi là lễ hội xuống đồng, dâng cúng lễ vật lên trời đất, thần Nông
nhằm cảm tạ trời đất, các vị thần linh đã cho mùa màng năm qua thu hoạch tốt và
cầu mong những sự lao động cần cù, vất vả trong năm mới sẽ gặt gái được nhiều
thành quả. Sự đặc biệt, hấp dẫn của lễ hội Lồng Tồng đã thu hút nhiều du khách
bốn phương tham dự. Lễ hội đa dạng về bản sắc văn hóa dân tộc, sinh động trong
qui mô tổ chức. Trước vấn đề đồng hóa về văn hóa bởi có quá nhiều lễ hội cùng
thời gian tổ chức thì những giải pháp bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa
tiêu biểu là cần thiết để không làm mất đi một dịp lễ hội đặc sắc với đồng bào dân
tộc Tày tại trung du miền núi phía Bắc.
Chính vì lý do này, cùng với việc góp phần quảng bá, xây dựng hình ảnh về
văn hóa lễ hội cho bạn bè, người thân cũng như thế hệ trẻ có thêm tình yêu phong
tục tập quán, lễ hội văn hóa của quê hương, đất nước, hiểu biết về lịch sử văn hóa
của tộc người Tày, giữ gìn và phát huy hết giá trị truyền thống tốt đẹp mà lễ hội
mang lại mà tôi lựa chọn đề tài: “Lễ hội Lồng Tồng của tộc người Tày” làm báo
cáo học tập mong muốn tìm hiểu và giới thiệu chi tiết thêm về lễ hội giúp tăng sự
hiểu biết của bản thân. lOMoAR cPSD| 61463864
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Đề tài tập trung vào nội dung lễ hội Lồng Tồng và
tìm hiểu văn hóa tín ngưỡng dân gian của người Tày.
Phạm vi nghiên cứu: Giới thiệu về thời gian và không gian tổ chức hoạt động lễ hội Lồng Tồng.
3. Mục đích nghiên cứu
Miêu tả quá trình diễn ra, nguồn gốc xuất xứ của lễ hội Lồng Tồng người tộc
người Tày qua việc phân tích văn hóa, con người từ đó đưa ra giải pháp trong việc
bảo tồn và phát huy giá trị truyền thống của lễ hội. Qua đó giới thiệu để hiểu rõ
hơn về bản sắc văn hóa dân tộc. Đồng thời đưa lễ hội Lồng Tồng của tộc người
Tày đến gần hơn với bạn bè trong và ngoài nước.
4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu lý thuyết: thu thập thông tin tài liệu sách, báo,
internet,… về văn hóa Lễ hội Lồng Tồng.
Phương pháp phân tích tổng hợp: dựa vào nguồn thông tin thu thập được
đưa ra những luận điểm, giả thuyết, lựa chọn, xử lý nhằm nghiên cứu, xây dựng
đề tài “Lễ hội Lồng Tồng của người Tày”.
Phương pháp so sánh: sự khác nhau, chênh lệch của Lễ hội Lồng Tồng hiện
tại so với ngày trước, ở từng địa điểm cư trú, từ đó phát hiện nét độc đáo mà lễ hội đem lại.
5. Bố cục tiểu luận
Tiểu luận ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục ảnh, tài liệu tham khảo còn có 5 chương chính gồm:
Chương 1: Khái quát về tộc người Tày
Chương 2: Tìm hiểu về Lễ hội Lồng Tồng của tộc người Tày
Chương 3: Giá trị, biến đổi hiện nay và một số đề xuất nhằm phát huy giá trị
văn hóa của Lễ hội Lồng Tồng lOMoAR cPSD| 61463864
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ TỘC NGƯỜI TÀY
Người Tày hay còn gọi là Thổ, là tộc người có mặt từ rất sớm (khoảng nửa
cuối thiên niên kỉ thứ I trước Công Nguyên). Ngôn ngữ giao tiếp chính của người
Tày này là ngôn ngữ Tày-Thái (ngữ hệ Thái -Kadai). Dân tộc Tày thường phân
bố chủ yếu ở các tỉnh trung du và miền núi phía Bắc, nhiều nhất là ở các tỉnh Bắc
Cạn, Lào Cai, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Cao Bằng, và dạo gần đây
bắt đầu di cư tới một số tỉnh như Lâm Đồng, Đăk Lăk, Tây Nguyên.
Từ xưa, người Tày đã biết thâm canh và áp dụng các biện pháp thủy lợi như
đào mương, làm cọn lấy nước tưới ruộng, đắp phai, bắc máng và còn có truyền
thống làm ruộng nước. Ngoài ra, dân tộc Tày còn làm rộng nông và phát triển hệ
thống ruộng vườn theo phong cách truyền thống. Các loại ngũ cốc như: ngô,
khoai, sắn thường đường trồng trên nương rẫy theo từng mùa vụ. Ngày xưa, người
Tày thường chăn thả gia súc, gia cầm tự do nhưng từ khi có chính sách nông
nghiệp của Đảng và Nhà nước, các thành tựu khoa học trong lĩnh vực chăn nuôi
đã được áp dụng, các loài gia súc, gia cầm cho năng suất lớn như lợn siêu nạc đã
được chăn nuôi. Nhờ đó, nhu cầu của đồng bào vừa có thể được đáp ứng và nhiều
gia đình còn có thể tăng thêm thu nhập nhờ buôn bán, trao đổi cái hàng hóa được
tao ra từ chăn nuôi. Bên cạnh đó, dân tộc Tày còn phát triển nghề dệt nên phong
tục cưới xin truyền thống của nơi đây thường có liên quan đến dệt.
Tộc người Tày thường có tập quán sinh sống thành bản làng, mỗi bản có
khoảng từ 30 đến 60 ngôi nhà, có quy định riêng. Những người cùng dòng họ
trong một hoặc nhiều bản thường sẽ hỗ trợ nhau trong đời sống sinh hoạt và sản
xuất và còn thực thi quy tắc hôn nhân ngoại tộc. Gia đình dân tộc Tày thuộc kiểu
gia đình phụ hệ và bị ảnh hưởng bởi các lễ giáo phong kiến. Trong gia đình người
Tày, chỉ có con trai mới có quyền được thừa kế tài sản, làm chủ gia đình và nắm
trong tay tất cả tài sản và quyền quyết định tất cả mọi thứ trong gia đình.
Dân tộc Tày không có tôn giáo chính nhưng bị ảnh hưởng của nhiều loại tôn
giáo như: Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo cùng các tín ngưỡng dân gian. Người
Tày thường thờ cúng tổ tiên, thần Bếp, thổ công, thần ruộng, thần lúa,... Vào đầu
năm mới, tộc người Tày sẽ tổ chức, tham dự lễ hội Lồng Tồng nằm mục đích
mong ước cho gia đình yên ấm đủ đầy, mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu.
Đời sống văn hóa tình thần của người Tày thường được diễn tả qua các hoạt động
nhạc điệu dân ca như: hát then, hát lượn, hát sli,… Dân tộc Tày thường hai bữa
ăn chính trong ngày là bữa trưa và bữa tối, với cơm tẻ là món ăn chính, xôi và
cơm lam là những món ăn đặc trưng, nước uống sôi để nguội cùng vỏ lá cây trong
rừng, cùng các loại rượu được lên men từ gạo, ngô, khoai sắn… Người Tày có bộ
trang phục truyền thống được dệt từ vải sợi bông, nhuộm màu, đa phần không có lOMoAR cPSD| 61463864
trang trí họa tiết cầu kì. Người Tày thường sống ở nhà sàn hay nhà lợp mái gianh,
và thường bài trí từ 1 đến 2 cái bếp trong nhà .
CHƯƠNG 2: TÌM HIỂU VỀ LỄ HỘI LỒNG TỒNG CỦA NGƯỜI TÀY
1. Nguồn gốc lễ hội
Lễ hội Lồng Tồng còn có cách gọi khác là lễ hội xuống đồng của dân tộc
Tày. Không ai biết lễ hội có từ bao giờ nhưng tất cả người Tày tại cộng đồng dân
cư các vùng trung du miền núi phía Bắc đều công nhận nó đã có từ rất lâu về
trước và tồn tại song song với đời sống xã hội của người dân nơi đây. Lễ hội Lồng
Tồng vừa là tín ngưỡng, tâm linh vừa là những kinh nghiệm quý báu được đúc
kết lại trên chính nét văn hóa đặc trưng riêng biệt trong canh tác nông nghiệp của
tộc người Tày. Những vị thần xuất hiện ở lễ hội để cầu mùa màng bội thu như:
thần Thành Hoàng, thần Nông, thần Sấm, thần Mưa, thần Thổ Địa, … mỗi vị thần
đều có vai trò trách nhiệm trong việc tạo ra mưa thuận gió hòa để bảo vệ linh hồn
cây trồng, vật nuôi phát triển.
2. Thời gian và địa điểm tổ chức lễ hội
Ngày trước, lễ hội được tổ chức vào tháng 3,4 âm lịch thời gian đầu mùa
mưa. Về sau mở vào mùng 2 đến 30 tháng Giêng, tức sau dịp Tết hàng năm. Tùy
từng nơi sẽ có thời gian tổ chức khác nhau nhưng đều tổ chức trong 3 ngày.
Địa điểm diễn ra lễ hội thường là những khu ruộng rộng, bằng phẳng, giữa
thửa ruộng đó còn được trồng cây nêu là nơi trung tâm để đặt mâm lễ, cũng là nơi
thực hành nghi lễ cúng tế thần linh của cả cộng đồng, xung quanh chân cột cây
nêu chính là nơi diễn ra nghi thức múa xòe, ném còn và các trò chơi dân gian
khác. Trên một thửa ruộng gần khu vực tổ chức lễ hội được lựa chọn để thực hành
những đường cầy để cầu lấy sự may mắn, bội thu cho một mùa trồng trọt mới.
3. Nội dung tổ chức lễ hội
3.1. Quá trình chuẩn bị
Vài ngày trước khi bắt đầu, việc tổ chức lễ hội Lồng Tồng đã được chuẩn bị
từ trước một cách cẩn thận, chu đáo. Tùy vào từng qui mô tổ chức mà thành lập
các cụm làng, cụm xã mà thành lập ban tổ chức, phân công từng nhiệm vụ cho
các thành viên tham gia lễ hội một cách cụ thể. Từ khâu chuẩn bị dọn dẹp, trang
trí nhà cửa khu dùng để tổ chức lễ hội, chọn dây thừng để làm dây kéo co, chọn
cây tre đủ ngọn để làm cây nêu, làm quả còn, chuẩn bị mâm lễ chung của cả làng,
của từng gia đình và các lễ vật khác. Những thành viên được chọn tham gia, phục
vụ nghi thức của lễ hội như thầy cúng chính, phụ cúng, nhóm tham gia hội kéo lOMoAR cPSD| 61463864
co, ném còn, biểu diễn các tiết mục văn nghệ, thực hành cày cấy cũng phải được
lựa chọn kĩ lưỡng, trong đội ngũ không xuất hiện những thành phần xấu xảy ra.
Người được cả dân làng lựa chọn làm thầy cúng, thầy mo phải là người am hiểu
tường tật mọi diễn biến trong lễ hội, người lớn tuổi có nhiều kinh nghiệm trong
quá trình tổ chức nghi lễ, có sự uy tín trong cộng đồng, có khả năng thay mặt dân
làng để truyền tải thông điệp đến thần linh. Lễ hội có thành công và linh nghiệm
hay không phụ thuộc vào khả năng giao tiếp của thầy cúng với các vị thần. Bên
cạnh đó phụ cúng sẽ trợ giúp người cúng chính trong các bước tổ chức nghi lễ do
đó cũng phải đảm bảo các yếu tố phụng sự, yếu tố mang tính tâm linh, người này
cũng thường được dân làng đề xuất và thầy cúng chính lựa chọn.
Cây nêu được làm từ một loại dây mai dài khoảng 20m có lá, ngọn uốn cong
hình tròn, đường kính khoảng 40cm gắn vào ngọn cây nêu. Một bên hình tròn gắn
giấy màu đỏ tượng trưng cho mặt trời, một bên dán giấy màu vàng tượng trưng
cho mặt trăng, biểu tượng của âm - dương, người chơi phải ném thủng giấy dán
trên vòng tròn đó khi ấy âm - dương mới hòa hợp, mọi sự nguyện cầu của con
người với các vị thần mới linh nghiệm.
Riêng bầu nước thiêng được chuẩn bị từ đêm giao thừa đến ngày lễ để rước
đến chân cột cây nêu rồi cử hành nghi thức dâng cúng cho các vị thần. Theo truyền
thống, nghi lễ rước nước thiêng được diễn ra vào đầu giờ Tí của năm mới, đại
diện các dòng họ trong làng, xã cùng thầy mo làm lễ rước nước thiêng về bản.
Nước được lấy ở dòng suối đầu nguồn dựng trong vỏ quả bầu, sau đó được đôi
nam nữ rước về nhà thầy cúng đặt lên bàn thờ trong sự hộ tống của đoàn chiêng, trống kèm theo sau. 3.2. Phần lễ
Sáng sớm ngày diễn ra lễ hội Lồng Tồng, thầy cúng được một đoàn người
đánh chiêng, trống đón xuống khu ruộng để làm lễ, đồng thời rước bầu nước
thiêng xuống nơi tổ chức lễ hội. Đi đầu trong đoàn người là người đánh chiêng,
hai người thổi kèn, tiếp đến là thầy cúng rồi đôi nam nữ bê mâm cũng chung của
cả làng và bầu nước, đi sau cùng là người khiêng trống và đoàn người đại diện cho các hộ gia đình.
Mâm lễ vật chung của làng được đặt tại khung gỗ ngang chân cây nêu với
đầy đủ các lễ vật như: thủ lợn, xôi màu, gà, hoa quả, rượu, bầu nước thiêng, vàng
hương… theo đúng nghi thức truyền thống mâm cúng hướng về phía Đông nhằm
mong muốn cho cây trồng được sinh sôi, phát triển. Hai bên trái, phải của mâm
cúng chính là những mâm cúng của các hộ gia đình trong làng, xã. Chân cột nêu
còn để treo trống, chiêng và các đạo cụ của thầy cúng thóc, ngô, cùng nhiều đồ lOMoAR cPSD| 61463864
vật khác trang trí xung quanh trong khu vực hành lễ với việc mong muốn làm vui
cho các vị thần để được phù hộ mọi điều tốt lành.
Khi bắt đầu làm lễ, thầy cúng đứng trước mâm lễ cúi lậy ba lần, người phụ
giúp sẽ đánh một hồi chiêng trống để dân làng đứng trước cây nêu và mâm cúng
để cúng vái theo. Thầy cúng sẽ bắt đầu đọc lời mời các vị thần về thưởng thức lễ
vật của dân làng, dân chúng phù hộ cho một năm hứa hẹn nhiều điều an lành. Nội
dung bài cúng cầu mong cho lúa tốt như cỏ lau, cỏ lác, hạt to như quả đác không
có sâu cắn phá, trâu lợn đầy đàn, gà vịt đầy sân, người người khỏe mạnh. 3.3. Phần hội
Sau nghi thức cúng lại mâm lễ, thầy cúng sẽ tung còn 3 lần tượng trưng, tiếp
đó chuyển quả còn cho thanh niên nam nữ cùng nhau chung vui trong trò chơi
ném còn. Có 3 cách chơi còn được lưu truyền đó là còn vòng, còn xai, còn xốm.
Còn xai là nam nữ đứng chia thành 2 bên một bên tung còn, một bên ném còn,
tung qua tung lại. Nếu ai bắt trượt mà để còn rơi xuống đất thì người đó sẽ tặng
vật cho người tung còn. Nó giống như một sợi dây tình cảm truyền từ tay người
này, đến tay người khác. Còn xốm là hình thức chơi đứng vòng tròn, xen kẽ một
nam, một nữ, người chơi bắt buộc phải tung theo thứ tự vòng tròn, ai cũng được
chơi một cách bình đẳng. Còn còn vòng là hình thức tự do ném còn. Ai ném qua
vòng tròn thủng giấy dán sẽ được phần thưởng đôi chén rượu, kèm theo những
lời chúc tốt đẹp, may mắn.
Sau ném còn là hoạt động đi cày và cày nghi lễ. Các con trâu được chọn
tham gia là những con đực to khỏe và thạo cày bừa. Khi kéo cày là hình thức để
người dân quan sát, dự báo một mùa sản xuất, thu hoạch có thuận lợi hay không.
Song song với việc đi cày là phần chơi kéo co, mở đầu là kéo nghi lễ, mọi người
chia làm hai bên nam và nữ. Nữ ở phía thượng nguồn đầu suối, nam ở phía hạ
nguồn, kéo nghi lễ có ba kèo, kèo thứ nhất nữ thắng, kèo thứ hai nam thắng, kèo
thứ ba nữ thắng, chung cuộc nữ thắng với quan niệm phụ nữ là đại diện cho nguồn
nước, nguồn sữa không bao giờ cạn, cung cấp cho hoạt động canh tác lúa nước,
cho chăn nuôi của con người. Nữ thắng cũng đồng nghĩa với mọi việc, mọi điều
sẽ thuận buồm xuôi gió. Sau phần kéo nghi lễ, mọi người đến dự hội đều có thể tham gia, chung vui.
Phần thu hút mọi người nhất chính là phần biểu diễn múa xòe. Khi khai hội,
các người già trong làng sẽ múa xòe quanh cây nêu, tiếp theo đó là mọi người đến
với hội tham gia vòng xòe dưới chân cột trước cây nêu. Người Tày có quan niệm
không xòe thì cây không ra ngô, bắp không trổ bông vậy nên phải xòe cho cây
lúa đơm bông, kết trái, xòe cho mọi nhà thóc đầy vồ, gạo đầy chum. Sau phần lOMoAR cPSD| 61463864
múa xòe cũng là thời điểm lộc của mâm lễ chung sẽ được phân phát cho mọi
người đến dự hội cùng hưởng lấy may. Quanh khu vực tổ chức lễ hội diễn ra nhiều
trò chơi dân gian truyền thống thu hút nhiều người tham dự như: đẩy gậy, cướp
cờ, đi cà kheo, chọi gà, thi đan giỏ,… mỗi trò chơi đều có giải thưởng mang tính
chất động viên, may mắn đầu năm. Vì vậy tùy theo khả năng của mỗi người đến
dự hội mà họ tham gia những nội dung cho phù hợp để cầu may. Nhiều gia đình
còn tổ chức sinh hoạt ẩm thực và mời khách tham gia. Chiều và đêm hôm đó vẫn
diễn ra nhiều hoạt động khác tại cộng đồng.
CHƯƠNG 3: GIÁ TRỊ, BIẾN ĐỔI HIỆN NAY VÀ MỘT SỐ ĐỀ XUẤT
NHẰM PHÁT HUY GIÁ TRỊ VĂN HÓA CỦA LỄ HỘI LỒNG TỒNG
1. Giá trị văn hóa của lễ hội
Lễ hội Lồng Tồng là nơi để người dân thư giãn, nghỉ ngơi sau một năm vất
vả cày bừa, bỏ phía sau sự lo toan, mệt mỏi trong cuộc sống để hòa mình vào
không khí nhộn nhịp, vui tươi mà lễ hội đem lại. Lễ hội là nét riêng biệt của tộc
người Tày so với các tộc người khác cùng sinh sống. Sự giao thoa văn hóa, gắn
bó, giúp đỡ lẫn nhau từ các cộng đồng dân cư ở làng, xã và các khu vực lân cận.
Mang những đặc thù tín ngưỡng tâm linh đối với nghề làm nông. Lễ hội Lồng
Tồng thật sự rất quan trong với nền văn hóa của tộc người Tày bởi do đây là lễ
hội lớn nhất trong năm, không thể không tổ chức, có vai trò rất lớn đối với quá
trình sinh hoạt cho cả một năm kế tiếp. Không những vậy còn thể hiện sự hy vọng
của người dân về một năm mùa màng tươi tốt, gia đình ấm no, đủ đầy. Khi khoa
học công nghệ còn chưa phát triển thì sự tôn thờ, tin tưởng của con người dành
hết cho các vị thần của thiên nhiên và đấng tối cao. Ngoài ra, lễ hội Lồng Tồng
còn là lễ hội quí báu được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác nhằm lưu giữ,
bảo tồn những phát trị truyền thống văn hóa tốt đẹp của người Tày.
2. Biến đổi hiện nay của lễ hội
Dưới tác động của những yếu tố phát triển và hội nhập hóa, các lễ hội truyền
thống đã xảy ra nhiều biến đổi so với ngày trước. Lễ hội Lồng Tồng hiện nay của
người Tày được rút ngắn về thời gian tổ chức xuống còn 1 ngày so với 3 ngày
như trước đây. Ở phần lễ các yếu tố thiêng, các qui mô về không gian bị cắt giảm,
thường được tổ chức theo làng, xã nhưng ngày nay đã thành lễ hội của cả một
vùng, tỉnh. Các nghi lễ cầu may không còn được hăng hái, phấn khởi nữa mà mọi
người chỉ muốn cướp lại lễ vật thiêng liêng ấy coi như là mình đã lấy được lộc,
sự may mắn. Các trò chơi dân gian, truyền thống cũng bị lấn át bởi những trò
chơi, hoạt động mới mang tính thương mại. Tuy nhiên đối tượng đến lễ hội cũng
ngày càng được mở rộng, không còn là cư dân trong làng, xã nữa mà thêm cả các lOMoAR cPSD| 61463864
thành phần dân tộc khác nhau và thu hút được nhiều khách tham quan, du lịch
trong và ngoài nước. Bởi vậy mà những thành phần xấu mang tệ nạn xã hội và
các nhà kinh doanh dịch vụ bị vấn đề kinh tế làm mờ đi những giá trị văn hóa đặc
sắc cần được tôn vinh mà đã tăng giá sản phảm tiêu dùng cho người dân cũng như
khách du lịch. Sự nới lỏng trong công tác quản lí đã làm giảm tính trang nghiêm
mà lễ hội nên có. Do đó những giá trị văn hóa mà Lễ hội Lồng Tồng bị biến dạng
cùng nhiều lễ hội “mất thiêng” do sự biến đổi này.
3. Một số đề xuất nhằm phát huy giá trị văn hóa của lễ hội
Trước những phát triển của xã hội ngày nay, để đảm bảo tính hiệu quả trong
lễ hội tâm linh, việc bảo tồn và phát huy những giá trị, sắc thái văn hóa cần có sự
can thiệp của ban quan lý làng, xã, đăng ký ngày tổ chức lễ hội với ban cấp cao
lãnh đạo tỉnh, thành và đặc biệt chính là ý thức của người tham gia. Khích lệ sự
sáng tạo những hoạt động mới dựa trên tính truyền thống và tính hiện đại ngày
nay để làm tăng sức hấp dẫn nhưng vẫn phải đáp ứng đủ nhu cầu về văn hóa, lễ
hội của tộc người Tày. Cần sự đầu tư từ các cấp chính quyền, sử dụng nguồn lợi
nhuận thu được từ lễ hội một cách hiệu quả để có thể bảo tồn, phát huy hết giá trị
văn hóa mà lễ hội đem lại. Đưa ra những biện pháp nhằm quảng bá, tuyên truyền
hình ảnh các nghi lễ, hoạt động trong lễ hội để giữ gìn văn hóa truyền thống vốn
có. Trao cho thế hệ trẻ những công việc cần thiết để chuẩn bị lễ hội, cho họ thấy
tầm quan trọng của lễ hội truyền thống của một tộc người. Khai thác lễ hội song
hành với các hoạt động du lịch là góp phần bảo tồn nét đẹp truyền thống của lễ
hội, tổ chức những chương trình văn hóa du lịch lễ hội để trải nghiệm như một
người dân bản địa thật thụ. Trước khi tham gia lễ hội Lồng Tồng thì cần phải tìm
hiểu kỹ về lễ hội để tránh có những hành động phản cảm, gây mất thiện cảm đối
với người dân tộc Tày. KẾT LUẬN
Giống như lễ hội Chùa Hương của dân tộc Kinh thì lễ hội Lồng Tồng cũng
là một trong những hoạt động văn hóa truyền thống lớn nhất của tộc người Tày.
Lễ hội Lồng Tồng là nét đẹp văn hóa giàu giá trị nhân văn mang trong mình đầy
đủ những nghi lễ cúng tế các vị thần nông nghiệp, tín ngưỡng tâm linh, hoạt động
đa dạng các loại hình vui chơi, thưởng thức. Việc tìm hiểu về lễ hội của một dân
tộc thiểu số giúp chúng ta có cái nhìn toàn diện lối sống, văn hóa, con người chứ
không chỉ đơn giản là một hoạt động đơn thuần.
Có thể nói lễ hội Lồng Tồng hàm chứa nhiều lớp trầm tích văn hóa truyền
thống của người Tày nói riêng và của cả nền văn hóa truyền thống lễ hội đắc sắc
của đất nước Việt Nam nói chung. Trong đó, điển hình và nổi bật nhất là tín lOMoAR cPSD| 61463864
ngưỡng thờ các vị thần nông nghiệp cùng với những ước nguyện của con người
cầu mong cho cuộc sống một sự bình an, no đủ, hạnh phúc. Đồng thời nó cũng
hàm chứa dày đặc các giá trị văn hóa nghệ thuật dân gian, dân ca, dân vũ, trò chơi
đồng giao, thể thao, cùng với các món ăn truyền thống đặc trưng của con người
nơi đây. Lễ hội Lồng Tồng sẽ luôn là điểm tựa tinh thần, là động lực thúc đẩy cho
mỗi người dân tộc Tày trong quá trình giữ gìn, bảo tồn và phát huy sắc thái văn
hóa truyền thống của dân tộc một cách trọn vẹn nhất. Không chỉ riêng dân tộc
Tày mà mỗi người dân trên mảnh đất hình chữ S đều có trách nhiệm gìn giữ, bảo
tồn và phát triển lễ hội truyền thống, song song với đó là bảo vệ một nền văn hóa
mang đậm nét riêng của con người Việt Nam.
Du lịch văn hóa đã đóng vai trò to lớn trong việc kết nối khách du lịch đến
với những thế giới của người dân tộc Tày. Vừa tăng sự hiểu biết của mọi người
đến với lễ hội, vừa tăng trưởng hoạt động kinh tế của người dân địa phương.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH Nguồn tài liệu internet:
1. Báo dân tộc miền núi: https://dantocmiennui.vn/dac-sac-le-hoi-
longtong-cua-nguoi-tay/118610.html
2. Cổng thông tin điện tử tỉnh:
https://tuyenquang.gov.vn/noidung/tintuc/Pages/chi-tiet-tin-tuc.aspx? ItemID=22&l=Dukhach
3. Các video trên youtube liên quan đến lễ hội PHỤ LỤC ẢNH
Thầy mo làm lễ cúng thần linh lOMoAR cPSD| 61463864 Đưa rước lễ vật
Kéo trâu cày ruộng đầu năm Trò chơi ném còn vòng Trò chơi kéo co lOMoAR cPSD| 61463864 Múa xòe đầu năm