lOMoARcPSD| 61463864
1. Trình bày cảm nhận của em về những đặc sắc văn hoá người Tày, Nùng trong
sáng tác của nhà tY Phương
Cùng với cảnh sắc thiên nhiên quê hương, những trang thơ tản văn của Y
Phương luôn ngồn ngộn chất liệu bản sắc văn hóa dân tộc Tày, được thể hiện qua
các phong tục, tập quán dân tộc. Trong hai tập tản văn “Kungfu người Co Xàu” và
“Tháng Giêng-tháng Giêng một vòng dao quắm”, Y Phương đã bám sát những vấn
đề thiết yếu của đời sống. Đó là những lát cắt muôn màu về đời sống, sinh hoạt,
phong tục tập quán, ngôn ngữ… của con người vùng cao đậm bản sắc dân tộc. Chất
Tày được bộc lộ độc đáo trong trải nghiệm cuộc đời, ở một tầng vỉa làm lộ dần tầm
cao và chiều sâu văn hóa. Ông hiểu hơn ai hết văn hóa là sức mạnh nội sinh, là cội
nguồn giá trị của làng Tày “Vách nhà ken câu hát”. Bởi vậy, ông chăm chút những
sinh hoạt thường ngày ở ngôi làng Tày với những phong tục tập quán truyền thống
của ma chay, cưới xin… Đó cảnh rước dâu độc đáo của người Tày “Cảnh rước
dâu bằng đôi chân pằm pặp của đoàn người đi bộ. Cảnh gồng gồng gánh gánh, bánh
dày tròn, bánh chưng vuông với chú lợn cưới. Chú lợn cưới cười không nhìn thấy
mắt. cứ ti lờn lợt... Cả đám quà cưới cồng kềnh xanh đỏ theo dâu về nhà
chồng” (Áo tân thời bước vào võng cửa).
Tản văn của Y Phương như “mảnh hồn làng” mang bao nỗi háo hức, bận rộn
của “Tết tháng Giêng hẹn từ tháng Bảy”. Thế nên “từ sau rằm tháng Bảy, gói
bánh gai chưa kịp héo, họ đã lên kế hoạch cho từng tháng... Tháng Chín, tháng Mười
vào rừng kiếm củi, đun nồi bánh chưng, cất rượu gạo. Tháng Một (tháng 11 âm
lịch) bện rơm lót giường, làm ghế cho khách ngồi. Tháng Chạp muối cỏ khô, rơm
khô dành cho trâu ăn…” (Tết cả), trong đó l“pây tái” i lễ bố mẹ vợ) rất
độc đáo vùng văn hóa Tày “Các chàng rể phải sắm đôi vịt béo để mang đến nhà,
biếu ông bà ngoại” (Tết Slip Sli thịt vịt).
Trong đám cưới người Tày, Nùng tục nhà chồng phải dâng cho mẹ vợ tấm
vải dài hai mét gọi là vải "Rằm khấư" (vải ướt khô) tỏ lòng ơn công mẹ sinh thành
và khi người mẹ quá cố trong lễ tang có bài ca “Thập nguyệt hoài thai”, kể về công
lao của người mẹ trong đó có câu: "Mẹ mang thai như mang cỗ quan tài đặt đầu
giường...). Để đứa con người mẹ sẵn sàng đối mặt với sinh tử. Những tập quán
đó cảm hứng để Y Phương viết “Trường ca chín tháng”, Y Phương đã thổi vào
tác phẩm chất phóng khoáng và mạnh mẽ của người đàn ông miền núi, sự nhân ái,
vĩ đại và thầm lặng của những người mẹ hết lòng vì con cái: "Đặt con ngủ chỗ khô,
mẹ nằm chỗ ướt/Chỗ ướt sinh ra mẹ lần hai...".
Nét phong tục tập quán người Tày, Nùng còn thể hiện thông qua nghi lễ cúng
tổ tiên trong bài “Người người”. Nghi lễ mừng cháu nhỏ được tròn tháng tuổi: "Ngày
đầy tháng/Ba mâm hương bày ra/Bày mâm đèn đặt tới/Cỗ bàn lao xao khói... Cờ
phướn tung bay đón/Mời bố trời đặt tên..." (Chín tháng).
Y Phương đã cảm từ hồn dân tộc mình thông qua phong tục, thông qua lời ca, tiếng
nói, quy luật của tự nhiên để thể hiện tác phẩm, nên đọc thơ Y Phương người ta có
thể hình dung được ít nhiều nét riêng biệt của phong tục người Tày, Nùng.
Hình ảnh con người cuộc sống miền núi được Y Phương khắc họa trong các
tác phẩm nét đặc trưng riêng biệt. Đó người đàn ông, phụ nữ miền núi lành,
hiền, ít nói, sống nghĩa, có tình nhưng lại là những người nghị lực, vượt qua
bao gian lao để bảo vệ đất nước và hạnh phúc gia đình… Như chàng trai Quế trong
lOMoARcPSD| 61463864
bài “Bài ca thứ hai”, “Những đứa con của đá” hoặc người phụ nữ Tày trong bài “Em
- cơn mưa rào - ngọn lửa”.
Tài liệu tham khảo: https://baocaobang.vn/-
34968.html
https://baodantoc.vn/nha-tho-y-phuong-bao-ton-van-hoa-tay-qua-tan-van-va-
thi-ca-10123.htm file:///Users/phamthiyennhi/Documents/82077-
%C4%90ie%CC%82%CC
%80u%20va%CC%86n%20ba%CC%89n-188071-1-10-20230728.pdf
2. Mục từ:
a. Bánh trứng kiến
Bánh trứng kiến món ăn truyền thống lâu đời của người Tày. Bánh trứng
kiến (tiếng Tày gọi pẻng rày). Trong dịp Tết Thanh minh, bánh phải trong mâm
cỗ để cúng tổ tiên. Mỗi năm, người Tày chỉ làm bánh trứng kiến vào tháng tháng 3
tháng 4 Âm lịch nguyên liệu chính trứng kiến đen chỉ vào mùa này.
Chúng thường làm tổ trên các loại cây như vầu, nứa, găng, xoan.
Trứng kiến để làm bánh chỉ dùng trứng của loại kiến đen thân nhỏ, đuôi
nhọn và thường làm tổ trên cây vầu, sau sau. Trứng kiến ở những tổ này thường có
màu trắng sữa, to bằng hạt gạo, rất mẩy, béo và có hàm lượng đạm cao, có nhiều ở
vùng đồi đất thấp, chỗ nhiều măng nứa. Lấy trứng kiến đen phải chọn ngày nắng,
khô ráo để trứng không bị dính bùn đất, kiến không bị bết vào trứng.
Những nguyên liệu chính để tạo nên món bánh trứng kiến thơm ngon đó là
bột nếp, trứng kiến cùng lá non của cây vả. Cách làm không quá cầu kỳ, nhưng
muốn bánh được ngon cần phải có sự khéo léo, đặc biệt là chọn được trứng kiến
ngon.
Trứng kiến sau khi lấy từ rừng về đem đi rửa sạch bụi bẩn, rồi phi thơm với
hành khô, thêm một ít kiệu củ kiệu xắt nhỏ cho tới khi chín. Phần nhân bánh
thể gia giảm thêm chút thịt heo băm nhuyễn, đậu phộng rang gnhỏ để ng
hương vị.
Phần vỏ bánh được làm bằng gạo nếp nương đã được xay thành bột, nhào nặn
cho tới khi độ dẻo, mịn. Sau đó chia nhỏ, cán thành những miếng vuông bằng
lòng bàn tay, dày nửa phân. Mỗi chiếc bánh được gói bằng chiếc lá non đã tước bỏ
cuống và gân lá của cây vả.
Cuối cùng, đem bánh hấp cách thủy khoảng 45 đến 50 phút là có thể ăn được.
Bánh bảo quản ngăn mát tủ lạnh, thể sử dụng trong vài ngày, khi ăn chỉ cần mang
ra hấp lại.
Bánh khi chín màu ngả vàng, chỉ cần lột lớp lá già bên ngoài, giữ lớp lá non
bên trong, cắn một miếng đủ vả, vỏ nhân bánh. Bánh ngon nhất khi ăn nóng,
mùi thơm của lá vả nếp nương nghi ngút, vị bùi của lá, mềm dẻo của nếp nương,
béo ngọt của trứng kiến gia vđậm đà hòa quyện vào nhau, không mùi hăng
của kiến như nhiều người tưởng tượng. Tuy nhiên, thực khách bị dị ứng với các món
ăn có côn trùng không nên ăn bánh trứng kiến.
lOMoARcPSD| 61463864
Tài liệu tham khảo https://laodong.vn/du-lich/am-thuc/doc-la-dac-san-banh-trung-
kien-cao-
bang-1226746.html https://vnexpress.net/banh-trung-kien-mon-an-cuoi-xuan-cua-
nguoi-tay-
4463039.html
b. Khau nhục
Món này làm bằng thịt ba chỉ heo xếp trên bát lùm lùm nquả đồi nên gọi
khau nhục (theo tiếng địa phương khau đồi, nhục thịt). Còn tên gọi
khác nằm khau (nằm: chín nhừ, khau: đồi). nhiều cách giải thích khác
nhau nhưng hiểu đơn giản đó món thịt heo nấu nhừ. Món ăn này thường
xuất hiện trong những dịp lễ Tết, cỗ n quan trọng hoặc để đãi khách quý,
thể hiện sự hiếu khách và lòng thành kính của người Tày. Món khau nhục hấp
dẫn bởi thịt mềm, vàng đượm, ngấm đều các loại gia vị, phần bì giòn ngọt, mỡ
ngậy nhưng không ngấy. Món này ăn kèm với xôi, cơm trắng, bánh mì,... đều
rất ngon.
Khâu nhục được chế biến một cách cầu kỳ, phải có đầy đủ các loại gia vị cần
thiết, dù thiếu một thứ gia vị cũng không thành được món ăn thơm ngon, hấp
dẫn này. Nguyên liệu để làm món khâu nhục, gồm: thịt ba chỉ lợn, thịt lợn xay,
nấm hương rừng, khoai môn, rau cải muối, quả mắc mật…
Để làm món khau nhục, miếng thịt ba chỉ được cắt to chừng bàn tay, cạo rửa
sạch sẽ rồi đem luộc. Chỉ luộc vừa chín tới cho thịt săn lại. Dùng que tre nhọn
đầu xăm kỹ phần bì, xong xoa đều một lượt dấm hoặc nước cốt chanh; sau đó
ướp mắm muối, bột ngọt, để chừng vài mươi phút cho ngấm rồi đem rán trong
chảo mỡ sôi. Khi rán, phải quay mặt xuống dưới đchín vàng. Do đã
ngấm dấm chua, lớp bì nở phồng, giòn xốp. Cũng không cần phải rán kỹ quá,
chỉ cần bì nở đều, có màu vàng là được.
Thịt vớt ra, để cho nguội ráo mỡ. Bắt đầu sang phần làm khoai môn. Khoai
môn gọt vỏ, bổ dọc, thái lát dày đem chiên. Khoai chiên xong, lát nào lát nấy
thơm ngọt, sém cạnh, se vàng rất bắt mắt. Nấm hương rừng, rau cải muối
mộc nhĩ băm nhỏ, xào thơm cùng thịt lợn xay và nêm nếm gia vị. Quan trọng
nhất cho vào đó hạt mắc mật khô xay nhỏ. Thịt được thái ra từng miếng,
miếng nào miếng nấy dày dặn, to bản. Lại tẩm ướp một lần nữa với các gia vị:
gừng tươi thái nhỏ, hành tỏi bằm quả mắc mật khô giã dập. Xếp thịt
khoai vào bát. Khi xếp, phải xếp ngược miếng thịt cho phần quay xuống
nằm gọn trong lòng bát. Cứ một miếng thịt lại một miếng khoai xen nhau, xếp
cho chặt lại. Sau đó cho thêm hỗn hợp thịt xay, nấm hương lên trên. Xong
xuôi, úp một chiếc bát cỡ lớn hơn lên trên làm nắp đậy, rồi đem hấp cách thủy.
Phải hấp khá lâu, khoảng từ 6 - 8 tiếng khau nhục mới mềm nhừ.
lOMoARcPSD| 61463864
Khi lấy khau nhục từ nồi hấp ra, người nấu nhanh tay lật ngược bát lại. Mở ra:
bát khau nhục đầy ngọn, nguyên hình bát úp, những miếng thịt vàng ngậy
xen những lát khoai tím hồng. Mùi mắc mật, mùi gừng tỏi hòa quyện thơm
lừng ngào ngạt.
Khi nếm thsẽ thấy thịt ngầy ngậy, mềm nhừ. Khoai vừa bột vừa dẻo. Vừa
thơm vừa ngậy, béo không mỡ, nhừ không nát. Gắp thêm miếng nữa,
nhấp một chút ợu đưa cay, mâm cỗ càng thêm phần rôm rả. Tài liệu tham
khảo
https://baodaklak.vn/channel/3541/202012/khau-nhuc-mon-ngon-cua-
nguoitay-nung-5715930/
https://vietnam.vnanet.vn/vietnamese/long-form/khau-nhuc-cao-bang-
monngon-mang-dam-ban-sac-van-hoa-tay-370754.html#:~:text=%22Kh
%C3%A2u%20nh%E1%BB%A5c%22%20hay%20c%C3%B2n%20g
%E1%BB%8Di,mang%20%C3%BD%20ngh%C4%A9a
%20%C4%91%E1%BB%99c%20%C4%91%C3%A1o.
c. Nam phục truyền thống của người Tày
Bộ y phục của nam giới Tày gồm áo cánh 4 thân, áo đài 5 thân, khăn đội
đầu và giày vải. Chiếc áo cánh 4 thân mặc hàng ngày được may theo kiểu xẻ ngực,
cổ áo tròn, cao, không có cầu vai, tà áo xẻ cao, hàng cúc vải (7 cái) ở trước ngực
và hai túi nhỏ không nắp ở phía dưới hai vạt trước. Áo dài mặc trong dịp lễ tết, hội
hè, đám cưới có 5 thân, dài tới đầu gối, cài khuy bằng vải bên nách phải.
Quần của nam giới Tày được may kiểu chân què hoặc bổ đũng, dài tới mắt cá
chân. Phần cạp may rộng không đường luồn dải rút. Khi mặc, vấn mối về phía
trước, buộc dây vải bên trong.
Khăn đội đầu của nam giới Tày dài 2m, rộng 30cm, quấn lên đầu theo hình
chữ nhân. Mũ của nam giới may theo kiểu mũ lưỡi trai.
Nam giới ít đeo đồ trang sức, một số người đeo vòng tay bằng bạc. Đến tuổi
trưởng thành, họ thường bọc răng vàng hoặc bạc (thường là chiếc răng nanh bên
trái, hàm trên).
Tài liệu tham khảo:
Lịch sử Đảng bộ huyện Chiêm Hoá
d. Nữ phục truyền thống của người Tày
Trang phục của nữ giới phong phú đa dạng hơn nhiều. Y phục của ngiới
gồm áo ngắn 4 thân, áo dài 5 thân, váy, thắt lưng, khăn đội đầu. Áo ngắn của phụ
nữ Tày có 4 thân, cổ tròn, xẻ ngực, cài cúc, hai túi nhỏ hai vạt trước. Áo may
hẹp, hơi thắt co, ống tay áo nhỏ gần như sát với tay. Khi mặc bó khít người tôn
lOMoARcPSD| 61463864
vẻ đẹp của thân thể người phụ nữ. Áo ngắn thường mặc ở nhà, khi đi làm dùng
để mặc áo lót trong áo dài khi đi chợ hoặc tham dự các lễ hội. Vào những dịp này,
phụ nữ Tày thường mặc chiếc áo cánh lót trong bằng vải trắng.
Chiếc áo dài của nữ giới bản giống áo dài nam giới, cũng thuộc loại áo 5
thân, 5 cúc cài bên nách phải, nhưng cổ tròn, ống tay hẹp, thân hẹp hơi thắt
eo cùng với áo là váy.
Chiếc thắt lưng truyền thống của phụ nữ Tày dài khoảng 3m, rộng khoảng
30cm. Thắt lưng không phải cắt may được dệt trọn khổ bằng sợi bông nhuộm
chàm, dùng để thắt ngoài áo dài, vắt môi ra phía sau.
Phụ nTày thường đội khăn, đó loại khăn vuông, sử dụng bằng cách gập
đôi theo đường chéo rồi chít lên đầu, thắt mối về phía sau như khăn mỏ quạ của
người Việt.
Trang sức của phụ nữ Tày ng đơn giản. Xưa kia chị em thường đeo vòng cổ,
vòng tay, vòng chân và mang xà tích bằng bạc. Có người đeo khuyên tai vàng.
Vào ngày lễ cưới: dâu mặc áo cóm mặc bên trong, áo dài mặc bên ngoài
váy thêm dây thắt lưng buộc bụng, cạp đeo bắp chân. Giày dép bình thường.
Tài liệu tham khảo
Lịch sử Đảng bộ huyện Chiêm Hoá
e. Bánh khảo của người Tày
Món bánh khảo truyền thống thứ không thể thiếu được trong những ngày
Tết Nguyên đán đối với người Tày.
Người dân nơi đây thường đóng bánh khảo để dâng lên bàn thờ tổ tiên hay làm
món ăn tiếp khách đến chơi nhà. Đặc biệt bánh khảo không thể thiếu vào những dịp
quan trọng, món ăn truyền thống này cũng được dùng làm một món quà biếu người
thân, bạn bè phương xa. Hơn nữa, bánh khảo không chỉ là món ăn vặt, quà biếu
còn được người dân dùng làm lương khô. Những người đi nương rẫy thường mang
theo thứ bánh này ăn chống đói.
Để làm ra được món bánh khảo ngon đúng chuẩn, người làm bánh phải trải
qua rất nhiều công đoạn cùng những sự tmỉ khéo léo. Gạo làm bánh phải loại
nếp cái hoa vàng ngon, hạt to, không vỡ. Gạo rang đủ lửa thì mới thơm, bánh mới
ngọt. Khi rang xong, gạo được đem nghiền thành bột đem bọc vào giấy trong
khoảng 1 tuần. Đường kính hoặc đường phèn được giã mịn, trộn đều với bột nếp đã
ủ, đến khi các nguyên liệu quyện vào với nhau sàng lọc lấy phần bột mịn nhất.
Tiếp đó là công đoạn đổ bột vào khuôn, rắc lớp nhân được làm bằng lạc vừng hoặc
đậu xanh lên trên, ép chặt thành khối. Nhân bánh gồm đậu xanh được đồ chin
nhuyễn, trộn với đường, cho vào giữa 2 phần bột nếp tạo thành hương vị hấp dẫn.
Muốn bánh khảo thêm ngon, thêm bùi, nhân bánh cũng phải đủ vị được
chuẩn bị kỹ lưỡng. Nhân bánh gồm lạc, vừng thịt mỡ. Vừng hoặc lạc được
rang, giã nhỏ, thịt mỡ được luộc chín, thái hạt lựu rồi đem ướp với đường kính. Sau
lOMoARcPSD| 61463864
khi chuẩn bị xong bột nhân bánh đến khâu nén bánh. Khuôn làm bánh khảo cũng
tùy loại, thông thường khuôn được làm từ các tấm gỗ bào mượt hình chữ nhật c
40 x 60cm hoặc 40 x 40cm cao 5cm.
Người Nùng và Tày tin rằng bánh khảo tượng trưng cho đất mẹ với lớp vỏ từ
gạo nếp, còn nhân bên trong là biểu trưng cho sự hòa hợp và đoàn kết. Vị ngọt của
bánh tượng trưng cho tình yêu thương. Tổng thể chiếc bánh sự kết nối yêu thương
giữa người với người, giữa các bản làng và dân tộc với nhau. Khi thưởng thức bánh
khảo, cùng nhấp chén trà trao đổi những câu chuyện đầu xuân, sự gắn kết sẽ càng
thêm bền chặt và ấm áp.
Tài liệu tham khảo
https://dantocmiennui.vn/ngot-ngao-huong-vi-banh-khao-trang-
dinhpost354483.html
https://vov.vn/du-lich/banh-khao-huong-vi-dan-da-cua-cao-bang-833950.vov
f. Kiến trúc nhà ở truyền thống của người Tày
Đặc trưng văn hóa của người Tày được ghi nhận nhiều khía cạnh, trong
đó biểu hiện đặc trưng văn hóa ở, gắn liền với hình ảnh ngôi nsàn độc
đáo được ghi nhận, lan tỏa phát triển xuyên suốt quá trình lịch svới nhiều
giá trị cần lưu giữ và phát huy. Văn hóa ở và nhà sàn dân tộc Tày có sự gắn kết
hữu cơ. Trong giới hạn của bài sẽ không tiếp cận loại nhà đất, cũng một loại
nhà ở của dân tộc Tày.
Ngôi nhà sàn dân tộc Tày - Nùng Việt Bắc nơi sinh hoạt gia đình, cao
hơn nữa còn nơi tái tạo sức khỏe cho con người, nuôi dưỡng, tích lũy phong
tục tập quán, điểm sinh hoạt của cộng đồng dân cư trong khu vực cư trú.
Người Tày nhà sàn. Nhà sàn phổ biến kiểu nhà 3 gian 2 chái. kèo
của nhà sàn truyền thống người Tày thường kết cấu kiến trúc kèo cầu kẻ suốt
4 hàng chân cột. Các vì kèo liên kết với nhau bằng hthống xà xiên. Do nhà sàn
không tường chịu lực xung quanh nên toàn bộ sức nặng của mái được dồn
xuống hệ thống cột và tảng kê chân cột.
Trước đây hệ thống cột của nhà thường được chôn thẳng xuống đất, ngày
nay nhiều nhà dùng đá kê dưới chân cột nhưng vẫn có một cột được chôn xuống
đất. Theo quan niệm của đồng bào Tày những cột đó để giúp âm dương hòa hợp
khiến ngôi nhà được vững chắc, các thành viên trong nhà được mạnh khỏe.
Mái nhà được lợp bằng cỏ gianh hoặc lá cọ. Đây là vật liệu có thể che mưa
che nắng rất tốt lại vừa nhẹ phần mái. Nếu lợp được dày thì trong nhà rất mát và
có thể tồn tại được 5 - 10 năm.
Bộ khung mái nhà, không kể phần kèo, xuyên, gồm đòn tay, bộ dui,
mè, cạp. Trước hết đòn tay là các cây gỗ tròn thẳng và dài đặt ngang trên các b
vì kèo, có tác dụng đỡ toàn bộ hệ thống dui, mè. Khoảng cách giữa các cây đòn
lOMoARcPSD| 61463864
tay mau, thưa tùy thuộc vào yêu cầu của mái nhà, tùy thuộc vào chất lượng hệ
thống dui và chất lượng của chính chúng có chắc hay không; Dui là một loại tre
nhỏ, thường là cây vầu thẳng, dài, rải đều từ đỉnh mái nhà xuống giọt gianh, đặt
ngang trên các thanh đòn tay, đầu trên gối lên chiếc đòn nóc. Các cây vầu được
đục một lỗ thủng phần cuối của ngọn vầu, nơi đã chọn chặt hợp lí sau đó
xâu tất cả vào một cặp con sỏ bằng tre già theo lối ken vào nhau, vắt trên chiếc
nóc bằng gỗ tốt. Phần gốc của dui thả xuôi sang hai bên mái sao cho so le
giữa các cặp dui ở hai bên mái. Làm như vậy, chúng sẽ tự giằng chặt nhau ở trên
mái nhà, không thể tuột xuống được; Mè là hệ thống các cạnh trên của bếp lửa
về mùa dông, khu cửa số gian chính giữa về mùa hè. Người phụ nữ, kể cả vợ,
mẹ hay con gái hầu nchỉ ngồi cạnh phía dưới của bếp lửa vào mùa đông
hoặc ngồi khu cửa sổ cạnh sàn nước nơi đcác dụng cụ chế biến lương thực,
để quạt hòm và thông ra sân phơi.
Khi ngồi quây quần bên bếp lửa, cả nhà cũng luôn tuân theo sự sắp đặt một
cách tự giác, đã trở thành tập quán của mình: người vợ, người mẹ ngồi phía dưới,
gần chạn bát, gần đồ bếp núc đnấu cơm, con cái ngồi đùa hay đọc sách
phía trong người chồng, người cha ngồi chờ cơm ở khu trên, tranh thủ sửa sang
một vài dụng cụ lao động.
Nếu gia đình khách thì chủ khách ngồi ăn khu tiếp khách sinh
hoạt của đàn ông, còn phụ nữ thì ăn riêng ở dưới bếp.
Nhà sàn của người Tày mang bản sắc văn hóa tộc người đậm nét, là nơi
chứa đựng tình cảm, mối quan hệ thường ngày thể hiện một lối duy logic trong
đời sống. Ngôi nhà sàn thể hiện được những giá trị lâu bền về mặt kỹ thuật
nghệ thuật, cả về giá trị kinh tế lẫn ý nghĩa xã hội. Nhà sàn thực sự "là tổ ấm, là
nơi trú ngụ hàng ngày của các thành viên trong gia đình sau thời gian làm việc
vất vả, mệt nhọc. Đây còn là nơi hội tụ nguồn tình cảm ruột thịt máu mủ, là nơi
nuôi dưỡng, giáo dục thế hệ trẻ không những cho gia đình, dòng họ mà còn cho
cả xã hội".
Ngày nay ngoài nhà sàn, người Tày còn nhà đất. Nhà đất phổ biến
thường 3 gian 2 chái. Nhà ngăn thành nhiều phòng dành riêng cho nam, nữ.
Sàn gác bị thu hẹp lại trở thành gác xép là nơi để thóc lúa, hòm xiểng và những
đồ lặt vặt trong gia đình. Bàn thờ đặt đối diện với cửa chính.
Nơi tiếp khách thường ở trước bàn thờ, chỗ gần cửa chính. Bếp không còn
ở gian nhà chính nữa mà thường để ở gian đằng sau hay gian bên cạnh. Nơi ng
của các thành viên hai gian kế bên bàn thờ. Nhà được mở thêm nhiều cửa sổ
ra đằng sau, cạnh nhà hay hai bên cửa chính. Các công trình phụ như chuồng gia
súc, gia cầm được bố trí trên những khu đất xung quanh nhà.
Mặc dù, hiện nay người Tày đã nhiều thay đổi trong lối sống tập quán
nhưng việc làm nhà sàn để ở vẫn được người dân rất yêu thích. Dù rất nhiều gia
đình có làm lại nhà, có điều kiện để xây những ngôi nhà cao, kiên cố thì họ vẫn
thích được làm nhà sàn để ở. Bởi vì thói quen từ xưa đến nay ở nhà sàn tạo cho
lOMoARcPSD| 61463864
họ cảm giác quen thuộc cũng như sự tiện lợi và thoáng mát, thuận tiện cho việc
nghỉ ngơi, đi lại và sinh hoạt hằng ngày.
Tài liệu tham khảo: Lịch sử đảng bộ huyện Chiêm Hoá
g. Hát then
Hát Then đàn Tính bắt nguồn từ cuộc sống lao động của người Tày cổ. Theo
quan niệm dân gian, Then nghĩa Thiên, Thiên tức “trời”, được coi điệu
hát của thần tiên truyền lại. Hát then đàn tính mang tính chất lễ và hội, ngoài yếu tố
tâm linh là để cầu mùa, chúc phúc, then tính còn giải trí, giãi bày nỗi lòng, thể hiện
tình yêu đôi lứa, ca ngợi quê hương bản làng, lao động sản xuất. Trong đời sống của
người Tày, Nùng, Thái cổ xưa, hát then thường được xuất hiện trong những sự kiện
trọng đại như: Lễ cầu an, cầu mùa… Người hát then trong những dịp lễ, tết người
đại diện cho cộng đồng giao tiếp với thần linh, cầu cho mùa màng tươi tốt, bội thu,
đời sống ấm no, hạnh phúc.
Hát Then theo lịch sử được cho là đã xuất hiện từ thế kỷ 15-16, khi triều đình
nhà Mạc xảy ra biến cố chạy lên Cao Bằng để xây dựng thành quách. Trong số
các quan viên có Đệ Phụng và Đế Đáng có niềm đam với âm nhạc, ca hát chính
vì vậy đã lập ra các tính tẩu là tiền đề cho hát Then sau này.
Sau khi triều đình nhà Mạc tan ra dân chúng Cao Bằng các tỉnh lân cận đã
học theo lưu truyền để hát Then ngày nay. Loại hình nghệ thuật cũng trở thành
món ăn tinh thần không thể thiếu của các đồng bài dân tộc, gắn liền với sự phát triển
của các tín ngưỡng thờ cúng thần linh và tổ tiên và các dịp lễ hội như hội làng, cầu
đảo của gia đình, dòng họ, trừ tà,…
Trong quá trình phát triển, Hát Then đã trải qua nhiều biến đổi, từ việc là một
nghi lễ tôn giáo trở thành một loại hình nghệ thuật biểu diễn phổ biến trong các lễ
hội văn hóa. Các nghệ nhân hát Then ngày nay không chỉ duy trì các nghi lễ truyền
thống mà còn sáng tạo, đưa vào các yếu tố mới, phù hợp với bối cảnh hiện đại.
Hình thức biểu diễn Hát Then mang tính chất truyền thống, kết hợp giữa âm
nhạc, lời ca và diễn xuất. Các nghệ sĩ Then hay còn được gọi là thầy Then là người
dẫn dắt buổi lễ hoặc buổi biểu diễn họ là người diễn chính. Thầy Then thường đóng
vai trò như một người trung gian giữa thế giới con người và tâm linh. Họ thường
những người uy tín trong cộng đồng, hiểu biết sâu rộng về các nghi lễ tôn giáo
văn hóa dân gian. Thầy Then vừa người hát chính vừa người chơi nhạc cụ
lOMoARcPSD| 61463864
truyền thống như kèn, trống, đàn gáo được thể hiện qua giọng hát đặc trưng và
giai điệu đa dạng.
Bên cạnh thầy Then, còn có một nhóm người phụ họa, thường là những người
cùng dân tộc, hỗ trợ hát tham gia diễn xuất. Họ thđóng vai trò các nhân
vật trong câu chuyện, hoặc đơn giản tạo thêm sức sống cho buổi biểu diễn qua
các động tác múa và lời ca.
Trong buổi hát Then người biểu diễn sẽ dùng các nhạc cụ đa dạng như đàn
tính, chùm xóc nhạc, quạt, thể âm dương và kiếm. Đàn tính: Đây là nhạc cụ chính
trong hát Then, có ba dây cần đàn dài. Đàn tính được sử dụng để tạo nền nhạc,
đồng thời cũng được dùng để nhấn mạnh những đoạn quan trọng trong câu hát. Đây
được xem là hồn cốt trong nghệ thuật hát Then, được dùng để thay lời muốn nói để
bày tỏ mong muốn với thần linh, ông trời. Các nhạc cụ khác: Chùm xóc nhạc, quạt,
thể âm dương kiếm cũng thường được sử dụng để tạo thêm âm sắc phong phú
cho buổi biểu diễn.
Trang phục hát Then có nhiều loại đa dạng hơn như các chàng trai cô gái Tày
trong bộ áo chàm, váy hoặc sử dung các trang phục truyền thống. Người biểu
diễn hát then thường mặc trang phục truyền thống của người Tày, Nùng, bao gồm
áo dài, váy, khăn đội đầu. Trang phục thường có màu sắc trang nhã, thể hiện tính
trang nghiêm và tôn kính đối với các vị thần linh.
Nam giới: Áo tứ thân xẻ ngực, cổ tròn cao, không cầu vai, xẻ tà và cài cúc vải,
có hai túi nhỏ phía trước. Người Nùng thì mặc áo chàm.
Nữ giới: Áo cánh, áo dài năm thân, quần váy, thắt lưng, khăn đội đầu hài vải.
“Hát then đàn tính của người Tày - Nùng đã gắn bó, đi vào đời sống tinh thần
của dân tộc Tày - Nùng từ lâu đời và đến nay vẫn được gìn giữ. Sau những ngày lao
động sản xuất được ngồi cùng nhau, cầm cây đàn tính, cùng hát then sẽ cảm thấy
quên hết mệt mỏi, ưu phiền, thấy cuộc sống tươi đẹp và ý nghĩa hơn. Đặc biệt,
từ khi hát then đàn tính được công nhận Di sản văn hóa phi vật thể, những người
yêu then tính càng cảm thấy mình có trách nhiệm hơn để cùng nhau gìn giữ và phát
huy Di sản quý báu của dân tộc mình mãi mãi cho muôn đời sau”.
Hát Then thường gắn liền với các nghi lễ cầu phúc, trừ tà, hay các nghi lễ tạ
ơn tổ tiên thần linh. Qua các buổi Hát Then, thầy Then thể giao tiếp với thế
giới thần linh, cầu xin sự bảo trợ phù hộ cho cộng đồng. Hát Then do đó trở thành
lOMoARcPSD| 61463864
một hình thức thờ cúng giao tiếp với các vị thần, tổ tiên. Thông qua các bài hát
Then để thể hiện lòng kính trọng, tôn sùng đối với thế giới tâm linh.
Tài liệu tham khảo:
https://haoquanggroup.com/hat-then-la-gi-nguon-goc-va-dac-diem-cua-hat-then/?
srsltid=AfmBOooE9ex-l91L7ELOxw9SjIla-H7GT3A-xchfTHeliCxUC1L9Ax4m
https://langvanhoavietnam.vn/vi/news/2/detail/1596/net-dep-trong-giai-dieu-
thencua-dan-toc-tay-nung-thai.aspx
h. Lễ hội Lồng Tồng
Lễ hội Lồng Tông ở Chiêm Hoá được tổ chức vào mồng 8 tháng Giêng âm
lịch hằng năm, với mong ước cầu cho quốc thái, dân an, nhà nhà yên vui hạnh
phúc; mưa thuận, gió hòa, mùa màng bội thu.
Đây lễ hội mang tính chất nghi lnông nghiệp cổ xưa, mở đầu cho một
mùa sản xuất mới; trong lễ hội còn ltạ Thành Hoàng, Thần Nông, cầu cho
mùa màng bội thu, gia súc phát triển, con người khỏe mạnh, bản làng yên vui,
mọi người, mọi nhà ấm no, hạnh phúc…
Lễ hội được tổ chức gắn với việc thờ cúng tại đền Bách Thần - nơi hội tụ
của thiên thần (Ngọc Hoàng Thượng Đế), địa thần (Thần linh, Thổ địa, Long
Vương, Sơn thần, Thủy thần, Long mạch) nhân thần (Vua Hùng, Âu Cơ;
những người công với đất nước...được nhân dân phong thánh; những người
có công đánh giặc giữ nước, trong đó có nhân vật được thờ Ma Doãn Giảo, một
vị châu chủ đất Chiêm Hóa, quê Bản Cuống, Minh Quang, người công
đánh giặc Cờ đen, khi mất được nhân dân tôn thờ nhiều nơi, trong đó đền
Bách Thần. Ngoài ra, đền Bách thần thờ Tam Quang: Nhật (mặt trời), Nguyệt
(mặt trăng), Tinh (các vì sao) với ý nghĩa đem sự sống đến cho con người.
Bắt đầu phần lvới nghi lễ xin Thành hoàng làng mở hội, tạ Thiên Địa,
cầu Thần Nông, thần Núi, thần Suối; sau đó nghinh rước Thánh Thần, các mâm
Lễ Tồng từ đền đến sân vận động, nơi tổ chức lễ hội. Sau đó, chủ lễ, thầy cúng,
đoàn rước cùng nhân dân, du khách hướng về Đền ch Thần cúng lễ Lồng
Tông. Đoàn rước gồm đoàn múa lân, sau đó đến kiệu (người rước kiệu phải
nam thanh nữ tú); tiếp đến người cầm đao, kiếm; rồi đến các thầy cúng, Tào,
Then, Pụt; cuối cùng các cậu thanh đồng mặc quần áo đẹp, người dân mặc
lOMoARcPSD| 61463864
trang phục truyền thống của dân tộc mình với những màu sắc vô cùng sặc sỡ và
bắt mắt.
Đến sân vận động, Thầy Mo sẽ thực hiện cúng lễ bằng việc tung “lộc” cho
dân làng. “Lc” thường là hạt thóc, hạt bông, hạt đỗ xanh trộn lẫn những tờ tiền
mệnh giá 1.000 đồng, 2.000 đồng…. Tương truyền, người nào “bắt” được
những vật phẩm này sẽ gặp may mắn trong cả năm. Cuối cùng, thầy Mo sẽ đọc
các bài khấn và cầu thần Nông, thần Núi, thần Suối… những vị thần bảo hộ cho
mùa màng, sức khỏe sự bình yên của dân làng…Sau đó, Thầy cả (người cúng
chính của buổi lễ) và các thầy giúp việc làm lễ đặt mâm Tồng, tơn trời đất, cầu
sự ấm no, hạnh phúc cho mọi nhà. Cuối phần lễ nghi lễ xuống đồng (cày
ruộng) với mong muốn đường cày may mắn đầu năm sẽ mang lại dân khang, vật
thịnh, mùa màng bội thu...
Phần hội với các trò chơi dân gian như: tung còn, kéo co và các hoạt động
văn hóa, thể thao; trưng bày không gian văn hóa các dân tộc, trưng bày quả còn
khổng lồ; hội thi làm bánh giầy ngũ sắc... tạo không khí vui tươi nhân dịp xuân
mới giữa các dân tộc trên địa bàn tỉnh.
Các tchơi dân gian mang đậm dấu ấn của người dân vùng bản cao. Trong
đó, trò chơi thu hút đa số du khách nhất chính tthi ném còn. Đây cũng
một truyền thống văn hóa mang đậm bản sắc dân tộc từ lâu đời của con
đồng bào dân tộc Tày nơi đây.
Cây còn được người Tày dựng lên từ thân cây mai có chiều cao khoảng 20
m -30 m, tùy theo lựa chọn của người dân. Ngọn cây còn được uốn thành hình
vòng cung dán giấy đỏ, hồng tâm để người dân có thể tung còn vào vòng tròn
đó. Theo quan niệm của người Tày, khung còn một mặt dán giấy đỏ (biểu tượng
cho mặt trời), mặt kia dán giấy vàng (biểu tượng cho mặt trăng). Người chơi
đứng đối mặt với nhau qua cây còn, ném quả còn lọt qua vòng còn trên đỉnh cột
là thắng cuộc.
Quả còn sẽ được những người con gái trong bản, làng khâu thành, tuy nhiên
hiện nay do thời đại phát triển nên trong công tác phân công chuẩn bị mỗi thôn
sẽ cử 1 người may còn cho cả thôn để tham gia lễ hội. Quả còn to bằng nắm tay
trẻ nhỏ, được khâu bằng nhiều múi vải màu màu sắc sặc sỡ, bên trong nhồi
thóc hạt bông (thóc nuôi sống con người, bông cho sợi dệt vải) với hy vọng
mang đến một mùa màng bội thu. Quả còn có các tua vải nhiều màu trang trí và
có tác dụng định hướng trong khi bay. Tuy nhiên, hiện nay bên trong quả còn đã
được thay thế bằng cát mịn nhằm tránh làm phí đồ ăn.
lOMoARcPSD| 61463864
Khi quả còn xuyên thủng hồng tâm của vòng tròn, âm dương đã giao hoà,
cuộc sống sẽ sinh sôi, mùa màng sẽ bội thu ai ném trúng hồng tâm đầu tiên
sẽ được trao giải thưởng, được coi điềm may mắn trong cả năm, được thần
linh phù hộ. Nếu ở lễ hội nào không ai tung còn trúng vòng tròn, xuyên thủng
hồng tâm thì dân bản không vui , theo quan niệm đó điềm báo một năm mới
không thuận lợi. Đây là nét đặc sắc chỉ dân tộc Tày mới có, ... thông qua hoạt
động tung còn ngày xuân còn dịp để nam, nữ thanh niên trao gửi tâm ý với
nhau, thế nhiều đôi trai làng, gái bản đã nên duyên vợ chồng từ những dịp
tung còn trong ngày hội xuân.
Nhiều hoạt động trong lễ hội Lồng tồng như rước cờ, múa tử, đi kheo,
múa rối, chọi gà, đánh đu, múa võ, kéo co, đẩy gậy, bắn nỏ và hát then, ... ở mỗi
loại hình trò chơi dân gian này đều phản ánh sâu sắc sự tài hoa, khát vọng của
người Tày đối với c đấng siêu nhiên. Trong Lễ hội Lồng tông cổ xưa không
thể thiếu hát then, hát sli, lượn. Đêm về những câu hát theo lối đối đáp của đám
con trai, con gái để cầu mùa, chúc mừng dân bản mọi điều tốt lành. Lời hát mượt
mà, sâu lắng vừa là lời chúc mừng năm mới, vừa là lời dặn dò công việc cấy hái
của nhà nông, thể hiện tri thức dân gian về mùa vụ cả những mong ước về
một mùa màng no ấm.
Tài liệu tham khảo https://tttt.ninhbinh.gov.vn/ctmtqg-phat-trien-kt-xh-vung-
dong-bao-dan-tocthieu-so-va-mien-nui/tim-hieu-le-hoi-long-tong-cua-dan-toc-
tay-3957.html
i. Quan niệm về vũ trụ của người Tày
Người Tày quan niệm trụ có 3 thế giới lớn: Trời, đất và nước. thế giới
tầng trời mỗi ngày dài bằng một năm. Theo quan niệm của đồng bào con người
mặt đất sống gần gũi với con người tầng trời hơn với người thế giới
nước. Có thể du ngoạn đưa hồn người trần theo chim én lên thăm cảnh tiên.
Từ mặt đất cũng đường xuống dưới nước, nhưng muốn xuống phải
người ở dưới nước ban phép hoặc mách bảo bí quyết.
Ngoài ra, người Tày còn phân biệt hai thế giới thế giới thực của con người
và thế giới vô hình của thần thánh, ma quỷ hay còn gọi là xứ người, xứ ma. Cõi
người có kẻ tốt người xấu và cõi ma cũng vậy. Các ma lành là tổ tiên, thổ công,
ma bếp, ma chuồng, thần nông, mẹ hoa. Ma dữ là ma chết bất đắc kỳ tử, ma chết
yểu thường gây hoạ. Các ma lành đôi khi cũng gây khó khăn cản trở cho con
người nên phải cúng.
lOMoARcPSD| 61463864
Ma thuật: Trước đây trong dân gian người Tày cho rằng co những người
nhờ tu luyện hoặc do khả năng đặc biệt nào đó mà có thể điều khiển các loại ma
hoặc tự mình ma lực. Đó là “bùa”, ma thuật. Theo đồng bào muốn yểm bùa
được phải học và không phải ai cũng có thể làm được.
Thể xác và linh hồn: Người Tày ở Thái Nguyên cho rằng con người có hai
phần là phần xác và phần hồn. Phần xác có hình khối, có thể nhìn thấy bằng các
giác quan. Phần hồn là phần vô hình con người không nhìn thấy được. Phần hồn
của nam 7 khoắn (vía theo cách gọi của người Kinh), nữ 9 khoắn. Các
khoẳn thường liền với xác, khi người chết các khoắn lìa hẳn khỏi xác biến
thành phỉ.
Người Tày quan niệm, con người hai phần thể xác và linh hồn. Khi
một người chết đi không nghĩa là vòng đời đã kết thúc mà linh hồn của người
chết sẽ chuyển hóa từ vía sang ma được đưa về ba nơi:
Đưa về trời: có nghĩa là, khi còn sống người đó có thể làm rơi hồn vía của
mình ở đâu đó nên con cháu cần phải nhờ thầy cúng làm lễ thu gọi hồn vía của
người chết đưa lên trời về nơi Thiên đàng hoặc về với Ngọc Hoàng.
Đưa về bàn thờ tổ tiên: hquan niệm, mặc con người ta chết đi nhưng
hồn vía vẫn quanh quẩn trong nhà để dõi theo, giúp đỡ, bảo vlàm điểm
tựa tinh thần cho con cháu của mình trong cuộc sống.
Đưa về mồ mả (nơi chôn cất người chết): khi con người chết đi tuy thể xác
thối rữa không còn nữa nhung người Tày tin rằng hồn vía của họ vẫn còn
quyến luyến thể xác mà bám víu quanh phần mổ mả của mình.
Ngoài ra, đặc biệt đối với những người làm Thầy cúng, sau này khi chết đi
thì một phần linh hồn của họ về với tổ tiên, một phần sẽ được lên với đất Phật
Thờ cúng: Người Tày thờ cúng ma tổ tiên. Ban thờ đặt gian giữa, số
bát hương hoặc ống hương tuỳ theo gia cảnh sự thờ cúng của từng nhà. dịp lễ
tết, rằm tháng Giêng mùng Một ngày rằm gia đình lại thắp hương bày hoa quả
bánh kẹo đtưởng nhớ đến ông tổ tiên. người Tày lễ thờ cúng tổ tiên
cũng tuỳ thuộc vào các ngày lễ tết, phụ thuộc vào mùa trong năm, mỗi ngày tết
lại những sản phẩm thờ cúng đặc trưng Các ngày tết lễ hội chính trong
năm của của người Tày đó là: Tết Nguyên Đán, lễ hội Lồng Tông (xuống đồng)
vào dịp mùa xuân đầu năm mới, 30 tháng giêng ăn “đắp nói” quy như tết
nguyên đán. Tết Thanh Minh mùng 3 tháng 3 (làm bánh trôi, bánh chay, bánh
trứng kiến), Tết Đoan Ngọ mồng 5 tháng 5 (làm cơm đỏ, cơm tím, bánh lẳng),
tết rằm tháng bảy ngày lễ lớn nhất trong năm đối với người Tày (làm bánh
mật, bánh gai, bánh dợm, bánh chưng), Tháng 10 ăn mừng lúa mới.... và một số
loại hoa quả để thờ cúng tổ tiên. Đặc biệt cứ mỗi khi năm hết tết đến, mọi gia
đình đều làm lễ mời tổ tiên về ăn tết cùng con cháu; chân hương được thay mới,
đồ thờ được lau chùi sạch sẽ. Đêm giao thừa mọi gia đình người Tày đều làm
mâm lễ cúng gia tiên và hai bên của bàn thờ tổ tiên sẽ đặt hai cây mía với ngụ ý
xua đuổi những ma xui xẻo khỏi gia đình và cũng đồng thời tỏ lòng thành kính,
lOMoARcPSD| 61463864
biết ơn đối với ttiên. Bên cạnh đó, vào các dịp đặc biệt trong năm như: gia đình
đám ma, cưới xin, cúng mát nhà đầu năm, cúng giải hạn cuối năm, gia đình
có thêm thành viên,... cũng đều cần phải thắp hương để báo cáo với tổ tiên.
Cũng như nhiều dân tộc khác, người y còn quan niệm phổ biến là "vạn
vật hữu linh", bắt nguồn từ sự nhận thức có hạn "bất khả tri" của con người với
thế giới, vũ trbao la. Vì thế, người Tày còn thờ cúng ngoài nhà hay thắp hương
trước cửa chuồng gia súc để tạ lễ thần trông coi gia súc.
Xung quanh nhà xa hơn nữa tiếp cận với thế giới tự nhiên, những nơi
cây cổ thụ cao lớn tỏa bóng mát quanh năm, chim chóc về trú ngụ, người dừng
chân nghỉ ngơi, “hồn vía” cũng chọn làm nơi nương tựa, thế, người Tày lập
miếu thờ thần cây. Đó nơi họ chọn để đặt thổ công, thành hoàng làng, nếu
vùng đất bằng, bên cạnh cây cao bóng mát xum xuê, có nguồn nước và các điều
kiện khác đủ để sinh sống sẽ nhiều gia đình đến quần tụ tạo thành làng bản.
Trong điều kiện tự nhiên phức tạp, bạt ngàn núi đá xen núi đất như thể bàn
tay tạo hóa làm nên, khi gặp những tảng đá lớn đứng trơ trọi hoặc nứt nẻ vỡ đôi
hay nhẵn thín, người Tày cho rằng, đá và đồi núi đều ẩn chứa thần linh trú ngụ
để có thể yên tâm nương tựa, cậy nhờ nên sinh ra tục thờ đá và thờ thần núi (sơn
thần, "phi slấn"). Mặt khác, người Tày còn thờ thổ địa, thổ công, thành hoàng
làng, thường thì bản lập miếu thờ các vị thần đó đầu làng hoặc chọn nơi đất
thiêng trong làng để lập miếu. Theo quan niệm dân gian của người Tày, các vị
thần ấy khả năng bảo vệ dân bản, giám sát kẻ xấu vào làng, trông coi mùa
màng tươi tốt... được dân làng rất quý trọng, tin tưởng và hết lòng thờ cúng.
Trong đời sống tâm linh người Tày đều chịu ảnh hưởng của tam giáo từ xa
xưa. Đó là, Nho giáo với giáo lý: lễ, nghĩa, trung, hiếu được thể hiện qua phong
cách ứng xử, giao tiếp giữa họ trong cộng đồng. Những giáo Phật giáo từ,
bi, hỷ, xả cũng được tiếp nhận, hòa quyện vào dòng chảy tín ngưỡng của bản địa
làm cho đời sống tâm linh càng thêm phong phú, đa dạng. Tại các đền, chùa,
miếu Cao Bằng, nét đặc trưng không chỉ thờ Phật còn thờ cả các nhân thần,
phúc thần những người có công với đất nước; người Tày đều ngưỡng mộ quy
thờ, biểu thị lòng nhân nghĩa "uống nước, nhớ nguồn", tri ân với các bậc tiền
nhân. Còn Đạo giáo thể hiện việc người Tày thờ nhiều thần, từ Ngọc Hoàng
đến các thần dương gian, âm phủ... có thể đuổi tà ma, yêu quái, chữa bệnh bằng
tinh thần cho con người.
thể nói, đời sống tín ngưỡng của người Tày khá đa dạng, phong phú.
Trong đó, ảnh hưởng của tam giáo đậm nét thể hiện trong các phong tục tập quán, lễ
nghi truyền thống tạo nên một dạng tín ngưỡng đặc trưng dung hòa giữa "vạn vật hữu
linh" và các thành tố: Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo. Tài liệu tham khảo:
https://baocaobang.vn/-31575.html https://bandantoc.thainguyen.gov.vn/cac-
dan-toc-tinh-thai-nguyen/-/ asset_publisher/aswschm77NYQ/content/dan-toc-
tay?
lOMoARcPSD| 61463864
inheritRedirect=true#:~:text=Ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20T%C3%A0y
%20quan%20ni%E1%BB%87m%20v%C5%A9,ng%C6%B0%E1%BB
%9Di%20%E1%BB%9F%20th%E1%BA%BF%20gi%E1%BB%9Bi%20n
%C6%B0%E1%BB%9Bc.
j. Nhà thơ Y Phương
Y Phương tên đầy đủ Hứa Vĩnh Sước (24/12/1948 09/02/2022) là một nhà
thơ, nhà văn. Ông sinh trưởng trong một gia đình dân tộc Tày được gọi “Người
trai làng Hiếu Lễ” Y Phương sinh ra tại làng Hiếu Lễ, Lăng Hiếu, huyện Trùng
Khánh, tỉnh Cao Bằng.
Cầm bút từ những năm tháng chiến tranh cho tới hôm nay, nhà thơ Y Phương
vẫn miệt mài trên cánh đồng chữ nghĩa, lao động sáng tạo không ngừng để sở hữu
một “gia tài” văn chương khá đồ sộ gồm thơ tản văn. Các tác phẩm của ông đã
góp phần đưa văn học của các DTTS đến gần hơn với độc giả, trở thành một bộ
phận không thể thiếu, đóng góp vào thành tựu chung của nền văn học Việt Nam
hiện đại.
Phần lớn văn nghiệp của Y Phương thơ song một góc nhỏ, ông giành cho
tản văn – nhưng bài tản văn nhỏ xinh đậm màu văn hóa Tày, các tác phẩm của ông
thể hiện tâm hồn chân thật, mạnh mẽ và trong sáng, cách tư duy giàu hình ảnh của
con người miền núi. Đọc các tập tản văn Tháng giêng - Tháng giêng… một vòng
dao quắm, Kungfu người Co Xàu, Fừn Nèn Củi tết của Y Phương giống như được
trải nghiệm chuyến đi băng qua vùng văn hóa Tày cực kỳ phong phú hấp dẫn.
Thấp thoáng sau những trang viết say mê, tự hào về văn hóa quê hương mình là nỗi
lo lắng mơ hồ về sự mai một, đổi thay, thậm chí là biến mất một giá trị văn hóa nào
đó. Mà sự biến mất ấy, với Y Phương, sự mất mát lớn lao không cách nào cứu
vãn. Hóa ra việc ghi chép lại những suy nghĩ tản mạn về một nét văn hóa quê mình
không đơn thuần là viết bài theo đơn đặt hàng của chuyên mục văn hóa cho một tờ
báo như nhà thơ từng chia sẻ, mà sự viết ấy thực thi trách nhiệm lưu giữ chút gì đó
văn hóa quê mình bằng ngôn ngữ. Để “mai sau dù có bao giờ…”, một góc văn hóa
Tày chỉ còn “vang bóng một thời” thì người đọc vẫn biết rằng người Tày Nùng
trên đất Cao Bằng đã từng sở hữu những nét văn hóa độc đáo.
Thơ Y Phương nặng lòng với quê hương, đất nước, cùng với cách viết hiện đại
thông minh ông viết hay về người phụ nữ vùng cao, trong thơ Y Phương chất
giọng nhẹ nhàng sâu lắng. Những tác phẩm của ông đậm chất Tày nhưng cũng kết
hợp hài hòa lối duy hiện đại tạo nên những trang thơ bình dị sâu lắng. Y
lOMoARcPSD| 61463864
Phương nói: “Muốn sống đàng hoàng như một con người, tôi nghĩ phải bám vào
văn hóa. Phải tin vào những giá trị tích cực vĩnh cửu của văn hóa. Chúng ta phải
vượt qua sự đói khổ bằng văn hóa. Chúng ta đừng viện cớ thiếu thốn khó khăn mà
đánh mất đạo đức, văn hóa. Tôi thấy, dường như giờ đây, nhiều con em các dân tộc
không mấy mặn với văn hóa truyền thống. Họ đang tự nguyện nhập ngoại, lai
căng một cách dễ dãi. Tôi ủng hộ hòa nhập nhưng không thể hòa tan”. Có lẽ cũng
chính thế mà Y Phương viết lên những tiếng gọi, những lời nhắn nhủ. Tha thiết
dặn dò thế hệ sau nhưng cũng là tự ghi khắc vào chính lòng mình. Bảo tồn và phát
huy gia trị văn hoá dân tộc không chỉ in dấu sâu đậm trong các sáng tác mà còn thể
hiện trong lối sống hàng ngày của nhà thơ. Sống giữa Thủ đô mà Y Phương vẫn có
thói quen giao tiếp với vợ con bằng tiếng Tày để giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc.
Với ông: “Người ta phải yêu tiếng mẹ đẻ cái đã. Yêu hết mình mới thơ ca. Yêu
từ tim gan bên trong xương thịt mình. Khi con tim không rung, đôi tay không buồn,
cầm cây bút sao nổi. Cầm bút không nổi lấy đâu ra thơ ca”.
lẽ vậy các tác phẩm của nhà thơ Y Phương đều mang đậm bản sắc
dân tộc rất đậm nét và độc đáo. Ông luôn tự hào là một người con của dân tộc Tày
ý thức sâu sắc về những giá trị văn hóa Tày… Vì vậy, nhiều tác phẩm của ông
đã tập trung ca ngợi nét đẹp của văn hóa truyền thống, miêu tả ngày lễ tết, giới thiệu
phong tục tập quán, tín ngưỡng dân gian, địa danh văn hóa, đặc sản vùng miền, vẻ
đẹp của cảnh sắc thiên nhiên… Trên tất cả, thơ Y Phương luôn chứa đựng tình yêu
quê hương, bản làng sâu sắc, yêu tự hào về dân tộc mình… Các tác phẩm của
ông đã góp phần làm giàu và đa dạng thêm nền cho văn học Việt Nam. Nhận xét
về các tác phẩm của Y Phương, Tiến sĩ, nhà văn Thị Bích Hồng đánh giá: “So
với các nhà văn khác, Y Phương người sử dụng tiếng Tày nhiều nhuần nhuyễn
nhất trong tác phẩm. Anh biết Tày hóa tiếng Việt trên sở thông thạo cả hai thứ
tiếng Tày và Việt. Nên tuy viết bằng tiếng Việt, nhưng sắc thái Tày vẫn thể hiện rõ.
Y Phương biệt tài dùng những tngsóng đôi vừa Việt, vừa Tày làm cho ý nghĩa
của tiếng Việt khái quát, mở rộng hơn, vượt qua ý nghĩa ban đầu bởi đã pha thêm
nghĩa của tiếng Tày, tâm hồn Tày, văn hóa Tày”.
Tài liệu tham khảo https://baodantoc.vn/nha-tho-y-phuong-bao-ton-van-hoa-
tay-qua-tan-van-va-
thi-ca-10123.htm file:///Users/phamthiyennhi/Documents/82077-
%C4%90ie%CC%82%CC
%80u%20va%CC%86n%20ba%CC%89n-188071-1-10-20230728.pdf
https://dantocmiennui.vn/nha-tho-dan-toc-y-phuong-mot-tai-nang-dac-biet-
lOMoARcPSD| 61463864
mot-nha-tho-dan-toc-doc-dao-post317060.html

Preview text:

lOMoAR cPSD| 61463864
1. Trình bày cảm nhận của em về những đặc sắc văn hoá người Tày, Nùng trong
sáng tác của nhà thơ Y Phương
Cùng với cảnh sắc thiên nhiên quê hương, những trang thơ và tản văn của Y
Phương luôn ngồn ngộn chất liệu bản sắc văn hóa dân tộc Tày, được thể hiện qua
các phong tục, tập quán dân tộc. Trong hai tập tản văn “Kungfu người Co Xàu” và
“Tháng Giêng-tháng Giêng một vòng dao quắm”, Y Phương đã bám sát những vấn
đề thiết yếu của đời sống. Đó là những lát cắt muôn màu về đời sống, sinh hoạt,
phong tục tập quán, ngôn ngữ… của con người vùng cao đậm bản sắc dân tộc. Chất
Tày được bộc lộ độc đáo trong trải nghiệm cuộc đời, ở một tầng vỉa làm lộ dần tầm
cao và chiều sâu văn hóa. Ông hiểu hơn ai hết văn hóa là sức mạnh nội sinh, là cội
nguồn giá trị của làng Tày “Vách nhà ken câu hát”. Bởi vậy, ông chăm chút những
sinh hoạt thường ngày ở ngôi làng Tày với những phong tục tập quán truyền thống
của ma chay, cưới xin… Đó là cảnh rước dâu độc đáo của người Tày “Cảnh rước
dâu bằng đôi chân pằm pặp của đoàn người đi bộ. Cảnh gồng gồng gánh gánh, bánh
dày tròn, bánh chưng vuông với chú lợn cưới. Chú lợn cưới cười không nhìn thấy
mắt. Nó cứ ti hí lờn lợt... Cả đám quà cưới cồng kềnh xanh đỏ theo cô dâu về nhà
chồng” (Áo tân thời bước vào võng cửa).
Tản văn của Y Phương như “mảnh hồn làng” mang bao nỗi háo hức, bận rộn
của “Tết tháng Giêng hẹn từ tháng Bảy”. Thế nên “từ sau rằm tháng Bảy, lá gói
bánh gai chưa kịp héo, họ đã lên kế hoạch cho từng tháng... Tháng Chín, tháng Mười
vào rừng kiếm củi, đun nồi bánh chưng, cất lô rượu gạo. Tháng Một (tháng 11 âm
lịch) bện rơm lót giường, làm ghế cho khách ngồi. Tháng Chạp ủ muối cỏ khô, rơm
khô dành cho trâu bò ăn…” (Tết cả), trong đó có lễ “pây tái” (đi lễ bố mẹ vợ) rất
độc đáo vùng văn hóa Tày “Các chàng rể phải sắm đôi vịt béo để mang đến nhà,
biếu ông bà ngoại” (Tết Slip Sli thịt vịt).
Trong đám cưới người Tày, Nùng có tục nhà chồng phải dâng cho mẹ vợ tấm
vải dài hai mét gọi là vải "Rằm khấư" (vải ướt khô) tỏ lòng ơn công mẹ sinh thành
và khi người mẹ quá cố trong lễ tang có bài ca “Thập nguyệt hoài thai”, kể về công
lao của người mẹ trong đó có câu: "Mẹ mang thai như mang cỗ quan tài đặt ở đầu
giường...). Để có đứa con người mẹ sẵn sàng đối mặt với sinh tử. Những tập quán
đó là cảm hứng để Y Phương viết “Trường ca chín tháng”, Y Phương đã thổi vào
tác phẩm chất phóng khoáng và mạnh mẽ của người đàn ông miền núi, sự nhân ái,
vĩ đại và thầm lặng của những người mẹ hết lòng vì con cái: "Đặt con ngủ chỗ khô,
mẹ nằm chỗ ướt/Chỗ ướt sinh ra mẹ lần hai...".
Nét phong tục tập quán người Tày, Nùng còn thể hiện thông qua nghi lễ cúng
tổ tiên trong bài “Người người”. Nghi lễ mừng cháu nhỏ được tròn tháng tuổi: "Ngày
đầy tháng/Ba mâm hương bày ra/Bày mâm đèn đặt tới/Cỗ bàn lao xao khói... Cờ
phướn tung bay đón/Mời bố trời đặt tên..." (Chín tháng).
Y Phương đã cảm từ hồn dân tộc mình thông qua phong tục, thông qua lời ca, tiếng
nói, quy luật của tự nhiên để thể hiện tác phẩm, nên đọc thơ Y Phương người ta có
thể hình dung được ít nhiều nét riêng biệt của phong tục người Tày, Nùng.
Hình ảnh con người và cuộc sống miền núi được Y Phương khắc họa trong các
tác phẩm có nét đặc trưng riêng biệt. Đó là người đàn ông, phụ nữ miền núi lành,
hiền, ít nói, sống có nghĩa, có tình nhưng lại là những người có nghị lực, vượt qua
bao gian lao để bảo vệ đất nước và hạnh phúc gia đình… Như chàng trai Quế trong lOMoAR cPSD| 61463864
bài “Bài ca thứ hai”, “Những đứa con của đá” hoặc người phụ nữ Tày trong bài “Em
- cơn mưa rào - ngọn lửa”.
Tài liệu tham khảo: https://baocaobang.vn/- 34968.html
https://baodantoc.vn/nha-tho-y-phuong-bao-ton-van-hoa-tay-qua-tan-van-va- thi-ca-10123.htm
file:///Users/phamthiyennhi/Documents/82077- %C4%90ie%CC%82%CC
%80u%20va%CC%86n%20ba%CC%89n-188071-1-10-20230728.pdf 2. Mục từ:
a. Bánh trứng kiến
Bánh trứng kiến là món ăn truyền thống lâu đời của người Tày. Bánh trứng
kiến (tiếng Tày gọi là pẻng rày). Trong dịp Tết Thanh minh, bánh phải có trong mâm
cỗ để cúng tổ tiên. Mỗi năm, người Tày chỉ làm bánh trứng kiến vào tháng tháng 3
và tháng 4 Âm lịch vì nguyên liệu chính là trứng kiến đen chỉ có vào mùa này.
Chúng thường làm tổ trên các loại cây như vầu, nứa, găng, xoan.
Trứng kiến để làm bánh chỉ dùng trứng của loại kiến đen có thân nhỏ, đuôi
nhọn và thường làm tổ trên cây vầu, sau sau. Trứng kiến ở những tổ này thường có
màu trắng sữa, to bằng hạt gạo, rất mẩy, béo và có hàm lượng đạm cao, có nhiều ở
vùng đồi đất thấp, chỗ nhiều măng nứa. Lấy trứng kiến đen phải chọn ngày nắng,
khô ráo để trứng không bị dính bùn đất, kiến không bị bết vào trứng.
Những nguyên liệu chính để tạo nên món bánh trứng kiến thơm ngon đó là
bột nếp, trứng kiến cùng lá non của cây vả. Cách làm không quá cầu kỳ, nhưng
muốn bánh được ngon cần phải có sự khéo léo, đặc biệt là chọn được trứng kiến ngon.
Trứng kiến sau khi lấy từ rừng về đem đi rửa sạch bụi bẩn, rồi phi thơm với
hành khô, thêm một ít lá kiệu và củ kiệu xắt nhỏ cho tới khi chín. Phần nhân bánh
có thể gia giảm thêm chút thịt heo băm nhuyễn, đậu phộng rang giã nhỏ để tăng hương vị.
Phần vỏ bánh được làm bằng gạo nếp nương đã được xay thành bột, nhào nặn
cho tới khi có độ dẻo, mịn. Sau đó chia nhỏ, cán thành những miếng vuông bằng
lòng bàn tay, dày nửa phân. Mỗi chiếc bánh được gói bằng chiếc lá non đã tước bỏ
cuống và gân lá của cây vả.
Cuối cùng, đem bánh hấp cách thủy khoảng 45 đến 50 phút là có thể ăn được.
Bánh bảo quản ngăn mát tủ lạnh, có thể sử dụng trong vài ngày, khi ăn chỉ cần mang ra hấp lại.
Bánh khi chín có màu ngả vàng, chỉ cần lột lớp lá già bên ngoài, giữ lớp lá non
bên trong, cắn một miếng có đủ lá vả, vỏ và nhân bánh. Bánh ngon nhất khi ăn nóng,
mùi thơm của lá vả và nếp nương nghi ngút, vị bùi của lá, mềm dẻo của nếp nương,
béo ngọt của trứng kiến và gia vị đậm đà hòa quyện vào nhau, không có mùi hăng
của kiến như nhiều người tưởng tượng. Tuy nhiên, thực khách bị dị ứng với các món
ăn có côn trùng không nên ăn bánh trứng kiến. lOMoAR cPSD| 61463864
Tài liệu tham khảo https://laodong.vn/du-lich/am-thuc/doc-la-dac-san-banh-trung- kien-cao-
bang-1226746.html https://vnexpress.net/banh-trung-kien-mon-an-cuoi-xuan-cua- nguoi-tay- 4463039.html b. Khau nhục
Món này làm bằng thịt ba chỉ heo xếp trên bát lùm lùm như quả đồi nên gọi là
khau nhục (theo tiếng địa phương khau là đồi, nhục là thịt). Còn có tên gọi
khác là nằm khau (nằm: chín nhừ, khau: đồi). Dù có nhiều cách giải thích khác
nhau nhưng hiểu đơn giản đó là món thịt heo nấu nhừ. Món ăn này thường
xuất hiện trong những dịp lễ Tết, cỗ bàn quan trọng hoặc để đãi khách quý,
thể hiện sự hiếu khách và lòng thành kính của người Tày. Món khau nhục hấp
dẫn bởi thịt mềm, vàng đượm, ngấm đều các loại gia vị, phần bì giòn ngọt, mỡ
ngậy nhưng không ngấy. Món này ăn kèm với xôi, cơm trắng, bánh mì,... đều rất ngon.
Khâu nhục được chế biến một cách cầu kỳ, phải có đầy đủ các loại gia vị cần
thiết, dù thiếu một thứ gia vị cũng không thành được món ăn thơm ngon, hấp
dẫn này. Nguyên liệu để làm món khâu nhục, gồm: thịt ba chỉ lợn, thịt lợn xay,
nấm hương rừng, khoai môn, rau cải muối, quả mắc mật…
Để làm món khau nhục, miếng thịt ba chỉ được cắt to chừng bàn tay, cạo rửa
sạch sẽ rồi đem luộc. Chỉ luộc vừa chín tới cho thịt săn lại. Dùng que tre nhọn
đầu xăm kỹ phần bì, xong xoa đều một lượt dấm hoặc nước cốt chanh; sau đó
ướp mắm muối, bột ngọt, để chừng vài mươi phút cho ngấm rồi đem rán trong
chảo mỡ sôi. Khi rán, phải quay mặt bì xuống dưới để bì chín vàng. Do đã
ngấm dấm chua, lớp bì nở phồng, giòn xốp. Cũng không cần phải rán kỹ quá,
chỉ cần bì nở đều, có màu vàng là được.
Thịt vớt ra, để cho nguội và ráo mỡ. Bắt đầu sang phần làm khoai môn. Khoai
môn gọt vỏ, bổ dọc, thái lát dày đem chiên. Khoai chiên xong, lát nào lát nấy
thơm ngọt, sém cạnh, se vàng rất bắt mắt. Nấm hương rừng, rau cải muối và
mộc nhĩ băm nhỏ, xào thơm cùng thịt lợn xay và nêm nếm gia vị. Quan trọng
nhất là cho vào đó hạt mắc mật khô xay nhỏ. Thịt được thái ra từng miếng,
miếng nào miếng nấy dày dặn, to bản. Lại tẩm ướp một lần nữa với các gia vị:
gừng tươi thái nhỏ, hành tỏi bằm và quả mắc mật khô giã dập. Xếp thịt và
khoai vào bát. Khi xếp, phải xếp ngược miếng thịt cho phần bì quay xuống
nằm gọn trong lòng bát. Cứ một miếng thịt lại một miếng khoai xen nhau, xếp
cho chặt lại. Sau đó cho thêm hỗn hợp thịt xay, nấm hương lên trên. Xong
xuôi, úp một chiếc bát cỡ lớn hơn lên trên làm nắp đậy, rồi đem hấp cách thủy.
Phải hấp khá lâu, khoảng từ 6 - 8 tiếng khau nhục mới mềm nhừ. lOMoAR cPSD| 61463864
Khi lấy khau nhục từ nồi hấp ra, người nấu nhanh tay lật ngược bát lại. Mở ra:
bát khau nhục đầy có ngọn, nguyên hình bát úp, những miếng thịt vàng ngậy
xen những lát khoai tím hồng. Mùi mắc mật, mùi gừng tỏi hòa quyện thơm lừng ngào ngạt.
Khi nếm thử sẽ thấy thịt ngầy ngậy, mềm nhừ. Khoai vừa bột vừa dẻo. Vừa
thơm vừa ngậy, béo mà không mỡ, nhừ mà không nát. Gắp thêm miếng nữa,
nhấp một chút rượu đưa cay, mâm cỗ càng thêm phần rôm rả. Tài liệu tham khảo
https://baodaklak.vn/channel/3541/202012/khau-nhuc-mon-ngon-cua- nguoitay-nung-5715930/
https://vietnam.vnanet.vn/vietnamese/long-form/khau-nhuc-cao-bang-
monngon-mang-dam-ban-sac-van-hoa-tay-370754.html#:~:text=%22Kh
%C3%A2u%20nh%E1%BB%A5c%22%20hay%20c%C3%B2n%20g
%E1%BB%8Di,mang%20%C3%BD%20ngh%C4%A9a
%20%C4%91%E1%BB%99c%20%C4%91%C3%A1o.
c. Nam phục truyền thống của người Tày
Bộ y phục của nam giới Tày gồm có áo cánh 4 thân, áo đài 5 thân, khăn đội
đầu và giày vải. Chiếc áo cánh 4 thân mặc hàng ngày được may theo kiểu xẻ ngực,
cổ áo tròn, cao, không có cầu vai, tà áo xẻ cao, có hàng cúc vải (7 cái) ở trước ngực
và hai túi nhỏ không nắp ở phía dưới hai vạt trước. Áo dài mặc trong dịp lễ tết, hội
hè, đám cưới có 5 thân, dài tới đầu gối, cài khuy bằng vải bên nách phải.
Quần của nam giới Tày được may kiểu chân què hoặc bổ đũng, dài tới mắt cá
chân. Phần cạp may rộng và không có đường luồn dải rút. Khi mặc, vấn mối về phía
trước, buộc dây vải bên trong.
Khăn đội đầu của nam giới Tày dài 2m, rộng 30cm, quấn lên đầu theo hình
chữ nhân. Mũ của nam giới may theo kiểu mũ lưỡi trai.
Nam giới ít đeo đồ trang sức, một số người đeo vòng tay bằng bạc. Đến tuổi
trưởng thành, họ thường bọc răng vàng hoặc bạc (thường là chiếc răng nanh bên trái, hàm trên). Tài liệu tham khảo:
Lịch sử Đảng bộ huyện Chiêm Hoá
d. Nữ phục truyền thống của người Tày
Trang phục của nữ giới phong phú và đa dạng hơn nhiều. Y phục của nữ giới
gồm áo ngắn 4 thân, áo dài 5 thân, váy, thắt lưng, khăn đội đầu. Áo ngắn của phụ
nữ Tày có 4 thân, cổ tròn, xẻ ngực, cài cúc, có hai túi nhỏ ở hai vạt trước. Áo may
hẹp, hơi thắt co, ống tay áo nhỏ gần như bó sát với tay. Khi mặc bó khít người tôn lOMoAR cPSD| 61463864
vẻ đẹp của thân thể người phụ nữ. Áo ngắn thường mặc ở nhà, khi đi làm và dùng
để mặc áo lót trong áo dài khi đi chợ hoặc tham dự các lễ hội. Vào những dịp này,
phụ nữ Tày thường mặc chiếc áo cánh lót trong bằng vải trắng.
Chiếc áo dài của nữ giới cơ bản giống áo dài nam giới, cũng thuộc loại áo 5
thân, có 5 cúc cài bên nách phải, nhưng cổ tròn, ống tay hẹp, thân hẹp và hơi thắt eo cùng với áo là váy.
Chiếc thắt lưng truyền thống của phụ nữ Tày dài khoảng 3m, rộng khoảng
30cm. Thắt lưng không phải cắt may vì được dệt trọn khổ bằng sợi bông nhuộm
chàm, dùng để thắt ngoài áo dài, vắt môi ra phía sau.
Phụ nữ Tày thường đội khăn, đó là loại khăn vuông, sử dụng bằng cách gập
đôi theo đường chéo rồi chít lên đầu, thắt mối về phía sau như khăn mỏ quạ của người Việt.
Trang sức của phụ nữ Tày cũng đơn giản. Xưa kia chị em thường đeo vòng cổ,
vòng tay, vòng chân và mang xà tích bằng bạc. Có người đeo khuyên tai vàng.
Vào ngày lễ cưới: Cô dâu mặc áo cóm mặc bên trong, áo dài mặc bên ngoài và
váy thêm dây thắt lưng buộc bụng, có sà cạp đeo ở bắp chân. Giày dép bình thường. Tài liệu tham khảo
Lịch sử Đảng bộ huyện Chiêm Hoá
e. Bánh khảo của người Tày
Món bánh khảo truyền thống là thứ không thể thiếu được trong những ngày
Tết Nguyên đán đối với người Tày.
Người dân nơi đây thường đóng bánh khảo để dâng lên bàn thờ tổ tiên hay làm
món ăn tiếp khách đến chơi nhà. Đặc biệt bánh khảo không thể thiếu vào những dịp
quan trọng, món ăn truyền thống này cũng được dùng làm một món quà biếu người
thân, bạn bè phương xa. Hơn nữa, bánh khảo không chỉ là món ăn vặt, quà biếu mà
còn được người dân dùng làm lương khô. Những người đi nương rẫy thường mang
theo thứ bánh này ăn chống đói.
Để làm ra được món bánh khảo ngon đúng chuẩn, người làm bánh phải trải
qua rất nhiều công đoạn cùng những sự tỉ mỉ khéo léo. Gạo làm bánh phải là loại
nếp cái hoa vàng ngon, hạt to, không vỡ. Gạo rang đủ lửa thì mới thơm, bánh mới
ngọt. Khi rang xong, gạo được đem nghiền thành bột và đem bọc vào giấy ủ trong
khoảng 1 tuần. Đường kính hoặc đường phèn được giã mịn, trộn đều với bột nếp đã
ủ, đến khi các nguyên liệu quyện vào với nhau và sàng lọc lấy phần bột mịn nhất.
Tiếp đó là công đoạn đổ bột vào khuôn, rắc lớp nhân được làm bằng lạc vừng hoặc
đậu xanh lên trên, ép chặt thành khối. Nhân bánh gồm đậu xanh được đồ chin
nhuyễn, trộn với đường, cho vào giữa 2 phần bột nếp tạo thành hương vị hấp dẫn.
Muốn bánh khảo thêm ngon, thêm bùi, nhân bánh cũng phải đủ vị và được
chuẩn bị kỹ lưỡng. Nhân bánh gồm có lạc, vừng và thịt mỡ. Vừng hoặc lạc được
rang, giã nhỏ, thịt mỡ được luộc chín, thái hạt lựu rồi đem ướp với đường kính. Sau lOMoAR cPSD| 61463864
khi chuẩn bị xong bột và nhân bánh đến khâu nén bánh. Khuôn làm bánh khảo cũng
tùy loại, thông thường khuôn được làm từ các tấm gỗ bào mượt có hình chữ nhật cỡ
40 x 60cm hoặc 40 x 40cm cao 5cm.
Người Nùng và Tày tin rằng bánh khảo tượng trưng cho đất mẹ với lớp vỏ từ
gạo nếp, còn nhân bên trong là biểu trưng cho sự hòa hợp và đoàn kết. Vị ngọt của
bánh tượng trưng cho tình yêu thương. Tổng thể chiếc bánh là sự kết nối yêu thương
giữa người với người, giữa các bản làng và dân tộc với nhau. Khi thưởng thức bánh
khảo, cùng nhấp chén trà và trao đổi những câu chuyện đầu xuân, sự gắn kết sẽ càng
thêm bền chặt và ấm áp. Tài liệu tham khảo
https://dantocmiennui.vn/ngot-ngao-huong-vi-banh-khao-trang- dinhpost354483.html
https://vov.vn/du-lich/banh-khao-huong-vi-dan-da-cua-cao-bang-833950.vov
f. Kiến trúc nhà ở truyền thống của người Tày
Đặc trưng văn hóa của người Tày được ghi nhận ở nhiều khía cạnh, trong
đó có biểu hiện đặc trưng là văn hóa ở, gắn liền với hình ảnh ngôi nhà sàn độc
đáo được ghi nhận, lan tỏa và phát triển xuyên suốt quá trình lịch sử với nhiều
giá trị cần lưu giữ và phát huy. Văn hóa ở và nhà sàn dân tộc Tày có sự gắn kết
hữu cơ. Trong giới hạn của bài sẽ không tiếp cận loại nhà đất, cũng là một loại
nhà ở của dân tộc Tày.
Ngôi nhà sàn dân tộc Tày - Nùng Việt Bắc là nơi sinh hoạt gia đình, cao
hơn nữa nó còn là nơi tái tạo sức khỏe cho con người, nuôi dưỡng, tích lũy phong
tục tập quán, điểm sinh hoạt của cộng đồng dân cư trong khu vực cư trú.
Người Tày ở nhà sàn. Nhà sàn phổ biến là kiểu nhà 3 gian 2 chái. Vì kèo
của nhà sàn truyền thống người Tày thường có kết cấu kiến trúc kèo cầu kẻ suốt
4 hàng chân cột. Các vì kèo liên kết với nhau bằng hệ thống xà xiên. Do nhà sàn
không có tường chịu lực xung quanh nên toàn bộ sức nặng của mái được dồn
xuống hệ thống cột và tảng kê chân cột.
Trước đây hệ thống cột của nhà thường được chôn thẳng xuống đất, ngày
nay nhiều nhà dùng đá kê dưới chân cột nhưng vẫn có một cột được chôn xuống
đất. Theo quan niệm của đồng bào Tày những cột đó để giúp âm dương hòa hợp
khiến ngôi nhà được vững chắc, các thành viên trong nhà được mạnh khỏe.
Mái nhà được lợp bằng cỏ gianh hoặc lá cọ. Đây là vật liệu có thể che mưa
che nắng rất tốt lại vừa nhẹ phần mái. Nếu lợp được dày thì trong nhà rất mát và
có thể tồn tại được 5 - 10 năm.
Bộ khung mái nhà, không kể phần kèo, xuyên, xà gồm có đòn tay, bộ dui,
mè, cạp. Trước hết đòn tay là các cây gỗ tròn thẳng và dài đặt ngang trên các bộ
vì kèo, có tác dụng đỡ toàn bộ hệ thống dui, mè. Khoảng cách giữa các cây đòn lOMoAR cPSD| 61463864
tay mau, thưa tùy thuộc vào yêu cầu của mái nhà, tùy thuộc vào chất lượng hệ
thống dui và chất lượng của chính chúng có chắc hay không; Dui là một loại tre
nhỏ, thường là cây vầu thẳng, dài, rải đều từ đỉnh mái nhà xuống giọt gianh, đặt
ngang trên các thanh đòn tay, đầu trên gối lên chiếc đòn nóc. Các cây vầu được
đục một lỗ thủng ở phần cuối của ngọn vầu, nơi đã chọn và chặt hợp lí sau đó
xâu tất cả vào một cặp con sỏ bằng tre già theo lối ken vào nhau, vắt trên chiếc
xà nóc bằng gỗ tốt. Phần gốc của dui thả xuôi sang hai bên mái sao cho so le
giữa các cặp dui ở hai bên mái. Làm như vậy, chúng sẽ tự giằng chặt nhau ở trên
mái nhà, không thể tuột xuống được; Mè là hệ thống các cạnh trên của bếp lửa
về mùa dông, khu cửa số gian chính giữa về mùa hè. Người phụ nữ, kể cả vợ,
mẹ hay con gái hầu như chỉ ngồi ở cạnh phía dưới của bếp lửa vào mùa đông
hoặc ngồi ở khu cửa sổ cạnh sàn nước nơi để các dụng cụ chế biến lương thực,
để quạt hòm và thông ra sân phơi.
Khi ngồi quây quần bên bếp lửa, cả nhà cũng luôn tuân theo sự sắp đặt một
cách tự giác, đã trở thành tập quán của mình: người vợ, người mẹ ngồi phía dưới,
gần chạn bát, gần đồ bếp núc để nấu cơm, con cái ngồi nô đùa hay đọc sách ở
phía trong người chồng, người cha ngồi chờ cơm ở khu trên, tranh thủ sửa sang
một vài dụng cụ lao động.
Nếu gia đình có khách thì chủ và khách ngồi ăn ở khu tiếp khách và sinh
hoạt của đàn ông, còn phụ nữ thì ăn riêng ở dưới bếp.
Nhà sàn của người Tày mang bản sắc văn hóa tộc người đậm nét, là nơi
chứa đựng tình cảm, mối quan hệ thường ngày thể hiện một lối tư duy logic trong
đời sống. Ngôi nhà sàn thể hiện được những giá trị lâu bền về mặt kỹ thuật và
nghệ thuật, cả về giá trị kinh tế lẫn ý nghĩa xã hội. Nhà sàn thực sự "là tổ ấm, là
nơi trú ngụ hàng ngày của các thành viên trong gia đình sau thời gian làm việc
vất vả, mệt nhọc. Đây còn là nơi hội tụ nguồn tình cảm ruột thịt máu mủ, là nơi
nuôi dưỡng, giáo dục thế hệ trẻ không những cho gia đình, dòng họ mà còn cho cả xã hội".
Ngày nay ngoài ở nhà sàn, người Tày còn ở nhà đất. Nhà đất phổ biến
thường là 3 gian 2 chái. Nhà ngăn thành nhiều phòng dành riêng cho nam, nữ.
Sàn gác bị thu hẹp lại trở thành gác xép là nơi để thóc lúa, hòm xiểng và những
đồ lặt vặt trong gia đình. Bàn thờ đặt đối diện với cửa chính.
Nơi tiếp khách thường ở trước bàn thờ, chỗ gần cửa chính. Bếp không còn
ở gian nhà chính nữa mà thường để ở gian đằng sau hay gian bên cạnh. Nơi ngủ
của các thành viên ở hai gian kế bên bàn thờ. Nhà được mở thêm nhiều cửa sổ
ra đằng sau, cạnh nhà hay hai bên cửa chính. Các công trình phụ như chuồng gia
súc, gia cầm được bố trí trên những khu đất xung quanh nhà.
Mặc dù, hiện nay người Tày đã có nhiều thay đổi trong lối sống và tập quán
nhưng việc làm nhà sàn để ở vẫn được người dân rất yêu thích. Dù rất nhiều gia
đình có làm lại nhà, có điều kiện để xây những ngôi nhà cao, kiên cố thì họ vẫn
thích được làm nhà sàn để ở. Bởi vì thói quen từ xưa đến nay ở nhà sàn tạo cho lOMoAR cPSD| 61463864
họ cảm giác quen thuộc cũng như sự tiện lợi và thoáng mát, thuận tiện cho việc
nghỉ ngơi, đi lại và sinh hoạt hằng ngày.
Tài liệu tham khảo: Lịch sử đảng bộ huyện Chiêm Hoá g. Hát then
Hát Then và đàn Tính bắt nguồn từ cuộc sống lao động của người Tày cổ. Theo
quan niệm dân gian, Then có nghĩa là Thiên, Thiên tức là “trời”, được coi là điệu
hát của thần tiên truyền lại. Hát then đàn tính mang tính chất lễ và hội, ngoài yếu tố
tâm linh là để cầu mùa, chúc phúc, then tính còn giải trí, giãi bày nỗi lòng, thể hiện
tình yêu đôi lứa, ca ngợi quê hương bản làng, lao động sản xuất. Trong đời sống của
người Tày, Nùng, Thái cổ xưa, hát then thường được xuất hiện trong những sự kiện
trọng đại như: Lễ cầu an, cầu mùa… Người hát then trong những dịp lễ, tết là người
đại diện cho cộng đồng giao tiếp với thần linh, cầu cho mùa màng tươi tốt, bội thu,
đời sống ấm no, hạnh phúc.
Hát Then theo lịch sử được cho là đã xuất hiện từ thế kỷ 15-16, khi triều đình
nhà Mạc xảy ra biến cố và chạy lên Cao Bằng để xây dựng thành quách. Trong số
các quan viên có Đệ Phụng và Đế Đáng có niềm đam mê với âm nhạc, ca hát chính
vì vậy đã lập ra các tính tẩu là tiền đề cho hát Then sau này.
Sau khi triều đình nhà Mạc tan ra dân chúng Cao Bằng và các tỉnh lân cận đã
học theo và lưu truyền để có hát Then ngày nay. Loại hình nghệ thuật cũng trở thành
món ăn tinh thần không thể thiếu của các đồng bài dân tộc, gắn liền với sự phát triển
của các tín ngưỡng thờ cúng thần linh và tổ tiên và các dịp lễ hội như hội làng, cầu
đảo của gia đình, dòng họ, trừ tà,…
Trong quá trình phát triển, Hát Then đã trải qua nhiều biến đổi, từ việc là một
nghi lễ tôn giáo trở thành một loại hình nghệ thuật biểu diễn phổ biến trong các lễ
hội văn hóa. Các nghệ nhân hát Then ngày nay không chỉ duy trì các nghi lễ truyền
thống mà còn sáng tạo, đưa vào các yếu tố mới, phù hợp với bối cảnh hiện đại.
Hình thức biểu diễn Hát Then mang tính chất truyền thống, kết hợp giữa âm
nhạc, lời ca và diễn xuất. Các nghệ sĩ Then hay còn được gọi là thầy Then là người
dẫn dắt buổi lễ hoặc buổi biểu diễn họ là người diễn chính. Thầy Then thường đóng
vai trò như một người trung gian giữa thế giới con người và tâm linh. Họ thường là
những người có uy tín trong cộng đồng, có hiểu biết sâu rộng về các nghi lễ tôn giáo
và văn hóa dân gian. Thầy Then vừa là người hát chính vừa là người chơi nhạc cụ lOMoAR cPSD| 61463864
truyền thống như kèn, trống, đàn gáo và được thể hiện qua giọng hát đặc trưng và giai điệu đa dạng.
Bên cạnh thầy Then, còn có một nhóm người phụ họa, thường là những người
cùng dân tộc, hỗ trợ hát và tham gia diễn xuất. Họ có thể đóng vai trò là các nhân
vật trong câu chuyện, hoặc đơn giản là tạo thêm sức sống cho buổi biểu diễn qua
các động tác múa và lời ca.
Trong buổi hát Then người biểu diễn sẽ dùng các nhạc cụ đa dạng như đàn
tính, chùm xóc nhạc, quạt, thể âm dương và kiếm. Đàn tính: Đây là nhạc cụ chính
trong hát Then, có ba dây và cần đàn dài. Đàn tính được sử dụng để tạo nền nhạc,
đồng thời cũng được dùng để nhấn mạnh những đoạn quan trọng trong câu hát. Đây
được xem là hồn cốt trong nghệ thuật hát Then, được dùng để thay lời muốn nói để
bày tỏ mong muốn với thần linh, ông trời. Các nhạc cụ khác: Chùm xóc nhạc, quạt,
thể âm dương và kiếm cũng thường được sử dụng để tạo thêm âm sắc phong phú cho buổi biểu diễn.
Trang phục hát Then có nhiều loại đa dạng hơn như các chàng trai cô gái Tày
trong bộ áo chàm, váy tơ hoặc sử dung các trang phục truyền thống. Người biểu
diễn hát then thường mặc trang phục truyền thống của người Tày, Nùng, bao gồm
áo dài, váy, và khăn đội đầu. Trang phục thường có màu sắc trang nhã, thể hiện tính
trang nghiêm và tôn kính đối với các vị thần linh.
• Nam giới: Áo tứ thân xẻ ngực, cổ tròn cao, không cầu vai, xẻ tà và cài cúc vải,
có hai túi nhỏ phía trước. Người Nùng thì mặc áo chàm.
• Nữ giới: Áo cánh, áo dài năm thân, quần váy, thắt lưng, khăn đội đầu và hài vải.
“Hát then đàn tính của người Tày - Nùng đã gắn bó, đi vào đời sống tinh thần
của dân tộc Tày - Nùng từ lâu đời và đến nay vẫn được gìn giữ. Sau những ngày lao
động sản xuất được ngồi cùng nhau, cầm cây đàn tính, cùng hát then sẽ cảm thấy
quên hết mệt mỏi, ưu phiền, thấy cuộc sống tươi đẹp và có ý nghĩa hơn. Đặc biệt,
từ khi hát then đàn tính được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể, những người
yêu then tính càng cảm thấy mình có trách nhiệm hơn để cùng nhau gìn giữ và phát
huy Di sản quý báu của dân tộc mình mãi mãi cho muôn đời sau”.
Hát Then thường gắn liền với các nghi lễ cầu phúc, trừ tà, hay các nghi lễ tạ
ơn tổ tiên và thần linh. Qua các buổi Hát Then, thầy Then có thể giao tiếp với thế
giới thần linh, cầu xin sự bảo trợ và phù hộ cho cộng đồng. Hát Then do đó trở thành lOMoAR cPSD| 61463864
một hình thức thờ cúng và giao tiếp với các vị thần, tổ tiên. Thông qua các bài hát
Then để thể hiện lòng kính trọng, tôn sùng đối với thế giới tâm linh.
Tài liệu tham khảo:
https://haoquanggroup.com/hat-then-la-gi-nguon-goc-va-dac-diem-cua-hat-then/?
srsltid=AfmBOooE9ex-l91L7ELOxw9SjIla-H7GT3A-xchfTHeliCxUC1L9Ax4m
https://langvanhoavietnam.vn/vi/news/2/detail/1596/net-dep-trong-giai-dieu-
thencua-dan-toc-tay-nung-thai.aspx
h. Lễ hội Lồng Tồng
Lễ hội Lồng Tông ở Chiêm Hoá được tổ chức vào mồng 8 tháng Giêng âm
lịch hằng năm, với mong ước cầu cho quốc thái, dân an, nhà nhà yên vui hạnh
phúc; mưa thuận, gió hòa, mùa màng bội thu.
Đây là lễ hội mang tính chất nghi lễ nông nghiệp cổ xưa, mở đầu cho một
mùa sản xuất mới; trong lễ hội còn có lễ tạ Thành Hoàng, Thần Nông, cầu cho
mùa màng bội thu, gia súc phát triển, con người khỏe mạnh, bản làng yên vui,
mọi người, mọi nhà ấm no, hạnh phúc…
Lễ hội được tổ chức gắn với việc thờ cúng tại đền Bách Thần - nơi hội tụ
của thiên thần (Ngọc Hoàng Thượng Đế), địa thần (Thần linh, Thổ địa, Long
Vương, Sơn thần, Thủy thần, Long mạch) và nhân thần (Vua Hùng, Âu Cơ;
những người có công với đất nước...được nhân dân phong thánh; những người
có công đánh giặc giữ nước, trong đó có nhân vật được thờ Ma Doãn Giảo, một
vị châu chủ đất Chiêm Hóa, quê ở Bản Cuống, xã Minh Quang, là người có công
đánh giặc Cờ đen, khi mất được nhân dân tôn thờ ở nhiều nơi, trong đó có đền
Bách Thần. Ngoài ra, đền Bách thần thờ Tam Quang: Nhật (mặt trời), Nguyệt
(mặt trăng), Tinh (các vì sao) với ý nghĩa đem sự sống đến cho con người.
Bắt đầu phần lễ với nghi lễ xin Thành hoàng làng mở hội, tạ Thiên Địa,
cầu Thần Nông, thần Núi, thần Suối; sau đó nghinh rước Thánh Thần, các mâm
Lễ Tồng từ đền đến sân vận động, nơi tổ chức lễ hội. Sau đó, chủ lễ, thầy cúng,
đoàn rước cùng nhân dân, du khách hướng về Đền Bách Thần cúng lễ Lồng
Tông. Đoàn rước gồm có đoàn múa lân, sau đó đến kiệu (người rước kiệu phải
nam thanh nữ tú); tiếp đến người cầm đao, kiếm; rồi đến các thầy cúng, Tào,
Then, Pụt; cuối cùng các cô cậu thanh đồng mặc quần áo đẹp, người dân mặc lOMoAR cPSD| 61463864
trang phục truyền thống của dân tộc mình với những màu sắc vô cùng sặc sỡ và bắt mắt.
Đến sân vận động, Thầy Mo sẽ thực hiện cúng lễ bằng việc tung “lộc” cho
dân làng. “Lộc” thường là hạt thóc, hạt bông, hạt đỗ xanh trộn lẫn những tờ tiền
có mệnh giá 1.000 đồng, 2.000 đồng…. Tương truyền, người nào “bắt” được
những vật phẩm này sẽ gặp may mắn trong cả năm. Cuối cùng, thầy Mo sẽ đọc
các bài khấn và cầu thần Nông, thần Núi, thần Suối… những vị thần bảo hộ cho
mùa màng, sức khỏe và sự bình yên của dân làng…Sau đó, Thầy cả (người cúng
chính của buổi lễ) và các thầy giúp việc làm lễ đặt mâm Tồng, tạ ơn trời đất, cầu
sự ấm no, hạnh phúc cho mọi nhà. Cuối phần lễ là nghi lễ xuống đồng (cày
ruộng) với mong muốn đường cày may mắn đầu năm sẽ mang lại dân khang, vật
thịnh, mùa màng bội thu...
Phần hội với các trò chơi dân gian như: tung còn, kéo co và các hoạt động
văn hóa, thể thao; trưng bày không gian văn hóa các dân tộc, trưng bày quả còn
khổng lồ; hội thi làm bánh giầy ngũ sắc... tạo không khí vui tươi nhân dịp xuân
mới giữa các dân tộc trên địa bàn tỉnh.
Các trò chơi dân gian mang đậm dấu ấn của người dân vùng bản cao. Trong
đó, trò chơi thu hút đa số du khách nhất chính là trò thi ném còn. Đây cũng là
một truyền thống văn hóa mang đậm bản sắc dân tộc có từ lâu đời của bà con
đồng bào dân tộc Tày nơi đây.
Cây còn được người Tày dựng lên từ thân cây mai có chiều cao khoảng 20
m -30 m, tùy theo lựa chọn của người dân. Ngọn cây còn được uốn thành hình
vòng cung có dán giấy đỏ, hồng tâm để người dân có thể tung còn vào vòng tròn
đó. Theo quan niệm của người Tày, khung còn một mặt dán giấy đỏ (biểu tượng
cho mặt trời), mặt kia dán giấy vàng (biểu tượng cho mặt trăng). Người chơi
đứng đối mặt với nhau qua cây còn, ném quả còn lọt qua vòng còn trên đỉnh cột là thắng cuộc.
Quả còn sẽ được những người con gái trong bản, làng khâu thành, tuy nhiên
hiện nay do thời đại phát triển nên trong công tác phân công chuẩn bị mỗi thôn
sẽ cử 1 người may còn cho cả thôn để tham gia lễ hội. Quả còn to bằng nắm tay
trẻ nhỏ, được khâu bằng nhiều múi vải màu có màu sắc sặc sỡ, bên trong nhồi
thóc và hạt bông (thóc nuôi sống con người, bông cho sợi dệt vải) với hy vọng
mang đến một mùa màng bội thu. Quả còn có các tua vải nhiều màu trang trí và
có tác dụng định hướng trong khi bay. Tuy nhiên, hiện nay bên trong quả còn đã
được thay thế bằng cát mịn nhằm tránh làm phí đồ ăn. lOMoAR cPSD| 61463864
Khi quả còn xuyên thủng hồng tâm của vòng tròn, là âm dương đã giao hoà,
cuộc sống sẽ sinh sôi, mùa màng sẽ bội thu và ai ném trúng hồng tâm đầu tiên
sẽ được trao giải thưởng, được coi là điềm may mắn trong cả năm, được thần
linh phù hộ. Nếu ở lễ hội nào không có ai tung còn trúng vòng tròn, xuyên thủng
hồng tâm thì dân bản không vui , vì theo quan niệm đó là điềm báo một năm mới
không thuận lợi. Đây là nét đặc sắc mà chỉ dân tộc Tày mới có, ... thông qua hoạt
động tung còn ngày xuân còn là dịp để nam, nữ thanh niên trao gửi tâm ý với
nhau, vì thế nhiều đôi trai làng, gái bản đã nên duyên vợ chồng từ những dịp
tung còn trong ngày hội xuân.
Nhiều hoạt động trong lễ hội Lồng tồng như rước cờ, múa sư tử, đi cà kheo,
múa rối, chọi gà, đánh đu, múa võ, kéo co, đẩy gậy, bắn nỏ và hát then, ... ở mỗi
loại hình trò chơi dân gian này đều phản ánh sâu sắc sự tài hoa, khát vọng của
người Tày đối với các đấng siêu nhiên. Trong Lễ hội Lồng tông cổ xưa không
thể thiếu hát then, hát sli, lượn. Đêm về những câu hát theo lối đối đáp của đám
con trai, con gái để cầu mùa, chúc mừng dân bản mọi điều tốt lành. Lời hát mượt
mà, sâu lắng vừa là lời chúc mừng năm mới, vừa là lời dặn dò công việc cấy hái
của nhà nông, thể hiện tri thức dân gian về mùa vụ và cả những mong ước về một mùa màng no ấm.
Tài liệu tham khảo https://tttt.ninhbinh.gov.vn/ctmtqg-phat-trien-kt-xh-vung-
dong-bao-dan-tocthieu-so-va-mien-nui/tim-hieu-le-hoi-long-tong-cua-dan-toc- tay-3957.html
i. Quan niệm về vũ trụ của người Tày
Người Tày quan niệm vũ trụ có 3 thế giới lớn: Trời, đất và nước. Ở thế giới
tầng trời mỗi ngày dài bằng một năm. Theo quan niệm của đồng bào con người
ở mặt đất sống gần gũi với con người ở tầng trời hơn là với người ở thế giới
nước. Có thể du ngoạn đưa hồn người trần theo chim én lên thăm cảnh tiên.
Từ mặt đất cũng có đường xuống dưới nước, nhưng muốn xuống phải có
người ở dưới nước ban phép hoặc mách bảo bí quyết.
Ngoài ra, người Tày còn phân biệt hai thế giới là thế giới thực của con người
và thế giới vô hình của thần thánh, ma quỷ hay còn gọi là xứ người, xứ ma. Cõi
người có kẻ tốt người xấu và cõi ma cũng vậy. Các ma lành là tổ tiên, thổ công,
ma bếp, ma chuồng, thần nông, mẹ hoa. Ma dữ là ma chết bất đắc kỳ tử, ma chết
yểu thường gây hoạ. Các ma lành đôi khi cũng gây khó khăn cản trở cho con người nên phải cúng. lOMoAR cPSD| 61463864
Ma thuật: Trước đây trong dân gian người Tày cho rằng co những người
nhờ tu luyện hoặc do khả năng đặc biệt nào đó mà có thể điều khiển các loại ma
hoặc tự mình có ma lực. Đó là “bùa”, ma thuật. Theo đồng bào muốn yểm bùa
được phải học và không phải ai cũng có thể làm được.
Thể xác và linh hồn: Người Tày ở Thái Nguyên cho rằng con người có hai
phần là phần xác và phần hồn. Phần xác có hình khối, có thể nhìn thấy bằng các
giác quan. Phần hồn là phần vô hình con người không nhìn thấy được. Phần hồn
của nam có 7 khoắn (vía theo cách gọi của người Kinh), nữ có 9 khoắn. Các
khoẳn thường liền với xác, khi người chết các khoắn lìa hẳn khỏi xác và biến thành phỉ.
Người Tày quan niệm, con người có hai phần là thể xác và linh hồn. Khi
một người chết đi không có nghĩa là vòng đời đã kết thúc mà linh hồn của người
chết sẽ chuyển hóa từ vía sang ma được đưa về ba nơi:
Đưa về trời: có nghĩa là, khi còn sống người đó có thể làm rơi hồn vía của
mình ở đâu đó nên con cháu cần phải nhờ thầy cúng làm lễ thu gọi hồn vía của
người chết đưa lên trời về nơi Thiên đàng hoặc về với Ngọc Hoàng.
Đưa về bàn thờ tổ tiên: họ quan niệm, mặc dù con người ta chết đi nhưng
hồn vía vẫn quanh quẩn ở trong nhà để dõi theo, giúp đỡ, bảo vệ và làm điểm
tựa tinh thần cho con cháu của mình trong cuộc sống.
Đưa về mồ mả (nơi chôn cất người chết): khi con người chết đi tuy thể xác
thối rữa và không còn nữa nhung người Tày tin rằng hồn vía của họ vẫn còn
quyến luyến thể xác mà bám víu quanh phần mổ mả của mình.
Ngoài ra, đặc biệt đối với những người làm Thầy cúng, sau này khi chết đi
thì một phần linh hồn của họ về với tổ tiên, một phần sẽ được lên với đất Phật
Thờ cúng: Người Tày thờ cúng ma tổ tiên. Ban thờ đặt ở gian giữa, có số
bát hương hoặc ống hương tuỳ theo gia cảnh và sự thờ cúng của từng nhà. dịp lễ
tết, rằm tháng Giêng mùng Một ngày rằm gia đình lại thắp hương bày hoa quả
và bánh kẹo để tưởng nhớ đến ông bà tổ tiên. Ở người Tày lễ thờ cúng tổ tiên
cũng tuỳ thuộc vào các ngày lễ tết, phụ thuộc vào mùa trong năm, mỗi ngày tết
lại có những sản phẩm thờ cúng đặc trưng Các ngày tết và lễ hội chính trong
năm của của người Tày đó là: Tết Nguyên Đán, lễ hội Lồng Tông (xuống đồng)
vào dịp mùa xuân đầu năm mới, 30 tháng giêng ăn “đắp nói” quy mô như tết
nguyên đán. Tết Thanh Minh mùng 3 tháng 3 (làm bánh trôi, bánh chay, bánh
trứng kiến), Tết Đoan Ngọ mồng 5 tháng 5 (làm cơm đỏ, cơm tím, bánh lẳng),
tết rằm tháng bảy là ngày lễ lớn nhất trong năm đối với người Tày (làm bánh
mật, bánh gai, bánh dợm, bánh chưng), Tháng 10 ăn mừng lúa mới.... và một số
loại hoa quả để thờ cúng tổ tiên. Đặc biệt cứ mỗi khi năm hết tết đến, mọi gia
đình đều làm lễ mời tổ tiên về ăn tết cùng con cháu; chân hương được thay mới,
đồ thờ được lau chùi sạch sẽ. Đêm giao thừa mọi gia đình người Tày đều làm
mâm lễ cúng gia tiên và hai bên của bàn thờ tổ tiên sẽ đặt hai cây mía với ngụ ý
xua đuổi những ma xui xẻo khỏi gia đình và cũng đồng thời tỏ lòng thành kính, lOMoAR cPSD| 61463864
biết ơn đối với tổ tiên. Bên cạnh đó, vào các dịp đặc biệt trong năm như: gia đình
có đám ma, có cưới xin, cúng mát nhà đầu năm, cúng giải hạn cuối năm, gia đình
có thêm thành viên,... cũng đều cần phải thắp hương để báo cáo với tổ tiên.
Cũng như nhiều dân tộc khác, người Tày còn có quan niệm phổ biến là "vạn
vật hữu linh", bắt nguồn từ sự nhận thức có hạn "bất khả tri" của con người với
thế giới, vũ trụ bao la. Vì thế, người Tày còn thờ cúng ngoài nhà hay thắp hương
trước cửa chuồng gia súc để tạ lễ thần trông coi gia súc.
Xung quanh nhà và xa hơn nữa tiếp cận với thế giới tự nhiên, những nơi có
cây cổ thụ cao lớn tỏa bóng mát quanh năm, chim chóc về trú ngụ, người dừng
chân nghỉ ngơi, “hồn vía” cũng chọn làm nơi nương tựa, vì thế, người Tày lập
miếu thờ thần cây. Đó là nơi họ chọn để đặt thổ công, thành hoàng làng, nếu là
vùng đất bằng, bên cạnh cây cao bóng mát xum xuê, có nguồn nước và các điều
kiện khác đủ để sinh sống sẽ có nhiều gia đình đến quần tụ tạo thành làng bản.
Trong điều kiện tự nhiên phức tạp, bạt ngàn núi đá xen núi đất như thể có bàn
tay tạo hóa làm nên, khi gặp những tảng đá lớn đứng trơ trọi hoặc nứt nẻ vỡ đôi
hay nhẵn thín, người Tày cho rằng, đá và đồi núi đều ẩn chứa thần linh trú ngụ
để có thể yên tâm nương tựa, cậy nhờ nên sinh ra tục thờ đá và thờ thần núi (sơn
thần, "phi slấn"). Mặt khác, người Tày còn thờ thổ địa, thổ công, thành hoàng
làng, thường thì bản lập miếu thờ các vị thần đó ở đầu làng hoặc chọn nơi đất
thiêng trong làng để lập miếu. Theo quan niệm dân gian của người Tày, các vị
thần ấy có khả năng bảo vệ dân bản, giám sát kẻ xấu vào làng, trông coi mùa
màng tươi tốt... được dân làng rất quý trọng, tin tưởng và hết lòng thờ cúng.
Trong đời sống tâm linh người Tày đều chịu ảnh hưởng của tam giáo từ xa
xưa. Đó là, Nho giáo với giáo lý: lễ, nghĩa, trung, hiếu được thể hiện qua phong
cách ứng xử, giao tiếp giữa họ trong cộng đồng. Những giáo lý Phật giáo là từ,
bi, hỷ, xả cũng được tiếp nhận, hòa quyện vào dòng chảy tín ngưỡng của bản địa
làm cho đời sống tâm linh càng thêm phong phú, đa dạng. Tại các đền, chùa,
miếu ở Cao Bằng, nét đặc trưng không chỉ thờ Phật mà còn thờ cả các nhân thần,
phúc thần và những người có công với đất nước; người Tày đều ngưỡng mộ quy
thờ, biểu thị lòng nhân nghĩa "uống nước, nhớ nguồn", tri ân với các bậc tiền
nhân. Còn Đạo giáo thể hiện ở việc người Tày thờ nhiều thần, từ Ngọc Hoàng
đến các thần dương gian, âm phủ... có thể đuổi tà ma, yêu quái, chữa bệnh bằng tinh thần cho con người.
Có thể nói, đời sống tín ngưỡng của người Tày khá đa dạng, phong phú.
Trong đó, ảnh hưởng của tam giáo đậm nét thể hiện trong các phong tục tập quán, lễ
nghi truyền thống tạo nên một dạng tín ngưỡng đặc trưng dung hòa giữa "vạn vật hữu
linh" và các thành tố: Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo. Tài liệu tham khảo:
https://baocaobang.vn/-31575.html https://bandantoc.thainguyen.gov.vn/cac-
dan-toc-tinh-thai-nguyen/-/ asset_publisher/aswschm77NYQ/content/dan-toc- tay? lOMoAR cPSD| 61463864
inheritRedirect=true#:~:text=Ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20T%C3%A0y
%20quan%20ni%E1%BB%87m%20v%C5%A9,ng%C6%B0%E1%BB
%9Di%20%E1%BB%9F%20th%E1%BA%BF%20gi%E1%BB%9Bi%20n %C6%B0%E1%BB%9Bc.

j. Nhà thơ Y Phương
Y Phương tên đầy đủ là Hứa Vĩnh Sước (24/12/1948 – 09/02/2022) là một nhà
thơ, nhà văn. Ông sinh trưởng trong một gia đình dân tộc Tày và được gọi là “Người
trai làng Hiếu Lễ” vì Y Phương sinh ra tại làng Hiếu Lễ, xã Lăng Hiếu, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng.
Cầm bút từ những năm tháng chiến tranh cho tới hôm nay, nhà thơ Y Phương
vẫn miệt mài trên cánh đồng chữ nghĩa, lao động sáng tạo không ngừng để sở hữu
một “gia tài” văn chương khá đồ sộ gồm thơ và tản văn. Các tác phẩm của ông đã
góp phần đưa văn học của các DTTS đến gần hơn với độc giả, trở thành một bộ
phận không thể thiếu, đóng góp vào thành tựu chung của nền văn học Việt Nam hiện đại.
Phần lớn văn nghiệp của Y Phương là thơ song có một góc nhỏ, ông giành cho
tản văn – nhưng bài tản văn nhỏ xinh đậm màu văn hóa Tày, các tác phẩm của ông
thể hiện tâm hồn chân thật, mạnh mẽ và trong sáng, cách tư duy giàu hình ảnh của
con người miền núi. Đọc các tập tản văn Tháng giêng - Tháng giêng… một vòng
dao quắm, Kungfu người Co Xàu, Fừn Nèn – Củi tết của Y Phương giống như được
trải nghiệm chuyến đi băng qua vùng văn hóa Tày cực kỳ phong phú và hấp dẫn.
Thấp thoáng sau những trang viết say mê, tự hào về văn hóa quê hương mình là nỗi
lo lắng mơ hồ về sự mai một, đổi thay, thậm chí là biến mất một giá trị văn hóa nào
đó. Mà sự biến mất ấy, với Y Phương, là sự mất mát lớn lao không có cách nào cứu
vãn. Hóa ra việc ghi chép lại những suy nghĩ tản mạn về một nét văn hóa quê mình
không đơn thuần là viết bài theo đơn đặt hàng của chuyên mục văn hóa cho một tờ
báo như nhà thơ từng chia sẻ, mà sự viết ấy thực thi trách nhiệm lưu giữ chút gì đó
văn hóa quê mình bằng ngôn ngữ. Để “mai sau dù có bao giờ…”, một góc văn hóa
Tày chỉ còn là “vang bóng một thời” thì người đọc vẫn biết rằng người Tày Nùng
trên đất Cao Bằng đã từng sở hữu những nét văn hóa độc đáo.
Thơ Y Phương nặng lòng với quê hương, đất nước, cùng với cách viết hiện đại
thông minh ông viết hay về người phụ nữ vùng cao, trong thơ Y Phương là chất
giọng nhẹ nhàng sâu lắng. Những tác phẩm của ông đậm chất Tày nhưng cũng kết
hợp hài hòa lối tư duy hiện đại tạo nên những trang thơ bình dị và sâu lắng. Y lOMoAR cPSD| 61463864
Phương nói: “Muốn sống đàng hoàng như một con người, tôi nghĩ phải bám vào
văn hóa. Phải tin vào những giá trị tích cực vĩnh cửu của văn hóa. Chúng ta phải
vượt qua sự đói khổ bằng văn hóa. Chúng ta đừng viện cớ thiếu thốn khó khăn mà
đánh mất đạo đức, văn hóa. Tôi thấy, dường như giờ đây, nhiều con em các dân tộc
không mấy mặn mà với văn hóa truyền thống. Họ đang tự nguyện nhập ngoại, lai
căng một cách dễ dãi. Tôi ủng hộ hòa nhập nhưng không thể hòa tan”
. Có lẽ cũng
chính vì thế mà Y Phương viết lên những tiếng gọi, những lời nhắn nhủ. Tha thiết
dặn dò thế hệ sau nhưng cũng là tự ghi khắc vào chính lòng mình. Bảo tồn và phát
huy gia trị văn hoá dân tộc không chỉ in dấu sâu đậm trong các sáng tác mà còn thể
hiện trong lối sống hàng ngày của nhà thơ. Sống giữa Thủ đô mà Y Phương vẫn có
thói quen giao tiếp với vợ con bằng tiếng Tày để giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc.
Với ông: “Người ta phải yêu tiếng mẹ đẻ cái đã. Yêu hết mình mới có thơ ca. Yêu
từ tim gan bên trong xương thịt mình. Khi con tim không rung, đôi tay không buồn,
cầm cây bút sao nổi. Cầm bút không nổi lấy đâu ra thơ ca”.
Có lẽ vì vậy mà các tác phẩm của nhà thơ Y Phương đều mang đậm bản sắc
dân tộc rất đậm nét và độc đáo. Ông luôn tự hào là một người con của dân tộc Tày
và ý thức sâu sắc về những giá trị văn hóa Tày… Vì vậy, nhiều tác phẩm của ông
đã tập trung ca ngợi nét đẹp của văn hóa truyền thống, miêu tả ngày lễ tết, giới thiệu
phong tục tập quán, tín ngưỡng dân gian, địa danh văn hóa, đặc sản vùng miền, vẻ
đẹp của cảnh sắc thiên nhiên… Trên tất cả, thơ Y Phương luôn chứa đựng tình yêu
quê hương, bản làng sâu sắc, yêu và tự hào về dân tộc mình… Các tác phẩm của
ông đã góp phần làm giàu có và đa dạng thêm nền cho văn học Việt Nam. Nhận xét
về các tác phẩm của Y Phương, Tiến sĩ, nhà văn Lê Thị Bích Hồng đánh giá: “So
với các nhà văn khác, Y Phương là người sử dụng tiếng Tày nhiều và nhuần nhuyễn
nhất trong tác phẩm. Anh biết Tày hóa tiếng Việt trên cơ sở thông thạo cả hai thứ
tiếng Tày và Việt. Nên tuy viết bằng tiếng Việt, nhưng sắc thái Tày vẫn thể hiện rõ.
Y Phương có biệt tài dùng những từ ngữ sóng đôi vừa Việt, vừa Tày làm cho ý nghĩa
của tiếng Việt khái quát, mở rộng hơn, vượt qua ý nghĩa ban đầu bởi đã pha thêm
nghĩa của tiếng Tày, tâm hồn Tày, văn hóa Tày”.
Tài liệu tham khảo https://baodantoc.vn/nha-tho-y-phuong-bao-ton-van-hoa- tay-qua-tan-van-va- thi-ca-10123.htm
file:///Users/phamthiyennhi/Documents/82077- %C4%90ie%CC%82%CC
%80u%20va%CC%86n%20ba%CC%89n-188071-1-10-20230728.pdf
https://dantocmiennui.vn/nha-tho-dan-toc-y-phuong-mot-tai-nang-dac-biet- lOMoAR cPSD| 61463864
mot-nha-tho-dan-toc-doc-dao-post317060.html