lOMoARcPSD| 61463864
Người Mông: 1. Nhà trình tường; 2. mèn mén - cơm ngô; 3. thắng cố - thang cua; 4.
thổ cẩm H'Mông; 5. chợ nh Khâu Vai; 6. Tục cướp vỡ; 7. Lễ hội Gầu tào; 8. nhà vua
mèo; 9. phim vợ chồng A Phủ
1. Nhà trình tường
Nhà trình tường những ngôi nhà được xây bằng đất theo kỹ thuật truyền
lại lâu đời các bản dân tộc . Chất liệu đất , sỏi được sử dụng để xây nhà trình tường
một nguyên liệu sẵn nhưng khi dùng xây nhà thì ngôi nhà lại mát về mùa hè
cực kỳ ấm áp về mùa đông, thể chống được thú dữ thiên nhiên khắc nghiệt..
Do đó những ngôi nhà trình tường rất phù hợp với thời tiết khí hậu tại các miền núi
, bản làng dân tộc phía bắc nước ta. Chính vì vậy nhà trình tường không chỉ là nơi
trú ngụ mà còn là nét độc đáo của các bản làng tại nhiểu nơi.
So với nhà trình tường của người Nhì, Lô, Tày, Dao... nhà trình tường
của người Mông có những đặc trưng riêng rất dễ nhận ra. Trước tiên là hàng rào đá
bao quanh nhà. Không gạch vữa, xi măng, hàng rào của những ngôi nhà trình tường
hoàn toàn được dựng lên từ đá núi.
Từ những viên đá nhọn hoắt, muôn hình vạn trạng nằm la liệt, ngổn ngang, bà
con người Mông lượm nhặt rồi mang về xếp chồng lên nhau. Điều tài tình là chẳng
gọt giũa hay cần một chất kết dính nào viên nào viên ấy lèn lên nhau khít đều
chằn chặn, tạo nên bức tường kiên cố, vững chãi. Tường rào đá dựng chỉ cao nửa
người, chủ yếu là để phân tách đất nhà với vùng đất đồi nương phía bên ngoài. Kề
ngay tường rào, trước cửa nhà là lối vào với cánh cổng gỗ trên có mái che.
Người Mông làm nhà vào tháng 10, tháng 11 âm lịch bởi khi đó mùa màng đã
xong, thời gian để dựng nhà. Theo phong tục, trước khi làm nhà, gia chủ phải
chọn vị trí đất tốt, rồi làm lễ cúng thổ công, thổ địa rồi mới dựng nhà.
Nét kiến trúc độc đáo của người Mông thể hiện ngay từ cách xây dựng nhà cửa
của họ. Không gạch, xi măng, hàng rào đá nhà trình tường được dựng lên hoàn
toàn từ đá núi đất. Hàng rào đá được dựng lên từ những viên đá được bà con
lượm nhặt rồi mang về xếp chồng lên nhau. Chẳng cần chất kết dính hay gọt dũa
những vẫn thể tạo nên một bức tường vững chãi, kiên cố. Tường rào đá cao
khoảng nửa người, thường để phân tách đất nhà với vùng đất nương đồi phía ngoài.
Trước cửa nhà kề ngay tường rào là lối ra vào với cánh cổng gỗ đơn sơ được ghép
lại bằng tre, nứa.
Vật liệu chính để làm nhà trình tường là đất, gvà tre. Để tạo nên những bức
tường nhà bằng đất độc đáo, người Mông thường chọn đất Phong Thổ để làm nhà.
Đây là loại đất sét đỏ, mịn, độ kết dính cao được loại bỏ sạch rễ cây, cỏ rác
đá to trước khi sử dụng. Những khuôn gỗ có chiều dài 1,5m và rộng nửa mét được
chuẩn bị sẵn trước khi trình tường. Người ta đổ đất vào khuôn và dùng những chiếc
đệm vồ nện đất thật chặt.
Theo tập tục, người Mông thường xây nhà trình tường với ba gian, bố trí theo
thói quen sinh hoạt. Gian bên trái đặt bếp nấu nướng buồng ngủ của gia chủ; gian
bên phải đặt bếp sưởi và giường khách; gian giữa rộng rãi nhất dùng đặt bàn thờ t
tiên và cũng là nơi tiếp khách, sinh hoạt chung của gia đình. Phía trên, người Mông
lOMoARcPSD| 61463864
thói quen làm sàn gác để cất giữ lương thực, thực phẩm để tránh bẩm mốc. Ngôi
nhà có thể có một hoặc hai chái để xay ngô, giã gạo…
Tuy nhiên, vẫn có một số gia đình có điều kiện xây dựng ngôi nhà trình tường
rộng lớn, bề thế. Các ngôi nhà này có 2 tầng và 3 gian, với nhiều phòng ở, phù hợp
với gia đình nhiều thế hệ cùng sinh sống. Đối với những ngôi nhà trình tường
lớn, thẳng từ cổng chính vào sẽ là một sân rộng dùng để vui chơi, hoặc tổ chức các
nghi lễ; phía trên là giếng trời để lấy ánh sáng và điều hòa không khí cho ngôi nhà.
trong nhà trình tường, các phòng ngủ thường được bố trí dưới tầng 1, nằm
sát với phòng khách. Gia đình nào nhiều thế hệ chung sống mới thiết kế cả phòng
ngủ trên tầng 2. Tầng 2 của nhà trình thường là nơi chứa lương thực, đồ đạc và thức
ăn dự trữ cho gia cầm, gia súc. Vào dịp lễ, Tết, tầng 2 của nhà trình tường trở thành
nơi để mọi người dễ dàng xem các tiết mục văn nghệ được biểu diễn ở dưới sân.
Ngôi nhà 1 cửa chính, cửa ph3-4 ô cửa nhỏ làm bằng thân trúc, mai già
để lấy ánh sáng và thoáng khí. Trước cửa chính luôn treo một tấm vải đỏ để trừ tà.
Cửa bao giờ cũng mở vào trong chứ không mở ra ngoài. Ngày xưa người ta hay
dùng cửa phụ dành cho phụ nữ, khách vào nhà là phụ nữ thì đi qua cửa phụ đó. Gia
đình thích đặt cửa phụ ở hướng nào cũng được.
Khung nhà trình tường được làm bằng gỗ, mái nhà lợp bằng ngói âm dương.
Người Mông dùng ván gỗ ghép thành khuôn, đổ đất sét vào trong khuôn rồi dùng
chày giã để tạo độ kết dính cho đất không rơi khi tháo khuôn. Những bức tường đất
này dày từ 60 đến 70 cm, giúp nhà trình tường ấm vào mùa đông mát vào mùa
hè.
Ông Giàng A Thào, Sín Chéng, cho biết: "Theo phong tục, trình tường
làm nhà phải căng dây điều chỉnh sao cho tường 4 góc phải bằng nhau, sau khi trình
lên không bị cong, vênh. 2 cái ván, mình đóng thành một cái khuôn để đổ đất
vào."
Theo quan niệm của người Mông, làm nhà là việc lớn, hệ trọng. Do vậy, ngày
về nhà mới ngày đại sự của gia chủ. Ngày hôm đó, chủ nhà làm cỗ mừng nhà
mới, mời họ hàng, hàng xóm tới chia vui. Mỗi người được chủ nhà mời mang theo
chai rượu, bát gạo, bánh trái hoặc một ít tiền để mừng gia chủ. Mọi người ăn uống,
trò chuyện rôm rả, cùng chúc gia chủ ăn nên làm ra, mạnh khỏe, hạnh phúc. Tài liệu
tham khảo
https://dangcongsan.vn/van-hoa-vung-sau-vung-xa-bien-gioi-hai-dao-vung-
dan-toc-thieu-so/tu-truyen-thong-toi-hien-dai/doc-dao-kien-truc-nha-trinh-
tuongcua-nguoi-mong-584410.html https://vovworld.vn/vi-VN/sac-mau-cac-dan-
toc-viet-nam/nha-trinh-tuong-
bang-dat-cua-nguoi-mong-o-huyen-si-ma-cai-tinh-lao-cai-1301923.vov
https://vnexpress.net/nha-trinh-tuong-doc-dao-cua-nguoi-mong2956486.html
2. Mèn mén – cơm n
Trước kia, mèn mén n ăn chính, “cơm” hàng ngày của người Mông.
Ngày nay, cuộc sống của người Mông đã đủ đầy hơn, nhưng món mèn mén vẫn
giữ vai trò chủ đạo trong bữa ăn hằng ngày, cho dù nhiều gia đình có điều kiện.
lOMoARcPSD| 61463864
Bởi, món ăn nhưng mèn mén đã ngấm vào máu thịt, nuôi dưỡng bao thế hệ
đồng bào Mông. Là món ăn không thể thiếu được trong các ngày lễ, ngày tết.
Ngày nay, cuộc sống người đồng bào đã đủ đầy hơn nhưng món ăn dân dã
mèn mén này vẫn thường xuất hiện trên những bữa ăn hàng ngày của người dân
bởi không chỉ còn một món ăn no để chắc bụng đã trở thành một truyền
thống, nếp sống và thói quen của người dân nơi đây.
Mèn mén hay còn được gọi là bột ngô hấp, có nguyên liệu chính là hạt ngô
phơi khô (hạt bắp phơi khô) được cán thành bột. Sở món ăn này từ
thời xưa, khi cuộc sống của những người dân miền núi vẫn còn thiếu thốn đủ
điều nên khó gạo để ăn. Trong khi đó, cây ngô lại là một cây lương thực
thể mọc khỏe dễ trồng, có thể sống chống chịu được thời tiết khắc nghiệt
ở vùng núi Tây Bắc.
Bước 1 - Phơi tách ngô: Đầu tiên, những bắp ngô được thu hoạch từ
nương sđược phơi khô trên gác bếp để bảo quản lâu dài. Khi ngô đã khô, người
H'Mông sẽ tách lấy những hạt ngô già, tròn đều màu, loại bỏ những hạt sâu
mọt hay nhăn nheo.
Bước 2 - Xay ngô thành bột: Hạt ngô khô được cho vào cối đá để nghiền
thành bột mịn. Quá trình xay cần làm từ từ, cẩn thận để hạt ngô được nghiền đều,
không bị vón cục. Phần bột mịn sau khi xay sẽ được sàng lọc qua nia, loại bỏ
phần vỏ xơ và giữ lại phần bột ngô mịn nhất.
Bước 3 - Trộn bột với nước: Bột ngô sau khi xay mịn sẽ được trộn với một
ít nước để tạo độ ẩm, giúp bột không bị vón cục khi hấp. Người làm cần kinh
nghiệm để biết rưới nước đúng lượng, nếu quá nhiều sẽ làm bột nhão, còn quá ít
sẽ khiến bột bị sống.
Bước 4 - Hấp lần đầu: Bột ngô được cho vào chõ hấp lần đầu trong khoảng
5 - 10 phút. Sau khi hấp lần một, người dân đổ bột ra nia, bóp cho bột tơi ra rồi
tiếp tục thêm nước và cho vào chõ hấp lần hai.
Bước 5 - Hấp lần hai: Bột ngô được hấp lần hai thêm 5 - 10 phút cho đến
khi chín hoàn toàn, tạo nên món mèn mén độ tơi mịn, dẻo không bị lợn
cợn.
Món mèn mén hoàn toàn không được nêm nếm gia vị, nhưng vẫn vị ngọt
bùi của ngô, dẻo thơm, lạ miệng. Mèn n thường được ăn với một sn canh
như rau cải, nước thắng cố hoặc trộn cơm đều trở thành món ăn gây thương nhớ.
Mèn mén ăn với ớt nướng, tạo thành một thứ gia vị say nồng, nhất những ngày
giá rét.
Mèn mén thể được thưởng thức theo nhiều cách khác nhau. Người
H’Mông thường ăn mèn mén kèm với cơm, hoặc dùng chung với các món dân
như thịt lợn luộc, canh rau, nước chấm từ ớt tỏi. Một số người còn pha trộn
mèn mén với các loại gia vị hoặc ăn cùng nước dùng, tạo nên hương vị phong
phú đậm đà hơn. Khi thưởng thức, người ăn sẽ cảm nhận được vị ngọt của
ngô, mùi thơm dịu nhẹ và độ dẻo của từng hạt bột.
Tài liệu tham khảo https://dangcongsan.vn/van-hoa-vung-sau-vung-xa-bien-gioi-
hai-dao-vung-
lOMoARcPSD| 61463864
dan-toc-thieu-so/tu-truyen-thong-toi-hien-dai/men-men-mon-an-dac-biet-
cuanguoi-mong-637026.html https://www.dienmayxanh.com/vao-bep/men-men-
la-gi-men-men-lam-tu-gi-
co-kho-an-khong-cach-lam-mon-22214 https://fptshop.com.vn/tin-tuc/dien-
may/men-men-la-gi-160841
3. Thắng cố - thang cua
Tên gọi “thắng cố” bắt nguồn ttiếng Hán, đọc theo âm Hán Việt tiêu chuẩn
“thang cốt”, nghĩa “canh xương”. Tên “thắng cố” bắt nguồn từ tiếng Hán,
đọc theo âm Hán Việt tiêu chuẩn “thang hoắc”. Tên gọi “thắng cố” biến âm của
“thoảng cố”, trong tiếng Mông có nghĩa là “nồi nước”. Lại có người cho rằng trong
tiếng Mông thắng cố được gọi là “khấu tha” có nghĩa là “canh thịt”.
Thắng cố là món ăn đặc trưng của người H’Mông, thường được nấu từ thịt và
nội tạng ngựa hoặc bò. Tên gọi “thắng cố” nghĩa là “canh lò”, tức một món
hầm nấu từ nhiều nguyên liệu khác nhau trong một cái nồi lớn. Trước đây, người
dân bản địa chế biến từ một con ngựa, không bỏ đi bất cứ thứ gì. Sau này, thắng cố
được cải biến cho thêm thịt trâu, bò….
Món ăn này thường được nấu trong các dịp lễ hội, tụ họp và đặc biệt ở các
phiên chợ vùng cao. Khi đến chợ phiên, bạn sẽ dễ dàng bắt gặp những nồi thắng c
bốc khói nghi ngút, thu hút nhiều người tới thưởng thức.
Thắng cố được nấu từ tất cả bộ phận của con ngựa, tất cả lòng, ruột non, ruột
già, phèo phổi bèo nhèo, gọi chung lục phủ ngũ tạng được nấu hỗn độn với xương
ngựa, tiết ngựa, hôi nhưng rất bùi. Nhưng nếu đã thử thắng cố sẽ cảm nhận được
hương vị quyến rũ, độc đáo của nó.Và chắc chắn khi đến với vùng núi Tây Bắc, du
khách sẽ không thể không thưởng thức món ăn nổi tiếng này.
Nguyên liệu:
Thịt: 1kg thịt ba chỉ ngựa và 1kg nội tạng ngựa bao gồm: Tiết ngựa, tìm ngựa,
gan ngựa, lòng ngựa, sách ngựa,...
Các loại rau ăn kèm: Rau ngót, ngải cứu, xà lách, nấm kim, đậu hà lan,...
cây thắng cố: Đây thể nói một loại gia vị đặc biệt không thể thiếu được
khi nấu thắng cố. Loại cây thắng cố này chủ yếu mọc lên ở thị trấn Bắc Hà, là yếu
tố chính để góp phần tạo nên thương hiệu của món ăn thắng cố Bắc làm say lòng
du khách mỗi khi đến thăm thị trấn nhỏ bé này.
Mắc khén: Cũng là một trong những loại gia vị vô cùng đặc biệt của miền Tây
Bắc. Mắc khén được coi như là hạt tiêu rừng của địa phương Tây Bắc.
Hạt dổi: Không chỉ có Mắc khén hạt dổi cũng hương vị đặc biệt không
kém của núi rừng bạn vì mùi thơm đặc biệt cực kỳ kích thích khiến cho mọi
du khách chưa từng thử qua ai cũng phải tò mò
Quế chi: Đây một loại gia vị quen thuộc trong những công thức chế biến
món ăn. Hơn nữa .quế chi một vị thuốc Bắc được làm tphần vỏ của một cành
thực vật, được gọi chi Quế. Quế chi vị cay, tính đại nhiệt, một phương
thuốc chữa các bệnh như là: phong hàn, tâm tỳ dương hư.
lOMoARcPSD| 61463864
Hoa hồi: một loại cây sở hữu mùi thơm tương tự như cây tiểu hồi, thu được
từ vỏ quả hình sao, là một loại cây xanh quanh năm có nguồn gốc bắt đầu từ Trung
Quốc và ở phía Đông Bắc, Tây Bắc của Việt Nam.
Thảo quả: Cây này cũng gần giống cây sa nhân, là loại cây chủ yếu mọc trong
rừng ở Tây Bắc và mọc nhiều nhất tại Lào Cai. Thảo quả có rất nhiều công dụnglà
loại gia vị vừa là có thể làm thuốc.
chanh: Thịt phải chanh phải không ạ, chanh dùng để nấu thắng
cố chính là lá chanh hay để ăn thịt gà đấy ạ
Tương ớt: chủ yếu dùng để pha nước chấm món thắng cố. Tương ớt phù hợp
nhất với món thắng cố là tương ớt mường khương
Tương tàu: Là một loại tương từ đậu của Trung Quốc. Loại tương này có dạng
sệt sệt màu nâu nâu được nhập trực tiếp từ Trung Quốc về.
Củ Sả, Gừng: Sả và gừng là 2 loại gia vị phổ biến, có tác dụng loại bỏ mùi hôi
khi nấu món ăn.
Các bước để nấu món thắng cố Bắc Hà
Sau khi chuẩn bị đầy đủ các loại gia vị cần thiết thì sau đây, chúng tôi sẽ hướng
dẫn các bạn chế biến món thắng cố Bắc Hà để ngon nhất:
Bước 1: Thịt và nội tạng ngựa được cạo sạch và tráng với nước nóng. Sau đó
thái thành từng miếng vừa ăn.Ướp những miếng đã thái với mắc khén + hạt dổi đã
rang và giã nhỏ, và trộn cùng với hoa hồi, quế chi, gừng.
Các bước để nấu món Thắng cố Bắc Hà
Bước 2: Sau khi ướp thịt khoảng 30 phút cùng với các nguyên liệu thì bạn đ
thịt ra chảo dầu nóng để xào cho se miếng thịt lại rồi đổ nước lọc vào đun sôi. Trong
quá trình đun bạn thể cho thêm sả, thảo quả, gừng để khử mùi của ngựa cũng
như là tạo thêm cho món ăn chút hương vị.
Bước 3: Khi đun sôi, các bạn nên để lửa nhỏ và ninh tiếp. Trong khi ninh, các
bạn nhớ múc từng muỗng bọt ra để nước dùng được ngọt và trong. Ninh khoảng 1-
2 tiếng dùng được, khi đó miếng thịt đã mềm, nếm xem gia vị đã vừa miệng
thì cho lá chanh vào rồi bắc ra.
Bước 4: Dùng tương ớt, tương tàu để chế biến nước chấm, tùy vào cách pha
và sở thích mỗi người mà bạn có thể pha thêm các nước chấm khác nhau. Vì thắng
cố mùi hương hương vị đặc trưng nên nước chấm của món này cũng không
phải làm quá cầu kỳ. Thường thì những người nấu có thể sử dụng thêm muối trắng
hay bột canh, thêm vào đó một ít ớt để có vị cay cay. Nếu bạn ưa thích dùng những
gia vi độc đáo hơn thì bạn thể pha thêm chút dầu với tỏi băm để cho nước
chấm của mình có khẩu vị độc đáo.
Thắng cố có vị béo, hơi ngậy ngậy, cay cay và phảng phất một chút mùi nội
tạng của ngựa. Ngay khi thưởng thức món này nhiều người sẽ thấy nó rất đắng và
thấy có mùi khó chịu là do phần nội tạng chưa được làm sạch. Bên cạnh đó, cũng
nhiều người nghĩ đến phần ruột non đang còn cả lớp phân trắng nên sợ không dám
ăn. Tuy nhiên, theo dân sành về ẩm thực thì mùi vị đặc trưng đó chính là một loại
gia vị tạo nên món ăn đặc sản mang tên thắng cố, một đặc sản không nơi nào có
của đồng bào vùng cao. Bên cạnh những người không ăn được thắng cố thì có
lOMoARcPSD| 61463864
những người lại thấy đây là một món rất ngon vì khi ăn vào sẽ cảm nhận được mùi
vị độc đáo của món ăn núi rừng, rất thơm, bùi và ngọt. Húp một chút nước sẽ cảm
thấy vị đắng ngắt như thuốc nhưng khi nuốt xuống lại có vị ngọt. Nhiều người
cảm thấy nghiện thắng cố bởi mùi hôi bùi mà lại có vị đắng đắng như thuốc, vị cay
của ớt, một dư vị tuyệt vời của ẩm thực vùng cao.
a. tên gọi, nguồn gốc
b. nguyên liệu, cách chế biến
c. cách ăn (cộng đồng, văn hoá ăn)
d. ý nghĩa
Tài liệu tham khảo https://dantoctongiao.congly.vn/thang-co-mon-an-kho-quen-cua-
nguoi-h-
mong-398195.html https://www.traveloka.com/vi-vn/explore/culinary/thang-
co/440064 https://timviec365.vn/blog/thang-co-la-gi-new16405.html
4. Thổ cẩm H'Mông
Bằng sự cầu kỳ, tinh tế kỹ lưỡng trong từng hoa văn, nghề dệt thổ cẩm không
chỉ đơn thuần chứa đựng tính thẩm mỹ mà còn là nét tâm linh truyền thống của dân
tộc Mông có từ xa xưa. Hình ảnh người phụ nữ lúc nào cũng gắn bó với khung cửi,
với cây kim mũi cũng giống như một nét sinh hoạt thường ngày không thể thiếu
vắng của họ.
Để sản xuất ra một sản phẩm được làm từ vải thổ cẩm, những phụ nữ dân tộc
H’Mông nơi đây phải mất rất nhiều công lao động bởi các công đoạn sản xuất đều
làm thủ công. Sự cầu kỳ đó như càng tôn thêm giá trị, vẻ đẹp của một sản phẩm th
cẩm.
Để sản phẩm thổ cẩm hoàn thiện phải trải qua nhiều công đoạn, từ trồng lanh,
thu hoạch, bóc tách sợi, giã sợi, quay sợi, nấu sợi, dựng khung dệt…
Nguyên liệu chính làm ra vải sợi cây lanh, độ mềm dai khi dệt thành
vải độ bền cao. Người H’Mông trồng cây lanh, khi cây lớn sẽ thu hoạch
thành đụn phơi cho đủ nắng gió. Khi lanh khô, họ mang về tước vỏ, khi tước phải
giữ cho sợi lanh không bđứt đoạn, hạn chế ít nhất các mối nối. Để tạo một mối nối,
họ phải tước vỏ lanh cùng một cỡ, trình tự hợp để nối vỏ lanh nối ngọn với
ngọn, gốc với gốc. Hai đầu đoạn vỏ lanh quấn xoắn vào nhau, se dọc theo chiều dài
của vỏ. Nối được bao nhiêu họ lại quấn vào lòng bàn tay tạo thành cuộn. Nối sợi
đòi hỏi sự khéo léo, bền bỉ, kỹ thuật chính xác của người làm, nâng đến tầm nghệ
thuật chế tác.
Sau khi nối, vỏ lanh được ngâm nước, se thành sợi. Khi đó lanh vẫn màu
nâu nhạt của vỏ, người ta sẽ luộc sợi cùng tro của cây gỗ trai để tẩy trắng. Sau các
công đoạn nối và se sợi bằng tay, người phụ nữ H’Mông lắp sợi cho vào guồng thu
lOMoARcPSD| 61463864
sợi. Từ đây, sợi lanh đã trở nên mịn màng hơn sợi lanh tban đầu để chuẩn bị bước
vào công đoạn dệt vải.
Để tạo độ bền, đẹp cho sợi họ luộc sợi lanh cùng nước sôi pha sáp ong rồi đem
đi ép hết nước phơi lên một chiếc dàn phơi, gỡ những sợi lanh đkhông bị rối.
Đến lúc này việc chế biến sợi nguyên liệu dệt đã hoàn thành, sợi được đưa vào
khung dệt thành vải, sau đó thực hiện các công đoạn nhuộm màu, in hoa văn và chế
tác trang phục truyền thống.
Tấm vải lanh sau khi dệt sẽ được nhuộm. Màu chàm đen chủ đạo nhưng
người H’Mông còn nhuộm những màu khác như đỏ, vàng, xanh sẫm…Tất cả các
màu để nhuộm đều được chiết từ lá cây rừng, tuyệt đối không hóa chất công
nghiệp.
Muốn có màu chàm đen như ý, mảnh vải phải được nhuộm đi nhuộm lại nhiều
lần, trong nhiều ngày. Người Mông ngâm vải trong nước chàm chừng một giờ, sau
đó vớt ra để ráo nước rồi lại ngâm tiếp, lặp đi lặp lại 5 - 6 lần mới đem vải đi phơi.
Khi mảnh vải khô, lại được mang vào ngâm tiếp, cứ như thế khoảng 8-10 lần. Gặp
trời nắng, mỗi mảnh vải vải lên nước đen bóng qua 3 - 4 ngày nhưng nếu trời mưa,
phơi vải lâu khô, thời gian nhuộm có khi kéo dài hàng tháng.
Hoa văn trên thổ cẩm của người H’Mông rất đa dạng, chủ yếu các hoa văn
hình học như khối hình vuông, chữ nhật, hình thoi và những họa tiết cách điệu hình
hoa cỏ, cây, muông thú. Các mẫu hoa văn được lưu giữ qua trí nhớ của người phụ
nữ. Mỗi hoa văn mang một ý nghĩa riêng, phản ánh tập tục sinh hoạt, đời sống của
đồng bào. Nổi bật như hoa văn hình tổ nhện, gửi gắm ước muốn người mẹ che nắng,
mưa cho người con, ao ước các con của mình lớn lên khỏe mạnh, có thể sống trong
điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt như con nhện. Hoa văn hình cối đá xay ngô, thể
hiện sự cần lao động, che chbao dung, gìn giữ cho gia đình được ấm no của
người phụ nữ H’mông.
Họa tiết cây dương xỉ trên bộ váy áo thổ cẩm mặc khi đi làm dâu ý nghĩa
cầu mong hạnh phúc của hai vợ chồng trường tồn, vượt qua mọi khó khăn như cây
dương xỉ. Hoa văn quả trám với bốn hình xoắn ốc với ý nghĩa “mâm cơm” bao hàm
tình đoàn kết trong một gia đình hoặc cộng đồng… Về bố cục, hoa văn này kết hợp
giữa hoa văn mâm cơm với mô típ xoắn ốc trên bốn cạnh của hình quả trám và hoa
văn mặt cồng với mặt trời chính tâm bốn cột tỏa ra bốn hướng, thuộc nhóm bố
cục đối xứng thường trên thổ cẩm H’Mông. Những hoạ tiết dân gian đó phản ánh
trí tưởng tượng phong phú và ước trong sáng về cuộc sống thanh bình, hạnh
phúc của mỗi người H’Mông
Những họa tiết trên mỗi sản phẩm thổ cẩm cho thấy sự tài hoa, óc thẩm mỹ,
tính sáng tạo từ những đôi bàn tay lao động cần mẫn của những phụ nữ H’Mông.
Đây một minh chứng sinh động thể hiện đức tính cần cù, chịu thương chịu khó
của đồng bào H’Mông đã vượt qua mọi khó khăn, khắc nghiệt của tự nhiên để xây
dựng đời sống ngày càng tươi đẹp.
Tài liệu tham khảo
lOMoARcPSD| 61463864
https://dangcongsan.vn/tu-tuong-van-hoa/nghe-canh-cui-cua-nguoi-h-mong-
609596.html
https://nhandan.vn/det-tho-cam-net-dep-van-hoa-tren-cao-nguyen-
dapost776449.html
5. Chợ tình Khâu Vai
Từ “Khau Vai” trong tiếng Tày-Nùng nghĩa là “đèo gai”. Nhưng nhiều tư liệu
dùng chệch thành “Khâu Vai”. Khách đi du lịch Giang còn gọi đùa đây là chợ
Phong Tình.
Nguồn gốc của chợ phiên này bắt đầu từ truyền thuyết về chàng Ba người dân
tộc Nùng nàng Út người dân tộc Giáy. Họ yêu nhau say đắm nhưng do không
cùng dân tộc, không cùng tổ tiên hay phong tục tập quán. Hơn nữa chàng lại là con
nhà nghèo còn nàng là con gái tộc trưởng người Giáy. Bởi vậy mối tình của 2 người
bị ngăn cấm. Họ đã đưa nhau lên hang trên núi Khâu Vai để trốn, sống qua ngày.
Vậy nhưng ở dưới bản, họ hàng tộc cô Út vác cung vác nỏ sang mắng chửi nhà trai
đã đem bỏ nhà đi. Nhà trai cũng mang gậy, mang dao ra đánh chửi nhà gái. Từ
hang trên núi, 2 người thấy cảnh họ hàng vì mình mà đâm chém nhau, họ đau lòng
đành chia tay, trở về làm tròn bổn phận với gia tộc. Trước khi chia tay họ hẹn
27/3 hàng năm sẽ lại đến Khâu Vai hát cho nhau nghe, tâm sự về những chuyện xảy
ra trong suốt một năm xa cách. Ở bên nhau hết đêm, ngày hôm sau họ sẽ lại về với
cuộc sống thường ngày. Đến khi già, ngày cuối đời họ lại đến đây, ôm chặt lấy nhau,
cùng đi vào cõi vĩnh hằng. Ngày họ ra đi cũng là 27/3. Dân làng thương tiếc về mối
lương duyên trắc trở này nên đã dựng lên 2 miếu thờ Ông, thờ Bà lấy ngày này
làm ngày họp chợ cho các đôi trai gái lỡ duyên.
Cũng từ đấy chợ tình Khâu Vai hay còn gọi “chợ Phong lưu” được diễn ra
vào ngày 27/3 âm lịch hàng năm. Trước đây người đến chợ không nhiều, chủ yếu
những người mối tình trắc trở, họ yêu nhau nhưng không lấy được nhau những
ràng buộc của lễ giáo phong kiến, những tập tục lạc hậu. Bởi vậy ngày này để họ
có thể tâm sự hàn huyên sau một hoặc nhiều năm xa cách, thông báo tình hình hiện
tại của nhau. thể hai vợ chồng cùng đến chợ, khi đến chợ chồng đi gặp người
yêu cũ của chồng, vợ đi tìm người tình cũ của vợ, không có sự ghen tuông. Họ tôn
trọng nhau, tôn trọng quá khứ của nhau, coi đấy trách nhiệm đối với đời sống tinh
thần của nhau. Hết phiên chợ, họ lại quay về cuộc sống thường ngày, hẹn đến chợ
năm sau lại tới. Đây chính là nét đẹp văn hóa mộc mạc, giản dị của chợ tình Khâu
Vai.
Trước đây chợ tình Khâu Vai là chợ của những mối tình trắc trở. Từ năm 1991
trở lại đây đến chợ có nhiều thanh niên nam, nữ các dân tộc trong vùng đến chợ đ
vui xuân cũng để tìm bạn tình, nhiều đôi đã nên vợ nên chồng trong dịp đi chợ
tình Khâu Vai. Cũng do bản sắc ca ngợi tình yêu lứa đôi trong sáng này mà chợ tình
Khâu Vai giờ được tổ chức như một lễ hội, một sản phẩm du lịch cho du khách đến
tham quan tìm hiểu văn hóa. Mà mỗi lễ hội đều sẽ có phần lễ và phần hội.
lOMoARcPSD| 61463864
Cứ vào ngày 27/3 âm lịch hàng năm, những chàng trai cô gái dân tộc nơi đây
khoác trên mình những bộ trang phục đẹp nhất để cùng đến với chợ Phong lưu Khâu
Vai.
Phần lễ của chợ tình, người dân Khâu Vai sẽ dâng lễ lên miếu Ông, miếu
như để nhớ về nguồn cội, những người khai đất khai hoang ra bản làng Khâu Vai
để tôn vinh tình yêu lứa đôi. Già làng làm chủ lễ sẽ dâng hương xin phép bắt đầu lễ
hội.
Đến phần hội, du khách được chìm đắm trong không khí tưng bừng náo nhiệt
của lễ hội, ngây ngất trước khung cảnh núi non hùng vĩ, rạo rực trong tiếng đàn môi
tâm tình gọi bạn du dương, trầm bổng với tiếng khèn Mông, lời hát đối đáp tỏ tình
của các chàng trai, gái Mông, Nùng, Giấy... Ngoài ra còn những gian hàng
trưng bày sản phẩm thủ công mỹ nghệ, đặc sản Giang đdu khách thmua
về làm quà sau chuyến đi.
Những năm qua, để xây dựng Chợ tình Khâu Vai trở thành sản phẩm du lịch
độc đáo, hấp dẫn, đồng thời gìn giữ văn hóa truyền thống các dân tộc, huyện Mèo
Vạc đã tổ chức Lễ hội Chợ tình Khâu Vai quy cấp huyện với nhiều hoạt động
trải nghiệm, tái hiện lại những nét văn hóa độc đáo trong đời sống người vùng cao
như: Dệt vải lanh truyền thống, giã bánh dày, các trò chơi dân gian; Lễ dâng hương,
cầu duyên miếu Ông, miếu Bà; Lễ cầu mưa của người Lô Lô; giao lưu văn hóa, văn
nghệ dân gian truyền thống với nội dung trình diễn thổi khèn Mông, hát dân ca dân
tộc Nùng, múa trống đồng, múa kéo nhị, điệu nhảy trên cây của dân tộc Lô; múa
nón, múa khăn, múa kiếm của dân tộc Giáy; hát đối giao duyên qua ống dây, đánh
yến, ném pao, tung còn, bắn nỏ, thưởng thức các món ẩm thực đặc sắc...
Trước đây nhiều người lo ngại rằng việc tổ chức Lễ hội chợ tình Khâu Vai hàng
năm quy cấp huyện, tỉnh với nhiều hoạt động trải nghiệm sẽ làm phai nhạt đi
nét văn hóa truyền thống các dân tộc và giá trị nguyên của chợ tình phong lưu.
Nhưng thực tế, Lễ hội Chợ tình Khâu Vai hàng năm đã trở thành một “bảo tàng”
sống sinh động, tái hiện lại các hoạt động mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc trên
Cao nguyên đá; đó cũng chính là một trong những giải pháp để gìn giữ, lan tỏa văn
hóa tới cộng đồng. a. Tên gọi, nguồn gốc
b. Diễn biết, hoạt động
c. Đặc điểm
d. Biến đổi, ý nghĩa
Tài liệu tham khảo https://dangcongsan.vn/van-hoa-vung-sau-vung-xa-bien-
gioi-hai-dao-vung-dantoc-thieu-so/tu-truyen-thong-toi-hien-dai/len-ha-giang-
du-phien-cho-noi-tiengcho-tinh-khau-vai-635230.html
https://vietnamtourism.gov.vn/post/36447
6. Tục cướp vợ
Khi Tây Bắc bước vào mùa xuân lúc những chàng trai Mông rộn ràng
hẹn bạn chuẩn bị cho ngày đi "cướp vợ" (còn gọi kéo vợ). Theo nhiều người
nơi đây, tục kéo vợ từ rất lâu đời. Những đôi trai gái đến tuổi cập phải lòng
lOMoARcPSD| 61463864
nhau, hẹn hò ở trên rừng, trên đường, hay phiên chợ rồi đến xế chiều, chàng trai
nhờ một vài người bạn lên điểm hẹn kéo cô gái về nhà mình.
Mặc đôi trai gái yêu nhau, ước hẹn chung sống cả đời nhưng không
gái nào tự bước chân về nhà chồng, chàng trai phải tchức kéo thì cô gái mới
chịu về. Đám kéo nào càng nhiều bạn bè tham gia giúp, kéo càng quyết liệt, thì
đôi vợ chồng đó càng hạnh phúc và sống lâu, càng đông con, nhiều của...
Trong thực tế rất nhiều đôi trai gái yêu nhau tha thiết nhưng lại không
được một hoặc cả hai bên cha mẹ đồng ý (chủ yếu cha mẹ người con gái). Khi
cha mẹ không đồng ý trái gái khác tự tìm đến sống với nhau thì không những
bị coi là bất hiếu mà cuộc hôn nhân còn không được cộng đồng chấp nhận. Thế
nên tục “bắt vợ” có thể coi là một giải pháp hiệu quả cho những đôi trai gái yêu
nhau tha thiết nhưng lại gặp phải trở ngại từ phía gia đình.
Vào một ngày đẹp trời nào đó, chàng trai sẽ hẹn gái đến tâm tình, rồi
nhờ người thân, bạn bè bí mật giúp sức, kéo cô gái về nhà mình. Cô gái dù biết
trước mọi chuyện vẫn cảm thấy bất ngờ, kêu toáng lên giả vờ kêu cứu, khóc lóc
để người nhà mình biết đến cứu.
Người ta cho rằng người con gái bị kéo về làm vợ mà không khóc lóc, kêu
la thì bị coi hỏng, bgia đình làng xóm coi khinh. Khi người nhà gái
mang gậy gộc đến cứu gái, các bạn của chàng trai sẽ xông ra đđòn để chàng
trai mang gái về nhà. Theo lệ của người Mông khi đi “kéo vợ”, ntrai không
được phép đánh lại nhà gái.
"Kéo vợ" không phải cứ thấy nào xinh xắn, giỏi giang, muốn lấy làm v
thì kéo về nhà mình, thực tế đôi nam nữ đã tìm hiểu nhau rất cặn kẽ đã
ưng nhau. Cho nên kéo vợ chỉ là cái tục phải để người con gái chính thức
bước chân về nhà chồng. Sau khi kéo cô gái về nhà, ba ngày sau chàng trai chỉ
việc sang nhà gái thông báo họ đã thành vợ chồng. Cho đến khi con đàn, cháu
đống, của cải dư thừa họ mới tố chức đám cưới.
Khi xuân về, tết đến cũng dịp để thanh niên nam nữ HMông hội
gặp gỡ, tìm hiểu nhau, đó có thể là các phiên chợ cuối năm, hội hè trong những
ngày tết hay đơn giản chỉ những buổi đi lấy củi, địu nước chuẩn bcho một
năm mới. Mục đích đi hội không chỉ để vui, giao lưu các chàng trai, gái
Mông mong muốn tìm được người mình yêu, mình mong đợi. Khi đi, họ mặc
những bộ trang phục mới nhất, đẹp nhất để làm duyên. Mục đích đi hội không
chỉ để vui, giao lưu mà các chàng trai, cô gái Mông mong muốn tìm được người
mà mình yêu, mình mong đợi.
Thông thường các cô gái Mông hay chọn những chàng trai khỏe mạnh, biết
bắn nỏ, biết cưỡi ngựa, thổi khèn, gia đình lương thiện. Còn các chàng trai Mông
chọn những gái thân hình chắc khỏe, nết na biết làm mọi công việc, biết
se lanh...
Sau khi đã chọn được người con gái mình mong muốn, chàng trai Mông sẽ
tổ chức kéo vợ vào một ngày nhất định. Khi cô gái cùng bạn bè xuống chợ hay
đi ở ven đường, được sự giúp sức của bạn bè, chàng trai sẽ chạy đến kéo tay cô
gái mà mình đã chọn đi theo mình.
lOMoARcPSD| 61463864
Mặc rất yêu chàng trai đã biết trước sự việc nhưng gái vẫn tỏ ra sợ
hãi, chống cự, miễn cưỡng không theo. Thậm chí gái còn khóc lóc, cầu cứu
người nhà, bạn bè giúp đỡ khỏi bị kéo. Còn chàng trai thì ra sức kéo tay cô gái,
nhờ bạn giúp sức. Dĩ nhiên gái phải để chàng trai kéo đề cao giá trị phẩm
chất của người phụ nữ người Mông.
Việc kéo vợ về cũng phải rất khéo léo để chân gái không chạm đất, không
có lực giằng co, không đánh trả được, miệng không cắn lại được mà không gây
thương tích cho cô gái. Khi người nhà cô gái chạy ra can thiệp thì bạn bè chàng
trai sẽ ra đỡ thay chứ không đánh trả. Sau khi đưa được cô gái về nhà thì cử một
em gái trong gia đình trông. Nửa ngày sau, gia đình chàng trai đi sang nhà gái
để dạm hỏi cùng với lễ vật nhà trai chuẩn bị, gồm một đôi gà và một bình tông
rượu. Tại đây, nhà trai sẽ thưa chuyện với nhà gái, nếu nhà gái ưng thuận và cô
gái nhận lời thì tiến hành làm lễ ăn hỏi rồi tiến tới lễ cưới.
Nếu gái hoặc gia đình không nhận lời thì cuộc hôn nhân sẽ không thành.
Nếu cô gái ưng chàng trai và gia đình nhà gái cũng nhận lời nhà trai thì hai bên
gia đình thống nhất, các thủ tục để ăn hỏi và tiến hành chọn ngày lành, tháng tốt
để tổ chức lễ cưới. Lễ cưới được tiến hành theo đúng phong tục của người Mông.
Khi cướp được cô gái về, nhà trai bố trí cô gái ngủ cùng với các chị em gái
của chàng trai ba đêm. Đến sáng thư ba, họ sẽ chuẩn bị làm bánh dầy để đưa cô
gái về nhà. Đoàn người đi sang nhà dâu gồm chú rể, bố mẹ chú rể người
thân, chú rể phải quỳ lạy tất cả các thành viên nhà gái để làm quen.
Nhà gái cũng tổ chức bữa cơm tiếp đãi nhà trai, tại bữa cơm này người đại
diện nhà gái hỏi gái thật kỹ thể chung sống cả đời với nhà trai được không.
Nếu thấy sự ưng thuận, gia đình nhà gái vui vẻ dọn trang của gái đem về
nhà chồng, mọi việc chuẩn bị cho đám cưới bắt đầu. Nếu như vừa đến nhà gái,
người con gái buồn rầu, khóc lóc van xin cha mẹ không muốn về nhà trai thì hôn
nhân coi như bị hủy bỏ.
Tục kéo vợ một biêu hiện nét trong văn hóa của người Mông. Họ
thường dùng từ kéo cô dâu hay kéo vợ. Trong cuộc sống mặc dù đôi trai gái yêu
nhau đắm đuối, từng thề thốt cùng chung sống với nhau cả đời, lúc lấy nhau thật
cũng phải tổ chức kéo thì cô gái mới chịu về nhà chồng, không có cô gái nào tự
bước chân về nhà chồng cả, ý nghĩa chính của việc kéo vợ thế hiện sự danh giá
của người con gái qua ba nghĩa chính:
Thứ nhất: gái không bị hội đánh giá thấp hèn cam chịu chay theo con
trai một cách mù quáng hạ thấp mình để hầu hạ nhà trai.
Thứ hai: Người con trai thực sự cần lấy gái làm vợ thật với thiên chức
của người mẹ mới tố chức kéo vợ, thể hiện thái độ rõ ràng cụ thể.
Thứ ba: Tránh sự đồn thổi tai tiếng xấu của xã kôi và sự ngược đãi sau này
của người chồng và người nhà trai.
Tài liệu tham khảo
https://luanvan.net.vn/luan-van/tieu-luan-le-hoi-tuc-keo-vo-cua-nguoi-hmong-
53462/
lOMoARcPSD| 61463864
https://www.qdnd.vn/van-hoa/doi-song/tuc-keo-vo-net-van-hoa-co-truyen-
cuadong-bao-mong-vung-tay-bac-682330
https://vnexpress.net/tuc-cuop-vo-cua-chang-trai-mong-tren-tay-
bac2953996.html
7. Lễ hội Gầu Tào
"Gầu Tào" một lễ hội tiêu biểu nhất của người Mông với mục đích
cúng tạ trời đất, thần linh phù hộ đã ban cho gia đình sự sức khỏe, thịnh vượng,
cầu phúc, cầu lộc ban cho những người dân trong bản Mông một năm mới mùa
màng bội thu, gia súc, gia cầm đầy chuồng. Vào dịp mở lễ hội Gầu Tào cũng là
dịp để mỗi người con dân tộc Mông trong bản đi làm ăn, đi công tác xa nay
dịp về hội tụ với gia đình, người dân về với bản làng để tụ họp, vui chơi chuẩn
bị bước vào một năm mới, vào một mùa vụ canh tác, sản xuất chăn nuôi mới.
Thời gian mở hội Gầu Tào thường trong khoảng từ ngày mồng 1 Tết đến
ngày 15 tháng giêng. Nếu hội tổ chức 3 năm liền thì mỗi năm tổ chức 3 ngày
liền, hội làm gộp một năm sẽ tổ chức vào 9 ngày. Lễ hội Gầu Tào gồm 2 phần lễ
phần hội. Hội thường được UBND các địa phương tổ chức tại tất cả các làng,
các huyện nơi đông đồng bào dân tộc Mông sinh sống. Khi tổ chức lễ hội Gầu
Tào thường được tổ chức trên một khu đất đồi tương đối bằng phẳng để thuận
lợi cho việc đi lại, vui chơi. Lễ hội Gầu Tào thể do một gia đình, một dòng
họ hay một làng bản đứng ra tổ chức.
phần lễ, trước đó gia chủ trồng một cây nêu (cây trúc hoặc cây mai), trên
thân cây có dán giấy đỏ hoặc vàng; cắt hình nhân treo lên ngọn cây nêu. Vào lễ,
gia chủ chuẩn bị một mâm cúng gồm 1 chiếc đầu lợn, 1 đôi gà trống mái tất cả
đều được luộc chín; cùng với một bát cơm, quả trứng, đĩa xôi, một lúa, một
bó bắp ngô và chút hương, giấy bản...
Khi vào lễ, gia chủ sẽ bắt đầu khấn tạ trời đất với 3 bài cúng khác nhau với
ý nghĩa hướng đến làng bản, lễ hội gia đình. Bài thứ nhất bài cảm tạ trời
đất đã che chở cho dân làng để có sức khỏe tốt và làm ăn yên ổn trong năm vừa
qua và mời thần linh về trần thưởng thức sản vật dâng cúng. Bài thứ hai là mời
các vong hồn tư phương về tham gia, che chở cho lễ hội diễn ra suôn sẻ tránh
những điều xui xẻo. Bài thứ ba là hiến dâng cho các vị thần, nhờ phù hộ cho gia
đình, con cái khỏe mạnh, học giỏi, làm ăn thuận lợi và có nhiều thành công hơn
nữa.
Sau khi gia chủ hoặc thầy mo, trưởng bản làm những thủ tục lễ bái, tất cả
con trong bản đều đến tập trung đông đủ. Sau khi làm lễ tơn trời đất, thần
linh xong, nhân dân trong bản mới tổ chức ăn uống chúc tụng nhau.
Sau khi gia chủ làm xong các thủ tục quan trọng thì mới chuyển sang phần
hội. Trong hội Gầu Tào thì phần hội là vui nhất với rất nhiều trò chơi dân gian
hấp dẫn của dân tộc Mông, tiêu biểu như: Đánh yến, đánh sảng, đánh cù, đấu võ,
đua ngựa, bắn nỏ, múa khèn, thổi sáo, chọi chim, chọi gà, thi hát đối giao
duyên.... Hội thi hấp dẫn nhất và cũng là nơi để các chàng trai Mông trổ tài múa
lOMoARcPSD| 61463864
khèn. Trong phần thi này, những người tham gia dự thi phải thực sự tài năng, vì
phải vừa thổi khèn, vừa làm các động tác như: Lộn, quay tròn, đá chân trồng
chuối, nhảy lên cọc đặc biệt động tác múa khèn chống đầu lên đòn gánh
bắc ngang chảo thắng cố đang sôi sùng sục.
Lôi cuốn nhất và cũng thu hút nhiều người tham gia nhất trong lễ hội Gầu
Tào là thi hát đáp, hát ống. Ở phần thi này chủ yếu là nam, nữ thanh niên người
dân tộc Mông. Họ hát đối đáp cho đến khi một người thua mới thôi. Nếu
người nào thua thì sẽ phải có quà cho người thắng cuộc, quà thường là một cây
sáo, hay cây khèn, một chiếc đàn môi hay cũng chỉ là một chiếc khăn tay. Qua
hội thi này, những chàng trai, cô gái thường sẽ nên duyên và tìm thấy hạnh phúc
trăm năm.
Thuở ban đầu, lễ hội bắt nguồn từ việc các cặp vợ chồng hiếm muộn cầu
trời cho con cái. Khi điều cầu ước thành hiện thực, họ slàm lễ mời con
trong vùng đến ăn uống chung vui, cũng như cầu cho dân bản luôn gặp phước
lành. Về sau, lễ hội Gầu Tào Giang đã trở thành một nét đẹp văn hóa đại diện
của con người dân tộc thiểu số vùng núi phía Bắc tổ quốc. Đây dịp để lưu
giữ truyền thống tâm linh của người Mông cũng như gắn kết tình cảm của người
dân qua những câu chuyện sau một năm làm việc vất vả. Vào dịp mở lễ hội Gầu
Tào cũng dịp để mỗi người con dân tộc Mông trong bản đi làm ăn, đi công tác
xa nay có dịp về hội tụ với gia đình, người dân và về với bản làng để tụ họp, vui
chơi chuẩn bị bước vào một năm mới, vào một mùa vụ canh tác, sản xuất chăn
nuôi mới. Lễ hội Gầu Tào cũng là hoạt động nhằm giới thiệu và bảo tồn nét văn
hóa dân gian, góp phần kết nối giữa đời sống nhân dân và hoạt động trải nghiệm
du lịch để lan tỏa đến cộng động.
Tài liệu tham khảo https://mia.vn/cam-nang-du-lich/le-hoi-gau-tao-ha-giang-le-hoi-
dac-sac-cua-dongbao-nguoi-mong-3405 https://dangcongsan.vn/van-hoa-vung-sau-
vung-xa-bien-gioi-hai-dao-vung-dan-tocthieu-so/tu-truyen-thong-toi-hien-dai/le-hoi-
gau-tao-doc-dao-cua-dan-toc-mong-ocao-nguyen-da-597525.html
8. Nhà Vua Mèo
Nhà Vua Mèo (Dinh thự Vua Mèo) hay còn được biết đến với cái tên Dinh
thự họ Vương, tọa lạc tại thung lũng Phìn, Lũng Phìn, huyện Đồng Văn,
tỉnh Hà Giang, cách trung tâm thành phố khoảng 125km và cách cao nguyên đá
Đồng Văn nổi tiếng chỉ 15km. Căn nhà cổ này gắn liền với cuộc đời sự nghiệp
của 2 cha con người Mông Vua Mèo Vương Chính Đức Vương Chí Sình
(hay Vương Chí Thành). Ông Vương Chính Đức (1886 - 1962) người đứng
đầu chế độ thổ ty phong kiến miền núi của dân tộc Mông nên còn được gọi với
cái tên đầy quyền lực là Vua Mèo. Còn con trai ông là người đi theo con đường
cách mạng, nhờ những cống hiến cho đất nước nên được bầu làm đại biểu Quốc
hội 2 nhiệm kỳ đầu tiên.
lOMoARcPSD| 61463864
Công trình được bắt đầu xây dựng vào năm 1898 và chính thức hoàn thành
vào năm 1907, tiêu tốn một khoảng tiền khổng lồ 15 vạn đồng bạc trắng Đông
Dương, tương đương với 150 tỷ VNĐ ngày nay. Dinh thự được thiết kế xây
dựng bởi những người thợ Vân Nam Trung Quốc kết hợp với đồng bào người
Mông, tạo ra một công trình rộng hơn 1200m2 trên diện tích khoảng 3000m2.
Nhờ lịch sử lâu đời giá trị văn hóa không thể bàn cãi, Dinh thự Vua Mèo đã
được Bộ Văn hóa Thể Thao và Du lịch xếp hạng di tích quốc gia năm 1993, sau
gần 1 thế kỉ tồn tại. Ngoài ra dinh thự này cũng mất đến 5 năm để khởi công xây
dựng bởi và tất cả đều được xây dựng bằng sức người chứ không hề dùng phương
tiện máy móc gì.
Dinh thự Vua Mèo nằm dưới chân một thung lũng được bao bọc phía trên
bằng một vùng đất cao. Với kiểu địa thế này, toàn bộ công trình được bảo vệ bởi
những cánh cung núi gọi thế mai rùa, hỗ trợ phòng thủ rất tốt trong thời kỳ
chiến tranh ác liệt. Trải qua hơn trăm năm tồn tại, mọi thứ trong dinh thự vẫn
vẹn nguyên như ngày đầu, tạo sự kích thích với mọi người đến đây để khám giá
ít nhất một lần trong đời.
Kiến trúc bên trong dinh thự vô cùng độc đáo, là sự kết tinh của 3 nền văn
hóa khác nhau gồm người Mông, người Pháp và người Trung Quốc. Công trình
gồm 4 căn nhà ngang, 6 căn ndọc chia thành 3 khu vực tiền dinh (dành cho
lính canh tì), trung dinh hậu dinh (là nơi làm việc) với 64 buồng
nhỏ chia thành 2 tầng. Để đáp ứng được tiêu chí kiên cố, những người thợ xây
đã sử dụng đá xanh để xây dựng giúp dinh thự đứng vững trước kẻ thù và thời
gian. Mái vách và cột trụ được làm bằng gỗ để tôn thêm sự uy nghiêm và uyển
chuyển cho những căn phòng. Một vật liệu nữa được sử dụng là đất nung dùng
cho việc xây các mái ngói để tạo hình dhơn nhưng không kém phần chắc chắn.
Cho đến tận ngày nay, Dinh thự Vua Mèo là một trong số ít những công trình
đáp ứng tất cả các yêu cầu về nơi ở, làm việc và trở thành một căn cứ phòng thủ
mỗi khi có chiến sự xảy ra.
sự kết hợp của 3 nền văn hóa trong kiến trúc nhưng nhiều người nhận
xét rằng dinh thự họ Vương cùng hài hòa, uyển chuyển nhịp nhàng như thành
một khối thống nhất mà không hề gò bó, khiên cưỡng. Thêm vào đó, tuy công
trình được xây dựng trên một khu đất lên tới 3000m2 nhưng Dinh thự không hề
to lớn hay đồ sộ như nhiều người vẫn hình dung được cấu tạo từ những
phân khu nhỏ, mang nét giản dị, mộc mạc của văn hóa kiến trúc dân gian. Kiểu
thiết kế với nguyên tắc trong thấp ngoài cao khiến cho tổng thể Dinh thự càng
gần gần gũi với cảnh vật xung quanh hơn nữa.
Nội thất và vật dụng gắn liền với Vua Mèo khi còn sống đều được lưu giữ
bảo quản tốt đến tận ngày nay. Duy chỉ một số ghế đồ gỗ được làm bằng
thông đá, về sau đã được nhà nước ta thay đổi bằng gỗ lim gỗ nghiến để không
bị mai một dần theo thời gian. Các cấu kiện gỗ mang bản sắc văn hóa địa phương
đậm đà bằng cách khắc những hoa văn hình bông hoa bản địa như đào, anh túc…
Những trụ nhà thì được chế tác sao cho giống quả của cây thuốc phiện, loại
cây Vua Mèo kinh doanh đlàm ra tiền xây dinh thự. Một số vật dụng bị ảnh
lOMoARcPSD| 61463864
hưởng bởi phương tây trong công trình này thể kể đến như bồn tắm sữa dê
bằng đá, cửa sổ chớp kính bên cạnh lò sưởi, lối ra vào thì được làm bằng đá hoa
cương kết nối bằng khung hoa sắt đậm chất kiến trúc Pháp.
Tồn tại cùng kiến trúc độc đáo của Dinh thự Vua Mèo là những câu chuyện
xung quanh được lưu truyền từ khi nó được xây dựng đến mãi về sau.
Tương truyền rằng, nơi ban đầu Vua Mèo Vương Đức Chính trong một
chân núi cao cạnh một hẻm núi lớn. Được sự gợi ý của một thuộc hạ về việc ch
không hợp phong thủy, họ Vương nghe theo tìm thầy am hiểu thiên văn, địa
lý để nhanh chóng tìm nơi vừa địa thế thuận lợi, vừa có phong thủy tốt. Ông
đã sai lính sang tận bên đất Trung Hoa để mời Trương Chiếu, một người giỏi
xem tướng để xây dựng nhà cửa, sang tìm địa điểm xây dựng dinh thự. Sau một
thời gian suy xét lưỡng, thầy đã chọn Phìn làm nơi mới cho Vua Mèo.
Trương Chiếu quả quyết rằng thứ được thung lũng Sa Phìn bao quanh kia là một
quả đồi hình con rùa, xây dựng trên lưng a sẽ giàu sang phú quý, cũng mảnh
đất mà anh hùng quy tụ.
Một giai thoại ẩn khác liên quan đến Dinh thự Vua Mèo là vào thời người
con Vương Chí Sình. cả nhà họ Vương đã bị yểm bùa bởi một thầy phong thủy
người Hán, đến mức suýt chút nữa không người nối dõi tông đường. Theo đó,
Vua Mèo khi còn sống bị chứng đau lưng, đã thử qua rất nhiều thần y phương
thuốc tphương không khỏi. Một ông thầy người Hán phán rằng mộ của cha
ông đang chôn trên lưng rồng, có tội nên bề trên quở trách. Tin lời, Vua Mèo di
dời ngôi mộ đến một địa điểm khác ngờ rằng bị người Hán chơi xấu, bịa
chuyện để hãm hại. Vì phạm chuyện cấm kỵ, những người vợ đầu tiên của Vua
Mèo đều không thể sinh con. Đến người vợ thứ 4 mới sinh ra được một người
con trai, đặt tên là Vương Duy Thọ.
Tài liệu tham khảo
https://mia.vn/cam-nang-du-lich/dinh-thu-vua-meo-dinh-thu-ho-vuong-
dia-danh-bi-an-va-doc-dao-3411#:~:text=%C3%94ng%20V
%C6%B0%C6%A1ng%20Ch%C3%ADnh%20%C4%90%E1%BB%A9c
%20(1886,2%20nhi%E1%BB%87m%20k%E1%BB
%B3%20%C4%91%E1%BA%A7u%20ti%C3%AAn.
9. Phim vợ chồng A Phủ
Bộ phim “Vợ chồng A Phủ” một tác phẩm điện ảnh nổi tiếng của Việt
Nam, được chuyển thể từ tác phẩm văn học cùng tên của nhà văn Tô Hoài. Bộ
phim không chỉ mang lại cho người xem những cảm xúc sâu sắc về tình yêu,
cuộc sống, mà còn phản ánh những nét đặc sắc của văn hóa, đời sống vùng cao,
cùng với những vấn đề xã hội đặc biệt trong lịch sử.
Bộ phim đã được đón nhận nhiệt tình từ người xem sau khi được đạo diễn
Mai Lộc đưa lên màn ảnh vào năm 1961 và trở thành một trong những phim
kinh điển của Điện ảnh Cách mạng Việt Nam.
lOMoARcPSD| 61463864
Câu chuyện trong “Vợ chồng A Phủ” xoay quanh cuộc đời của Mị, một cô
gái người Mông, và A Phủ, một chàng trai cũng thuộc dân tộc Mông. Mị là một
gái xinh đẹp, khỏe mạnh, nhưng cuộc đời cô lại chìm trong đau khổ khi bị gia
đình A Sử, một tên chúa đất giàu có, bắt làm vợ. Mị phải chịu cảnh sống khổ
cực, bị áp bức, bóc lột dưới sự thống trị của chồng và gia đình chồng. Sự tự do,
hạnh phúc của Mị bị cướp đi một cách tàn nhẫn, khiến sống trong đau đớn
tuyệt vọng. Tuy nhiên, khi gặp A Phủ, đã tìm thấy ánh sáng của tình yêu
hy vọng.
A Phủ, một chàng trai có tính cách mạnh mẽ kiên cường, dù bị hội áp
bức nhưng vẫn luôn mong muốn được tự do và thoát khỏi cuộc sống nghèo khó.
Cuộc gặp gỡ tình yêu giữa Mị và A Phủ trở thành biểu tượng của tình u
đích thực, một tình yêu đấu tranh tự do và công lý, phải vượt qua nhiều thử
thách.
Bộ phim phản ánh một cách sâu sắc cuộc sống của người dân vùng cao,
những người chịu cảnh nghèo đói, bị áp bức và bóc lột dưới sự thống trị của các
thế lực phong kiến, như gia đình A Sử. Đây là một hội đầy rẫy sự bất công,
nơi những người phụ nữ như Mị không quyền tự quyết định cuộc đời mình,
bị chà đạp và chỉ biết chịu đựng. Đặc biệt, hình ảnh Mị trong cảnh bị ép làm vợ
A Sử, không có quyền tự do, thể hiện rõ sự thống trị của phong kiến và cách
quyền lực này tước đoạt nhân phẩm con người.
Mặc cuộc sống của Mị đầy tăm tối, nhưng qua từng tình tiết, bộ phim
khéo léo miêu tả cách mà Mị, cũng như A Phủ, dần tìm thấy sức mạnh để đứng
lên chống lại sự áp bức. Khi Mị gặp A Phủ, sự động viên và tình yêu giữa họ là
nguồn động lực giúp họ cùng nhau vượt qua nghịch cảnh. Đây cũng một thông
điệp mạnh mẽ về lòng kiên cường sức mạnh của tình yêu, niềm tin vào sự
thay đổi dù trong hoàn cảnh ngặt nghèo.
A Phủ vai diễn đầu tiên trong cuộc đời của đạo diễn Trần Phương. Để
vào vai thành công, ông đã phải học cách chăn bò, cưỡi ngựa của người Tà Sùa.
Ba tháng ròng sống chung cùng gia đình anh hùng quân đội Sùng Phai Sình
trên núi cao, cả Trần Phương Đức Hoàn (người vào vai Mị lúc bấy giờ) gần
như đã trở thành người Mông thực thụ. Các diễn viên đã cùng lên nương làm
rẫy, ng gùi nước đi bộ hàng mấy cây số về bản cùng ăn ngô thể nói
tiếng Mông sành sỏi trong quá trình thực hiện bộ phim.
Ông từng chia sẻ: "Họ cưỡi ngựa quanh năm không cần ơng. Mình
không quen với cách đó nên mình mẩy cứ xây xước hết, mấy lần suýt bị què
chân. Nhưng khi bộ phim hoàn thành, mình cũng kịp trở thành một tay chăn bò,
cưỡi ngựa cừ khôi không kém một chàng trai Mông nào".
Cố nghệ Đức Hoàn (1937-2003), được đạo diễn Mai Lộc chọn vào vai
Mỵ trong bộ phim Vợ chồng A Phủ (kịch bản Tô Hoài). Đây vai diễn đầu
tiên cũng vai diễn xuất sắc nhất của Đức Hoàn. Với vai diễn này đã nhận
được Bông sen Bạc tại Liên hoan phim Việt Nam lần thứ hai năm 1973.
Bộ phim do xưởng phim Việt Nam sản xuất đã được trao giải thưởng
Bông sen bạc trong Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 2 năm 1973.
lOMoARcPSD| 61463864
Tài liệu tham khảo https://dantri.com.vn/van-hoa/vo-chong-a-phu-tu-trang-
sach-cua-to-hoai-denman-anh-rong-1405235518.htm

Preview text:

lOMoAR cPSD| 61463864
Người Mông: 1. Nhà trình tường; 2. mèn mén - cơm ngô; 3. thắng cố - thang cua; 4.
thổ cẩm H'Mông; 5. chợ Tình Khâu Vai; 6. Tục cướp vỡ; 7. Lễ hội Gầu tào; 8. nhà vua
mèo; 9. phim vợ chồng A Phủ
1. Nhà trình tường
Nhà trình tường là những ngôi nhà được xây bằng đất theo kỹ thuật truyền
lại lâu đời ở các bản dân tộc . Chất liệu đất , sỏi được sử dụng để xây nhà trình tường
là một nguyên liệu sẵn nhưng khi dùng nó xây nhà thì ngôi nhà lại mát về mùa hè
và cực kỳ ấm áp về mùa đông, có thể chống được thú dữ và thiên nhiên khắc nghiệt..
Do đó những ngôi nhà trình tường rất phù hợp với thời tiết khí hậu tại các miền núi
, bản làng dân tộc phía bắc nước ta. Chính vì vậy nhà trình tường không chỉ là nơi
trú ngụ mà còn là nét độc đáo của các bản làng tại nhiểu nơi.
So với nhà trình tường của người Hà Nhì, Lô Lô, Tày, Dao... nhà trình tường
của người Mông có những đặc trưng riêng rất dễ nhận ra. Trước tiên là hàng rào đá
bao quanh nhà. Không gạch vữa, xi măng, hàng rào của những ngôi nhà trình tường
hoàn toàn được dựng lên từ đá núi.
Từ những viên đá nhọn hoắt, muôn hình vạn trạng nằm la liệt, ngổn ngang, bà
con người Mông lượm nhặt rồi mang về xếp chồng lên nhau. Điều tài tình là chẳng
gọt giũa hay cần một chất kết dính nào mà viên nào viên ấy lèn lên nhau khít đều
chằn chặn, tạo nên bức tường kiên cố, vững chãi. Tường rào đá dựng chỉ cao nửa
người, chủ yếu là để phân tách đất nhà với vùng đất đồi nương phía bên ngoài. Kề
ngay tường rào, trước cửa nhà là lối vào với cánh cổng gỗ trên có mái che.
Người Mông làm nhà vào tháng 10, tháng 11 âm lịch bởi khi đó mùa màng đã
xong, có thời gian để dựng nhà. Theo phong tục, trước khi làm nhà, gia chủ phải
chọn vị trí đất tốt, rồi làm lễ cúng thổ công, thổ địa rồi mới dựng nhà.
Nét kiến trúc độc đáo của người Mông thể hiện ngay từ cách xây dựng nhà cửa
của họ. Không gạch, xi măng, hàng rào đá và nhà trình tường được dựng lên hoàn
toàn từ đá núi và đất. Hàng rào đá được dựng lên từ những viên đá được bà con
lượm nhặt rồi mang về xếp chồng lên nhau. Chẳng cần chất kết dính hay gọt dũa
những vẫn có thể tạo nên một bức tường vững chãi, kiên cố. Tường rào đá cao
khoảng nửa người, thường để phân tách đất nhà với vùng đất nương đồi phía ngoài.
Trước cửa nhà kề ngay tường rào là lối ra vào với cánh cổng gỗ đơn sơ được ghép lại bằng tre, nứa.
Vật liệu chính để làm nhà trình tường là đất, gỗ và tre. Để tạo nên những bức
tường nhà bằng đất độc đáo, người Mông thường chọn đất ở Phong Thổ để làm nhà.
Đây là loại đất sét đỏ, mịn, có độ kết dính cao và được loại bỏ sạch rễ cây, cỏ rác và
đá to trước khi sử dụng. Những khuôn gỗ có chiều dài 1,5m và rộng nửa mét được
chuẩn bị sẵn trước khi trình tường. Người ta đổ đất vào khuôn và dùng những chiếc
đệm vồ nện đất thật chặt.
Theo tập tục, người Mông thường xây nhà trình tường với ba gian, bố trí theo
thói quen sinh hoạt. Gian bên trái đặt bếp nấu nướng và buồng ngủ của gia chủ; gian
bên phải đặt bếp sưởi và giường khách; gian giữa rộng rãi nhất dùng đặt bàn thờ tổ
tiên và cũng là nơi tiếp khách, sinh hoạt chung của gia đình. Phía trên, người Mông lOMoAR cPSD| 61463864
có thói quen làm sàn gác để cất giữ lương thực, thực phẩm để tránh bị ẩm mốc. Ngôi
nhà có thể có một hoặc hai chái để xay ngô, giã gạo…
Tuy nhiên, vẫn có một số gia đình có điều kiện xây dựng ngôi nhà trình tường
rộng lớn, bề thế. Các ngôi nhà này có 2 tầng và 3 gian, với nhiều phòng ở, phù hợp
với gia đình có nhiều thế hệ cùng sinh sống. Đối với những ngôi nhà trình tường
lớn, thẳng từ cổng chính vào sẽ là một sân rộng dùng để vui chơi, hoặc tổ chức các
nghi lễ; phía trên là giếng trời để lấy ánh sáng và điều hòa không khí cho ngôi nhà.
Ở trong nhà trình tường, các phòng ngủ thường được bố trí dưới tầng 1, nằm
sát với phòng khách. Gia đình nào có nhiều thế hệ chung sống mới thiết kế cả phòng
ngủ trên tầng 2. Tầng 2 của nhà trình thường là nơi chứa lương thực, đồ đạc và thức
ăn dự trữ cho gia cầm, gia súc. Vào dịp lễ, Tết, tầng 2 của nhà trình tường trở thành
nơi để mọi người dễ dàng xem các tiết mục văn nghệ được biểu diễn ở dưới sân.
Ngôi nhà có 1 cửa chính, cửa phụ và 3-4 ô cửa nhỏ làm bằng thân trúc, mai già
để lấy ánh sáng và thoáng khí. Trước cửa chính luôn treo một tấm vải đỏ để trừ tà.
Cửa bao giờ cũng mở vào trong chứ không mở ra ngoài. Ngày xưa người ta hay
dùng cửa phụ dành cho phụ nữ, khách vào nhà là phụ nữ thì đi qua cửa phụ đó. Gia
đình thích đặt cửa phụ ở hướng nào cũng được.
Khung nhà trình tường được làm bằng gỗ, mái nhà lợp bằng ngói âm dương.
Người Mông dùng ván gỗ ghép thành khuôn, đổ đất sét vào trong khuôn rồi dùng
chày giã để tạo độ kết dính cho đất không rơi khi tháo khuôn. Những bức tường đất
này dày từ 60 đến 70 cm, giúp nhà trình tường ấm vào mùa đông và mát vào mùa hè.
Ông Giàng A Thào, ở xã Sín Chéng, cho biết: "Theo phong tục, trình tường
làm nhà phải căng dây điều chỉnh sao cho tường 4 góc phải bằng nhau, sau khi trình
lên không bị cong, vênh. Có 2 cái ván, mình đóng thành một cái khuôn để đổ đất vào."
Theo quan niệm của người Mông, làm nhà là việc lớn, hệ trọng. Do vậy, ngày
về nhà mới là ngày đại sự của gia chủ. Ngày hôm đó, chủ nhà làm cỗ mừng nhà
mới, mời họ hàng, hàng xóm tới chia vui. Mỗi người được chủ nhà mời mang theo
chai rượu, bát gạo, bánh trái hoặc một ít tiền để mừng gia chủ. Mọi người ăn uống,
trò chuyện rôm rả, cùng chúc gia chủ ăn nên làm ra, mạnh khỏe, hạnh phúc. Tài liệu tham khảo
https://dangcongsan.vn/van-hoa-vung-sau-vung-xa-bien-gioi-hai-dao-vung-
dan-toc-thieu-so/tu-truyen-thong-toi-hien-dai/doc-dao-kien-truc-nha-trinh-
tuongcua-nguoi-mong-584410.html https://vovworld.vn/vi-VN/sac-mau-cac-dan- toc-viet-nam/nha-trinh-tuong-
bang-dat-cua-nguoi-mong-o-huyen-si-ma-cai-tinh-lao-cai-1301923.vov
https://vnexpress.net/nha-trinh-tuong-doc-dao-cua-nguoi-mong2956486.html
2. Mèn mén – cơm ngô
Trước kia, mèn mén là món ăn chính, là “cơm” hàng ngày của người Mông.
Ngày nay, cuộc sống của người Mông đã đủ đầy hơn, nhưng món mèn mén vẫn
giữ vai trò chủ đạo trong bữa ăn hằng ngày, cho dù nhiều gia đình có điều kiện. lOMoAR cPSD| 61463864
Bởi, dù là món ăn nhưng mèn mén đã ngấm vào máu thịt, nuôi dưỡng bao thế hệ
đồng bào Mông. Là món ăn không thể thiếu được trong các ngày lễ, ngày tết.
Ngày nay, cuộc sống người đồng bào đã đủ đầy hơn nhưng món ăn dân dã
mèn mén này vẫn thường xuất hiện trên những bữa ăn hàng ngày của người dân
bởi nó không chỉ còn là một món ăn no để chắc bụng mà đã trở thành một truyền
thống, nếp sống và thói quen của người dân nơi đây.
Mèn mén hay còn được gọi là bột ngô hấp, có nguyên liệu chính là hạt ngô
phơi khô (hạt bắp phơi khô) được cán thành bột. Sở dĩ có món ăn này là vì từ
thời xưa, khi cuộc sống của những người dân miền núi vẫn còn thiếu thốn đủ
điều nên khó mà có gạo để ăn. Trong khi đó, cây ngô lại là một cây lương thực
có thể mọc khỏe và dễ trồng, có thể sống và chống chịu được thời tiết khắc nghiệt ở vùng núi Tây Bắc.
Bước 1 - Phơi và tách ngô: Đầu tiên, những bắp ngô được thu hoạch từ
nương sẽ được phơi khô trên gác bếp để bảo quản lâu dài. Khi ngô đã khô, người
H'Mông sẽ tách lấy những hạt ngô già, tròn và đều màu, loại bỏ những hạt sâu mọt hay nhăn nheo.
Bước 2 - Xay ngô thành bột: Hạt ngô khô được cho vào cối đá để nghiền
thành bột mịn. Quá trình xay cần làm từ từ, cẩn thận để hạt ngô được nghiền đều,
không bị vón cục. Phần bột mịn sau khi xay sẽ được sàng lọc qua nia, loại bỏ
phần vỏ xơ và giữ lại phần bột ngô mịn nhất.
Bước 3 - Trộn bột với nước: Bột ngô sau khi xay mịn sẽ được trộn với một
ít nước để tạo độ ẩm, giúp bột không bị vón cục khi hấp. Người làm cần kinh
nghiệm để biết rưới nước đúng lượng, nếu quá nhiều sẽ làm bột nhão, còn quá ít
sẽ khiến bột bị sống.
Bước 4 - Hấp lần đầu: Bột ngô được cho vào chõ hấp lần đầu trong khoảng
5 - 10 phút. Sau khi hấp lần một, người dân đổ bột ra nia, bóp cho bột tơi ra rồi
tiếp tục thêm nước và cho vào chõ hấp lần hai.
Bước 5 - Hấp lần hai: Bột ngô được hấp lần hai thêm 5 - 10 phút cho đến
khi chín hoàn toàn, tạo nên món mèn mén có độ tơi mịn, dẻo và không bị lợn cợn.
Món mèn mén hoàn toàn không được nêm nếm gia vị, nhưng vẫn có vị ngọt
bùi của ngô, dẻo thơm, lạ miệng. Mèn mén thường được ăn với một số món canh
như rau cải, nước thắng cố hoặc trộn cơm đều trở thành món ăn gây thương nhớ.
Mèn mén ăn với ớt nướng, tạo thành một thứ gia vị say nồng, nhất là những ngày giá rét.
Mèn mén có thể được thưởng thức theo nhiều cách khác nhau. Người
H’Mông thường ăn mèn mén kèm với cơm, hoặc dùng chung với các món dân
dã như thịt lợn luộc, canh rau, nước chấm từ ớt và tỏi. Một số người còn pha trộn
mèn mén với các loại gia vị hoặc ăn cùng nước dùng, tạo nên hương vị phong
phú và đậm đà hơn. Khi thưởng thức, người ăn sẽ cảm nhận được vị ngọt của
ngô, mùi thơm dịu nhẹ và độ dẻo của từng hạt bột.
Tài liệu tham khảo https://dangcongsan.vn/van-hoa-vung-sau-vung-xa-bien-gioi- hai-dao-vung- lOMoAR cPSD| 61463864
dan-toc-thieu-so/tu-truyen-thong-toi-hien-dai/men-men-mon-an-dac-biet-
cuanguoi-mong-637026.html https://www.dienmayxanh.com/vao-bep/men-men- la-gi-men-men-lam-tu-gi-
co-kho-an-khong-cach-lam-mon-22214 https://fptshop.com.vn/tin-tuc/dien- may/men-men-la-gi-160841
3. Thắng cố - thang cua
Tên gọi “thắng cố” bắt nguồn từ tiếng Hán, đọc theo âm Hán Việt tiêu chuẩn
là “thang cốt”, có nghĩa là “canh xương”. Tên “thắng cố” bắt nguồn từ tiếng Hán,
đọc theo âm Hán Việt tiêu chuẩn là “thang hoắc”. Tên gọi “thắng cố” là biến âm của
“thoảng cố”, trong tiếng Mông có nghĩa là “nồi nước”. Lại có người cho rằng trong
tiếng Mông thắng cố được gọi là “khấu tha” có nghĩa là “canh thịt”.
Thắng cố là món ăn đặc trưng của người H’Mông, thường được nấu từ thịt và
nội tạng ngựa hoặc bò. Tên gọi “thắng cố” có nghĩa là “canh lò”, tức là một món
hầm nấu từ nhiều nguyên liệu khác nhau trong một cái nồi lớn. Trước đây, người
dân bản địa chế biến từ một con ngựa, không bỏ đi bất cứ thứ gì. Sau này, thắng cố
được cải biến cho thêm thịt trâu, bò….
Món ăn này thường được nấu trong các dịp lễ hội, tụ họp và đặc biệt là ở các
phiên chợ vùng cao. Khi đến chợ phiên, bạn sẽ dễ dàng bắt gặp những nồi thắng cố
bốc khói nghi ngút, thu hút nhiều người tới thưởng thức.
Thắng cố được nấu từ tất cả bộ phận của con ngựa, tất cả lòng, ruột non, ruột
già, phèo phổi bèo nhèo, gọi chung là lục phủ ngũ tạng được nấu hỗn độn với xương
ngựa, tiết ngựa, hôi nhưng rất bùi. Nhưng nếu đã thử thắng cố sẽ cảm nhận được
hương vị quyến rũ, độc đáo của nó.Và chắc chắn khi đến với vùng núi Tây Bắc, du
khách sẽ không thể không thưởng thức món ăn nổi tiếng này. Nguyên liệu:
Thịt: 1kg thịt ba chỉ ngựa và 1kg nội tạng ngựa bao gồm: Tiết ngựa, tìm ngựa,
gan ngựa, lòng ngựa, sách ngựa,...
Các loại rau ăn kèm: Rau ngót, ngải cứu, xà lách, nấm kim, đậu hà lan,...
Lá cây thắng cố: Đây có thể nói là một loại gia vị đặc biệt không thể thiếu được
khi nấu thắng cố. Loại cây thắng cố này chủ yếu mọc lên ở thị trấn Bắc Hà, là yếu
tố chính để góp phần tạo nên thương hiệu của món ăn thắng cố Bắc Hà làm say lòng
du khách mỗi khi đến thăm thị trấn nhỏ bé này.
Mắc khén: Cũng là một trong những loại gia vị vô cùng đặc biệt của miền Tây
Bắc. Mắc khén được coi như là hạt tiêu rừng của địa phương Tây Bắc.
Hạt dổi: Không chỉ có Mắc khén mà hạt dổi cũng là hương vị đặc biệt không
kém của núi rừng bạn vì nó có mùi thơm đặc biệt cực kỳ kích thích khiến cho mọi
du khách chưa từng thử qua ai cũng phải tò mò
Quế chi: Đây là một loại gia vị quen thuộc trong những công thức chế biến
món ăn. Hơn nữa .quế chi là một vị thuốc Bắc được làm từ phần vỏ của một cành
thực vật, được gọi là chi Quế. Quế chi có vị cay, tính đại nhiệt, là một phương
thuốc chữa các bệnh như là: phong hàn, tâm tỳ dương hư. lOMoAR cPSD| 61463864
Hoa hồi: Là một loại cây sở hữu mùi thơm tương tự như cây tiểu hồi, thu được
từ vỏ quả hình sao, là một loại cây xanh quanh năm có nguồn gốc bắt đầu từ Trung
Quốc và ở phía Đông Bắc, Tây Bắc của Việt Nam.
Thảo quả: Cây này cũng gần giống cây sa nhân, là loại cây chủ yếu mọc trong
rừng ở Tây Bắc và mọc nhiều nhất tại Lào Cai. Thảo quả có rất nhiều công dụnglà
loại gia vị vừa là có thể làm thuốc.
Lá chanh: Thịt gà phải có lá chanh phải không ạ, lá chanh dùng để nấu thắng
cố chính là lá chanh hay để ăn thịt gà đấy ạ
Tương ớt: chủ yếu dùng để pha nước chấm món thắng cố. Tương ớt phù hợp
nhất với món thắng cố là tương ớt mường khương
Tương tàu: Là một loại tương từ đậu của Trung Quốc. Loại tương này có dạng
sệt sệt màu nâu nâu được nhập trực tiếp từ Trung Quốc về.
Củ Sả, Gừng: Sả và gừng là 2 loại gia vị phổ biến, có tác dụng loại bỏ mùi hôi khi nấu món ăn.
Các bước để nấu món thắng cố Bắc Hà
Sau khi chuẩn bị đầy đủ các loại gia vị cần thiết thì sau đây, chúng tôi sẽ hướng
dẫn các bạn chế biến món thắng cố Bắc Hà để ngon nhất:
Bước 1: Thịt và nội tạng ngựa được cạo sạch và tráng với nước nóng. Sau đó
thái thành từng miếng vừa ăn.Ướp những miếng đã thái với mắc khén + hạt dổi đã
rang và giã nhỏ, và trộn cùng với hoa hồi, quế chi, gừng.
Các bước để nấu món Thắng cố Bắc Hà
Bước 2: Sau khi ướp thịt khoảng 30 phút cùng với các nguyên liệu thì bạn đổ
thịt ra chảo dầu nóng để xào cho se miếng thịt lại rồi đổ nước lọc vào đun sôi. Trong
quá trình đun bạn có thể cho thêm sả, thảo quả, gừng để khử mùi của ngựa cũng
như là tạo thêm cho món ăn chút hương vị.
Bước 3: Khi đun sôi, các bạn nên để lửa nhỏ và ninh tiếp. Trong khi ninh, các
bạn nhớ múc từng muỗng bọt ra để nước dùng được ngọt và trong. Ninh khoảng 1-
2 tiếng là dùng được, khi đó miếng thịt đã mềm, và nếm xem gia vị đã vừa miệng
thì cho lá chanh vào rồi bắc ra.
Bước 4: Dùng tương ớt, và tương tàu để chế biến nước chấm, tùy vào cách pha
và sở thích mỗi người mà bạn có thể pha thêm các nước chấm khác nhau. Vì thắng
cố có mùi hương và hương vị đặc trưng nên nước chấm của món này cũng không
phải làm quá cầu kỳ. Thường thì những người nấu có thể sử dụng thêm muối trắng
hay bột canh, thêm vào đó một ít ớt để có vị cay cay. Nếu bạn ưa thích dùng những
gia vi độc đáo hơn thì bạn có thể pha thêm chút xì dầu với tỏi băm để cho nước
chấm của mình có khẩu vị độc đáo.
Thắng cố có vị béo, hơi ngậy ngậy, cay cay và phảng phất một chút mùi nội
tạng của ngựa. Ngay khi thưởng thức món này nhiều người sẽ thấy nó rất đắng và
thấy có mùi khó chịu là do phần nội tạng chưa được làm sạch. Bên cạnh đó, cũng
nhiều người nghĩ đến phần ruột non đang còn cả lớp phân trắng nên sợ không dám
ăn. Tuy nhiên, theo dân sành về ẩm thực thì mùi vị đặc trưng đó chính là một loại
gia vị tạo nên món ăn đặc sản mang tên thắng cố, một đặc sản không nơi nào có
của đồng bào vùng cao. Bên cạnh những người không ăn được thắng cố thì có lOMoAR cPSD| 61463864
những người lại thấy đây là một món rất ngon vì khi ăn vào sẽ cảm nhận được mùi
vị độc đáo của món ăn núi rừng, rất thơm, bùi và ngọt. Húp một chút nước sẽ cảm
thấy vị đắng ngắt như thuốc nhưng khi nuốt xuống lại có vị ngọt. Nhiều người
cảm thấy nghiện thắng cố bởi mùi hôi bùi mà lại có vị đắng đắng như thuốc, vị cay
của ớt, một dư vị tuyệt vời của ẩm thực vùng cao. a. tên gọi, nguồn gốc
b. nguyên liệu, cách chế biến
c. cách ăn (cộng đồng, văn hoá ăn) d. ý nghĩa
Tài liệu tham khảo https://dantoctongiao.congly.vn/thang-co-mon-an-kho-quen-cua- nguoi-h-
mong-398195.html https://www.traveloka.com/vi-vn/explore/culinary/thang-
co/440064 https://timviec365.vn/blog/thang-co-la-gi-new16405.html 4. Thổ cẩm H'Mông
Bằng sự cầu kỳ, tinh tế kỹ lưỡng trong từng hoa văn, nghề dệt thổ cẩm không
chỉ đơn thuần chứa đựng tính thẩm mỹ mà còn là nét tâm linh truyền thống của dân
tộc Mông có từ xa xưa. Hình ảnh người phụ nữ lúc nào cũng gắn bó với khung cửi,
với cây kim mũi cũng giống như một nét sinh hoạt thường ngày không thể thiếu vắng của họ.
Để sản xuất ra một sản phẩm được làm từ vải thổ cẩm, những phụ nữ dân tộc
H’Mông nơi đây phải mất rất nhiều công lao động bởi các công đoạn sản xuất đều
làm thủ công. Sự cầu kỳ đó như càng tôn thêm giá trị, vẻ đẹp của một sản phẩm thổ cẩm.
Để sản phẩm thổ cẩm hoàn thiện phải trải qua nhiều công đoạn, từ trồng lanh,
thu hoạch, bóc tách sợi, giã sợi, quay sợi, nấu sợi, dựng khung dệt…
Nguyên liệu chính làm ra vải là sợi cây lanh, có độ mềm và dai khi dệt thành
vải có độ bền cao. Người H’Mông trồng cây lanh, khi cây lớn sẽ thu hoạch và bó
thành đụn phơi cho đủ nắng gió. Khi lanh khô, họ mang về tước vỏ, khi tước phải
giữ cho sợi lanh không bị đứt đoạn, hạn chế ít nhất các mối nối. Để tạo một mối nối,
họ phải tước vỏ lanh cùng một cỡ, trình tự hợp lý để nối vỏ lanh là nối ngọn với
ngọn, gốc với gốc. Hai đầu đoạn vỏ lanh quấn xoắn vào nhau, se dọc theo chiều dài
của vỏ. Nối được bao nhiêu họ lại quấn vào lòng bàn tay tạo thành cuộn. Nối sợi
đòi hỏi sự khéo léo, bền bỉ, kỹ thuật chính xác của người làm, nâng đến tầm nghệ thuật chế tác.
Sau khi nối, vỏ lanh được ngâm nước, se thành sợi. Khi đó lanh vẫn có màu
nâu nhạt của vỏ, người ta sẽ luộc sợi cùng tro của cây gỗ trai để tẩy trắng. Sau các
công đoạn nối và se sợi bằng tay, người phụ nữ H’Mông lắp sợi cho vào guồng thu lOMoAR cPSD| 61463864
sợi. Từ đây, sợi lanh đã trở nên mịn màng hơn sợi lanh thô ban đầu để chuẩn bị bước
vào công đoạn dệt vải.
Để tạo độ bền, đẹp cho sợi họ luộc sợi lanh cùng nước sôi pha sáp ong rồi đem
đi ép hết nước và phơi lên một chiếc dàn phơi, gỡ những sợi lanh để không bị rối.
Đến lúc này việc chế biến sợi nguyên liệu dệt đã hoàn thành, sợi được đưa vào
khung dệt thành vải, sau đó thực hiện các công đoạn nhuộm màu, in hoa văn và chế
tác trang phục truyền thống.
Tấm vải lanh sau khi dệt sẽ được nhuộm. Màu chàm đen là chủ đạo nhưng
người H’Mông còn nhuộm những màu khác như đỏ, vàng, xanh sẫm…Tất cả các
màu để nhuộm đều được chiết từ lá cây rừng, tuyệt đối không có hóa chất công nghiệp.
Muốn có màu chàm đen như ý, mảnh vải phải được nhuộm đi nhuộm lại nhiều
lần, trong nhiều ngày. Người Mông ngâm vải trong nước chàm chừng một giờ, sau
đó vớt ra để ráo nước rồi lại ngâm tiếp, lặp đi lặp lại 5 - 6 lần mới đem vải đi phơi.
Khi mảnh vải khô, lại được mang vào ngâm tiếp, cứ như thế khoảng 8-10 lần. Gặp
trời nắng, mỗi mảnh vải vải lên nước đen bóng qua 3 - 4 ngày nhưng nếu trời mưa,
phơi vải lâu khô, thời gian nhuộm có khi kéo dài hàng tháng.
Hoa văn trên thổ cẩm của người H’Mông rất đa dạng, chủ yếu là các hoa văn
hình học như khối hình vuông, chữ nhật, hình thoi và những họa tiết cách điệu hình
hoa cỏ, lá cây, muông thú. Các mẫu hoa văn được lưu giữ qua trí nhớ của người phụ
nữ. Mỗi hoa văn mang một ý nghĩa riêng, phản ánh tập tục sinh hoạt, đời sống của
đồng bào. Nổi bật như hoa văn hình tổ nhện, gửi gắm ước muốn người mẹ che nắng,
mưa cho người con, ao ước các con của mình lớn lên khỏe mạnh, có thể sống trong
điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt như con nhện. Hoa văn hình cối đá xay ngô, thể
hiện sự cần cù lao động, che chở bao dung, gìn giữ cho gia đình được ấm no của
người phụ nữ H’mông.
Họa tiết cây dương xỉ trên bộ váy áo thổ cẩm mặc khi đi làm dâu có ý nghĩa
cầu mong hạnh phúc của hai vợ chồng trường tồn, vượt qua mọi khó khăn như cây
dương xỉ. Hoa văn quả trám với bốn hình xoắn ốc với ý nghĩa “mâm cơm” bao hàm
tình đoàn kết trong một gia đình hoặc cộng đồng… Về bố cục, hoa văn này kết hợp
giữa hoa văn mâm cơm với mô típ xoắn ốc trên bốn cạnh của hình quả trám và hoa
văn mặt cồng với mặt trời chính tâm và bốn cột tỏa ra bốn hướng, thuộc nhóm bố
cục đối xứng thường có trên thổ cẩm H’Mông. Những hoạ tiết dân gian đó phản ánh
trí tưởng tượng phong phú và ước mơ trong sáng về cuộc sống thanh bình, hạnh
phúc của mỗi người H’Mông
Những họa tiết trên mỗi sản phẩm thổ cẩm cho thấy sự tài hoa, óc thẩm mỹ,
tính sáng tạo từ những đôi bàn tay lao động cần mẫn của những phụ nữ H’Mông.
Đây là một minh chứng sinh động thể hiện đức tính cần cù, chịu thương chịu khó
của đồng bào H’Mông đã vượt qua mọi khó khăn, khắc nghiệt của tự nhiên để xây
dựng đời sống ngày càng tươi đẹp. Tài liệu tham khảo lOMoAR cPSD| 61463864
https://dangcongsan.vn/tu-tuong-van-hoa/nghe-canh-cui-cua-nguoi-h-mong- 609596.html
https://nhandan.vn/det-tho-cam-net-dep-van-hoa-tren-cao-nguyen- dapost776449.html
5. Chợ tình Khâu Vai
Từ “Khau Vai” trong tiếng Tày-Nùng nghĩa là “đèo gai”. Nhưng nhiều tư liệu
dùng chệch thành “Khâu Vai”. Khách đi du lịch Hà Giang còn gọi đùa đây là chợ Phong Tình.
Nguồn gốc của chợ phiên này bắt đầu từ truyền thuyết về chàng Ba người dân
tộc Nùng và nàng Út người dân tộc Giáy. Họ yêu nhau say đắm nhưng do không
cùng dân tộc, không cùng tổ tiên hay phong tục tập quán. Hơn nữa chàng lại là con
nhà nghèo còn nàng là con gái tộc trưởng người Giáy. Bởi vậy mối tình của 2 người
bị ngăn cấm. Họ đã đưa nhau lên hang trên núi Khâu Vai để trốn, sống qua ngày.
Vậy nhưng ở dưới bản, họ hàng tộc cô Út vác cung vác nỏ sang mắng chửi nhà trai
đã đem cô bỏ nhà đi. Nhà trai cũng mang gậy, mang dao ra đánh chửi nhà gái. Từ
hang trên núi, 2 người thấy cảnh họ hàng vì mình mà đâm chém nhau, họ đau lòng
mà đành chia tay, trở về làm tròn bổn phận với gia tộc. Trước khi chia tay họ hẹn
27/3 hàng năm sẽ lại đến Khâu Vai hát cho nhau nghe, tâm sự về những chuyện xảy
ra trong suốt một năm xa cách. Ở bên nhau hết đêm, ngày hôm sau họ sẽ lại về với
cuộc sống thường ngày. Đến khi già, ngày cuối đời họ lại đến đây, ôm chặt lấy nhau,
cùng đi vào cõi vĩnh hằng. Ngày họ ra đi cũng là 27/3. Dân làng thương tiếc về mối
lương duyên trắc trở này nên đã dựng lên 2 miếu thờ Ông, thờ Bà và lấy ngày này
làm ngày họp chợ cho các đôi trai gái lỡ duyên.
Cũng từ đấy chợ tình Khâu Vai hay còn gọi là “chợ Phong lưu” được diễn ra
vào ngày 27/3 âm lịch hàng năm. Trước đây người đến chợ không nhiều, chủ yếu là
những người có mối tình trắc trở, họ yêu nhau nhưng không lấy được nhau vì những
ràng buộc của lễ giáo phong kiến, những tập tục lạc hậu. Bởi vậy ngày này là để họ
có thể tâm sự hàn huyên sau một hoặc nhiều năm xa cách, thông báo tình hình hiện
tại của nhau. Có thể hai vợ chồng cùng đến chợ, khi đến chợ chồng đi gặp người
yêu cũ của chồng, vợ đi tìm người tình cũ của vợ, không có sự ghen tuông. Họ tôn
trọng nhau, tôn trọng quá khứ của nhau, coi đấy là trách nhiệm đối với đời sống tinh
thần của nhau. Hết phiên chợ, họ lại quay về cuộc sống thường ngày, hẹn đến chợ
năm sau lại tới. Đây chính là nét đẹp văn hóa mộc mạc, giản dị của chợ tình Khâu Vai.
Trước đây chợ tình Khâu Vai là chợ của những mối tình trắc trở. Từ năm 1991
trở lại đây đến chợ có nhiều thanh niên nam, nữ các dân tộc trong vùng đến chợ để
vui xuân và cũng để tìm bạn tình, nhiều đôi đã nên vợ nên chồng trong dịp đi chợ
tình Khâu Vai. Cũng do bản sắc ca ngợi tình yêu lứa đôi trong sáng này mà chợ tình
Khâu Vai giờ được tổ chức như một lễ hội, một sản phẩm du lịch cho du khách đến
tham quan tìm hiểu văn hóa. Mà mỗi lễ hội đều sẽ có phần lễ và phần hội. lOMoAR cPSD| 61463864
Cứ vào ngày 27/3 âm lịch hàng năm, những chàng trai cô gái dân tộc nơi đây
khoác trên mình những bộ trang phục đẹp nhất để cùng đến với chợ Phong lưu Khâu Vai.
Phần lễ của chợ tình, người dân Khâu Vai sẽ dâng lễ lên miếu Ông, miếu Bà
như để nhớ về nguồn cội, những người khai đất khai hoang ra bản làng Khâu Vai và
để tôn vinh tình yêu lứa đôi. Già làng làm chủ lễ sẽ dâng hương xin phép bắt đầu lễ hội.
Đến phần hội, du khách được chìm đắm trong không khí tưng bừng náo nhiệt
của lễ hội, ngây ngất trước khung cảnh núi non hùng vĩ, rạo rực trong tiếng đàn môi
tâm tình gọi bạn du dương, trầm bổng với tiếng khèn Mông, lời hát đối đáp tỏ tình
của các chàng trai, cô gái Mông, Nùng, Giấy... Ngoài ra còn có những gian hàng
trưng bày sản phẩm thủ công mỹ nghệ, đặc sản Hà Giang để du khách có thể mua
về làm quà sau chuyến đi.
Những năm qua, để xây dựng Chợ tình Khâu Vai trở thành sản phẩm du lịch
độc đáo, hấp dẫn, đồng thời gìn giữ văn hóa truyền thống các dân tộc, huyện Mèo
Vạc đã tổ chức Lễ hội Chợ tình Khâu Vai quy mô cấp huyện với nhiều hoạt động
trải nghiệm, tái hiện lại những nét văn hóa độc đáo trong đời sống người vùng cao
như: Dệt vải lanh truyền thống, giã bánh dày, các trò chơi dân gian; Lễ dâng hương,
cầu duyên miếu Ông, miếu Bà; Lễ cầu mưa của người Lô Lô; giao lưu văn hóa, văn
nghệ dân gian truyền thống với nội dung trình diễn thổi khèn Mông, hát dân ca dân
tộc Nùng, múa trống đồng, múa kéo nhị, điệu nhảy trên cây của dân tộc Lô Lô; múa
nón, múa khăn, múa kiếm của dân tộc Giáy; hát đối giao duyên qua ống dây, đánh
yến, ném pao, tung còn, bắn nỏ, thưởng thức các món ẩm thực đặc sắc...
Trước đây nhiều người lo ngại rằng việc tổ chức Lễ hội chợ tình Khâu Vai hàng
năm quy mô cấp huyện, tỉnh với nhiều hoạt động trải nghiệm sẽ làm phai nhạt đi
nét văn hóa truyền thống các dân tộc và giá trị nguyên sơ của chợ tình phong lưu.
Nhưng thực tế, Lễ hội Chợ tình Khâu Vai hàng năm đã trở thành một “bảo tàng”
sống sinh động, tái hiện lại các hoạt động mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc trên
Cao nguyên đá; đó cũng chính là một trong những giải pháp để gìn giữ, lan tỏa văn
hóa tới cộng đồng. a. Tên gọi, nguồn gốc
b. Diễn biết, hoạt động c. Đặc điểm d. Biến đổi, ý nghĩa
Tài liệu tham khảo https://dangcongsan.vn/van-hoa-vung-sau-vung-xa-bien-
gioi-hai-dao-vung-dantoc-thieu-so/tu-truyen-thong-toi-hien-dai/len-ha-giang-
du-phien-cho-noi-tiengcho-tinh-khau-vai-635230.html
https://vietnamtourism.gov.vn/post/36447 6. Tục cướp vợ
Khi Tây Bắc bước vào mùa xuân là lúc những chàng trai Mông rộn ràng
hẹn bạn chuẩn bị cho ngày đi "cướp vợ" (còn gọi là kéo vợ). Theo nhiều người
nơi đây, tục kéo vợ có từ rất lâu đời. Những đôi trai gái đến tuổi cập kê phải lòng lOMoAR cPSD| 61463864
nhau, hẹn hò ở trên rừng, trên đường, hay phiên chợ rồi đến xế chiều, chàng trai
nhờ một vài người bạn lên điểm hẹn kéo cô gái về nhà mình.
Mặc dù đôi trai gái yêu nhau, ước hẹn chung sống cả đời nhưng không có
cô gái nào tự bước chân về nhà chồng, chàng trai phải tổ chức kéo thì cô gái mới
chịu về. Đám kéo nào càng nhiều bạn bè tham gia giúp, kéo càng quyết liệt, thì
đôi vợ chồng đó càng hạnh phúc và sống lâu, càng đông con, nhiều của...
Trong thực tế có rất nhiều đôi trai gái yêu nhau tha thiết nhưng lại không
được một hoặc cả hai bên cha mẹ đồng ý (chủ yếu là cha mẹ người con gái). Khi
cha mẹ không đồng ý mà trái gái khác tự tìm đến sống với nhau thì không những
bị coi là bất hiếu mà cuộc hôn nhân còn không được cộng đồng chấp nhận. Thế
nên tục “bắt vợ” có thể coi là một giải pháp hiệu quả cho những đôi trai gái yêu
nhau tha thiết nhưng lại gặp phải trở ngại từ phía gia đình.
Vào một ngày đẹp trời nào đó, chàng trai sẽ hẹn cô gái đến tâm tình, rồi
nhờ người thân, bạn bè bí mật giúp sức, kéo cô gái về nhà mình. Cô gái dù biết
trước mọi chuyện vẫn cảm thấy bất ngờ, kêu toáng lên giả vờ kêu cứu, khóc lóc
để người nhà mình biết đến cứu.
Người ta cho rằng người con gái bị kéo về làm vợ mà không khóc lóc, kêu
la thì bị coi là hư hỏng, bị gia đình và làng xóm coi khinh. Khi người nhà gái
mang gậy gộc đến cứu cô gái, các bạn của chàng trai sẽ xông ra đỡ đòn để chàng
trai mang cô gái về nhà. Theo lệ của người Mông khi đi “kéo vợ”, nhà trai không
được phép đánh lại nhà gái.
"Kéo vợ" không phải cứ thấy cô nào xinh xắn, giỏi giang, muốn lấy làm vợ
thì kéo về nhà mình, mà thực tế đôi nam nữ đã tìm hiểu nhau rất cặn kẽ và đã
ưng nhau. Cho nên kéo vợ chỉ là cái tục phải có để người con gái chính thức
bước chân về nhà chồng. Sau khi kéo cô gái về nhà, ba ngày sau chàng trai chỉ
việc sang nhà gái thông báo họ đã thành vợ chồng. Cho đến khi con đàn, cháu
đống, của cải dư thừa họ mới tố chức đám cưới.
Khi xuân về, tết đến cũng là dịp để thanh niên nam nữ HMông có cơ hội
gặp gỡ, tìm hiểu nhau, đó có thể là các phiên chợ cuối năm, hội hè trong những
ngày tết hay đơn giản chỉ là những buổi đi lấy củi, địu nước chuẩn bị cho một
năm mới. Mục đích đi hội không chỉ để vui, giao lưu mà các chàng trai, cô gái
Mông mong muốn tìm được người mà mình yêu, mình mong đợi. Khi đi, họ mặc
những bộ trang phục mới nhất, đẹp nhất để làm duyên. Mục đích đi hội không
chỉ để vui, giao lưu mà các chàng trai, cô gái Mông mong muốn tìm được người
mà mình yêu, mình mong đợi.
Thông thường các cô gái Mông hay chọn những chàng trai khỏe mạnh, biết
bắn nỏ, biết cưỡi ngựa, thổi khèn, gia đình lương thiện. Còn các chàng trai Mông
chọn những cô gái có thân hình chắc khỏe, nết na và biết làm mọi công việc, biết se lanh...
Sau khi đã chọn được người con gái mình mong muốn, chàng trai Mông sẽ
tổ chức kéo vợ vào một ngày nhất định. Khi cô gái cùng bạn bè xuống chợ hay
đi ở ven đường, được sự giúp sức của bạn bè, chàng trai sẽ chạy đến kéo tay cô
gái mà mình đã chọn đi theo mình. lOMoAR cPSD| 61463864
Mặc dù rất yêu chàng trai và đã biết trước sự việc nhưng cô gái vẫn tỏ ra sợ
hãi, chống cự, miễn cưỡng không theo. Thậm chí cô gái còn khóc lóc, cầu cứu
người nhà, bạn bè giúp đỡ khỏi bị kéo. Còn chàng trai thì ra sức kéo tay cô gái,
nhờ bạn bè giúp sức. Dĩ nhiên cô gái phải để chàng trai kéo là đề cao giá trị phẩm
chất của người phụ nữ người Mông.
Việc kéo vợ về cũng phải rất khéo léo để chân cô gái không chạm đất, không
có lực giằng co, không đánh trả được, miệng không cắn lại được mà không gây
thương tích cho cô gái. Khi người nhà cô gái chạy ra can thiệp thì bạn bè chàng
trai sẽ ra đỡ thay chứ không đánh trả. Sau khi đưa được cô gái về nhà thì cử một
em gái trong gia đình trông. Nửa ngày sau, gia đình chàng trai đi sang nhà gái
để dạm hỏi cùng với lễ vật nhà trai chuẩn bị, gồm một đôi gà và một bình tông
rượu. Tại đây, nhà trai sẽ thưa chuyện với nhà gái, nếu nhà gái ưng thuận và cô
gái nhận lời thì tiến hành làm lễ ăn hỏi rồi tiến tới lễ cưới.
Nếu cô gái hoặc gia đình không nhận lời thì cuộc hôn nhân sẽ không thành.
Nếu cô gái ưng chàng trai và gia đình nhà gái cũng nhận lời nhà trai thì hai bên
gia đình thống nhất, các thủ tục để ăn hỏi và tiến hành chọn ngày lành, tháng tốt
để tổ chức lễ cưới. Lễ cưới được tiến hành theo đúng phong tục của người Mông.
Khi cướp được cô gái về, nhà trai bố trí cô gái ngủ cùng với các chị em gái
của chàng trai ba đêm. Đến sáng thư ba, họ sẽ chuẩn bị làm bánh dầy để đưa cô
gái về nhà. Đoàn người đi sang nhà cô dâu gồm chú rể, bố mẹ chú rể và người
thân, chú rể phải quỳ lạy tất cả các thành viên nhà gái để làm quen.
Nhà gái cũng tổ chức bữa cơm tiếp đãi nhà trai, tại bữa cơm này người đại
diện nhà gái hỏi cô gái thật kỹ có thể chung sống cả đời với nhà trai được không.
Nếu thấy sự ưng thuận, gia đình nhà gái vui vẻ dọn tư trang của cô gái đem về
nhà chồng, mọi việc chuẩn bị cho đám cưới bắt đầu. Nếu như vừa đến nhà gái,
người con gái buồn rầu, khóc lóc van xin cha mẹ không muốn về nhà trai thì hôn
nhân coi như bị hủy bỏ.
Tục kéo vợ là một biêu hiện rõ nét trong văn hóa của người Mông. Họ
thường dùng từ kéo cô dâu hay kéo vợ. Trong cuộc sống mặc dù đôi trai gái yêu
nhau đắm đuối, từng thề thốt cùng chung sống với nhau cả đời, lúc lấy nhau thật
cũng phải tổ chức kéo thì cô gái mới chịu về nhà chồng, không có cô gái nào tự
bước chân về nhà chồng cả, ý nghĩa chính của việc kéo vợ thế hiện sự danh giá
của người con gái qua ba nghĩa chính:
Thứ nhất: Cô gái không bị xã hội đánh giá thấp hèn cam chịu chay theo con
trai một cách mù quáng hạ thấp mình để hầu hạ nhà trai.
Thứ hai: Người con trai thực sự cần lấy cô gái làm vợ thật với thiên chức
của người mẹ mới tố chức kéo vợ, thể hiện thái độ rõ ràng cụ thể.
Thứ ba: Tránh sự đồn thổi tai tiếng xấu của xã kôi và sự ngược đãi sau này
của người chồng và người nhà trai. Tài liệu tham khảo
https://luanvan.net.vn/luan-van/tieu-luan-le-hoi-tuc-keo-vo-cua-nguoi-hmong- 53462/ lOMoAR cPSD| 61463864
https://www.qdnd.vn/van-hoa/doi-song/tuc-keo-vo-net-van-hoa-co-truyen-
cuadong-bao-mong-vung-tay-bac-682330
https://vnexpress.net/tuc-cuop-vo-cua-chang-trai-mong-tren-tay- bac2953996.html
7. Lễ hội Gầu Tào
"Gầu Tào" là một lễ hội tiêu biểu nhất của người Mông với mục đích là
cúng tạ trời đất, thần linh phù hộ đã ban cho gia đình sự sức khỏe, thịnh vượng,
cầu phúc, cầu lộc ban cho những người dân trong bản Mông một năm mới mùa
màng bội thu, gia súc, gia cầm đầy chuồng. Vào dịp mở lễ hội Gầu Tào cũng là
dịp để mỗi người con dân tộc Mông trong bản đi làm ăn, đi công tác xa nay có
dịp về hội tụ với gia đình, người dân và về với bản làng để tụ họp, vui chơi chuẩn
bị bước vào một năm mới, vào một mùa vụ canh tác, sản xuất chăn nuôi mới.
Thời gian mở hội Gầu Tào thường trong khoảng từ ngày mồng 1 Tết đến
ngày 15 tháng giêng. Nếu hội tổ chức 3 năm liền thì mỗi năm tổ chức 3 ngày
liền, hội làm gộp một năm sẽ tổ chức vào 9 ngày. Lễ hội Gầu Tào gồm 2 phần lễ
và phần hội. Hội thường được UBND các địa phương tổ chức tại tất cả các làng,
các huyện nơi có đông đồng bào dân tộc Mông sinh sống. Khi tổ chức lễ hội Gầu
Tào thường được tổ chức trên một khu đất đồi tương đối bằng phẳng để thuận
lợi cho việc đi lại, vui chơi. Lễ hội Gầu Tào có thể do một gia đình, một dòng
họ hay một làng bản đứng ra tổ chức.
Ở phần lễ, trước đó gia chủ trồng một cây nêu (cây trúc hoặc cây mai), trên
thân cây có dán giấy đỏ hoặc vàng; cắt hình nhân treo lên ngọn cây nêu. Vào lễ,
gia chủ chuẩn bị một mâm cúng gồm 1 chiếc đầu lợn, 1 đôi gà trống mái tất cả
đều được luộc chín; cùng với một bát cơm, quả trứng, đĩa xôi, một bó lúa, một
bó bắp ngô và chút hương, giấy bản...
Khi vào lễ, gia chủ sẽ bắt đầu khấn tạ trời đất với 3 bài cúng khác nhau với
ý nghĩa hướng đến làng bản, lễ hội và gia đình. Bài thứ nhất là bài cảm tạ trời
đất đã che chở cho dân làng để có sức khỏe tốt và làm ăn yên ổn trong năm vừa
qua và mời thần linh về trần thưởng thức sản vật dâng cúng. Bài thứ hai là mời
các vong hồn tư phương về tham gia, che chở cho lễ hội diễn ra suôn sẻ và tránh
những điều xui xẻo. Bài thứ ba là hiến dâng cho các vị thần, nhờ phù hộ cho gia
đình, con cái khỏe mạnh, học giỏi, làm ăn thuận lợi và có nhiều thành công hơn nữa.
Sau khi gia chủ hoặc thầy mo, trưởng bản làm những thủ tục lễ bái, tất cả
bà con trong bản đều đến tập trung đông đủ. Sau khi làm lễ tạ ơn trời đất, thần
linh xong, nhân dân trong bản mới tổ chức ăn uống chúc tụng nhau.
Sau khi gia chủ làm xong các thủ tục quan trọng thì mới chuyển sang phần
hội. Trong hội Gầu Tào thì phần hội là vui nhất với rất nhiều trò chơi dân gian
hấp dẫn của dân tộc Mông, tiêu biểu như: Đánh yến, đánh sảng, đánh cù, đấu võ,
đua ngựa, bắn nỏ, múa khèn, thổi sáo, chọi chim, chọi gà, thi hát đối giao
duyên.... Hội thi hấp dẫn nhất và cũng là nơi để các chàng trai Mông trổ tài múa lOMoAR cPSD| 61463864
khèn. Trong phần thi này, những người tham gia dự thi phải thực sự tài năng, vì
phải vừa thổi khèn, vừa làm các động tác như: Lộn, quay tròn, đá chân trồng
chuối, nhảy lên cọc và đặc biệt là động tác múa khèn chống đầu lên đòn gánh
bắc ngang chảo thắng cố đang sôi sùng sục.
Lôi cuốn nhất và cũng thu hút nhiều người tham gia nhất trong lễ hội Gầu
Tào là thi hát đáp, hát ống. Ở phần thi này chủ yếu là nam, nữ thanh niên người
dân tộc Mông. Họ hát đối đáp cho đến khi có một người thua mới thôi. Nếu
người nào thua thì sẽ phải có quà cho người thắng cuộc, quà thường là một cây
sáo, hay cây khèn, một chiếc đàn môi hay cũng chỉ là một chiếc khăn tay. Qua
hội thi này, những chàng trai, cô gái thường sẽ nên duyên và tìm thấy hạnh phúc trăm năm.
Thuở ban đầu, lễ hội bắt nguồn từ việc các cặp vợ chồng hiếm muộn cầu
trời cho con cái. Khi điều cầu ước thành hiện thực, họ sẽ làm lễ và mời bà con
trong vùng đến ăn uống chung vui, cũng như cầu cho dân bản luôn gặp phước
lành. Về sau, lễ hội Gầu Tào Hà Giang đã trở thành một nét đẹp văn hóa đại diện
của con người dân tộc thiểu số ở vùng núi phía Bắc tổ quốc. Đây là dịp để lưu
giữ truyền thống tâm linh của người Mông cũng như gắn kết tình cảm của người
dân qua những câu chuyện sau một năm làm việc vất vả. Vào dịp mở lễ hội Gầu
Tào cũng là dịp để mỗi người con dân tộc Mông trong bản đi làm ăn, đi công tác
xa nay có dịp về hội tụ với gia đình, người dân và về với bản làng để tụ họp, vui
chơi chuẩn bị bước vào một năm mới, vào một mùa vụ canh tác, sản xuất chăn
nuôi mới. Lễ hội Gầu Tào cũng là hoạt động nhằm giới thiệu và bảo tồn nét văn
hóa dân gian, góp phần kết nối giữa đời sống nhân dân và hoạt động trải nghiệm
du lịch để lan tỏa đến cộng động.
Tài liệu tham khảo https://mia.vn/cam-nang-du-lich/le-hoi-gau-tao-ha-giang-le-hoi-
dac-sac-cua-dongbao-nguoi-mong-3405 https://dangcongsan.vn/van-hoa-vung-sau-
vung-xa-bien-gioi-hai-dao-vung-dan-tocthieu-so/tu-truyen-thong-toi-hien-dai/le-hoi-
gau-tao-doc-dao-cua-dan-toc-mong-ocao-nguyen-da-597525.html 8. Nhà Vua Mèo
Nhà Vua Mèo (Dinh thự Vua Mèo) hay còn được biết đến với cái tên Dinh
thự họ Vương, tọa lạc tại thung lũng Sà Phìn, xã Lũng Phìn, huyện Đồng Văn,
tỉnh Hà Giang, cách trung tâm thành phố khoảng 125km và cách cao nguyên đá
Đồng Văn nổi tiếng chỉ 15km. Căn nhà cổ này gắn liền với cuộc đời và sự nghiệp
của 2 cha con người Mông là Vua Mèo Vương Chính Đức và Vương Chí Sình
(hay Vương Chí Thành). Ông Vương Chính Đức (1886 - 1962) là người đứng
đầu chế độ thổ ty phong kiến miền núi của dân tộc Mông nên còn được gọi với
cái tên đầy quyền lực là Vua Mèo. Còn con trai ông là người đi theo con đường
cách mạng, nhờ những cống hiến cho đất nước nên được bầu làm đại biểu Quốc
hội 2 nhiệm kỳ đầu tiên. lOMoAR cPSD| 61463864
Công trình được bắt đầu xây dựng vào năm 1898 và chính thức hoàn thành
vào năm 1907, tiêu tốn một khoảng tiền khổng lồ là 15 vạn đồng bạc trắng Đông
Dương, tương đương với 150 tỷ VNĐ ngày nay. Dinh thự được thiết kế và xây
dựng bởi những người thợ Vân Nam Trung Quốc kết hợp với đồng bào người
Mông, tạo ra một công trình rộng hơn 1200m2 trên diện tích khoảng 3000m2.
Nhờ lịch sử lâu đời và giá trị văn hóa không thể bàn cãi, Dinh thự Vua Mèo đã
được Bộ Văn hóa Thể Thao và Du lịch xếp hạng di tích quốc gia năm 1993, sau
gần 1 thế kỉ tồn tại. Ngoài ra dinh thự này cũng mất đến 5 năm để khởi công xây
dựng bởi và tất cả đều được xây dựng bằng sức người chứ không hề dùng phương tiện máy móc gì.
Dinh thự Vua Mèo nằm dưới chân một thung lũng được bao bọc phía trên
bằng một vùng đất cao. Với kiểu địa thế này, toàn bộ công trình được bảo vệ bởi
những cánh cung núi gọi là thế mai rùa, hỗ trợ phòng thủ rất tốt trong thời kỳ
chiến tranh ác liệt. Trải qua hơn trăm năm tồn tại, mọi thứ trong dinh thự vẫn
vẹn nguyên như ngày đầu, tạo sự kích thích với mọi người đến đây để khám giá
ít nhất một lần trong đời.
Kiến trúc bên trong dinh thự vô cùng độc đáo, là sự kết tinh của 3 nền văn
hóa khác nhau gồm người Mông, người Pháp và người Trung Quốc. Công trình
gồm 4 căn nhà ngang, 6 căn nhà dọc chia thành 3 khu vực tiền dinh (dành cho
lính canh và nô tì), trung dinh và hậu dinh (là nơi ở và làm việc) với 64 buồng
nhỏ chia thành 2 tầng. Để đáp ứng được tiêu chí kiên cố, những người thợ xây
đã sử dụng đá xanh để xây dựng giúp dinh thự đứng vững trước kẻ thù và thời
gian. Mái vách và cột trụ được làm bằng gỗ để tôn thêm sự uy nghiêm và uyển
chuyển cho những căn phòng. Một vật liệu nữa được sử dụng là đất nung dùng
cho việc xây các mái ngói để tạo hình dễ hơn nhưng không kém phần chắc chắn.
Cho đến tận ngày nay, Dinh thự Vua Mèo là một trong số ít những công trình
đáp ứng tất cả các yêu cầu về nơi ở, làm việc và trở thành một căn cứ phòng thủ
mỗi khi có chiến sự xảy ra.
Dù có sự kết hợp của 3 nền văn hóa trong kiến trúc nhưng nhiều người nhận
xét rằng dinh thự họ Vương vô cùng hài hòa, uyển chuyển nhịp nhàng như thành
một khối thống nhất mà không hề gò bó, khiên cưỡng. Thêm vào đó, tuy là công
trình được xây dựng trên một khu đất lên tới 3000m2 nhưng Dinh thự không hề
to lớn hay đồ sộ như nhiều người vẫn hình dung vì nó được cấu tạo từ những
phân khu nhỏ, mang nét giản dị, mộc mạc của văn hóa kiến trúc dân gian. Kiểu
thiết kế với nguyên tắc trong thấp ngoài cao khiến cho tổng thể Dinh thự càng
gần gần gũi với cảnh vật xung quanh hơn nữa.
Nội thất và vật dụng gắn liền với Vua Mèo khi còn sống đều được lưu giữ
và bảo quản tốt đến tận ngày nay. Duy chỉ có một số ghế và đồ gỗ được làm bằng
thông đá, về sau đã được nhà nước ta thay đổi bằng gỗ lim và gỗ nghiến để không
bị mai một dần theo thời gian. Các cấu kiện gỗ mang bản sắc văn hóa địa phương
đậm đà bằng cách khắc những hoa văn hình bông hoa bản địa như đào, anh túc…
Những trụ nhà thì được chế tác sao cho giống quả của cây thuốc phiện, là loại
cây mà Vua Mèo kinh doanh để làm ra tiền xây dinh thự. Một số vật dụng bị ảnh lOMoAR cPSD| 61463864
hưởng bởi phương tây có trong công trình này có thể kể đến như bồn tắm sữa dê
bằng đá, cửa sổ chớp kính bên cạnh lò sưởi, lối ra vào thì được làm bằng đá hoa
cương kết nối bằng khung hoa sắt đậm chất kiến trúc Pháp.
Tồn tại cùng kiến trúc độc đáo của Dinh thự Vua Mèo là những câu chuyện
xung quanh được lưu truyền từ khi nó được xây dựng đến mãi về sau.
Tương truyền rằng, nơi ở ban đầu Vua Mèo Vương Đức Chính là trong một
chân núi cao cạnh một hẻm núi lớn. Được sự gợi ý của một thuộc hạ về việc chỗ
ở không hợp phong thủy, họ Vương nghe theo và tìm thầy am hiểu thiên văn, địa
lý để nhanh chóng tìm nơi vừa có địa thế thuận lợi, vừa có phong thủy tốt. Ông
đã sai lính sang tận bên đất Trung Hoa để mời Trương Chiếu, một người giỏi
xem tướng để xây dựng nhà cửa, sang tìm địa điểm xây dựng dinh thự. Sau một
thời gian suy xét kĩ lưỡng, thầy đã chọn Sà Phìn làm nơi ở mới cho Vua Mèo.
Trương Chiếu quả quyết rằng thứ được thung lũng Sa Phìn bao quanh kia là một
quả đồi hình con rùa, xây dựng trên lưng rùa sẽ giàu sang phú quý, cũng là mảnh
đất mà anh hùng quy tụ.
Một giai thoại bí ẩn khác liên quan đến Dinh thự Vua Mèo là vào thời người
con Vương Chí Sình. cả nhà họ Vương đã bị yểm bùa bởi một thầy phong thủy
người Hán, đến mức suýt chút nữa không có người nối dõi tông đường. Theo đó,
Vua Mèo khi còn sống bị chứng đau lưng, đã thử qua rất nhiều thần y và phương
thuốc tứ phương mà không khỏi. Một ông thầy người Hán phán rằng mộ của cha
ông đang chôn trên lưng rồng, có tội nên bề trên quở trách. Tin lời, Vua Mèo di
dời ngôi mộ đến một địa điểm khác mà ngờ rằng bị người Hán chơi xấu, bịa
chuyện để hãm hại. Vì phạm chuyện cấm kỵ, những người vợ đầu tiên của Vua
Mèo đều không thể sinh con. Đến người vợ thứ 4 mới sinh ra được một người
con trai, đặt tên là Vương Duy Thọ. Tài liệu tham khảo
https://mia.vn/cam-nang-du-lich/dinh-thu-vua-meo-dinh-thu-ho-vuong-
dia-danh-bi-an-va-doc-dao-3411#:~:text=%C3%94ng%20V
%C6%B0%C6%A1ng%20Ch%C3%ADnh%20%C4%90%E1%BB%A9c
%20(1886,2%20nhi%E1%BB%87m%20k%E1%BB
%B3%20%C4%91%E1%BA%A7u%20ti%C3%AAn.
9. Phim vợ chồng A Phủ
Bộ phim “Vợ chồng A Phủ” là một tác phẩm điện ảnh nổi tiếng của Việt
Nam, được chuyển thể từ tác phẩm văn học cùng tên của nhà văn Tô Hoài. Bộ
phim không chỉ mang lại cho người xem những cảm xúc sâu sắc về tình yêu,
cuộc sống, mà còn phản ánh những nét đặc sắc của văn hóa, đời sống vùng cao,
cùng với những vấn đề xã hội đặc biệt trong lịch sử.
Bộ phim đã được đón nhận nhiệt tình từ người xem sau khi được đạo diễn
Mai Lộc đưa lên màn ảnh vào năm 1961 và trở thành một trong những phim
kinh điển của Điện ảnh Cách mạng Việt Nam. lOMoAR cPSD| 61463864
Câu chuyện trong “Vợ chồng A Phủ” xoay quanh cuộc đời của Mị, một cô
gái người Mông, và A Phủ, một chàng trai cũng thuộc dân tộc Mông. Mị là một
cô gái xinh đẹp, khỏe mạnh, nhưng cuộc đời cô lại chìm trong đau khổ khi bị gia
đình A Sử, một tên chúa đất giàu có, bắt làm vợ. Mị phải chịu cảnh sống khổ
cực, bị áp bức, bóc lột dưới sự thống trị của chồng và gia đình chồng. Sự tự do,
hạnh phúc của Mị bị cướp đi một cách tàn nhẫn, khiến cô sống trong đau đớn và
tuyệt vọng. Tuy nhiên, khi gặp A Phủ, cô đã tìm thấy ánh sáng của tình yêu và hy vọng.
A Phủ, một chàng trai có tính cách mạnh mẽ và kiên cường, dù bị xã hội áp
bức nhưng vẫn luôn mong muốn được tự do và thoát khỏi cuộc sống nghèo khó.
Cuộc gặp gỡ và tình yêu giữa Mị và A Phủ trở thành biểu tượng của tình yêu
đích thực, một tình yêu đấu tranh vì tự do và công lý, dù phải vượt qua nhiều thử thách.
Bộ phim phản ánh một cách sâu sắc cuộc sống của người dân vùng cao,
những người chịu cảnh nghèo đói, bị áp bức và bóc lột dưới sự thống trị của các
thế lực phong kiến, như gia đình A Sử. Đây là một xã hội đầy rẫy sự bất công,
nơi những người phụ nữ như Mị không có quyền tự quyết định cuộc đời mình,
bị chà đạp và chỉ biết chịu đựng. Đặc biệt, hình ảnh Mị trong cảnh bị ép làm vợ
A Sử, không có quyền tự do, thể hiện rõ sự thống trị của phong kiến và cách mà
quyền lực này tước đoạt nhân phẩm con người.
Mặc dù cuộc sống của Mị đầy tăm tối, nhưng qua từng tình tiết, bộ phim
khéo léo miêu tả cách mà Mị, cũng như A Phủ, dần tìm thấy sức mạnh để đứng
lên chống lại sự áp bức. Khi Mị gặp A Phủ, sự động viên và tình yêu giữa họ là
nguồn động lực giúp họ cùng nhau vượt qua nghịch cảnh. Đây cũng là một thông
điệp mạnh mẽ về lòng kiên cường và sức mạnh của tình yêu, niềm tin vào sự
thay đổi dù trong hoàn cảnh ngặt nghèo.
A Phủ là vai diễn đầu tiên trong cuộc đời của đạo diễn Trần Phương. Để
vào vai thành công, ông đã phải học cách chăn bò, cưỡi ngựa của người Tà Sùa.
Ba tháng ròng rã sống chung cùng gia đình anh hùng quân đội Sùng Phai Sình
trên núi cao, cả Trần Phương và Đức Hoàn (người vào vai Mị lúc bấy giờ) gần
như đã trở thành người Mông thực thụ. Các diễn viên đã cùng lên nương làm
rẫy, cùng gùi nước đi bộ hàng mấy cây số về bản và cùng ăn ngô và có thể nói
tiếng Mông sành sỏi trong quá trình thực hiện bộ phim.
Ông từng chia sẻ: "Họ cưỡi ngựa quanh năm mà không cần cương. Mình
không quen với cách đó nên mình mẩy cứ xây xước hết, mấy lần suýt bị què
chân. Nhưng khi bộ phim hoàn thành, mình cũng kịp trở thành một tay chăn bò,
cưỡi ngựa cừ khôi không kém một chàng trai Mông nào".
Cố nghệ sĩ Đức Hoàn (1937-2003), bà được đạo diễn Mai Lộc chọn vào vai
cô Mỵ trong bộ phim Vợ chồng A Phủ (kịch bản Tô Hoài). Đây là vai diễn đầu
tiên cũng là vai diễn xuất sắc nhất của Đức Hoàn. Với vai diễn này bà đã nhận
được Bông sen Bạc tại Liên hoan phim Việt Nam lần thứ hai năm 1973.
Bộ phim do xưởng phim Việt Nam sản xuất và đã được trao giải thưởng
Bông sen bạc trong Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 2 năm 1973. lOMoAR cPSD| 61463864
Tài liệu tham khảo https://dantri.com.vn/van-hoa/vo-chong-a-phu-tu-trang-
sach-cua-to-hoai-denman-anh-rong-1405235518.htm