lOMoARcPSD| 61463864
Mục từ người Dao
1. Nghề làm giấy bản
Đây sản phẩm làm tcây vầu non, được đồng bào sử dụng trong tín ngưỡng
thờ cúng tổ tiên vào dịp lễ, tết... Cây vầu non được chẻ nhỏ, ngâm trong nước vôi
khoảng một tháng rồi rửa sạch, ngâm tiếp với nước một thời gian, sau đó đem nghiền
trộn với dung dịch chứa nhựa của một loại cây rừng để tăng độ kết dính. Từ hỗn hợp
nguyên liệu này, người dân sẽ tráng thành tấm giấy bản, đem phơi khô tạo thành sản
phẩm... Thông thường, cứ vào cuối tháng Giêng đầu tháng 2 cho đến hết tháng 3 âm
lịch, khi những cây măng vầu non bắt đầu ra cũng lúc các gia đình lên rừng cố
chặt được càng nhiều vầu non càng tốt. Sau đó, mỗi đoạn vầu được chia ra từng đoạn
dài khoảng 1m, chẻ thành 4 miếng rồi bó lại ngâm với nước vôi. Vầu phải ngâm nước
vôi ít nhất là 2 tháng, sau đó được vớt ra ngâm trong nước sạch khoảng 30 ngày. Vầu
sau khi ngâm sẽ được cho vào bể hình lòng máng dài khoảng 2m, rộng 1m
dùng chân nhồi vò cho đến khi thành bột.
Sau khi được bột, người Dao đỏ cũng sẽ vớt bột giấy cho vào chậu hòa với
nước một tỷ lệ nhất định, lượng nước bột giấy ngang nhau, nếu cho nhiều nước
quá bột giấy sẽ loãng, còn nếu cho ít nước bột giấy sẽ đặc. Tiếp theo, những người thợ
lành nghề sẽ lấy phần cây bo đã ngâm với nước trước đó nửa tháng để tạo độ kết dính.
Nước nhựa bo ấy khoắng với bột vầu tạo thành hỗn hợp màu nâu sẫm rồi mới cho vào
khuôn.
Giấy bản đẹp là những tờ giấy bản vuông vắn, xếp thành từng thếp từ tuỳ theo
kích thước cần sử dụng; giấy mỏng, có sắc vàng, độ xốp cao, dai, mịn, soi ra ngoài ánh
nắng thấy rõ những sợi tơ và có hương thơm của cây rừng.
Giấy bản thường được sử dụng trong các dịp cầu an, lễ, Tết. Giấy bản màu
vàng nhạt, dai bền, thường dùng để cắt giấy tiền, vàng hương trong tục thờ cúng,
dùng để viết chữ Nho, chữ Hán, bởi giấy dai và thấm mực nên chữ viết không bao giờ
phai.
Người Dao Đỏ ở Yên Lạc làm giấy bản từ cây trúc non, trải qua nhiều công đoạn khá
công phu. Từ tháng 3 đến tháng 4 âm lịch, người dân thu hoạch cây trúc non, loại bỏ
cành, lá, chẻ đôi cắt thành từng đoạn ngâm xuống nước vôi từ 1 - 2 tháng, vớt ra rửa
sạch rồi lại ngâm tiếp 1 - 2 tháng. Sau đó, vớt trúc lên, đập dập, cho vào cối giã và cho
xuống bể lớn đựng sẵn nước cây “chề kêu” (tiếng địa phương), khi khuấy đều sẽ được
một loại dung dịch sóng sánh màu vàng nhạt. Dùng khuôn tráng giấy làm bằng vải
nhúng xuống bể, lắc đều để dung dịch này trải đều trên khuôn vải sẽ được tấm giấy bản
ướt. Cuối cùng, bóc tấm giấy bản ướt ra phơi khô trên tấm cót hoặc vắt lên sào để giấy
bản khô.
lOMoARcPSD| 61463864
Tài liệu tham khảo https://thiennhienmoitruong.vn/kham-pha-nghe-lam-
giay-ban-truyen-thong-cuanguoi-dao.html
https://vietnamtourism.gov.vn/post/30012
2. Nghề dệt thổ cẩm người Dao
Các sản phẩm thêu thổ cẩm của con nơi đây với những hoa văn đẹp, tinh tế,
mang nhiều ý nghĩa khác nhau, thể hiện đời sống văn hóa, tín ngưỡng của dân tộc Dao.
Nguyên liệu chính để làm ra sản phẩm thêu thổ cẩm là sợi cây đay, lanh có sẵn tại địa
phương.
Quy trình dệt thổ cẩm hoàn toàn thủ công, bằng chính đôi tay khéo léo tmỉ
của người phụ nữ, tđo tạo ra nhiều sản phẩm như quần áo, khăn và các vật dụng trong
gia đình (chăn, địu, tấm trải gối, trải giường... ). Đến nay, thổ cẩm còn được làm thành
đồ lưu niệm, trang trí dành cho khách du lịch.
Điều tạo nên nét đặc sắc cho váy áo của người Dao họa tiết hoa văn trang trí
dựa trên sự kết hợp nghệ thuật in sáp ong với cắt may, thêu và nhuộm chàm. Cùng với
thêu trực tiếp váy áo, phụ nữ Dao Tiền thường thêu từng mảnh vải nhỏ, sau đó, khâu
đắp nổi vào váy áo.
Đầu tiên phải đi lấy chàm, ngâm, lá, sau đó, vớt btiếp tục cho vôi vào
đánh tan, lắng đọng sẽ được cốt chàm. Cốt chàm hòa cùng nước sạch, rồi lọc lấy nước,
dùng để nhuộm ra những mảnh vải màu đen tím. Công đoạn nhuộm vải thường mất
thời gian do vải được ngâm trong nước chàm. Cứ khoảng 20 phút, vải được vớt ra vắt
khô rồi đem phơi nắng. Vải khô lại cho vào ngâm tiếp trong nước chàm. Việc này lặp
đi lặp lại nhiều lần cho đến khi có được màu chàm ưng ý. Một tấm vải màu đẹp, bền
thường phải mất từ 20 - 30 ngày mới nhuộm xong.
Độc đáo nhất là nghệ thuật in sáp ong. Sau khi nấu chảy sáp ong, họ sẽ dùng bút
vẽ, nhúng vào sáp ong rồi vẽ trực tiếp lên vải hoặc dùng khuôn in. Khi hoàn thành bức
vẽ họ mới mang vải đi nhuộm chàm.
Để sáp ong tốt in trang phục, tới mùa Hạ và mùa Thu, phụ nữ bản Sưng sẽ vào
rừng tìm sáp ong rừng ong khoái. Khi in vải, sáp ong được lọc lại cho thật sạch
không bị lẫn tạp chất, rồi cho vào bát hoặc đĩa nhỏ để trên lên than hoa, giữ mức lửa
nhỏ nhằm duy trì độ nóng giúp sáp in mịn, sắc nét. Phụ nữ bản Sưng dùng công cụ in
thân trúc vót mỏng uốn thành các khung nhỏ, ống nứa tròn nhỏ dụng cụ chữ T
bằng đồng nhỏ chấm vào sáp ong để in các họa tiết trên vải. Việc in hoa văn đòi hỏi sự
tỉ mỉ, cẩn trọng để đường in lên vải đều, đẹp, không bị cong, lệch.
Lúc nhàn rỗi, phụ nDao Tiền thường tự tay nhuộm chàm, vẽ sáp ong, thêu
may quần áo cho các thành viên trong gia đình. Hoa n in trên vải trang phục thể hiện
lOMoARcPSD| 61463864
sự khéo léo, tỉ mỉ, cẩn trọng của mỗi người. Người con gái Dao Tiền về nhà chồng, chỉ
cần nhìn vào trang phục là biết cô dâu khéo léo, chăm chỉ và thu vén cho gia đình.
Hiện nay, tổ thổ cẩm Giao Tiền 12 thành viên tham gia làm sản phẩm thổ cẩm
thêu tay thủ công, in hoa văn sáp ong như túi xách, khăn đội đầu, bộ quần áo truyền
thống, váy, ví… giá từ 200 - 500 nghìn đồng/sản phẩm. Đây là các mặt hàng lưu niệm
mang nhiều giá trị văn hóa đặc trưng của người Dao Tiền (Đà Bắc), phục vụ nhu cầu
mua sắm của du khách khi đến du lịch bản Sưng. Tổ thổ cẩm bản Sưng đã tạo việc
làm ổn định và thu nhập kinh tế cho nhiều lao động địa phương.
Tài liệu tham khảo https://congly.vn/nghe-det-tho-cam-noi-gin-giu-cac-gia-tri-van-
hoa-cua-nguoi-daotien-381816.html https://dantocmiennui.vn/nghe-det-tho-cam-net-
van-hoa-dac-sac-cua-nguoi-dao-
tienpost340378.html#:~:text=Ngh%E1%BB%81%20d%E1%BB%87t%20th%E1%B
B %95%20c%E1%BA%A9m%20g%E1%BA%AFn,v%E1%BB%81%20c%E1%BB
%99i%20ngu%E1%BB%93n%20d%C3%A2n%20t%E1%BB%99c.
https://vietnamtourism.gov.vn/post/31463
3. Nghề làm thuốc Nam người Dao
Theo bà con người dân tộc Dao Quần Chẹt nơi đây, nghề thuốc muốn duy trì và
phát triển được thì không chỉ dừng lại việc sử dụng dược liệu để bốc thuốc, còn
bắt đầu từ công việc tìm kiếm cây thuốc, chế biến, bắt bệnh và bốc thuốc.
Việc tìm được cây thuốc sẽ quyết định được một phần thành công của mỗi lương
y, lương y nào có khả năng tìm kiếm được nguồn dược liệu tốt thì người đó sẽ có điều
kiện chữa bệnh tốt hơn. Khi tiến hành chế thì các lương y lại phải cẩn thận từng
khâu, từng giai đoạn.
Nếu trước kia, các loại cây có sử dụng làm thuốc thường được người Dao dùng
tươi hay phơi khô, nấu lấy nước tắm hoặc uống. Còn ngày nay, thuốc lấy rừng về
được sơ chế thành năm loại gồm: Thuốc khô, cao, thuốc nhỏ, thuốc đắp, thuốc bột và
đã có nhiều cải tiến, nâng cấp sản phẩm sơ chế, đóng gói, ngày càng tiếp cận rộng rãi
với thị trường. Thuốc Nam của người Dao được sử dụng để chữa nhiều loại bệnh xương
khớp, bệnh gan, thận, dạ dày, thần kinh, bệnh ngoài da, răng miệng, thuốc cho phụ nữ
sau sinh…
Nguyên liệu làm thuốc chủ yếu hái trong rừng hoặc ở ven suối, ít khi trồng sẵn.
Người Dao Đỏ tìm thân, lá, vỏ cây, dây leo, củ, rễ cây… của nhiều loại cây, thảo dược
khác nhau đem về sơ chế thành các bài thuốc Nam cổ truyền. Cách phân biệt từng loại
cây dựa theo hình dáng, ngoài những cây thuốc có thể gọi bằng tên, còn rất nhiều loại
lOMoARcPSD| 61463864
cây nhận dạng được nhưng không biết tên phổ thông của nó, chỉ biết chắc rằng những
cây thuốc này có thể chữa được bệnh. Mỗi bài thuốc được làm từ nhiều loại dược liệu
khác nhau, do đó, đòi hỏi phải có sự kiên trì, cẩn trọng cái tâm của người làm thuốc
mới theo được nghề.
Qua tìm hiểu, thuốc nam của người Dao Đỏ về bản theo quy trình chế biến
thủ công: Dược liệu sau khi thu hái từ rừng về sẽ được rửa sạch và phơi khô, sau đó sơ
chế theo nhiều cách như thái lát, băm chặt, cắt khúc thành những kích cỡ khác nhau
tùy theo đặc điểm, tính chất của từng loại sao cho phợp với mục đích sử dụng nhưng
vẫn giữ nguyên được chất lượng. Sau khi đã qua sơ chế, dược liệu được đem phơi k
dưới nắng để tránh bị ẩm mốc rồi mới đến công đoạn cuối cùng là trộn dược liệu.
Người Dao Đỏ thường dựa vào thực trạng bệnh, sức khỏe, tuổi tác của bệnh nhân
cắt thuốc Nam để chữa. Việc chế biến thuốc tùy từng loại, vị thuốc gnhỏ, có
thuốc nấu thành cao, thuốc đắp, thuốc bột; một số vị đem đun lấy nước tắm gội, rửa
như các bệnh ngứa, lở loét... Nhiều cây thuốc, vị thuốc không tên gọi chỉ gọi
theo công dụng chữa bệnh như: thuốc chữa đau xương, chữa đau bụng, chữa đau răng...
Tài liệu tham khảo https://baocaobang.vn/gin-giu-nhung-bai-thuoc-nam-co-
truyen-cua-nguoi-dao-do-
3173071.html https://baotintuc.vn/y-te/bao-ton-phat-trien-nghe-thuoc-nam-cua-
nguoi-dao-duoichan-nui-ba-vi-20240509111336233.htm
https://tapchicongthuong.vn/magazine/mo--kho-bau--thuoc-nam-nguoi-
dao114306.htm
4. Tục thờ cúng Bàn Vương
Nguồn gốc: Dân tộc Dao lịch sử thiên di rất lâu đời dần được chia thành
nhiều nhóm nhỏ, sự biến đổi về tiếng nói, trang phục. thế, về tín ngưỡng, các loại
hình văn hóa dân gian truyền thống, hay nhà cũng sự khác biệt. Thế nhưng, các
nhánh người Dao lại một điểm chung, đó việc duy trì tục thờ cúng Bàn Vương.
Theo truyền thuyết, Bàn Vương vốn Long Khuyển Hồ, nhờ lập được công lao to lớn,
giết được Cao Vương (xâm lược nước Bình Vương) nên được vua Bình Vương trọng
thưởng và gả công chúa cho. Họ sinh được 12 người con (6 trai, 6 gái) đều được vua
Bình Vương ban sắc thành 12 h(Bàn, Lam, Mãn, Uyển, Đặng, Triệu, Lương, Tống,
Phượng, Đối, u, Lý). Khi vua Bình Vương chết, Bàn ơng lên ngôi nhưng vẫn giữ
nếp sống giản dị, dạy người Dao cách trồng lúa, dệt vải…. Sau khi Bàn Vương qua đời,
con cháu đời đời duy trì tổ chức lễ cúng để tưởng nhớ trở thành tục thờ cúng Bàn
Vương.
lOMoARcPSD| 61463864
Tùy vào mỗi ngành Dao thời gian thực hiện lễ cúng khác nhau, nhưng nhìn
chung tục cúng Bàn Vương bản giống nhau. Người Dao đỏ 5 năm cúng một lần,
nhưng họ trong ngành Dao đỏ 9 năm cúng một lần, dòng h12 năm cúng một
lần. Người Dao áo i ít khi cúng Bàn Vương trong lễ ng riêng, thường cúng Bàn
Vương trong các lễ làm chay, lễ cấp sắc hay cúng Tổ tiên.
Hàng năm, từ ngày 15 tháng Mười đến 30 tháng Chạp Âm lịch, con cháu người
Dao đỏ lại thay phiên nhau làm Chủ lễ cúng tổ Bàn Vương. Người Dao đỏ tại Hồ
Thầu thực hành nghi lễ phổ biến ở 2 hình thức: “Đàng Ton” - lễ cúng quy mô dòng họ
và lễ cúng trong từng gia đình.
Nghi lễ “Đàng Ton” 12 dòng họ tham gia, mỗi dòng họ cử ra 1 nam, 1 nữ đồng
trinh dâng huơng lễ cho Bàn Vương. Các dòng họ luân phiên làm Chủ lễ. Trường
hợp bị thiên tai mất mùa hoặc điều kiện kinh tế gia đình gặp khó khăn, đồng bào làm
lễ cúng nhỏ khất với Bàn Vương, năm sau mùa màng bội thu sẽ làm lễ cúng chính thức.
Thông thường, nếu gia đình nào trong dòng họ nuôi được con lợn nái đra chỉ
một con lợn đực thì họ coi đó con lợn của Bàn Vương (hay còn gọi lợn thần) sẽ
được cử làm Chủ lễ năm đó và có trách nhiệm chăm sóc đặc biệt cho lợn thần (nuôi ở
chuồng riêng), đến cuối năm sẽ mổ cúng dâng cho Bàn Vương. Ngoài ra, lễ này được
tổ chức đối với các dòng họ coi Bàn Vương là ông tổ của mình và tự tập hợp nhau lại
tổ chức cúng theo truyền thống với thời gian diễn ra khá dài.
Lễ cúng Bàn Vương trong từng gia đình được tiến hành kết hợp trong các lễ cúng
khác của gia đình nlễ cấp sắc, lễ cúng cơm mới, cúng vía lúa, làm chay… Phần nghi
lễ không phải mời thầy cúng người đàn ông chủ nhà đều đã được làm lễ cấp sắc nên
họ đủ khả năng thực hiện trong quy gia đình. Ngoài ra, người Dao đỏ tổ chức cúng
Bàn Vương khi gia đình gặp điều không may như: ốm đau, dịch bệnh, mất mùa... theo
kiểu giải hạn, song hình thức này không nhiều.
Để tổ chức lễ cúng Bàn Vương, cần có các lễ vật như: 01 con lợn làm sạch để cả
lòng, tiết; 01 con trống; 12 cặp bánh dày (gói chuối buộc từng cặp); 01 túm gạo
được buộc bằng vải trắng (sài chiên); Giấy bản theo cúng bình thường và 7 siên (chìn
shún) (được thầy cúng cắt hình đục, dập theo hình hoặc khuôn chữ…); 02 chum
rượu (01 cúng Bàn Vương, 01 cúng Tổ tiên và các vị Thần).
Đàn cúng tế Bàn Vương được lập bằng gỗ gian giữa nhà, bên cạnh bàn thờ tổ
tiên. Trên đàn tế trang trí giấy nhiều màu, tranh thờ, vải, nhiều đồ vật trang trí kết
từ tre nứa…
Trước khi cúng Bàn Vương, các thầy cúng gia đình, dòng htham gia lễ phải
kiêng 7 ngày, kể từ khi gia chủ đến mời dự lễ vchồng phải cách ly... Khi lấy tranh,
gia chủ cũng phải đun nước tắm sạch sẽ, xong mới được vào nơi nơi cất giữ tranh thờ
lOMoARcPSD| 61463864
- được coi là chốn linh thiêng đặc biệt. Tất cả mọi người dự lễ đều phải ăn chay, không
được ai quở mắng, chê bai nhau…
Lễ cúng Bàn Vương thường được tiến hành theo trình tự: Gia chủ, gia đình
được dòng họ cử làm Chlsẽ đi mời ba thầy cúng chính đến gia đình làm lễ. Thầy
cúng thứ nhất gọi là Thầy cả (người Dao Đỏ gọi là vìn nhủng sai) sẽ cúng trả lợn thần
cho Bàn Vương các đời Tổ tiên; thầy cúng thứ hai (người Dao Đỏ gọi sai pành
piê, người Dao Tiền gọi là diang gòa con) sẽ cúng cầu khấn sức khỏe, Thần lúa, Thần
chăn nuôi; thầy cúng thứ ba sẽ cúng trả các lễ vật cho các vị Thần và Tổ tiên. Ba thầy
cúng mời theo 3 thầy khác để phụ làm lễ. Sau khi đã bàn bạc trao đổi, thầy xem ấn định
ngày tổ chức lễ cúng Bàn Vương, Thầy cả sẽ đến gia đình trước đlàm một số nghi
thức như: Cắt giấy, dập chữ dưới đất… đồng thời, thầy cúng trình báo lên bàn thờ Tổ
tiên các lễ vật theo phong tục trước ngày lễ.
Ngày làm lễ, các thầy cúng đến nhà gia chủ làm lễ, lập đàn cúng. Gian giữa nhà
treo bộ tranh Tam Thanh, 2 bên bàn thờ Tổ tiên treo hai bộ tranh Tam Thanh của thầy
cúng. Các thầy cúng làm phép tẩy uế, vẩy nước phép khắp nhà, làm phép trấn an, dán
các bùa phép (viết bằng chữ Nôm Dao trên giấy bản) quanh nhà, rồi khấn mời ma Bàn
Vương, Tổ tiên và các Thần cùng âm binh của các thầy về dự lễ.
Trước bàn thờ, nghi lễ đầu tiên dâng lên Tổ tiên là bữa cơm chay. Các thầy cúng
thay mặt gia chủ thỉnh mời 3 vị Tam thanh, Bàn Vương cùng các Tổ tiên, Thổ địa về
dự lễ.
Sau khi đã chuẩn bị các đồ lễ, các thầy cúng được mời đến làm lễ lập đàn khấn
Bàn Vương, gia tiên các thần thánh đến chứng giám buổi lễ. Con lợn cúng thần được
đưa lên đàn cúng để cúng gia tiên và Bàn Vương.
Sau đó nghi thức dâng hương đại diện của 12 dòng họ Dao, 12 cặp nam, nữ
đồng trinh lần lượt dâng hương, dâng lễ vật và đứng sau các thầy vái lạy, đón chào các
“ma” Tổ tiên, “maBàn Vương các Thần, Thánh. Trên đàn cúng, sắp đặt lễ vật gồm:
một con lợn (lợn thần) đã mổ, một bát gạo, một bát nước, một chai rượu, một ít tiền âm
phủ, 5 chiếc chén và 5 đôi đũa. Sáu thầy cúng ngồi vào hai ghế dài, song song đối
diện hai bên đàn cúng. Thầy cả trịnh trọng khấn, tế lễ, dâng lợn thần cho Bàn Vương,
cầu mong Bàn Vương phù hộ cho con cháu trong gia đình Chủ lễ gia tộc người Dao.
Sau đó, các thầy phụ lần lượt đọc những bài cúng kể về sự khai thiên lập địa, sự tích
nạn hồng thủy, quá trình chuyển cư đầy gian truân của người Dao… Tiếp đó, các thầy
đọc các tích truyện kể về công ơn đã sinh ra các họ người Dao của Bàn Vương. Những
người phụ lễ bày tiếp gạo, rượu, bánh… lên bàn cúng gần ban thờ Tổ tiên. Sau đó,
Thầy ccúng tế lễ Bàn Vương, các bậc Tổ tiên, các vThần, Thánh dòng họ của gia
chủ. Tiếp theo các điệu múa được mường tượng hóa như: múa bắt rùa, múa
lOMoARcPSD| 61463864
chuông…, với 6 chiếc áo, các thầy cúng lần lượt tái hiện lại những điệu múa cổ, một
nghi thức không thể thiếu trong lễ cúng Bàn Vương.
Sau khi cúng tế Bàn Vương, Tổ tiên, các vThần, Thánh của gia chủ và 12 dòng
họ của người Dao, các thầy cúng hóa tiền, vàng cùng hát bài tiễn đưa, vái chào từ
biệt Bàn Vương, các bậc Tổ tiên, các vị Thần, Thánh về lại cõi dương gian.
Như vậy, lễ cúng Bàn Vương trải qua 7 bước: (1) mời Bàn Vương thần linh
về dự lễ; (2) thổi báo hiệu Bàn Vương đến nhận lễ; (3) dâng hương, dâng lễ tạ ơn
Bàn Vương; (4) múa gọi nhờ thiên linh thổ địa nghênh đón Bàn Vương và Kể sơ lược
tiểu sử, vóc dáng của Bàn Vương từ khi ra đời; (5) múa gậy thể hiên  àn Vương, các
thần linh, thổ địa xuống đàn nhận lễ vật; (6) ca hát vui cùng Bàn Vương đàn cúng;
(7) hóa vàng tiễn Bàn ơng về trời.
Sau khi cúng Bàn vương, tất cả dân làng quây quần cùng nhau dự bữa cơm cộng
cảm. khi đó thầy cúng thổi tù và mời gọi Bàn Vương và các vị Thần linh về hưởng lễ,
chứng minh lễ vật lòng thành của 12 dòng hdâng lên. Các thầy rung chuông tập
hợp mọi người cúng vào múa chuông, múa gậy thể hiện sức mạnh đoàn kết đánh đuổi
ngoại xâm các nghi lễ xua đuổi ma xấu ác, đem lại bình yên may mắn cho con
cháu.
Ngoài ra, sau nghi lễ, cộng đồng người Dao còn tổ chức trò chơi vật chày, một
trò chơi mang màu sắc huyền nhưng cũng đem lại sự kịch tính nhiều tiếng cười
cho những người tham gia. thể nói, vật chày một trò chơi dân gian thể hiện sức
mạnh, sự kết hợp khéo léo, sự bí ẩn của cả người làm phép và người vật. Sau khi thầy
cúng làm phép nhờ Thần linh giúp đỡ, dù rất đông người cùng tham gia nhưng không
thể ấn nổi đầu chày chạm đất. Điều này thể hiện việc bản làng năm đó được các vị thần
phù hộ, nâng đỡ.
Tục thờ cúng Bàn Vương mang tính biểu tượng cho sự thống nhất về nguồn gốc
của người Dao, thể hiện sự biết ơn với Tổ tiên đã sinh ra họ. Lễ cúng n Vương nhằm
cầu cho mưa thuận gió hòa, hoa màu tươi tốt, cho con cháu người Dao đời đời ấm no,
hạnh phúc. Thực hành nghi lễ nhằm thỏa mãn nhu cầu tâm linh của người dân; giúp
gắn kết cộng đồng và bảo lưu các giá trị văn hóa truyền thống. Lễ cúng Bàn Vương là
dịp để mọi người gặp gỡ giao lưu, trao đổi tình cảm, được cùng nhau sinh hoạt cộng
đồng tạo nên sđoàn kết gắn bó, đồng thời môi trường giáo dục truyền thống cho
thế hệ trẻ, trao truyền các bài cúng, hình thức thực hiện nghi lễ… cho thế hệ kế cận,
góp phần bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa của người Dao đỏ.
Tài liệu tham khảo https://tttt.ninhbinh.gov.vn/ctmtqg-phat-trien-kt-xh-vung-dong-
bao-dan-toc-thieuso-va-mien-nui/le-cung-ban-vuong-cua-nguoi-dao-do-3588.html
lOMoARcPSD| 61463864
https://svhttdl.bacgiang.gov.vn/chi-tiet-tin-tuc/-/asset_publisher/xqtf4Gcdcef5/
content/tuc-tho-cung-ban-vuong-cua-nguoi-dao-ben-suon-tay-yen-tu?
inheritRedirect=false#:~:text=T%E1%BB%A5c%20th%E1%BB%9D%20c
%C3%BAng%20B%C3%A0n%20V%C6%B0%C6%A1ng%20l%C3%A0%20n
%C3%A9t%20sinh%20ho%E1%BA%A1t%20t%C3%ADn,t%E1%BB%91t
%20%C4%91%E1%BA%B9p%20trong%20cu%E1%BB%99c%20s%E1%BB
%91ng.
5. Lễ cấp sắc
Lễ cấp sắc nghi lễ quan trọng, công nhận sự trưởng thành đối với người đàn
ông tất cả các ngành Dao. Trong lễ cấp sắc, người thụ lễ được đặt pháp danh (tên
âm). Sau khi trải qua nghi lễ này, người đàn ông Dao được công nhận là con cháu Bàn
Vương, được trao quyền làm thầy, được cấp âm binh và được thờ cúng tổ tiên.
Theo tiếng địa phương, cấp sắc được gọi là quá tang hay quá tăng. Quá nghĩa là
từng trải hoặc qua thử thách; tang là đèn hoặc vật dụng dùng để soi sáng. Bởi vậy, quá
tang nghĩa trải qua lễ soi đèn, xuất phát từ việc thắp đèn soi sáng người thụ lễ khi
làm lễ cấp sắc. Ngoài ra còn có các tên gọi khác như: say cháy, chay thầy xấy hay phùn
voòng nghĩa là soi đèn hay thụ đèn; tạt phat búa (lễ đặt pháp danh) hay chấu đàng
(lễ cúng ông tổ người Dao); tẩu sai (lễ cấp chứng chỉ để làm thầy ng); chẩu lung hìn
(lễ cầu phúc cho dòng họ); mài sai tía (có thầy cúng đỡ đầu); chẩu tôm lung hìn (lễ cầu
phúc lớn); lễ cấp tinh, lập tịch, cấp phép hay cấp pháp.
Lễ cấp sắc thường tổ chức cho con trai từ 10 tuổi trở lên thực hiện vào thời
gian nông nhàn. Để chuẩn bị lễ cấp sắc, gia đình phải nuôi lợn, tích lương thực, thực
phẩm, vàng mã và các thứ khác để làm lễ và cỗ mời bà con, họ hàng...
Lễ cấp sắc của các ngành Dao thực hiện một số nghi lễ, như: lễ nhận thầy; lập
ban thờ mới; mời thần linh nhà thầy cúng đi làm lễ; mời thần linh, tổ tiên nhà người
được cấp sắc về làm lễ; lễ cấp đèn; lễ đặt tên; ldạy m thầy/truyền phép…Tuy nhiên,
mỗi ngành lại có những khác biệt riêng.
Với người Dao Tiền, trước ngày thụ lễ, con thầy (người được cấp sắc) phải
với bố, không tiếp xúc với mẹ trong 3 ngày. Mỗi ngày, người được cấp sắc chỉ ăn một
bát cơm và rau, không được ăn thịt. Sau khi làm lễ xong mới được ăn thịt tiếp xúc
với mọi người.
Tham gia lễ cấp sắc gồm: người được cấp sắc, 02 thầy cúng chính, 01 thầy cúng
phụ, 03 người đọc thơ, 03 nam và 03 nữ thanh niên hát, họ ng nội, ngoại người được
cấp sắc, người giúp việc cho buổi lễ người dân trong bản. Gia đình tự chọn thầy
lOMoARcPSD| 61463864
cúng, mặc định thầy cả là người bên họ nhà ngoại, thầy hai là người bên họ nhà nội và
thầy giúp việc.
Nghi lễ được tiến hành theo các bước:
Lễ nhận thầy cả thầy hai: trước làm l7 ngày, người được Cấp sắc cùng bố
tới nhà thầy cả và thầy hai làm lễ bái thầy. Khi đi mang theo một gói muối (gói vào lá
dong) đến nhà thầy đặt gói muối lên bàn thờ, xin phép được nhận thầy.
Trước khi đi làm lễ, thầy cúng thắp hương xin phép tổ tiên nmình, cầu phù hộ
xin đưa thần linh đến nhà người thụ lễ đlàm lễ cấp sắc. Khi đi, hai thầy cúng mang
theo tranh Tam Thanh, tranh múa, trang phục thầy cúng, bộ âm dương, gậy ma và có 3
người hát nữ đi cùng. Đến nơi, thầy lập bàn thờ mới trong nhà của người được cấp sắc,
đặt cạnh bàn thờ tổ tiên. Trên ban đặt 02 mâm lễ của thầy cả và thầy hai. Phía trên ban
thờ thần linh treo tranh Tam Thanh và tranh a của 2 thầy. Hai thầy làm lễ tại bàn thờ
tổ tiên của gia chủ, thông báo việc đến làm lễ, xin âm dương cho phép tiến hành lễ cấp
sắc. Người giúp việc dùng chổi quét từ trong nhà ra ngoài sân để đuổi cái xấu ra ngoài.
Thầy cả thầy hai mặc trang phục thầy cúng để làm lễ. Người được cấp sắc
đứng đối diện với thầy hai, bố của người cấp sắc thì đứng đối diện với thầy cả. Hai
thầy làm lễ đuổi đi những cái xấu, mời rượu thần linh, chia tiền vàng để cảm tạ thần
linh. Tiếp theo, mọi người cùng múa xoè để mừng lễ cấp sắc.
Thầy cả làm lễ cấp đèn cho người được cấp sắc. Thầy cả đứng trước ban thờ khấn
xin thầy của mình thần linh cấp đèn cho người được cấp sắc, mời rượu thần linh,
gieo quẻ xin âm ơng, chia tiền cho thần linh. Thầy làm lễ xua những điều xấu ra khỏi
người được cấp sắc bằng cách cầm thanh kiếm đi vòng quanh người được cấp sắc, dùng
kiếm hất mẩu giấy trên mũ ra rồi gieo quẻ âm dương, rồi cầm mẩu giấy, tay đặt lên đầu
gối, chân co lên nhảy ra cửa, vứt mẩu giấy đó đi (vứt đi cái xấu xa). Trong lúc
thầy cả xua đuổi điều xấu, thầy hai làm lđón điều tốt, điều thiện về cho người được
cấp sắc.
Thầy cả làm lễ cấp hương cho người được cấp sắc, cúng xin thần linh cho người
đó sau này khi đi làm thầy có thể được thắp hương.
Hai thầy làm lễ cấp đèn cho người được cấp sắc. Đối với người Dao tiền Sơn
La, lễ cấp sắc thường làm 03 đèn, chỉ trưởng họ mới được tổ chức lễ cấp sắc 12 đèn.
Thầy cả đứng trước ban thờ xin với tổ tiên thần linh xin được lấy tên cho
người được cấp sắc (tên do gia đình dự kiến trước). Thầy cúng xin âm dương tìm sự
đồng ý của tổ tiên và thần linh cho tên mà gia đình chọn.
Đặt tên xong thầy cả làm lễ cấp phép cho người cấp sắc được phép sử dụng các
đồ nghề của thầy cúng như: khăn buộc, tranh múa, tranh Tam Thanh, trống, chiêng, tù
lOMoARcPSD| 61463864
và, chuông, que múa… Mỗi lần cấp phép, thầy cúng sẽ cầm 1 đồ nghề, đọc xong bài
cúng, rồi trao đồ nghề đó cho người được cấp sắc.
Thầy cả làm lễ cấp phép cho người được cấp sắc từ nay có thể đi làm thầy. Thầy
cả chia 2/3 gạo tiền về phía mình, 1/3 về người được cấp sắc. Sau đó, hai thầy trò
mỗi người cầm một đầu tấm vải làm đôi, mỗi người một nửa. Thầy cả kiểm tra số
mặt sấp ngửa của tiền rơi xuống, nếu ngửa nhiều là tốt. Lấy tấm vải đó gói số gạo được
chia lại treo lên ờng, để 7 ngày sau, người được cấp sắc thầy cả phải mang phần
gạo của mình nấu cơm một mình phải ăn hết số cơm đó cùng với rau và gừng (để
cho tình thầy tkhăng khít như bố con từ giờ về sau người được cấp sắc sẽ gọi thầy
của mình là bố).
Lễ cho người được cấp sắc sau này thể xem bói: Thầy cả thực hiện nghi lễ
truyền nghề, để học trò sau này có thể xem bói.
Học múa: Thầy hai người được cấp sắc mặc trang phục thầy cúng, đội
thầy cúng, 1 tay cầm que múa, 1 tay cầm chuông, đứng trước ban thờ, thầy hai đọc bài
cúng xin thần linh về chứng giám. Hai thầy trò cùng nhảy múa theo nhịp nhạc trống,
chiêng, bài múa được lặp đi, lặp lại nhiều lần.
Múa tống thần đất thần rừng: Người giúp việc cho thầy cả (thầy ba) làm lễ
tiễn các thần ra về trước, rồi tiếp tục cúng, múa tiễn các vị thần linh khác.
Cúng thần linh cầu lộc, cầu tài cho người được cấp sắc: Thầy cả và thầy ba làm
lễ, sau mỗi bài cúng thầy lấy bánh đưa cho người giúp việc và đặt xuống, múc rượu đổ
vào 2 bát (lặp lại 3 lần). Cúng xong người giúp việc lấy tiền vàng trên ban thờ xuống
để làm lễ chia tiền vàng cho thần linh mang hóa. Thầy cả cầm 1 bát rượu trên bàn
đưa cho bố và ông nội của người được cấp sắc mang đặt lên ban thờ, mời tổ tiên uống
rượu. Cúng xong các thầy cúng người giúp việc lấy bánh nếp chia cho mọi người
cùng hưởng lộc.
Lễ nhảy đồng: Thầy cả ngồi ghế ng 2 mảnh âm dương vào nhau theo điệu
nhạc, thầy ba đứng lên múa theo nhạc trống, chiêng đến lúc nhập đồng. Khi đó, gia
đình phải cử một người đứng chặn cửa ra vào để thầy ba không nhảy ra ngoài, sau
hay bị ốm đau.
Cúng cầu may mắn, sức khoẻ cho người được cấp sắc: Gia đình dọn dẹp ban thờ
thần linh, chuẩn bị lễ gồm 2 con lợn khoảng hơn 100kg đã mổ, để sống, đặt nằm úp
bụng xuống. Ban thờ thần linh đặt một con lợn, 1 bát gạo, 7 cái chén (7 ông đại thần),
1 cây sáo, giấy lệ phí cho đại thần, 1 bát hương, 1 cái bánh nếp. Một con đặt dưới
ban thờ tổ tiên. 3 người hát nam, 3 người hát nữ đứng đằng sau thầy cả cùng làm lễ.
Thầy cđứng đọc i cúng, hết một đoạn thầy hất tay về phía trước và vãi gạo vào con
lOMoARcPSD| 61463864
lợn để cầu xin vận may, tài lộc cho người được cấp sắc. Thầy hai đứng trước ban thờ
cúng tổ tiên cầu xin vận may, tài lộc cho người được cấp sắc, rồi làm lễ chia tiền vàng,
múc rượu mời tổ tiên.
Đọc thơ ca truyện cổ, hát Páo dung: Ba người hát nữ đứng hát ở chỗ cây tre đan
vào nhau được chuẩn bị sẵn, 3 người hát nam đứng góc nhà hát đối đáp. Nhóm hát
các trường đoạn từ khi con người được sinh ra, dạy dỗ đến khi trưởng thành như thế
nào, hát mừng cho tên mới của người được cấp sắc. Trong khi đó, gia chủ chuẩn bị một
mâm cơm đặt ở giữa nhà. Thầy cả làm lễ mượn thần linh những bài thơ ca, truyện cổ,
xin phép tổ tiên, thần linh được đọc. Những người đọc thơ (thường những người già
biết chữ Nôm Dao, biết lời cúng) thầy cả, thầy hai thầy ba ngồi vào mâm, rót
rượu chúc nhau. Lấy dong phủ lên mâm cơm đó. Những người đọc thơ ca mang
những quyển sách ghi chép thơ ca, truyện cổ đặt lên bàn, miệng đọc, tay cầm chuông
lắc đều theo nhịp trong khoảng 2 - 3 giờ. Sau đó, họ mời nhau uống rượu, ăn cơm.
Lễ xnhững kiêng kị: Gia chủ chuẩn bị một mâm lễ, bố của người được cấp sắc
đặt 3 cái bánh nếp lên ban thờ của tổ tiên. Thầy cả đọc bài cúng xin tổ tiên thần linh
xoá đi những cái kiêng kị cho người được cấp sắc. Thầy cả đứng trước mâm lban
thờ thần linh để làm lễ hồi thơ ca. Cúng xong thầy cả làm lễ chia tiền vàng cho tổ tiên
thần linh, rồi mang tiền vàng đi hóa. Ông nội của người được cấp sắc cúng mời tổ
tiên về dùng bữa cùng gia đình. Sau khi làm lễ này xong, người được cấp sắc quay trở
lại cuộc sống bình thường, không phải kiêng kỵ nữa.
Lễ tống đại thần ra về: Thầy cả đứng trước ban thờ tổ tiên, tay cầm mảnh âm
dương đọc bài cúng xin tiễn thần linh (đại thần). Cúng xong thầy cả cầm bát hương và
bát rượu mang ra ngoài cửa đổ đi. Lễ cấp sắc kết thúc, 2 con lợn được xẻ thịt chia phần
cho những người giúp việc, riêng thầy cả và thầy hai mỗi người sẽ được 1 cái đầu 1
đùi lợn để mang vnhà làm cơm mời mọi người trong bản dùng bữa mừng bản thân đi
làm lễ thành công.
Với người Dao Quần chẹt, trước đây, lễ cấp sắc thường chỉ làm cho một người
nhưng nay để tiết kiệm chi phí, người dân có thể tổ chức cho 3 người một lần (phải là
số lẻ), thể cùng bản hoặc khác bản trong một xã. Gia đình của người làm lễ cấp
sắc dựng và trang trí nhà ma ngoài sân của nhà người làm lễ. Tại bản Khe Lành, xã
Mường Thải, huyện PYên, do làm lễ cấp sắc cho 3 người nên nma được dựng tại
1 khu đất trống ở gần nhà 3 người được cấp sắc. Nhà ma làm bằng gỗ hoặc tre, quây
bạt xung quanh (trước đây nhà ma phải quây toàn bbằng y cỏ gianh), lợp mái bằng
gianh, trên cửa buộc 1 nắm cây gianh, lòng nhà chia thành 3 gian để làm 3 bàn thờ của
thầy cả. Sau khi người con trai được làm lễ cấp sắc, nhà ma hóa thành con rồng bay lên
trời (cây cỏ gianh tượng trưng cho vẩy rồng) để bảo vệ, không cho hồn xấu ảnh hưởng
lOMoARcPSD| 61463864
đến người được cấp sắc. Thầy cúng lập 3 bàn thờ cho 3 người được cấp sắc. Sau khi
lập bàn thờ, trong những ngày tiếp theo, mỗi ngày 3 người được cấp sắc phải làm lễ
cúng trước bàn thờ với sự trợ giúp của thầy cúng và 3 người giúp việc vào sáng, trưa,
tối đến khi kết thúc lễ cấp sắc.
Khi các thầy nhận lời làm lễ cho người được cấp sắc, tại nhà thầy cả, thầy làm lễ
cúng và ra ngoài lấy từng cây cỏ gianh phi về hướng nhà ma để dẹp ma quỷ, dọn đường
cho thầy đến nhà ma. Tiếp theo, thầy cả làm lễ giấu thân để ma không nhìn thấy thầy.
Lễ xong, thầy dùng tờ giấy gói ít gạo nhét vào vách nhà để bảo vệ nhà thầy không
bị tà ma, khi đi làm lễ cấp sắc xong mới mở ra.
Người được cấp sắc được đưa đến nhà ma, các thầy thắp nến soi chọn những sợi
tóc cao nhất trên đỉnh đầu của người làm lrồi buộc lại thành 3 túm, mỗi túm có 7
sợi. Đồ đệ của thầy cả đến bàn thờ thắp 3 ngọn nến đặt trước 3 bức tranh Tam Thanh
để thắp sáng và làm bay đi các tạp uế cùng với những tội lỗi của người làm lễ. Sau đó,
thầy th4, thứ 5 che kín người được làm lễ cấp sắc bằng áo sa vàng, cầm nến soi
cho các thầy cắt tóc. Thầy thứ 3 cắt 1 trong 3 lọn tóc đã chọn của người cấp sắc. Trong
khi thầy cắt tóc thì các đồ đệ của thầy cả thầy 2 đánh chiêng, trống, múa theo kiểu
từng nhịp bước chân đi. Tương tự thầy 3, thầy cả thầy 2 cũng làm như thế để cắt tóc
cho đồ đệ mới (thầy cả cắt sau cùng). Ba lọn tóc đã cắt được để vào 1 bát nước lã trên
bàn thờ ặt trước tranh Tam Thanh), thầy 3 cởi áo sa trùm vào cho người được cấp
sắc đỡ người đó đứng dần lên. Lúc này, bố của người được cấp sắc sẽ đứng ngang
hàng với con thầy thứ 3 3 người nhảy. Khi nhảy xong, thầy thứ 2, 3 sẽ lấy dấu
đóng vào trán, hai vai, n chân, bàn tay, đầu gối, ngực lưng của người được làm lễ.
Lễ cấp sắc đã xong. Giấy trang trí trong nhà ma được đem đi đốt. Gia đình người làm
lễ mời cả bản ăn cơm. Sau 9 ngày làm lễ cấp sắc, gia đình làm lễ cấp sắc mới được dỡ
nhà ma.
Lễ cấp sắc có nhiều cấp bậc khác nhau, từ thấp đến cao. Hiện các ngành Dao chỉ
phổ biến cấp sắc 3 đèn. Cấp sắc 12 đèn (thập nhị tinh) chỉ duy trì cho các ông trưởng
họ của các ngành Dao với nghi lễ phức tạp và mất nhiều thời gian, công sức chuẩn bị.
Theo khảo sát điền dã, người Dao Đỏ gọi lễ quá tăng để chỉ nghi lễ cấp sắc 3 đèn (bậc
thấp nhất) và 36 binh mã; lễ ngũ tinh được cấp 5 đèn và 36 binh mã; lễ thất tinh được
cấp 7 đèn 72 binh mã; lễ cửu tinh được cấp 9 đèn 72 binh mã; lễ thập nhị tinh
(bậc cao nhất) được cấp 12 đèn và 120 binh mã. Tuy nhiên, cấp sắc 12 đèn của dân tộc
Dao đến nay rất ít thực hiện, do đó, số lượng thầy cúng cao tay (người đã trải qua lễ
cấp sắc 7 đèn, 12 đèn) không nhiều.
Lễ cấp sắc một trong những nghi lễ độc đáo được lưu truyền từ nhiều đời
nay trong cộng đồng dân tộc Dao. Trong lễ cấp sắc, người được cấp sắc những người
lOMoARcPSD| 61463864
tham dự thể hiểu hơn về lịch sử, cội nguồn của mình từ những bài cúng, tích truyện
thầy cúng đọc, từ đó, nâng cao ý thức bảo tồn những phong tục, tập quán tốt đẹp
của người Dao. Lễ cấp sắc phản ánh đời sống tinh thần phong phú của người Dao, thể
hiện qua các điệu múa, hát đối đáp - páo dung, tranh vẽ, hình cắt giấy… Lễ cấp sắc có
vị trí quan trọng trong đời sống tinh thần, tín ngưỡng của đồng bào Dao, giúp họ
thêm sức mạnh tinh thần vượt qua khó khăn trong cuộc sống, hướng tới điều tốt đẹp
trong tương lai. Lễ cấp sắc hướng người đàn ông Dao cũng ncác thành viên trong
cộng đồng biết tôn sư trọng đạo, kính trọng cha mẹ, luôn làm điều thiện.
Tài liệu tham khảo https://dsvh.gov.vn/nghi-le-cap-sac-cua-nguoi-dao-
1326 https://nhandan.vn/le-cap-sac-cua-nguoi-dao-post749910.html
6. Lễ nhảy lửa
Tục nhảy lửa của người Dao đỏ (gọi theo tiếng Dao Tích tâẩu) ra đời từ khi
tộc Dao xuất hiện. Truyện kể lại rằng, khi người Dao sống trong rừng thì loài hổ (beo)
thường đến phá phách làng bản ăn thịt dân làng. Cứ mỗi khi loài vật này xuất hiện
lại đem đến chết chóc, đen đủi cho đồng bào. Người Dao đỏ đã m mọi cách để tiêu
diệt loài vật phá hoại đó nhưng không thành công. Cuối cùng, những người đàn ông
trong làng đã họp nhau lại, chọn một ngày đầu năm trong lịch can chi ngày Dần;
cùng nhau tập trung đốt lửa và nhảy a qua đống lửa, bốc than tung lên người để
nhằm xua đi những điều đen đủi, không may mắn và cầu tài, cầu lộc, cầu may mắn cho
gia đình, buôn làng trong năm mới. Một trong những quy định trong ngày Dần này là
không một ai trong làng được nhắc đến từ "beo", vì họ cho rằng như vậy sẽ đem lại sự
không may mắn cho gia đình. Từ đó, tục lệ Nhảy lửa đã ra đời, lưu truyền và trở thành
tục lệ truyền thống, không thể thiếu trong đầu năm mới của đồng bào Dao đỏ.
Lễ Nhảy lửa (tiếng Dao gọi Pút tồng), thường được tổ chức từ đầu năm âm
lịch đến ngày 15 tháng Giêng. Đây là nghi lễ truyền thống của một sdân tộc miền núi
phía Bắc, trong đó có người Dao đỏ ở xã Nậm Đét (Bắc Hà). Lễ hội này được tổ chức
theo quy hộ gia đình khi người con, cháu vừa làm xong lễ Cấp sắc. Đây là lễ hội
truyền thống lớn, quan trọng hàng đầu trong năm của người Dao đỏ, mang nhiều nét
văn hóa truyền thống độc đáo, kỳ lạ.
Lễ nhảy lửa được tổ chức trên một khoảng sân rộng. Trong phần nghi lễ của
người Dao đthì vật phẩm dâng cúng không thể thiếu các loại như: Cơm, gạo, rượu,
gà luộc, nước suối, vải mộc màu trắng, hương, tiền làm bằng giấy bản, đèn hoặc nến…
Tất cả các sản phẩm được trưng bày trên một bàn gỗ dài. Ngay giữa sân, một đống củi
to đã được thanh niên mang đến, xếp gọn gàng.
Khi đống củi đã trở thành một đống than hồng rừng rực cháy, thầy cúng bắt đầu
làm nghi lễ. Niên phụ lễ bài cúng thần lửa được cất lên bằng những câu cầu may
lOMoARcPSD| 61463864
cho một năm mới, một cuộc sống bình yên, hạnh phúc, cầu mong “mưa thuận, gió hòa”,
muôn nhà khỏe mạnh. Cầu mong thần lửa mang hơi ấm của mình về sưởi ấm n làng,
về vui cùng lễ hội. Theo quy định dân gian, tham gia nhảy lửa phải nam giới
thể phải sạch sẽ. Trước khi nhảy lửa, họ phải đun nước tắm rửa sạch sẽ. vậy, nhảy
lửa thường được thực hiện vào lúc tối, tức sau khi những người tham gia đã ăn uống
xong và tắm rửa sạch sẽ.
Công tác chuẩn bị.
Bàn th: Bàn thờ của tục Nhảy lửa gồm bàn thờ chính bàn thờ phụ.
Bàn thờ chính: Đây chính là bàn thờ tổ tiên của nhà ông Đặng Nguyên Học. Bàn thờ
này kết hợp là bàn thờ miếu trong ngày Nhảy lửa, gồm có ba tầng:
Tầng trên cùng kín bốn mặt, mặt cửa cúng chỉ hở một hình bán nguyệt là nơi
thờ cúng. Ở đây có một bát hương được đốt bằng vỏ cây thơm, một chén rót nước,
để cạnh bát hương là năm chén đựng rượu được xếp hàng ngay cửa bàn thờ. Ngoài
ra còn dán mấy bức tranh Bàn cổ cỡ nhỏ và một số dụng cụ quan trọng của việc thờ
cúng như kèn, chuông…
Tầng thứ 2: Kín ba mặt, tầng này dùng để các đồ dùng phục vụ cho cúng l
gồm vỏ cây thơm, ấm chén, đồ làm tiền ma, chũm chọe…
Tầng thứ 3: Tất cả các mặt đều để trống, được nối liền với chân.
Bàn thờ phụ: một chiếc bàn dài, gồm một bát hương làm bằng ống tre,
năm bát gạo và năm chén rượu, tiền vàng làm bằng giấy bản.
Những vật chuẩn bị trong tục Nhảy lửa: Nhà chủ miếu sẽ chuẩn bị đủ củi đốt,
nhưng mỗi người đến tham gia nhảy đều mang một thanh củi với mục đích góp phần
của mình để chuẩn bị cùng nhau vui chơi ngày xuân, nhảy lửa xua đuổi đen đủi, cầu
may mắn cho cả năm.
Thẻ âm dương: Được làm bằng một gióng vầu hoặc tre đã được chẻ làm đôi.
Trống.
Tiến trình.
Đi thắp hương miếu làng (síp mỉu miến): Sau khi chọn xong ngày Dần đầu tiên
của năm thì chủ miếu thông báo với con trong bản cùng nhau chuẩn bị. Đúng 7h
sáng, tất cả người Dao đỏ trong bản theo chủ miếu để vào miếu thắp hương. Miếu thờ
vị thần có công khai thiên, lập địa ra bản người Dao đỏ, một người có công lớn đối với
đồng bào Dao đỏ ở thôn Giàn Dầu 1.
Khi đi cúng thì tất cả dân làng phải đóng góp lễ vật mang ra miếu; mỗi người
mang theo một con gà trống của gia đình nuôi với hàm ý, mỗi một gia đình đều mang
lễ vật do chính nhà mình làm ra để đến tạ ơn thần miếu đã khai sinh ra bản và bảo vệ,
lOMoARcPSD| 61463864
phù hộ cho dân làng trong suốt một năm. Cùng với lễ vật là một con trống, họ còn
mang một mảnh giấy bản dùng để cắt tiền âm một chút tiền lẻ là tiền dương. Đoàn
đi đến miếu do vị chủ miếu dẫn đầu, tay trái cầm con trống của gia đình mình, tay
phải cầm gậy sừng trâu. Miếu được dựng trong một khu rừng cấm, cột bằng gỗ, mái
lợp gianh, trong đó đàn cúng bày ba bát hương. Bát hương giữa cúng thần hộ mệnh
cho từng thành viên trong làng gọi canh man, bát bên cạnh phía trái cúng thần hộ
mệnh gia súc, gia cầm gọi tạy man, còn bát hương bên phải cúng ma trời phù hộ thần
lúa gạo hoa màu gọi cong man. Khi đến nơi, chủ miếu bắt đầu cúng thỉnh thần
linh vị thần miếu về chứng giám cho lòng thành của dân làng. Trên tay chủ miếu
cầm thanh âm dương, rồi ông vừa khấn, vừa xin quẻ; nếu một thanh úp, một thanh ngửa
là được, còn nếu cả hai cùng úp hoặc cùng ngửa thì phải xin lại đến khi nào được mới
thôi. Tiếp sau đó, mọi người cùng nhảy múa. Họ nhảy theo vòng tròn, tay đưa
con vòng lên trên đầu, xuống dưới rồi sau đó đưa sang hai bên. Cuối cùng, tất cả
cùng cắt tiết vào bát rượu đã để sẵn, rồi dâng lên chủ miếu uống một ngụm để
mong thần miếu chứng giám lòng thành phù hộ sức khỏe cho mọi người trong làng,
phù hộ cho công việc chăn nuôi làm ăn, sinh sống gặp nhiều may mắn trong năm
mới. Sau đó, chủ miếu khấn thỉnh, mời thần linh miếu về gia đình mình để dự lễ
Nhảy lửa, xua đuổi mọi đen đủi, cầu may mắn cho dân làng.
Nghi lễ Nhảy lửa: Sau khi mọi người làm đầy đcác thủ tục miếu thì chủ
miếu dẫn đầu đoàn đi thẳng về nhà mình để thực hiện lễ Nhảy lửa, một phong tục
từ lâu đời của đồng bào Dao. Vị chủ miếu phải người có tuổi và có uy tín trong làng,
được dân làng bầu lên. Nếu khi vchủ miếu gcả hay ốm đau, bệnh tật thì dân làng
lại bầu người khác làm chủ miếu để phụ trách việc cúng tế thực hiện lNhảy lửa
vào ngày Dần tháng đầu tiên của năm mới. Lễ vật được bày ra trên chiếc bàn dài, gồm
bát hương, tiền vàng làm bằng giấy bản, gạo, rượu một túi vải màu trắng buộc
đỏ, bên trong hai hào bạc trắng một nắm gạo. Đây là một lễ vật quan trọng
không thể thiếu trong nghi lễ y, theo quan niệm của người Dao đỏ, không lễ vật
này thì sẽ không xin phép được thần cho tổ chức và mời về dự lễ Nhảy lửa.
Vào đúng 15h chiều, đây giờ được ông chủ miếu coi là giờ tốt để cử hành lễ.
Ông Đặng Nguyên Học chủ miếu, đồng thời cũng được coi là thầy mo của buổi lễ,
thay mặt dân làng làm lễ xin phép tổ tiên, xin phép thần lửa, thần nước phù hộ cho mọi
người; nhờ thần linh bảo vệ cho những người nhảy lửa không bị ngọn lửa thiêu cháy.
Đồng thời, thầy mo cũng mời các thần linh về dự vui cùng dân làng. Sau một hồi làm
lễ, chủ miếu gieo quẻ xin âm dương nếu mặt úp mặt ngửa tức là thần linh chưa đồng ý
phải kiên trì gieo cho đến khi cả hai mặt cùng úp hoặc cùng ngửa mới thôi. Cùng lúc
đó, tất cả những người tham gia buổi lễ lấy củi chất thành đống lớn giữa nhà chủ
miếu. Tiếp sau đó, chủ miếu xuống gian bếp chính châm lửa từ bếp của nhà mình. Bếp
lOMoARcPSD| 61463864
lửa của nhà chủ miếu đã được vợ của chủ miếu đốt từ trước bằng củi thơm. Củi được
đốt trong nhà chủ yếu là củi quế và những loại củi thơm trong rừng.
Những người tham gia nhảy lửa phải đàn ông từ mười hai tuổi trở lên, thân thể
phải sạch sẽ, không một mhay những ô uế dính vào người phải đi chân đất.
Những người phụ nữ Dao đkhông được phép tham gia vào tục này. Khi đống lửa
cháy to bắt đầu than thì vị chủ miếu sẽ khấn để nhập đồng người này sẽ
người đầu tiên nhảy vào đống than; lúc đầu nhảy một chân vòng quanh đống than lửa
chín vòng, mỗi vòng ứng với bốn kiểu. Theo quan niệm của người Dao đỏ, ba mươi
sáu kiểu tương ứng với ba mươi u binh bảo về thần linh; sau đó, dùng hai tay bốc
than ở đống lửa đang cháy phủ lên người. Song song với làm lễ, một nhóm thanh niên
trong bản chọn những cây củi to, chắc chụm lại một đống để đốt lấy than phục vụ cho
việc nhảy. Sau khi chủ miếu nhảy lửa xong, tất cả những người đàn ông trong bản tham
gia lễ lần lượt ngồi vào chiếc ghế dài chuẩn bị hầu lễ. Ông chủ miếu khấn liên hồi, tay
trái vãi gạo vào các chàng trai đang ngồi hầu lễ, tay phải gõ hai quẻ vào nhau, tạo nên
âm thanh càng lúc càng gấp p, thôi thúc các chàng trai. Khi c thầy, bậc trên về ủng
hộ nhập đồng vào những người tham gia nhảy lửa thì người họ lắc càng lúc càng
mạnh; họ thấy trong người càng ngày càng lạnh run lên những hơi ấm của đống lửa
thôi thúc họ bật lên. Thời điểm này báo hiệu họ sắp sức mạnh sự dũng cảm để
nhảy vào than hồng đang ở độ rực nhất, nóng nhất. Họ bắt đầu bật lên, cúi người nhảy
quanh đống lửa khoảng hai vòng hô to đlàm thủ tục. Tiếp đó, từng người
một, đi chân trần nhảy vào đống than hồng đang cháy rực; khi nhảy xong phải lộn một
vòng bốc than phủ lên người. Làm xong những động tác đó thì người ấy quay về
chỗ làm lễ. Mỗi lần chỉ được nhảy một người, khi người này nhảy lửa xong thì mới đến
người tiếp theo, chứ không nhảy lẫn lộn. Người nọ nối tiếp người kia đến khi than hồng
tắt lịm dưới những đôi chân trần mới thôi. Có một điều kỳ lạ là, tất cả mọi người tham
gia nhảy lửa đều không bị bỏng chân tay, cháy quần áo và mắt ai cũng lờ đờ.
Cuối buổi lễ Nhảy lửa, ông chủ miếu lại làm lễ tạ ơn các vị thần linh đã về dự
chung vui cùng dân làng và hóa vàng để đưa các vị thần linh trở về thiên đường. Đến
khi than tắt lịm thì tất cả mọi người ra về. Những người tham gia vào nhảy lửa đều tin
tưởng đã xua đuổi được mọi đen đủi, không may mắn của năm cũ; cầu được may
mắn tài lộc, cuộc sống bình yên, hạnh phúc, mưa thuận, gió hòa, mùa màng bội thu
năm mới cho gia đình cả buôn làng; cầu mong thần lửa phù hộ, che chở cho dân
làng.
Đối với cộng đồng Dao đỏ nơi đây, từ đời này qua đời khác, tục Nhảy lửa đã trở
thành món ăn tinh thần không thể thiếu trong đời sống tín ngưỡng của đồng bào. Tục
lệ này tuy còn mang màu sắc tâm linh, huyền bí nhưng nó là một minh chứng cho sức
mạnh, cho quá trình lao động, cho ý thức chế ngự thiên nhiên để sinh tồn và phát triển
lOMoARcPSD| 61463864
của con người. Đây không chỉ là ngày vui của bản làng, không chmang ý nghĩa gắn
kết cộng đồng còn bảo lưu được rất nhiều giá trị văn hóa truyền thống qua nhiều
thế hệ. Đây là một di sản văn hóa phi vật thể đặc sắc của cộng đồng người Dao rất cần
được nghiên cứu và bảo tồn.
Tài liệu tham khảo https://www.yenbai.gov.vn/noidung/tintuc/Pages/chi-tiet-
tin-tuc.aspx?
ItemID=15&l=Baotonvanhoaphivatt https://doingoailaocai.vn/vi/bai-
viet/16810#:~:text=L%E1%BB%85%20Nh
%E1%BA%A3y%20l%E1%BB%ADa%20(ti%E1%BA%BFng%20Dao,l
%C3%A0m%20xong%20l%E1%BB%85%20C%E1%BA%A5p%20s%E1%BA
%AFc.

Preview text:

lOMoAR cPSD| 61463864
Mục từ người Dao
1. Nghề làm giấy bản
Đây là sản phẩm làm từ cây vầu non, được đồng bào sử dụng trong tín ngưỡng
thờ cúng tổ tiên vào dịp lễ, tết... Cây vầu non được chẻ nhỏ, ngâm trong nước vôi
khoảng một tháng rồi rửa sạch, ngâm tiếp với nước một thời gian, sau đó đem nghiền
và trộn với dung dịch chứa nhựa của một loại cây rừng để tăng độ kết dính. Từ hỗn hợp
nguyên liệu này, người dân sẽ tráng thành tấm giấy bản, đem phơi khô tạo thành sản
phẩm... Thông thường, cứ vào cuối tháng Giêng đầu tháng 2 cho đến hết tháng 3 âm
lịch, khi những cây măng vầu non bắt đầu ra lá cũng là lúc các gia đình lên rừng cố
chặt được càng nhiều vầu non càng tốt. Sau đó, mỗi đoạn vầu được chia ra từng đoạn
dài khoảng 1m, chẻ thành 4 miếng rồi bó lại ngâm với nước vôi. Vầu phải ngâm nước
vôi ít nhất là 2 tháng, sau đó được vớt ra ngâm trong nước sạch khoảng 30 ngày. Vầu
sau khi ngâm ủ sẽ được cho vào bể có hình lòng máng dài khoảng 2m, rộng 1m và
dùng chân nhồi vò cho đến khi thành bột.
Sau khi có được bột, người Dao đỏ cũng sẽ vớt bột giấy cho vào chậu hòa với
nước lã một tỷ lệ nhất định, lượng nước và bột giấy ngang nhau, nếu cho nhiều nước
quá bột giấy sẽ loãng, còn nếu cho ít nước bột giấy sẽ đặc. Tiếp theo, những người thợ
lành nghề sẽ lấy phần cây bo đã ngâm với nước trước đó nửa tháng để tạo độ kết dính.
Nước nhựa bo ấy khoắng với bột vầu tạo thành hỗn hợp màu nâu sẫm rồi mới cho vào khuôn.
Giấy bản đẹp là những tờ giấy bản vuông vắn, xếp thành từng thếp từ tuỳ theo
kích thước cần sử dụng; giấy mỏng, có sắc vàng, độ xốp cao, dai, mịn, soi ra ngoài ánh
nắng thấy rõ những sợi tơ và có hương thơm của cây rừng.
Giấy bản thường được sử dụng trong các dịp cầu an, lễ, Tết. Giấy bản có màu
vàng nhạt, dai và bền, thường dùng để cắt giấy tiền, vàng hương trong tục thờ cúng,
dùng để viết chữ Nho, chữ Hán, bởi giấy dai và thấm mực nên chữ viết không bao giờ phai.
Người Dao Đỏ ở Yên Lạc làm giấy bản từ cây trúc non, trải qua nhiều công đoạn khá
công phu. Từ tháng 3 đến tháng 4 âm lịch, người dân thu hoạch cây trúc non, loại bỏ
cành, lá, chẻ đôi và cắt thành từng đoạn ngâm xuống nước vôi từ 1 - 2 tháng, vớt ra rửa
sạch rồi lại ngâm tiếp 1 - 2 tháng. Sau đó, vớt trúc lên, đập dập, cho vào cối giã và cho
xuống bể lớn đựng sẵn nước cây “chề kêu” (tiếng địa phương), khi khuấy đều sẽ được
một loại dung dịch sóng sánh màu vàng nhạt. Dùng khuôn tráng giấy làm bằng vải
nhúng xuống bể, lắc đều để dung dịch này trải đều trên khuôn vải sẽ được tấm giấy bản
ướt. Cuối cùng, bóc tấm giấy bản ướt ra phơi khô trên tấm cót hoặc vắt lên sào để giấy bản khô. lOMoAR cPSD| 61463864
Tài liệu tham khảo https://thiennhienmoitruong.vn/kham-pha-nghe-lam-
giay-ban-truyen-thong-cuanguoi-dao.html
https://vietnamtourism.gov.vn/post/30012
2. Nghề dệt thổ cẩm người Dao
Các sản phẩm thêu thổ cẩm của bà con nơi đây với những hoa văn đẹp, tinh tế,
mang nhiều ý nghĩa khác nhau, thể hiện đời sống văn hóa, tín ngưỡng của dân tộc Dao.
Nguyên liệu chính để làm ra sản phẩm thêu thổ cẩm là sợi cây đay, lanh có sẵn tại địa phương.
Quy trình dệt thổ cẩm hoàn toàn thủ công, bằng chính đôi tay khéo léo và tỉ mỉ
của người phụ nữ, từ đo tạo ra nhiều sản phẩm như quần áo, khăn và các vật dụng trong
gia đình (chăn, địu, tấm trải gối, trải giường... ). Đến nay, thổ cẩm còn được làm thành
đồ lưu niệm, trang trí dành cho khách du lịch.
Điều tạo nên nét đặc sắc cho váy áo của người Dao là họa tiết hoa văn trang trí
dựa trên sự kết hợp nghệ thuật in sáp ong với cắt may, thêu và nhuộm chàm. Cùng với
thêu trực tiếp váy áo, phụ nữ Dao Tiền thường thêu từng mảnh vải nhỏ, sau đó, khâu đắp nổi vào váy áo.
Đầu tiên phải đi lấy lá chàm, ngâm, ủ lá, sau đó, vớt bỏ bã tiếp tục cho vôi vào
đánh tan, lắng đọng sẽ được cốt chàm. Cốt chàm hòa cùng nước sạch, rồi lọc lấy nước,
dùng để nhuộm ra những mảnh vải màu đen tím. Công đoạn nhuộm vải thường mất
thời gian do vải được ngâm trong nước chàm. Cứ khoảng 20 phút, vải được vớt ra vắt
khô rồi đem phơi nắng. Vải khô lại cho vào ngâm tiếp trong nước chàm. Việc này lặp
đi lặp lại nhiều lần cho đến khi có được màu chàm ưng ý. Một tấm vải có màu đẹp, bền
thường phải mất từ 20 - 30 ngày mới nhuộm xong.
Độc đáo nhất là nghệ thuật in sáp ong. Sau khi nấu chảy sáp ong, họ sẽ dùng bút
vẽ, nhúng vào sáp ong rồi vẽ trực tiếp lên vải hoặc dùng khuôn in. Khi hoàn thành bức
vẽ họ mới mang vải đi nhuộm chàm.
Để có sáp ong tốt in trang phục, tới mùa Hạ và mùa Thu, phụ nữ bản Sưng sẽ vào
rừng tìm sáp ong rừng và ong khoái. Khi in vải, sáp ong được lọc lại cho thật sạch
không bị lẫn tạp chất, rồi cho vào bát hoặc đĩa nhỏ để trên lên than hoa, giữ mức lửa
nhỏ nhằm duy trì độ nóng giúp sáp in mịn, sắc nét. Phụ nữ bản Sưng dùng công cụ in
là thân trúc vót mỏng uốn thành các khung nhỏ, ống nứa tròn nhỏ và dụng cụ chữ T
bằng đồng nhỏ chấm vào sáp ong để in các họa tiết trên vải. Việc in hoa văn đòi hỏi sự
tỉ mỉ, cẩn trọng để đường in lên vải đều, đẹp, không bị cong, lệch.
Lúc nhàn rỗi, phụ nữ Dao Tiền thường tự tay nhuộm chàm, vẽ sáp ong, thêu và
may quần áo cho các thành viên trong gia đình. Hoa văn in trên vải trang phục thể hiện lOMoAR cPSD| 61463864
sự khéo léo, tỉ mỉ, cẩn trọng của mỗi người. Người con gái Dao Tiền về nhà chồng, chỉ
cần nhìn vào trang phục là biết cô dâu khéo léo, chăm chỉ và thu vén cho gia đình.
Hiện nay, tổ thổ cẩm Giao Tiền có 12 thành viên tham gia làm sản phẩm thổ cẩm
thêu tay thủ công, in hoa văn sáp ong như túi xách, khăn đội đầu, bộ quần áo truyền
thống, váy, ví… giá từ 200 - 500 nghìn đồng/sản phẩm. Đây là các mặt hàng lưu niệm
mang nhiều giá trị văn hóa đặc trưng của người Dao Tiền (Đà Bắc), phục vụ nhu cầu
mua sắm của du khách khi đến du lịch ở bản Sưng. Tổ thổ cẩm bản Sưng đã tạo việc
làm ổn định và thu nhập kinh tế cho nhiều lao động địa phương.
Tài liệu tham khảo https://congly.vn/nghe-det-tho-cam-noi-gin-giu-cac-gia-tri-van-
hoa-cua-nguoi-daotien-381816.html https://dantocmiennui.vn/nghe-det-tho-cam-net- van-hoa-dac-sac-cua-nguoi-dao-
tienpost340378.html#:~:text=Ngh%E1%BB%81%20d%E1%BB%87t%20th%E1%B
B %95%20c%E1%BA%A9m%20g%E1%BA%AFn,v%E1%BB%81%20c%E1%BB
%99i%20ngu%E1%BB%93n%20d%C3%A2n%20t%E1%BB%99c.
https://vietnamtourism.gov.vn/post/31463
3. Nghề làm thuốc Nam người Dao
Theo bà con người dân tộc Dao Quần Chẹt nơi đây, nghề thuốc muốn duy trì và
phát triển được thì không chỉ dừng lại ở việc sử dụng dược liệu để bốc thuốc, mà còn
bắt đầu từ công việc tìm kiếm cây thuốc, chế biến, bắt bệnh và bốc thuốc.
Việc tìm được cây thuốc sẽ quyết định được một phần thành công của mỗi lương
y, lương y nào có khả năng tìm kiếm được nguồn dược liệu tốt thì người đó sẽ có điều
kiện chữa bệnh tốt hơn. Khi tiến hành sơ chế thì các lương y lại phải cẩn thận ở từng khâu, từng giai đoạn.
Nếu trước kia, các loại cây có sử dụng làm thuốc thường được người Dao dùng
tươi hay phơi khô, nấu lấy nước tắm hoặc uống. Còn ngày nay, thuốc lấy ở rừng về
được sơ chế thành năm loại gồm: Thuốc khô, cao, thuốc nhỏ, thuốc đắp, thuốc bột và
đã có nhiều cải tiến, nâng cấp sản phẩm sơ chế, đóng gói, ngày càng tiếp cận rộng rãi
với thị trường. Thuốc Nam của người Dao được sử dụng để chữa nhiều loại bệnh xương
khớp, bệnh gan, thận, dạ dày, thần kinh, bệnh ngoài da, răng miệng, thuốc cho phụ nữ sau sinh…
Nguyên liệu làm thuốc chủ yếu hái trong rừng hoặc ở ven suối, ít khi trồng sẵn.
Người Dao Đỏ tìm thân, lá, vỏ cây, dây leo, củ, rễ cây… của nhiều loại cây, thảo dược
khác nhau đem về sơ chế thành các bài thuốc Nam cổ truyền. Cách phân biệt từng loại
cây dựa theo hình dáng, ngoài những cây thuốc có thể gọi bằng tên, còn rất nhiều loại lOMoAR cPSD| 61463864
cây nhận dạng được nhưng không biết tên phổ thông của nó, chỉ biết chắc rằng những
cây thuốc này có thể chữa được bệnh. Mỗi bài thuốc được làm từ nhiều loại dược liệu
khác nhau, do đó, đòi hỏi phải có sự kiên trì, cẩn trọng và cái tâm của người làm thuốc mới theo được nghề.
Qua tìm hiểu, thuốc nam của người Dao Đỏ về cơ bản theo quy trình chế biến
thủ công: Dược liệu sau khi thu hái từ rừng về sẽ được rửa sạch và phơi khô, sau đó sơ
chế theo nhiều cách như thái lát, băm chặt, cắt khúc thành những kích cỡ khác nhau
tùy theo đặc điểm, tính chất của từng loại sao cho phù hợp với mục đích sử dụng nhưng
vẫn giữ nguyên được chất lượng. Sau khi đã qua sơ chế, dược liệu được đem phơi khô
dưới nắng để tránh bị ẩm mốc rồi mới đến công đoạn cuối cùng là trộn dược liệu.
Người Dao Đỏ thường dựa vào thực trạng bệnh, sức khỏe, tuổi tác của bệnh nhân
mà cắt thuốc Nam để chữa. Việc chế biến thuốc tùy từng loại, có vị thuốc giã nhỏ, có
thuốc nấu thành cao, thuốc đắp, thuốc bột; một số vị đem đun lấy nước tắm gội, rửa
như các bệnh ngứa, lở loét... Nhiều cây thuốc, vị thuốc không có tên gọi mà chỉ gọi
theo công dụng chữa bệnh như: thuốc chữa đau xương, chữa đau bụng, chữa đau răng...
Tài liệu tham khảo https://baocaobang.vn/gin-giu-nhung-bai-thuoc-nam-co- truyen-cua-nguoi-dao-do-
3173071.html https://baotintuc.vn/y-te/bao-ton-phat-trien-nghe-thuoc-nam-cua-
nguoi-dao-duoichan-nui-ba-vi-20240509111336233.htm
https://tapchicongthuong.vn/magazine/mo--kho-bau--thuoc-nam-nguoi- dao114306.htm
4. Tục thờ cúng Bàn Vương
Nguồn gốc: Dân tộc Dao có lịch sử thiên di rất lâu đời và dần được chia thành
nhiều nhóm nhỏ, có sự biến đổi về tiếng nói, trang phục. Vì thế, về tín ngưỡng, các loại
hình văn hóa dân gian truyền thống, hay nhà ở cũng có sự khác biệt. Thế nhưng, các
nhánh người Dao lại có một điểm chung, đó là việc duy trì tục thờ cúng Bàn Vương.
Theo truyền thuyết, Bàn Vương vốn là Long Khuyển Hồ, nhờ lập được công lao to lớn,
giết được Cao Vương (xâm lược nước Bình Vương) nên được vua Bình Vương trọng
thưởng và gả công chúa cho. Họ sinh được 12 người con (6 trai, 6 gái) đều được vua
Bình Vương ban sắc thành 12 họ (Bàn, Lam, Mãn, Uyển, Đặng, Triệu, Lương, Tống,
Phượng, Đối, Lưu, Lý). Khi vua Bình Vương chết, Bàn Vương lên ngôi nhưng vẫn giữ
nếp sống giản dị, dạy người Dao cách trồng lúa, dệt vải…. Sau khi Bàn Vương qua đời,
con cháu đời đời duy trì tổ chức lễ cúng để tưởng nhớ và trở thành tục thờ cúng Bàn Vương. lOMoAR cPSD| 61463864
Tùy vào mỗi ngành Dao mà thời gian thực hiện lễ cúng khác nhau, nhưng nhìn
chung tục cúng Bàn Vương cơ bản giống nhau. Người Dao đỏ 5 năm cúng một lần,
nhưng có họ trong ngành Dao đỏ 9 năm cúng một lần, có dòng họ 12 năm cúng một
lần. Người Dao áo dài ít khi cúng Bàn Vương trong lễ cúng riêng, mà thường cúng Bàn
Vương trong các lễ làm chay, lễ cấp sắc hay cúng Tổ tiên.
Hàng năm, từ ngày 15 tháng Mười đến 30 tháng Chạp Âm lịch, con cháu người
Dao đỏ lại thay phiên nhau làm Chủ lễ cúng tổ Bàn Vương. Người Dao đỏ tại xã Hồ
Thầu thực hành nghi lễ phổ biến ở 2 hình thức: “Đàng Ton” - lễ cúng quy mô dòng họ
và lễ cúng trong từng gia đình.
Nghi lễ “Đàng Ton” có 12 dòng họ tham gia, mỗi dòng họ cử ra 1 nam, 1 nữ đồng
trinh dâng huơng và lễ cho Bàn Vương. Các dòng họ luân phiên làm Chủ lễ. Trường
hợp bị thiên tai mất mùa hoặc điều kiện kinh tế gia đình gặp khó khăn, đồng bào làm
lễ cúng nhỏ khất với Bàn Vương, năm sau mùa màng bội thu sẽ làm lễ cúng chính thức.
Thông thường, nếu có gia đình nào trong dòng họ nuôi được con lợn nái và đẻ ra chỉ
một con lợn đực thì họ coi đó là con lợn của Bàn Vương (hay còn gọi là lợn thần) sẽ
được cử làm Chủ lễ năm đó và có trách nhiệm chăm sóc đặc biệt cho lợn thần (nuôi ở
chuồng riêng), đến cuối năm sẽ mổ cúng dâng cho Bàn Vương. Ngoài ra, lễ này được
tổ chức đối với các dòng họ coi Bàn Vương là ông tổ của mình và tự tập hợp nhau lại
tổ chức cúng theo truyền thống với thời gian diễn ra khá dài.
Lễ cúng Bàn Vương trong từng gia đình được tiến hành kết hợp trong các lễ cúng
khác của gia đình như lễ cấp sắc, lễ cúng cơm mới, cúng vía lúa, làm chay… Phần nghi
lễ không phải mời thầy cúng vì người đàn ông chủ nhà đều đã được làm lễ cấp sắc nên
họ đủ khả năng thực hiện trong quy mô gia đình. Ngoài ra, người Dao đỏ tổ chức cúng
Bàn Vương khi gia đình gặp điều không may như: ốm đau, dịch bệnh, mất mùa... theo
kiểu giải hạn, song hình thức này không nhiều.
Để tổ chức lễ cúng Bàn Vương, cần có các lễ vật như: 01 con lợn làm sạch để cả
lòng, tiết; 01 con gà trống; 12 cặp bánh dày (gói lá chuối buộc từng cặp); 01 túm gạo
được buộc bằng vải trắng (sài chiên); Giấy bản theo cúng bình thường và 7 siên (chìn
shún) (được thầy cúng cắt hình và đục, dập theo hình hoặc khuôn chữ…); 02 chum
rượu (01 cúng Bàn Vương, 01 cúng Tổ tiên và các vị Thần).
Đàn cúng tế Bàn Vương được lập bằng gỗ ở gian giữa nhà, bên cạnh bàn thờ tổ
tiên. Trên đàn tế có trang trí giấy nhiều màu, tranh thờ, vải, nhiều đồ vật trang trí kết từ tre nứa…
Trước khi cúng Bàn Vương, các thầy cúng gia đình, dòng họ tham gia lễ phải
kiêng 7 ngày, kể từ khi gia chủ đến mời dự lễ là vợ chồng phải cách ly... Khi lấy tranh,
gia chủ cũng phải đun nước tắm sạch sẽ, xong mới được vào nơi nơi cất giữ tranh thờ lOMoAR cPSD| 61463864
- được coi là chốn linh thiêng đặc biệt. Tất cả mọi người dự lễ đều phải ăn chay, không
được ai quở mắng, chê bai nhau…
Lễ cúng Bàn Vương thường được tiến hành theo trình tự: Gia chủ, là gia đình
được dòng họ cử làm Chủ lễ sẽ đi mời ba thầy cúng chính đến gia đình làm lễ. Thầy
cúng thứ nhất gọi là Thầy cả (người Dao Đỏ gọi là vìn nhủng sai) sẽ cúng trả lợn thần
cho Bàn Vương và các đời Tổ tiên; thầy cúng thứ hai (người Dao Đỏ gọi là sai pành
piê, người Dao Tiền gọi là diang gòa con) sẽ cúng cầu khấn sức khỏe, Thần lúa, Thần
chăn nuôi; thầy cúng thứ ba sẽ cúng trả các lễ vật cho các vị Thần và Tổ tiên. Ba thầy
cúng mời theo 3 thầy khác để phụ làm lễ. Sau khi đã bàn bạc trao đổi, thầy xem ấn định
ngày tổ chức lễ cúng Bàn Vương, Thầy cả sẽ đến gia đình trước để làm một số nghi
thức như: Cắt giấy, dập chữ dưới đất… đồng thời, thầy cúng trình báo lên bàn thờ Tổ
tiên các lễ vật theo phong tục trước ngày lễ.
Ngày làm lễ, các thầy cúng đến nhà gia chủ làm lễ, lập đàn cúng. Gian giữa nhà
treo bộ tranh Tam Thanh, 2 bên bàn thờ Tổ tiên treo hai bộ tranh Tam Thanh của thầy
cúng. Các thầy cúng làm phép tẩy uế, vẩy nước phép khắp nhà, làm phép trấn an, dán
các bùa phép (viết bằng chữ Nôm Dao trên giấy bản) quanh nhà, rồi khấn mời ma Bàn
Vương, Tổ tiên và các Thần cùng âm binh của các thầy về dự lễ.
Trước bàn thờ, nghi lễ đầu tiên dâng lên Tổ tiên là bữa cơm chay. Các thầy cúng
thay mặt gia chủ thỉnh mời 3 vị Tam thanh, Bàn Vương cùng các Tổ tiên, Thổ địa về dự lễ.
Sau khi đã chuẩn bị các đồ lễ, các thầy cúng được mời đến làm lễ lập đàn khấn
Bàn Vương, gia tiên và các thần thánh đến chứng giám buổi lễ. Con lợn cúng thần được
đưa lên đàn cúng để cúng gia tiên và Bàn Vương.
Sau đó là nghi thức dâng hương đại diện của 12 dòng họ Dao, 12 cặp nam, nữ
đồng trinh lần lượt dâng hương, dâng lễ vật và đứng sau các thầy vái lạy, đón chào các
“ma” Tổ tiên, “ma” Bàn Vương và các Thần, Thánh. Trên đàn cúng, sắp đặt lễ vật gồm:
một con lợn (lợn thần) đã mổ, một bát gạo, một bát nước, một chai rượu, một ít tiền âm
phủ, 5 chiếc chén và 5 đôi đũa. Sáu thầy cúng ngồi vào hai ghế dài, kê song song đối
diện hai bên đàn cúng. Thầy cả trịnh trọng khấn, tế lễ, dâng lợn thần cho Bàn Vương,
cầu mong Bàn Vương phù hộ cho con cháu trong gia đình Chủ lễ và gia tộc người Dao.
Sau đó, các thầy phụ lần lượt đọc những bài cúng kể về sự khai thiên lập địa, sự tích
nạn hồng thủy, quá trình chuyển cư đầy gian truân của người Dao… Tiếp đó, các thầy
đọc các tích truyện kể về công ơn đã sinh ra các họ người Dao của Bàn Vương. Những
người phụ lễ bày tiếp gạo, rượu, bánh… lên bàn cúng ở gần ban thờ Tổ tiên. Sau đó,
Thầy cả cúng tế lễ Bàn Vương, các bậc Tổ tiên, các vị Thần, Thánh và dòng họ của gia
chủ. Tiếp theo là các điệu múa được mường tượng hóa như: múa bắt rùa, múa lOMoAR cPSD| 61463864
chuông…, với 6 chiếc áo, các thầy cúng lần lượt tái hiện lại những điệu múa cổ, một
nghi thức không thể thiếu trong lễ cúng Bàn Vương.
Sau khi cúng tế Bàn Vương, Tổ tiên, các vị Thần, Thánh của gia chủ và 12 dòng
họ của người Dao, các thầy cúng hóa tiền, vàng và cùng hát bài tiễn đưa, vái chào từ
biệt Bàn Vương, các bậc Tổ tiên, các vị Thần, Thánh về lại cõi dương gian.
Như vậy, lễ cúng Bàn Vương trải qua 7 bước: (1) mời Bàn Vương và thần linh
về dự lễ; (2) thổi tù và báo hiệu Bàn Vương đến nhận lễ; (3) dâng hương, dâng lễ tạ ơn
Bàn Vương; (4) múa gọi nhờ thiên linh thổ địa nghênh đón Bàn Vương và Kể sơ lược
tiểu sử, vóc dáng của Bàn Vương từ khi ra đời; (5) múa gậy thể hiên Ḅ àn Vương, các
thần linh, thổ địa xuống đàn nhận lễ vật; (6) ca hát vui cùng Bàn Vương ở đàn cúng;
(7) hóa vàng tiễn Bàn Vương về trời.
Sau khi cúng Bàn vương, tất cả dân làng quây quần cùng nhau dự bữa cơm cộng
cảm. khi đó thầy cúng thổi tù và mời gọi Bàn Vương và các vị Thần linh về hưởng lễ,
chứng minh lễ vật và lòng thành của 12 dòng họ dâng lên. Các thầy rung chuông tập
hợp mọi người cúng vào múa chuông, múa gậy thể hiện sức mạnh đoàn kết đánh đuổi
ngoại xâm và các nghi lễ xua đuổi tà ma xấu ác, đem lại bình yên may mắn cho con cháu.
Ngoài ra, sau nghi lễ, cộng đồng người Dao còn tổ chức trò chơi vật chày, một
trò chơi mang màu sắc huyền bí nhưng cũng đem lại sự kịch tính và nhiều tiếng cười
cho những người tham gia. Có thể nói, vật chày là một trò chơi dân gian thể hiện sức
mạnh, sự kết hợp khéo léo, sự bí ẩn của cả người làm phép và người vật. Sau khi thầy
cúng làm phép nhờ Thần linh giúp đỡ, dù rất đông người cùng tham gia nhưng không
thể ấn nổi đầu chày chạm đất. Điều này thể hiện việc bản làng năm đó được các vị thần phù hộ, nâng đỡ.
Tục thờ cúng Bàn Vương mang tính biểu tượng cho sự thống nhất về nguồn gốc
của người Dao, thể hiện sự biết ơn với Tổ tiên đã sinh ra họ. Lễ cúng Bàn Vương nhằm
cầu cho mưa thuận gió hòa, hoa màu tươi tốt, cho con cháu người Dao đời đời ấm no,
hạnh phúc. Thực hành nghi lễ nhằm thỏa mãn nhu cầu tâm linh của người dân; giúp
gắn kết cộng đồng và bảo lưu các giá trị văn hóa truyền thống. Lễ cúng Bàn Vương là
dịp để mọi người gặp gỡ giao lưu, trao đổi tình cảm, được cùng nhau sinh hoạt cộng
đồng tạo nên sự đoàn kết gắn bó, đồng thời là môi trường giáo dục truyền thống cho
thế hệ trẻ, trao truyền các bài cúng, hình thức thực hiện nghi lễ… cho thế hệ kế cận,
góp phần bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa của người Dao đỏ.
Tài liệu tham khảo https://tttt.ninhbinh.gov.vn/ctmtqg-phat-trien-kt-xh-vung-dong-
bao-dan-toc-thieuso-va-mien-nui/le-cung-ban-vuong-cua-nguoi-dao-do-3588.html lOMoAR cPSD| 61463864
https://svhttdl.bacgiang.gov.vn/chi-tiet-tin-tuc/-/asset_publisher/xqtf4Gcdcef5/
content/tuc-tho-cung-ban-vuong-cua-nguoi-dao-ben-suon-tay-yen-tu?
inheritRedirect=false#:~:text=T%E1%BB%A5c%20th%E1%BB%9D%20c
%C3%BAng%20B%C3%A0n%20V%C6%B0%C6%A1ng%20l%C3%A0%20n
%C3%A9t%20sinh%20ho%E1%BA%A1t%20t%C3%ADn,t%E1%BB%91t
%20%C4%91%E1%BA%B9p%20trong%20cu%E1%BB%99c%20s%E1%BB %91ng. 5. Lễ cấp sắc
Lễ cấp sắc là nghi lễ quan trọng, công nhận sự trưởng thành đối với người đàn
ông ở tất cả các ngành Dao. Trong lễ cấp sắc, người thụ lễ được đặt pháp danh (tên
âm). Sau khi trải qua nghi lễ này, người đàn ông Dao được công nhận là con cháu Bàn
Vương, được trao quyền làm thầy, được cấp âm binh và được thờ cúng tổ tiên.
Theo tiếng địa phương, cấp sắc được gọi là quá tang hay quá tăng. Quá nghĩa là
từng trải hoặc qua thử thách; tang là đèn hoặc vật dụng dùng để soi sáng. Bởi vậy, quá
tang
nghĩa là trải qua lễ soi đèn, xuất phát từ việc thắp đèn soi sáng người thụ lễ khi
làm lễ cấp sắc. Ngoài ra còn có các tên gọi khác như: say cháy, chay thầy xấy hay phùn
voòng
có nghĩa là soi đèn hay thụ đèn; tạt phat búa (lễ đặt pháp danh) hay chấu đàng
(lễ cúng ông tổ người Dao); tẩu sai (lễ cấp chứng chỉ để làm thầy cúng); chẩu lung hìn
(lễ cầu phúc cho dòng họ); mài sai tía (có thầy cúng đỡ đầu); chẩu tôm lung hìn (lễ cầu
phúc lớn); lễ cấp tinh, lập tịch, cấp phép hay cấp pháp.
Lễ cấp sắc thường tổ chức cho con trai từ 10 tuổi trở lên và thực hiện vào thời
gian nông nhàn. Để chuẩn bị lễ cấp sắc, gia đình phải nuôi lợn, tích lương thực, thực
phẩm, vàng mã và các thứ khác để làm lễ và cỗ mời bà con, họ hàng...
Lễ cấp sắc của các ngành Dao thực hiện một số nghi lễ, như: lễ nhận thầy; lập
ban thờ mới; mời thần linh nhà thầy cúng đi làm lễ; mời thần linh, tổ tiên nhà người
được cấp sắc về làm lễ; lễ cấp đèn; lễ đặt tên; lễ dạy làm thầy/truyền phép…Tuy nhiên,
mỗi ngành lại có những khác biệt riêng.
Với người Dao Tiền, trước ngày thụ lễ, con thầy (người được cấp sắc) phải ở
với bố, không tiếp xúc với mẹ trong 3 ngày. Mỗi ngày, người được cấp sắc chỉ ăn một
bát cơm và rau, không được ăn thịt. Sau khi làm lễ xong mới được ăn thịt và tiếp xúc với mọi người.
Tham gia lễ cấp sắc gồm: người được cấp sắc, 02 thầy cúng chính, 01 thầy cúng
phụ, 03 người đọc thơ, 03 nam và 03 nữ thanh niên hát, họ hàng nội, ngoại người được
cấp sắc, người giúp việc cho buổi lễ và người dân trong bản. Gia đình tự chọn thầy lOMoAR cPSD| 61463864
cúng, mặc định thầy cả là người bên họ nhà ngoại, thầy hai là người bên họ nhà nội và thầy giúp việc.
Nghi lễ được tiến hành theo các bước:
Lễ nhận thầy cả và thầy hai: trước làm lễ 7 ngày, người được Cấp sắc cùng bố
tới nhà thầy cả và thầy hai làm lễ bái thầy. Khi đi mang theo một gói muối (gói vào lá
dong) đến nhà thầy đặt gói muối lên bàn thờ, xin phép được nhận thầy.
Trước khi đi làm lễ, thầy cúng thắp hương xin phép tổ tiên nhà mình, cầu phù hộ
và xin đưa thần linh đến nhà người thụ lễ để làm lễ cấp sắc. Khi đi, hai thầy cúng mang
theo tranh Tam Thanh, tranh múa, trang phục thầy cúng, bộ âm dương, gậy ma và có 3
người hát nữ đi cùng. Đến nơi, thầy lập bàn thờ mới trong nhà của người được cấp sắc,
đặt cạnh bàn thờ tổ tiên. Trên ban đặt 02 mâm lễ của thầy cả và thầy hai. Phía trên ban
thờ thần linh treo tranh Tam Thanh và tranh múa của 2 thầy. Hai thầy làm lễ tại bàn thờ
tổ tiên của gia chủ, thông báo việc đến làm lễ, xin âm dương cho phép tiến hành lễ cấp
sắc. Người giúp việc dùng chổi quét từ trong nhà ra ngoài sân để đuổi cái xấu ra ngoài.
Thầy cả và thầy hai mặc trang phục thầy cúng để làm lễ. Người được cấp sắc
đứng đối diện với thầy hai, bố của người cấp sắc thì đứng đối diện với thầy cả. Hai
thầy làm lễ đuổi đi những cái xấu, mời rượu thần linh, chia tiền vàng để cảm tạ thần
linh. Tiếp theo, mọi người cùng múa xoè để mừng lễ cấp sắc.
Thầy cả làm lễ cấp đèn cho người được cấp sắc. Thầy cả đứng trước ban thờ khấn
xin thầy của mình và thần linh cấp đèn cho người được cấp sắc, mời rượu thần linh,
gieo quẻ xin âm dương, chia tiền cho thần linh. Thầy làm lễ xua những điều xấu ra khỏi
người được cấp sắc bằng cách cầm thanh kiếm đi vòng quanh người được cấp sắc, dùng
kiếm hất mẩu giấy trên mũ ra rồi gieo quẻ âm dương, rồi cầm mẩu giấy, tay đặt lên đầu
gối, chân co lên nhảy lò cò ra cửa, vứt mẩu giấy đó đi (vứt đi cái xấu xa). Trong lúc
thầy cả xua đuổi điều xấu, thầy hai làm lễ đón điều tốt, điều thiện về cho người được cấp sắc.
Thầy cả làm lễ cấp hương cho người được cấp sắc, cúng xin thần linh cho người
đó sau này khi đi làm thầy có thể được thắp hương.
Hai thầy làm lễ cấp đèn cho người được cấp sắc. Đối với người Dao tiền ở Sơn
La, lễ cấp sắc thường làm 03 đèn, chỉ trưởng họ mới được tổ chức lễ cấp sắc 12 đèn.
Thầy cả đứng trước ban thờ xin với tổ tiên và thần linh xin được lấy tên cho
người được cấp sắc (tên do gia đình dự kiến trước). Thầy cúng xin âm dương tìm sự
đồng ý của tổ tiên và thần linh cho tên mà gia đình chọn.
Đặt tên xong thầy cả làm lễ cấp phép cho người cấp sắc được phép sử dụng các
đồ nghề của thầy cúng như: khăn buộc, tranh múa, tranh Tam Thanh, trống, chiêng, tù lOMoAR cPSD| 61463864
và, chuông, que múa… Mỗi lần cấp phép, thầy cúng sẽ cầm 1 đồ nghề, đọc xong bài
cúng, rồi trao đồ nghề đó cho người được cấp sắc.
Thầy cả làm lễ cấp phép cho người được cấp sắc từ nay có thể đi làm thầy. Thầy
cả chia 2/3 gạo và tiền về phía mình, 1/3 về người được cấp sắc. Sau đó, hai thầy trò
mỗi người cầm một đầu tấm vải xé làm đôi, mỗi người một nửa. Thầy cả kiểm tra số
mặt sấp ngửa của tiền rơi xuống, nếu ngửa nhiều là tốt. Lấy tấm vải đó gói số gạo được
chia lại và treo lên tường, để 7 ngày sau, người được cấp sắc và thầy cả phải mang phần
gạo của mình nấu cơm và một mình phải ăn hết số cơm đó cùng với rau và gừng (để
cho tình thầy trò khăng khít như bố con và từ giờ về sau người được cấp sắc sẽ gọi thầy của mình là bố).
Lễ cho người được cấp sắc sau này có thể xem bói: Thầy cả thực hiện nghi lễ
truyền nghề, để học trò sau này có thể xem bói.
Học múa: Thầy hai và người được cấp sắc mặc trang phục thầy cúng, đội mũ
thầy cúng, 1 tay cầm que múa, 1 tay cầm chuông, đứng trước ban thờ, thầy hai đọc bài
cúng xin thần linh về chứng giám. Hai thầy trò cùng nhảy múa theo nhịp nhạc trống,
chiêng, bài múa được lặp đi, lặp lại nhiều lần.
Múa tống thần đất và thần rừng: Người giúp việc cho thầy cả (thầy ba) làm lễ
tiễn các thần ra về trước, rồi tiếp tục cúng, múa tiễn các vị thần linh khác.
Cúng thần linh cầu lộc, cầu tài cho người được cấp sắc: Thầy cả và thầy ba làm
lễ, sau mỗi bài cúng thầy lấy bánh đưa cho người giúp việc và đặt xuống, múc rượu đổ
vào 2 bát (lặp lại 3 lần). Cúng xong người giúp việc lấy tiền vàng trên ban thờ xuống
để làm lễ chia tiền vàng cho thần linh và mang hóa. Thầy cả cầm 1 bát rượu trên bàn
đưa cho bố và ông nội của người được cấp sắc mang đặt lên ban thờ, mời tổ tiên uống
rượu. Cúng xong các thầy cúng và người giúp việc lấy bánh nếp chia cho mọi người cùng hưởng lộc.
Lễ nhảy đồng: Thầy cả ngồi ở ghế dùng 2 mảnh âm dương gõ vào nhau theo điệu
nhạc, thầy ba đứng lên múa theo nhạc trống, chiêng đến lúc nhập đồng. Khi đó, gia
đình phải cử một người đứng chặn ở cửa ra vào để thầy ba không nhảy ra ngoài, sau hay bị ốm đau.
Cúng cầu may mắn, sức khoẻ cho người được cấp sắc: Gia đình dọn dẹp ban thờ
thần linh, chuẩn bị lễ gồm 2 con lợn khoảng hơn 100kg đã mổ, để sống, đặt nằm úp
bụng xuống. Ban thờ thần linh đặt một con lợn, 1 bát gạo, 7 cái chén (7 ông đại thần),
1 cây sáo, giấy lệ phí cho đại thần, 1 bát hương, 1 cái bánh nếp. Một con đặt ở dưới
ban thờ tổ tiên. 3 người hát nam, 3 người hát nữ đứng đằng sau thầy cả cùng làm lễ.
Thầy cả đứng đọc bài cúng, hết một đoạn thầy hất tay về phía trước và vãi gạo vào con lOMoAR cPSD| 61463864
lợn để cầu xin vận may, tài lộc cho người được cấp sắc. Thầy hai đứng trước ban thờ
cúng tổ tiên cầu xin vận may, tài lộc cho người được cấp sắc, rồi làm lễ chia tiền vàng,
múc rượu mời tổ tiên.
Đọc thơ ca truyện cổ, hát Páo dung: Ba người hát nữ đứng hát ở chỗ cây tre đan
vào nhau được chuẩn bị sẵn, 3 người hát nam đứng ở góc nhà hát đối đáp. Nhóm hát
các trường đoạn từ khi con người được sinh ra, dạy dỗ đến khi trưởng thành như thế
nào, hát mừng cho tên mới của người được cấp sắc. Trong khi đó, gia chủ chuẩn bị một
mâm cơm đặt ở giữa nhà. Thầy cả làm lễ mượn thần linh những bài thơ ca, truyện cổ,
xin phép tổ tiên, thần linh được đọc. Những người đọc thơ (thường là những người già
biết chữ Nôm Dao, biết lời cúng) và thầy cả, thầy hai và thầy ba ngồi vào mâm, rót
rượu chúc nhau. Lấy lá dong phủ lên mâm cơm đó. Những người đọc thơ ca mang
những quyển sách ghi chép thơ ca, truyện cổ đặt lên bàn, miệng đọc, tay cầm chuông
lắc đều theo nhịp trong khoảng 2 - 3 giờ. Sau đó, họ mời nhau uống rượu, ăn cơm.
Lễ xoá những kiêng kị: Gia chủ chuẩn bị một mâm lễ, bố của người được cấp sắc
đặt 3 cái bánh nếp lên ban thờ của tổ tiên. Thầy cả đọc bài cúng xin tổ tiên và thần linh
xoá đi những cái kiêng kị cho người được cấp sắc. Thầy cả đứng trước mâm lễ ở ban
thờ thần linh để làm lễ hồi thơ ca. Cúng xong thầy cả làm lễ chia tiền vàng cho tổ tiên
và thần linh, rồi mang tiền vàng đi hóa. Ông nội của người được cấp sắc cúng mời tổ
tiên về dùng bữa cùng gia đình. Sau khi làm lễ này xong, người được cấp sắc quay trở
lại cuộc sống bình thường, không phải kiêng kỵ nữa.
Lễ tống đại thần ra về: Thầy cả đứng trước ban thờ tổ tiên, tay cầm mảnh âm
dương đọc bài cúng xin tiễn thần linh (đại thần). Cúng xong thầy cả cầm bát hương và
bát rượu mang ra ngoài cửa đổ đi. Lễ cấp sắc kết thúc, 2 con lợn được xẻ thịt chia phần
cho những người giúp việc, riêng thầy cả và thầy hai mỗi người sẽ được 1 cái đầu và 1
đùi lợn để mang về nhà làm cơm mời mọi người trong bản dùng bữa mừng bản thân đi làm lễ thành công.
Với người Dao Quần chẹt, trước đây, lễ cấp sắc thường chỉ làm cho một người
nhưng nay để tiết kiệm chi phí, người dân có thể tổ chức cho 3 người một lần (phải là
số lẻ), có thể ở cùng bản hoặc khác bản trong một xã. Gia đình của người làm lễ cấp
sắc dựng và trang trí nhà ma ở ngoài sân của nhà người làm lễ. Tại bản Khe Lành, xã
Mường Thải, huyện Phù Yên, do làm lễ cấp sắc cho 3 người nên nhà ma được dựng tại
1 khu đất trống ở gần nhà 3 người được cấp sắc. Nhà ma làm bằng gỗ hoặc tre, quây
bạt xung quanh (trước đây nhà ma phải quây toàn bộ bằng cây cỏ gianh), lợp mái bằng
gianh, trên cửa buộc 1 nắm cây gianh, lòng nhà chia thành 3 gian để làm 3 bàn thờ của
thầy cả. Sau khi người con trai được làm lễ cấp sắc, nhà ma hóa thành con rồng bay lên
trời (cây cỏ gianh tượng trưng cho vẩy rồng) để bảo vệ, không cho hồn xấu ảnh hưởng lOMoAR cPSD| 61463864
đến người được cấp sắc. Thầy cúng lập 3 bàn thờ cho 3 người được cấp sắc. Sau khi
lập bàn thờ, trong những ngày tiếp theo, mỗi ngày 3 người được cấp sắc phải làm lễ
cúng trước bàn thờ với sự trợ giúp của thầy cúng và 3 người giúp việc vào sáng, trưa,
tối đến khi kết thúc lễ cấp sắc.
Khi các thầy nhận lời làm lễ cho người được cấp sắc, tại nhà thầy cả, thầy làm lễ
cúng và ra ngoài lấy từng cây cỏ gianh phi về hướng nhà ma để dẹp ma quỷ, dọn đường
cho thầy đến nhà ma. Tiếp theo, thầy cả làm lễ giấu thân để ma không nhìn thấy thầy.
Lễ xong, thầy dùng tờ giấy gói ít gạo và nhét vào vách nhà để bảo vệ nhà thầy không
bị tà ma, khi đi làm lễ cấp sắc xong mới mở ra.
Người được cấp sắc được đưa đến nhà ma, các thầy thắp nến soi chọn những sợi
tóc ở cao nhất trên đỉnh đầu của người làm lễ rồi buộc lại thành 3 túm, mỗi túm có 7
sợi. Đồ đệ của thầy cả đến bàn thờ thắp 3 ngọn nến đặt trước 3 bức tranh Tam Thanh
để thắp sáng và làm bay đi các tạp uế cùng với những tội lỗi của người làm lễ. Sau đó,
thầy thứ 4, thứ 5 che kín người được làm lễ cấp sắc bằng áo cà sa vàng, cầm nến soi
cho các thầy cắt tóc. Thầy thứ 3 cắt 1 trong 3 lọn tóc đã chọn của người cấp sắc. Trong
khi thầy cắt tóc thì các đồ đệ của thầy cả và thầy 2 đánh chiêng, trống, múa theo kiểu
từng nhịp bước chân đi. Tương tự thầy 3, thầy cả và thầy 2 cũng làm như thế để cắt tóc
cho đồ đệ mới (thầy cả cắt sau cùng). Ba lọn tóc đã cắt được để vào 1 bát nước lã trên
bàn thờ (đặt trước tranh Tam Thanh), thầy 3 cởi áo cà sa trùm vào cho người được cấp
sắc và đỡ người đó đứng dần lên. Lúc này, bố của người được cấp sắc sẽ đứng ngang
hàng với con và thầy thứ 3 và 3 người nhảy. Khi nhảy xong, thầy thứ 2, 3 sẽ lấy dấu
đóng vào trán, hai vai, bàn chân, bàn tay, đầu gối, ngực và lưng của người được làm lễ.
Lễ cấp sắc đã xong. Giấy trang trí trong nhà ma được đem đi đốt. Gia đình người làm
lễ mời cả bản ăn cơm. Sau 9 ngày làm lễ cấp sắc, gia đình làm lễ cấp sắc mới được dỡ nhà ma.
Lễ cấp sắc có nhiều cấp bậc khác nhau, từ thấp đến cao. Hiện các ngành Dao chỉ
phổ biến cấp sắc 3 đèn. Cấp sắc 12 đèn (thập nhị tinh) chỉ duy trì cho các ông trưởng
họ của các ngành Dao với nghi lễ phức tạp và mất nhiều thời gian, công sức chuẩn bị.
Theo khảo sát điền dã, người Dao Đỏ gọi lễ quá tăng để chỉ nghi lễ cấp sắc 3 đèn (bậc
thấp nhất) và 36 binh mã; lễ ngũ tinh được cấp 5 đèn và 36 binh mã; lễ thất tinh được
cấp 7 đèn và 72 binh mã; lễ cửu tinh được cấp 9 đèn và 72 binh mã; lễ thập nhị tinh
(bậc cao nhất) được cấp 12 đèn và 120 binh mã. Tuy nhiên, cấp sắc 12 đèn của dân tộc
Dao đến nay rất ít thực hiện, do đó, số lượng thầy cúng cao tay (người đã trải qua lễ
cấp sắc 7 đèn, 12 đèn) không nhiều.
Lễ cấp sắc là một trong những nghi lễ độc đáo và được lưu truyền từ nhiều đời
nay trong cộng đồng dân tộc Dao. Trong lễ cấp sắc, người được cấp sắc và những người lOMoAR cPSD| 61463864
tham dự có thể hiểu hơn về lịch sử, cội nguồn của mình từ những bài cúng, tích truyện
mà thầy cúng đọc, từ đó, nâng cao ý thức bảo tồn những phong tục, tập quán tốt đẹp
của người Dao. Lễ cấp sắc phản ánh đời sống tinh thần phong phú của người Dao, thể
hiện qua các điệu múa, hát đối đáp - páo dung, tranh vẽ, hình cắt giấy… Lễ cấp sắc có
vị trí quan trọng trong đời sống tinh thần, tín ngưỡng của đồng bào Dao, giúp họ có
thêm sức mạnh tinh thần vượt qua khó khăn trong cuộc sống, hướng tới điều tốt đẹp
trong tương lai. Lễ cấp sắc hướng người đàn ông Dao cũng như các thành viên trong
cộng đồng biết tôn sư trọng đạo, kính trọng cha mẹ, luôn làm điều thiện.
Tài liệu tham khảo https://dsvh.gov.vn/nghi-le-cap-sac-cua-nguoi-dao-
1326 https://nhandan.vn/le-cap-sac-cua-nguoi-dao-post749910.html 6. Lễ nhảy lửa
Tục nhảy lửa của người Dao đỏ (gọi theo tiếng Dao là Tích tâẩu) ra đời từ khi
tộc Dao xuất hiện. Truyện kể lại rằng, khi người Dao sống trong rừng thì loài hổ (beo)
thường đến phá phách làng bản và ăn thịt dân làng. Cứ mỗi khi loài vật này xuất hiện
lại đem đến chết chóc, đen đủi cho đồng bào. Người Dao đỏ đã tìm mọi cách để tiêu
diệt loài vật phá hoại đó nhưng không thành công. Cuối cùng, những người đàn ông
trong làng đã họp nhau lại, chọn một ngày đầu năm trong lịch can chi là ngày Dần;
cùng nhau tập trung đốt lửa và nhảy múa qua đống lửa, bốc than tung lên người để
nhằm xua đi những điều đen đủi, không may mắn và cầu tài, cầu lộc, cầu may mắn cho
gia đình, buôn làng trong năm mới. Một trong những quy định trong ngày Dần này là
không một ai trong làng được nhắc đến từ "beo", vì họ cho rằng như vậy sẽ đem lại sự
không may mắn cho gia đình. Từ đó, tục lệ Nhảy lửa đã ra đời, lưu truyền và trở thành
tục lệ truyền thống, không thể thiếu trong đầu năm mới của đồng bào Dao đỏ.
Lễ Nhảy lửa (tiếng Dao gọi là Pút tồng), thường được tổ chức từ đầu năm âm
lịch đến ngày 15 tháng Giêng. Đây là nghi lễ truyền thống của một số dân tộc miền núi
phía Bắc, trong đó có người Dao đỏ ở xã Nậm Đét (Bắc Hà). Lễ hội này được tổ chức
theo quy mô hộ gia đình khi có người con, cháu vừa làm xong lễ Cấp sắc. Đây là lễ hội
truyền thống lớn, quan trọng hàng đầu trong năm của người Dao đỏ, mang nhiều nét
văn hóa truyền thống độc đáo, kỳ lạ.
Lễ nhảy lửa được tổ chức trên một khoảng sân rộng. Trong phần nghi lễ của
người Dao đỏ thì vật phẩm dâng cúng không thể thiếu các loại như: Cơm, gạo, rượu,
gà luộc, nước suối, vải mộc màu trắng, hương, tiền làm bằng giấy bản, đèn hoặc nến…
Tất cả các sản phẩm được trưng bày trên một bàn gỗ dài. Ngay giữa sân, một đống củi
to đã được thanh niên mang đến, xếp gọn gàng.
Khi đống củi đã trở thành một đống than hồng rừng rực cháy, thầy cúng bắt đầu
làm nghi lễ. Niên phụ lễ và bài cúng thần lửa được cất lên bằng những câu cầu may lOMoAR cPSD| 61463864
cho một năm mới, một cuộc sống bình yên, hạnh phúc, cầu mong “mưa thuận, gió hòa”,
muôn nhà khỏe mạnh. Cầu mong thần lửa mang hơi ấm của mình về sưởi ấm dân làng,
về vui cùng lễ hội. Theo quy định dân gian, tham gia nhảy lửa phải là nam giới và cơ
thể phải sạch sẽ. Trước khi nhảy lửa, họ phải đun nước tắm rửa sạch sẽ. Vì vậy, nhảy
lửa thường được thực hiện vào lúc tối, tức là sau khi những người tham gia đã ăn uống
xong và tắm rửa sạch sẽ.
Công tác chuẩn bị.
Bàn thờ: Bàn thờ của tục Nhảy lửa gồm có bàn thờ chính và bàn thờ phụ.
Bàn thờ chính: Đây chính là bàn thờ tổ tiên của nhà ông Đặng Nguyên Học. Bàn thờ
này kết hợp là bàn thờ miếu trong ngày Nhảy lửa, gồm có ba tầng:
Tầng trên cùng kín bốn mặt, mặt cửa cúng chỉ hở một hình bán nguyệt là nơi
thờ cúng. Ở đây có một bát hương được đốt bằng vỏ cây thơm, một chén rót nước,
để cạnh bát hương là năm chén đựng rượu được xếp hàng ngay cửa bàn thờ. Ngoài
ra còn dán mấy bức tranh Bàn cổ cỡ nhỏ và một số dụng cụ quan trọng của việc thờ cúng như kèn, chuông…
Tầng thứ 2: Kín ba mặt, tầng này dùng để các đồ dùng phục vụ cho cúng lễ
gồm vỏ cây thơm, ấm chén, đồ làm tiền ma, chũm chọe…
Tầng thứ 3: Tất cả các mặt đều để trống, được nối liền với chân.
Bàn thờ phụ: Là một chiếc bàn dài, gồm có một bát hương làm bằng ống tre,
năm bát gạo và năm chén rượu, tiền vàng làm bằng giấy bản.
Những vật chuẩn bị trong tục Nhảy lửa: Nhà chủ miếu sẽ chuẩn bị đủ củi đốt,
nhưng mỗi người đến tham gia nhảy đều mang một thanh củi với mục đích góp phần
của mình để chuẩn bị cùng nhau vui chơi ngày xuân, nhảy lửa xua đuổi đen đủi, cầu may mắn cho cả năm.
Thẻ âm dương: Được làm bằng một gióng vầu hoặc tre đã được chẻ làm đôi. Trống.  Tiến trình.
Đi thắp hương miếu làng (síp mỉu miến): Sau khi chọn xong ngày Dần đầu tiên
của năm thì chủ miếu thông báo với bà con trong bản cùng nhau chuẩn bị. Đúng 7h
sáng, tất cả người Dao đỏ trong bản theo chủ miếu để vào miếu thắp hương. Miếu thờ
vị thần có công khai thiên, lập địa ra bản người Dao đỏ, một người có công lớn đối với
đồng bào Dao đỏ ở thôn Giàn Dầu 1.
Khi đi cúng thì tất cả dân làng phải đóng góp lễ vật mang ra miếu; mỗi người
mang theo một con gà trống của gia đình nuôi với hàm ý, mỗi một gia đình đều mang
lễ vật do chính nhà mình làm ra để đến tạ ơn thần miếu đã khai sinh ra bản và bảo vệ, lOMoAR cPSD| 61463864
phù hộ cho dân làng trong suốt một năm. Cùng với lễ vật là một con gà trống, họ còn
mang một mảnh giấy bản dùng để cắt tiền âm và một chút tiền lẻ là tiền dương. Đoàn
đi đến miếu do vị chủ miếu dẫn đầu, tay trái cầm con gà trống của gia đình mình, tay
phải cầm gậy sừng trâu. Miếu được dựng trong một khu rừng cấm, cột bằng gỗ, mái
lợp gianh, trong đó có đàn cúng bày ba bát hương. Bát hương ở giữa cúng thần hộ mệnh
cho từng thành viên trong làng gọi là canh man, bát bên cạnh phía trái cúng thần hộ
mệnh gia súc, gia cầm gọi là tạy man, còn bát hương bên phải cúng ma trời phù hộ thần
lúa gạo và hoa màu gọi là cong man. Khi đến nơi, chủ miếu bắt đầu cúng thỉnh thần
linh và vị thần miếu về chứng giám cho lòng thành của dân làng. Trên tay chủ miếu
cầm thanh âm dương, rồi ông vừa khấn, vừa xin quẻ; nếu một thanh úp, một thanh ngửa
là được, còn nếu cả hai cùng úp hoặc cùng ngửa thì phải xin lại đến khi nào được mới
thôi. Tiếp sau đó, mọi người cùng nhảy múa. Họ nhảy lò cò theo vòng tròn, tay đưa
con gà vòng lên trên đầu, xuống dưới rồi sau đó đưa sang hai bên. Cuối cùng, tất cả
cùng cắt tiết gà vào bát rượu đã để sẵn, rồi dâng lên chủ miếu và uống một ngụm để
mong thần miếu chứng giám lòng thành và phù hộ sức khỏe cho mọi người trong làng,
phù hộ cho công việc chăn nuôi và làm ăn, sinh sống gặp nhiều may mắn trong năm
mới. Sau đó, chủ miếu khấn thỉnh, mời thần linh ở miếu về gia đình mình để dự lễ
Nhảy lửa, xua đuổi mọi đen đủi, cầu may mắn cho dân làng.
Nghi lễ Nhảy lửa: Sau khi mọi người làm đầy đủ các thủ tục ở miếu thì chủ
miếu dẫn đầu đoàn đi thẳng về nhà mình để thực hiện lễ Nhảy lửa, một phong tục có
từ lâu đời của đồng bào Dao. Vị chủ miếu phải là người có tuổi và có uy tín trong làng,
được dân làng bầu lên. Nếu khi vị chủ miếu già cả hay ốm đau, bệnh tật thì dân làng
lại bầu người khác làm chủ miếu để phụ trách việc cúng tế và thực hiện lễ Nhảy lửa
vào ngày Dần tháng đầu tiên của năm mới. Lễ vật được bày ra trên chiếc bàn dài, gồm
có bát hương, tiền vàng làm bằng giấy bản, gạo, rượu và một túi vải màu trắng buộc
nơ đỏ, bên trong có hai hào bạc trắng và một nắm gạo. Đây là một lễ vật quan trọng
không thể thiếu trong nghi lễ này, vì theo quan niệm của người Dao đỏ, không có lễ vật
này thì sẽ không xin phép được thần cho tổ chức và mời về dự lễ Nhảy lửa.
Vào đúng 15h chiều, đây là giờ được ông chủ miếu coi là giờ tốt để cử hành lễ.
Ông Đặng Nguyên Học là chủ miếu, đồng thời cũng được coi là thầy mo của buổi lễ,
thay mặt dân làng làm lễ xin phép tổ tiên, xin phép thần lửa, thần nước phù hộ cho mọi
người; nhờ thần linh bảo vệ cho những người nhảy lửa không bị ngọn lửa thiêu cháy.
Đồng thời, thầy mo cũng mời các thần linh về dự vui cùng dân làng. Sau một hồi làm
lễ, chủ miếu gieo quẻ xin âm dương nếu mặt úp mặt ngửa tức là thần linh chưa đồng ý
phải kiên trì gieo cho đến khi cả hai mặt cùng úp hoặc cùng ngửa mới thôi. Cùng lúc
đó, tất cả những người tham gia buổi lễ lấy củi chất thành đống lớn ở giữa nhà chủ
miếu. Tiếp sau đó, chủ miếu xuống gian bếp chính châm lửa từ bếp của nhà mình. Bếp lOMoAR cPSD| 61463864
lửa của nhà chủ miếu đã được vợ của chủ miếu đốt từ trước bằng củi thơm. Củi được
đốt trong nhà chủ yếu là củi quế và những loại củi thơm trong rừng.
Những người tham gia nhảy lửa phải là đàn ông từ mười hai tuổi trở lên, thân thể
phải sạch sẽ, không có một tí mỡ hay những gì ô uế dính vào người và phải đi chân đất.
Những người phụ nữ Dao đỏ không được phép tham gia vào tục này. Khi đống lửa
cháy to và bắt đầu có than thì vị chủ miếu sẽ khấn để nhập đồng và người này sẽ là
người đầu tiên nhảy vào đống than; lúc đầu nhảy một chân vòng quanh đống than lửa
chín vòng, mỗi vòng ứng với bốn kiểu. Theo quan niệm của người Dao đỏ, ba mươi
sáu kiểu tương ứng với ba mươi sáu binh mã bảo về thần linh; sau đó, dùng hai tay bốc
than ở đống lửa đang cháy phủ lên người. Song song với làm lễ, một nhóm thanh niên
trong bản chọn những cây củi to, chắc chụm lại một đống để đốt lấy than phục vụ cho
việc nhảy. Sau khi chủ miếu nhảy lửa xong, tất cả những người đàn ông trong bản tham
gia lễ lần lượt ngồi vào chiếc ghế dài chuẩn bị hầu lễ. Ông chủ miếu khấn liên hồi, tay
trái vãi gạo vào các chàng trai đang ngồi hầu lễ, tay phải gõ hai quẻ vào nhau, tạo nên
âm thanh càng lúc càng gấp gáp, thôi thúc các chàng trai. Khi các thầy, bậc trên về ủng
hộ nhập đồng vào những người tham gia nhảy lửa thì người họ lắc lư càng lúc càng
mạnh; họ thấy trong người càng ngày càng lạnh run lên và những hơi ấm của đống lửa
thôi thúc họ bật lên. Thời điểm này báo hiệu họ sắp có sức mạnh và sự dũng cảm để
nhảy vào than hồng đang ở độ rực nhất, nóng nhất. Họ bắt đầu bật lên, cúi người nhảy
lò cò quanh đống lửa khoảng hai vòng và hô to để làm thủ tục. Tiếp đó, từng người
một, đi chân trần nhảy vào đống than hồng đang cháy rực; khi nhảy xong phải lộn một
vòng và bốc than phủ lên người. Làm xong những động tác đó thì người ấy quay về
chỗ làm lễ. Mỗi lần chỉ được nhảy một người, khi người này nhảy lửa xong thì mới đến
người tiếp theo, chứ không nhảy lẫn lộn. Người nọ nối tiếp người kia đến khi than hồng
tắt lịm dưới những đôi chân trần mới thôi. Có một điều kỳ lạ là, tất cả mọi người tham
gia nhảy lửa đều không bị bỏng chân tay, cháy quần áo và mắt ai cũng lờ đờ.
Cuối buổi lễ Nhảy lửa, ông chủ miếu lại làm lễ tạ ơn các vị thần linh đã về dự
chung vui cùng dân làng và hóa vàng để đưa các vị thần linh trở về thiên đường. Đến
khi than tắt lịm thì tất cả mọi người ra về. Những người tham gia vào nhảy lửa đều tin
tưởng là đã xua đuổi được mọi đen đủi, không may mắn của năm cũ; cầu được may
mắn tài lộc, cuộc sống bình yên, hạnh phúc, mưa thuận, gió hòa, mùa màng bội thu ở
năm mới cho gia đình và cả buôn làng; cầu mong thần lửa phù hộ, che chở cho dân làng.
Đối với cộng đồng Dao đỏ nơi đây, từ đời này qua đời khác, tục Nhảy lửa đã trở
thành món ăn tinh thần không thể thiếu trong đời sống tín ngưỡng của đồng bào. Tục
lệ này tuy còn mang màu sắc tâm linh, huyền bí nhưng nó là một minh chứng cho sức
mạnh, cho quá trình lao động, cho ý thức chế ngự thiên nhiên để sinh tồn và phát triển lOMoAR cPSD| 61463864
của con người. Đây không chỉ là ngày vui của bản làng, không chỉ mang ý nghĩa gắn
kết cộng đồng mà còn bảo lưu được rất nhiều giá trị văn hóa truyền thống qua nhiều
thế hệ. Đây là một di sản văn hóa phi vật thể đặc sắc của cộng đồng người Dao rất cần
được nghiên cứu và bảo tồn.
Tài liệu tham khảo https://www.yenbai.gov.vn/noidung/tintuc/Pages/chi-tiet- tin-tuc.aspx?
ItemID=15&l=Baotonvanhoaphivatt https://doingoailaocai.vn/vi/bai-
viet/16810#:~:text=L%E1%BB%85%20Nh
%E1%BA%A3y%20l%E1%BB%ADa%20(ti%E1%BA%BFng%20Dao,l
%C3%A0m%20xong%20l%E1%BB%85%20C%E1%BA%A5p%20s%E1%BA %AFc.