



















Preview text:
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
BỘ MÔN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Tiểu luận cuối kỳ
LÍ LUẬN CUA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN
VỀ NHÀ NƯỚC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA .
LIÊN HỆ THỰC TIỄN MÃ SỐ LỚP HP: LLCT130105_21_1_20CLC GVHD: TRẦN VĂN CHUNG
THỰC HIỆN: NHÓM SAINT SIMON
HỌC KỲ: – NĂM HỌC: 2 2021 – 2022
DANH SÁCH THÀNH VIÊN THAM GIA VIẾT TIỂU LUẬN
HỌC KỲ II NĂM HỌC 2021 – 2022
Nhóm: Saint Simon (Lớp: LLCT130105_21_1_20CLC)
Tên đề tài: Lí luận chủ nghĩa Mac-Lenin về nhà nước xã
hội chủ nghĩa . Liên hệ thực tiễn . STT HỌ VÀ TÊN MSSV % HOÀN THÀNH 1 Mai Văn Thiện 21161364 100 % 2 Lâm Đức Quan 21116351 100 % 3 Nguyễn Vĩnh Hưng 21116056 100 % 4 Nguyễn Lê Ngọc Quyến 21161356 100 % 5 Võ Nguyễn Minh Tiến 21161086 100 % 6 Huỳnh Văn Tài 21161512 100 % 7 Lại Văn Tài 21161357 100 % 8 Ngô Ngọc Sơn 21146510 100 % 9 Lê Thái Quốc Thắng 21161362 100 % 10 Nguyễn Thiên Thức 21116368 100 % Ghi chú:
- Tỷ lệ % = 100%: Mức độ phần trăm của từng sinh viên tham gia.
- Trưởng nhóm: Mai Văn Thiện SĐT: 0867927383
Nhận xét của giáo viên:
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
TP. Thủ Đức, ngày…, tháng…, năm 2021
Chữ ký xác nhận của giảng viên
A – PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chủ nghĩa xã hội là một đề tài lý luận và thực tiễn, quan trọng, nội dung
rất rộng lớn, phong phú và rất phức tạp, có nhiều cách tiếp cận khác nhau vì thế
đòi hỏi phải có sự nghiên cứu một cách nghiêm túc, công phu và tổng kết thực
tiễn một cách sâu sắc, khoa học. Chủ nghĩa xã hội thường được hiểu với ba tư
cách: chủ nghĩa xã hội là một học thuyết, chủ nghĩa xã hội là một phong trào,
chủ nghĩa xã hội là một chế độ. Mỗi tư cách ấy lại có nhiều biểu hiện khác nhau,
tùy theo thế giới quan và trình độ phát triển ở mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể. Chủ
nghĩa xã hội đề cập ở đây là chủ nghĩa xã hội khoa học dựa trên học thuyết Mác
- Lênin trong thời đại ngày nay. Trước những thay đổi lớn của nền chính trị thế
giới, đó là sự sụp đổ của các nước Đông Âu và Liên bang Xô Viết, đòi hỏi
chúng ta phải có nhận thức đúng đắn các quan điểm của triết học Mác – Lênin,
trong đó là các vấn đề nhận thức nhà nước và pháp luật. Ngày nay, sự tiến bộ
của khoa học kỹ thuật và những thành tựu đã làm cho sự phát triển các cá nhân
một cách toàn diện và tất yếu theo như dự đoán của Các Mác, từ đó Nhà nước
hướng tới các hoạt động vào các lĩnh vực đời sống xã hội, vì đó là sự phát triển
của con người. Do đó, vấn đề chức năng xã hội của nhà nước đang trở thành đối
tượng nghiên cứu của các lĩnh vực khoa học. Từ thực trạng đó, vấn đề nhà nước
xã hội chủ nghĩa là vấn đề cốt yếu và cần nghiên cứu một cách có hệ thống, góp
phần bổ sung lý luận khoa học cho công cuộc củng cố và hoàn thiện nhà nước
trong giai đoạn cách mạng hiện nay. Vì thế, chúng em chọn đề tài: “ Lý luận của
chủ nghĩa Mác – Lênin về nhà nước xã hội chủ nghĩa. Liên hê W thực tiễn”
2.Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
Tìm hiểu về nhà nước xã hội chủ nghĩa, đồng thời liên hệ thực tế của
nhà nước xã hội chủ nghĩa ở Việt nam.
Để đạt được mục tiêu trên của bài tiểu luận cần tập trung giải quyết các vấn đề sau:
Trình bài nhà nước xã hội chủ nghĩa của chủ nghĩa Mác – Lênin. 1
Sau đó, liên hệ thực tiễn nhà nước xã hội chủ nghĩa trên thế giới và Việt Nam.
3.Đối tượng nghiên cứu:
Khi nghiên cứu về đề tài này , chúng em đã tập chung nghiên cứ về
nhà nước xã hội chủ nghĩa . Làm rõ khái niệm và các đặc điểm , nguyên nhân và
bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa . Để từ đó nhóm liên hệ trực tiếp đến
việc hình thành và xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam và các nước
xã hội chủ nghĩa trên thế giới, tiêu biểu là Trung Quốc, Ấn Độ, Lào. 2 B – PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I : TỔNG QUAN VỀ NHÀ NƯỚC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
1.1 Khái niệm nhà nước xã hội chủ nghĩa
Nhà nước xã hội chủ nghĩa là tổ chức quyền lực của nhân dân, đại diện
cho nhân dân quản lý mọi mặt của đời sống xã hội trên tất cả các lĩnh vực. Để
thực hiện nhiệm vụ tổ chức và quản lý toàn diện cần lập ra một bộ máy nhà
nước. Xuất phát từ bản chất của nhà nước, bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa có những đặc điểm sau:
- Bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa được tổ chức theo nguyên tắc tập
trung thống nhất quyền lực. Tính thống nhất quyền lực xuất phát từ quan điểm:
tất cả quyền lực thuộc về nhân dân, nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước thông
qua các cơ quan đại diện, mà trước hết là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của đất nước.
- Bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa được tổ chức theo nguyên tắc quyền
lực nhà nước là thống nhất, nhưng có sự phân công và phối hợp giữa các cơ
quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Việc phân công này nhằm mục đích phân định rõ chức năng, nhiệm vụ và quyền
hạn giữa các cơ quan nhà nước, khắc phục sự chồng chéo về quyền hạn của các
bộ phận khác nhau trong cơ cấu bộ máy nhà nước, nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước.
- Bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa có chức năng thống nhất quản lý các
lĩnh vực của đời sống xã hội. Để thực hiện chức năng này, nhà nước thiết lập ra
các cơ quan nhà nước. Có thể phân chia các cơ quan trong bộ máy nhà nước theo nhiều cách khác nhau:
- Xét theo hình thức thực hiện ba quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp thì
cơ quan nhà nước được chia thành cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp. 3
- Xét theo trình tự thành lập thì cơ quan nhà nước xã hội chủ nghĩa được
chia thành các cơ quan do nhân dân trực tiếp bầu ra (Quốc hội, Hội đồng nhân
dân) và các cơ quan không do nhân dân trực tiếp bầu ra (như nguyên thủ quốc
gia do cơ quan quyền lực nhà nước bầu ra).
- Xét theo tính chất thẩm quyền thì phân cơ quan nhà nước xã hội chủ
nghĩa thành cơ quan có thẩm quyền chung và cơ quan có thẩm quyền riêng.
- Xét theo cấp độ thẩm quyền của cơ quan nhà nước xã hội chủ nghĩa
được chia thành cơ quan nhà nước ở trung ương và cơ quan nhà nước ở địa phương.
-Tuy nhiên, thông thường thì các cơ quan nhà nước được phân chia theo
tính chất công việc được đảm nhiệm. Theo cách phân chia này, bộ máy nhà
nước gồm cơ quan quyền lực nhà nước; chủ tịch nước, cơ quan quản lý nhà
nước, cơ quan xét xử và cơ quan kiểm sát.
1.2 Nguyên nhân của sự ra đời của nhà nước xã hội chủ nghĩa
1.2.1. Tính tất yếu lịch sử
- Chủ nghĩa Mác Lênin khẳng định rằng, Cách mạng vô sản và sự ra đời
của nhà nước xã hội chủ nghĩa là tất yếu lịch sử. Tính tất yếu này được quy định
bới những mâu thuẫn nội tại phát sinh trong lòng xã hội tư bản chủ nghĩa. Chính
trong lòng xã hội tư bản đã chứa đựng các yếu rố làm tiền đề cho sự ra đời của
nhà nước xã hội chủ nghĩa: tiền đề về kinh tế , chính trị và xã hội.
a. Những tiền đề về kinh tế
- Chủ nghĩa tư bản độc quyền xuất hiện vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ
XX đã làm cho nền kinh tế tư bản chủ nghĩa rơi vào tình trạng khủng hoảng
trầm trọng, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa tỏ ra bất lực trong việc giải
quyết các vấn đề kinh tế và cứu vãn nền kinh tế. Để bảo vệ sở hữu tư nhân của
các nhà tư sản và để thu được nhiều giá trị thặng dư giai cấp tư sản đã ra sức duy
trì các quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa theo kiểu truyền thống, chính vì thế nó
càng thúc đẩy mâu thuẫn giữa quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất. Với sự
tập trung tư bản đã làm cho lực lượng sản xuất phát triển đến một trình độ cao, 4
công nhân gia tăng về mặt số lượng với trình độ tay nghề cao. Lực lượng sản
xuất ở trình độ cao này đòi hỏi phải có sự cải biến về quan hệ sản xuất cho phù
hợp, sự cải biến này phải được thực hiện thông qua một cuộc cách mạng xã hội,
cuộc cách mạng này tất yếu dẫn đến sự thay thế kiểu nhà nước tư sản bằng kiểu
nhà nước mới Nhà nước xã hội chủ nghĩa. b. Tiền đề về xã hội
- Đặc điểm của quan hệ sản xuất là yếu tố quyết định đặc điểm của nhà
nước. Với đặc điểm quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa là chiếm hữu tư nhân về
tư liệu sản xuất và bóc lột giá trị thặng dư tối đa đã quy định bản chất của nhà
nước tư sản là nhà nước chuyên chính tư sản.
- Sự tích luỹ và tập trung tư bản đã đẩy phần đông giai cấp công nhân
đi vào con đường bần cùng hoá. Mâu thuẫn giữa lao động làm thuê và tư bản
ngày càng trở nên gay gắt, sự bất công trong xã hội cùng với những chính
sách phản động, phản dân chủ đã đưa xã hội tư bản tới sự phân chia sâu sắc.
Mặt khác, nền sản xuất tư bản chủ nghĩa với nền đại công nghiệp đã làm tăng
đội ngũ công nhân lên đông đảo. Đội ngũ này không chỉ đông về số lượng mà
còn phát triển cả về chất lượng và thêm vào đó là tính tổ chức kỷ luật cao do nền
sản xuất công nghiệp tạo thành. Chính điều này đã làm cho giai cấp công nhân
trở thành giai cấp tiên tiến trong xã hội và có vai trò lịch sử của mình là phải
đứng lên lãnh đạo cách mạng vô sản, thủ tiêu nhà nước tư sản, thiết lập nhà nước của mình.
c. Tiền đề tư tưởng chính trị
- Giai cấp công nhân có vũ khí tư tưởng và lý luận sắc bén là chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử để nhận thức đúng đắn
các quy luật vận động và phát triển của xã hội. Chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử là cơ sở lý luận để giai cấp công nhân tổ chức và tiến
hành cách mạng, xây dựng nhà nước và xã hội của mình.
- Trong cuộc đấu tranh này hạt nhân lãnh đạo thuộc về các đảng cộng
sản là đội quân tiên phong của giai cấp vô sản, lãnh đạo phong trào cách mạng 5
của quần chúng và trở thành nhân tố có ý nghĩa quyết định đối với thắng lợi của cách mạng vô sản.
- Ngoài những tiền đề về kinh tế xã hội, tư tưởng, chính trị chung của
cả thế giới, ở mỗi nước với đặc thù riêng của mình có những yếu tố ảnh hưởng
đến cách mạng vô sản. Vì thế, ở những quốc gia khác nhau, cách mạng vô sản
diễn ra ở những thời điểm khác nhau là không hoàn toàn giống nhau về hình
thức. Cách mạng vô sản diễn ra nhanh hay chậm là do nhiều yếu tố ảnh hưởng
đến, đó là những điều kiện về kinh tế, chính trị, xã hội, tư tưởng và yếu tố thời
đại, yếu tố dân tộc…
1.2.2. Cách mạng vô sản và sự ra đời của nhà nước xã hội chủ nghĩa
- Những tiền đề về kinh tế, chính trị và tư tưởng mới là những nguyên
nhân dẫn đến cuộc cách mạng vô sản. Nhưng cách mạng vô sản nổ ra như thế
nào hay nói cách khác là giai cấp vô sản sẽ tiến hành cách mạng vô sản như thế
nào để đưa cách mạng đến thành công lại là một vấn đề khác.
- Về vấn đề này Lênin nhận định: “Vấn đề của mọi cuộc cách mạng là
vấn đề chính quyền”. Mục đích của giai cấp vô sản là sau khi làm cách mạng vô
sản lật đổ chính quyền của giai cấp tư sản thì thiết lập luôn nhà nước của mình,
nhà nước của giai cấp vô sản.
- Trên thực tế giai cấp thống trị không bao giờ tự nguyện dời bỏ địa vị
thống trị của mình cùng với những đặc quyền, đặc lợi mà mình đang chiếm giữ,
vì vậy giai cấp vô sản muốn lật đổ chính quyền tư sản, thiết lập chính quyền vô
sản thì buộc phải thông qua con đường bạo lực cách mạng. Bạo lực cách mạng
có thể là khởi nghĩa vũ trang, cũng có thể là khởi nghĩa vũ trang kết hợp với đấu tranh chính trị.
- Về bản chất, cách mạng vô sản phải khác hẳn với các cuộc cách
mạng trước đó. Nếu các cuộc cách mạng trước làm hoàn thiện bộ máy nhà nước
của giai cấp thống trị là thiểu số trong xã hội thì cách mạng vô sản phải đập tan
bộ máy nhà nước cũ, thiết lập bộ máy nhà nước mới của đông đảo nhân dân lao
động trong xã hội. Nhận thức về vấn đề này, Đảng ta ngay từ Hội nghị trung
ương lần thứ VIII (năm 1941) đã xác định: ”Cách mạng Việt Nam muốn dành 6
được thắng lợi thì nhất thiết phải vũ trang khởi nghĩa dành chính quyền và sau
khi đánh đuổi được đế quốc Pháp, Nhật sẽ thành lập một Chính phủ cách mạng
của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, chính phủ của nước Việt Nam dân chủ
cộng hoà do quốc dân đại hội cử lên”.
Về vấn đề phá bỏ bộ máy nhà nước cũ sau khi giành chính quyền:
- Cần thiết phải thủ tiêu ngay bộ máy quân sự quan liêu bao gồm
những công cụ bạo lực của nhà nước tư sản cũ như quân đội, cảnh sát, nhà tù,
toà án, viện kiểm sát cùng với bộ máy nhà nước từ trung ương xuống đến địa
phương và đồng thời ngăn cấm hoạt động của các tổ chức phản động khác là chỗ
dựa cho chính quyền tư sản cũ.
- Xoá bỏ những chế định pháp luật không còn phù hợp, bảo vệ lợi ích cho giai cấp tư sản.
- Cùng với việc xoá bỏ bộ máy nhà nước tư sản phải chú ý phân biệt bộ
máy hành chính quân sự quan liêu với những tổ chức và cơ sở thực hiện chức
năng xã hội như: ngân hàng, bưu điện, bệnh viện… và các chế định pháp luật
xuất phát từ bản chất xã hội hoặc do nhượng bộ giai cấp vô sản như: quyền bình
đẳng công dân trước pháp luật, chế định quyền bào chữa, chế định xét xử độc
lập chỉ tuân theo pháp luật của toà án.
- Song song với việc xoá bỏ bộ máy nhà nước và pháp luật tư sản thì
giai cấp vô sản phải nhanh chóng xây dựng và hoàn thiện bộ máy nhà nước và
pháp luật của giai cấp mình để bảo vệ thành quả mà giai cấp mình vừa dành
được. Trấn áp sự phản kháng của giai cấp thống tị vừa bị lật đổ cùng những
phần tử phản cách mạng khác.
1.3 Bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa
So với các kiểu nhà nước khác trong lịch sử, nhà nước xã hội chủ
nghĩa là kiểu nhà nước mới, có bản chất khác với bản chất các kiểu nhà nước
bóc lột trong lịch sử.Tính ưu về về mặt bản chất của nhà xã hội chủ nghĩa được
thể hiện trên các phương diện:
Về chính trị, nhà nước xã hội chủ nghĩa mang bản chất của giai cấp
công nhân, giai cấp có lợi ích phù hợp với lợi ích chung của quần chúng nhân 7
dân lao động.Trong xã hội xã hội chủ nghĩa, giai cấp vô sản là lực lượng giữ địa
vị thống trị về chính trị. Tuy nhiên, sự thống trị của giai cấp vô sản có sự khác
biệt về cất so với sự thống trị của giai cấp bóc lột trước đây. Sự thống trị giai
cấp bóc lột là sự thống trị của tiểu số đối với tất cả giai cấp, tầng lớp nhân dân
lao động trong xã hội nằm bảo vệ và duy trì địa vị của mình. Còn sự thống trị về
chính trị của giai cấp vô sản là sự thống trị của đa số đối với thiểu số giai cấp
bóc lột nhằm giải phóng giai cấp mình và giải phóng tất cả các tầng lớp nhân
dân lao động trong xã hội. Do đó, nà nước xã hội chủ nghĩa là đại biểu cho ý chí
chung của nhân dân lao động.
Về kinh tế,bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa chịu sự quy định
của cơ sở kinh tế xã hội xã hội chủ nghĩa, đó là chế độ sở hữu xã hội về tư liệu
sản xuất chủ yếu. Do đó, không còn tồn tại quan hệ sản xuất bóc lột. Nếu như tất
cả các nhà nước bóc lột khác trong lịch sử đều là nhà nước theo đúng nghĩa của
nó, nghĩa là bộ máycủa thiểu số những kẻ bóc lột để trấn áp đa số nhân dân lao
động bị áp bức, bóc lột, thì nhà nước chủ nghĩa xã hội vừa là một bộ máy chính
trị- hành chính, một cơ quan cưỡng chế, vừa là một tổ chức quản lý kinh tế-xã
hội của nhân dân lao động, nó không cònlà nhà nước theo đúng nghĩa, mà chỉ là
“nửa nhà nước”.Việc chăm lo cho lợi ích của đại đa số nhân dân lao động trở
hành mục tiêu hàng đầu của nhà nước xã hội chủ nghĩa
Về văn hóa, xã hội, nhà nước xã hội chủ nghĩa được xây dựng trên nền
tảng tinh thần là lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và những giá trị văn hóa,tiên
tiến, tiến bộ của nhân loại, đồng thời mang những bản sắc riêng của dân tộc. Sự
phân hóa giữa các cấp, các tầng từng bước được thu hẹp, các giai cấp, các tầng
lớp bình đẳng trong việc tiếp cận các nguồn lực và cơ hội để phát triển.
1.4. Chức năng của nhà nước xã hội chủ nghĩa
Tùy chọn theo góc độ cận,chức năng của nhà nước xã hội chủ nghĩa
được chia thành các chức năng khác nhau.
Căn cứ vào phạm vi tác động của quyền lực nhà nước, chức năng của
nhà nước được chia thành chức năng đối nội và chức năng đối ngoại. 8
Căn cứ vào lĩnh vực tác động của quyền lực nhà nước, chức năng của
nhà nước xã hội chủ nghĩa được chia thành chức năng chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, ...
Căn cứ vào tính chất của quyền lực nhà nước, chức năng của nhà nước
được chia thành chức năng giai cấp (trấn áp) và chức năng xã hội (tổ chức và xây dựng).
Xuất phát từ bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa, nên thực hiện các
chức năng của nhà nước cũng có sự khác biệt so với các nhà nước trước đó. Đối
với các nhà nước bóc tách lột, nhà nước của thiểu số thống trị đối với đa số nhân
dân lao động, nên việc thực hiện chức năng trấn áp đóng vai trò quyết định trong
việc duy trì giai cấp nắm quyền chiếm hữu tư liệu sản xuất chủ yếu của xã
hội.Còn trong nhà nước xã hội chủ nghĩa, mặc dù vẫn còn chức năng trấn áp,
nhưng đó là bộ máy giai cấp công và nhân dân lao động tổ chức để trấn áp giai
cấp bóc lột đã bị lật đổ và các phần tử chống đối để bảo vệ thành quả cách
mạng, giữ vững an ninh chính trị, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển kinh
tế - xã hội. Mặc dù trong thời kỳ quá độ, sự trấn áp vẫn tồn tại như một tất yếu,
nhưng đó là sự thật trấn áp của đa số nhân dân lao động đối với thiếu số bóc lột.
V.I.Lênin khẳng định: “Bất cứ nhà nào nước nào cũng có nghĩa là dùng bạo
lực;nhưng toàn bộ sự khác nhau ở chỗ dùng bạo lực đối với những người bị bóc
lột hay đối với những kẻ đi bóc lột ". Theo V.I.Lênin, mặc dù trong giai đoạn
đầu của chủ nghĩa cộng sản," cơ quan đặc biệt,bộ máy đặc biệt là “nhà nước”
vẫn cần thiết, nhưng nó đã là nhà nước quá độ, mà không còn là nhà nước theo
đúng nghĩa của nó nữa ”..
V.I. Lenin cho rằng, giai đoạn vô sản sau khi được chính quyền, xác lập địa vị
thống trị cho đại đa số nhân dân lao động, thì vấn đề quan trọng không chỉ là
trấn áp lại phản kháng của giai cấp bóc lột, mà điều quan trọng hơn cả là chính
quyền mới được tạo ra được năng suất sản xuất cao hơn chế độ xã hội cũ, nhờ
đó mang lại cuộc sống tốt đẹp hơn cho đại đa số các cấp, tầng lớp nhân dân lao
động. Vì vậy, vấn đề quản lý và xây dựng kinh tế là then chốt, quyết định. Nhà 9
nước xã hội chủ nghĩa “không phải chỉ là bạo lực đối với bọn bóc lột, và cũng
không phải là chủ yếu là bạo lực.Cơ sở kinh tế của bạo lực cách mạng đó, cái
bảo đảm sức sống và thắng lợi của nó chính là công việc cấp vô sản đưa ra được
và thực hiện được kiểu tổ chức loại lao động cao hơn so với chủ nghĩa tư
bản.Đấy là thực chất của vấn đề.Đấy là nguồn sức mạnh,là điều kiện đảm bảo
thắng lợi hoàn toàn và tất nhiieen của chủ nghĩa cộng sản".
Cải tạo cũ xã hội, xây dựng thành công hội xã mới là nội dung chủ yếu và mục
đích cuối cùng của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Đó là một sự nghiệp vĩ đại,
nhưng đồng thời cũng là công việc cực kỳ khó khăn và phức tạp. Nó đòi hỏi
nhà nước xã hội chủ nghĩa phải là một bộ máy có đầy đủ sức mạnh để trấn áp kẻ
thù và những phần tử chống đối cách mạng, đồng thời nhà nước đó phải là một
tổ chức có đủ năng lực để quản lý và xây dựng xã hội chủ nghĩa, trong đó công
việc tổ chức quản lý kinh tế là quan trọng, khó khăn và phức tạp nhất. 10
CHƯƠNG II : LIÊN HỆ THỰC TIỄN XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
2.1 . Liên hệ thực tiễn xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa trên thế giới
2.1.1. Xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa ở Lào
Vào ngày 2 tháng 12 năm 1975, sau khi nắm quyền kiểm soát đất nước,
chính phủ Pathet dưới quyền Kaysone Phomvihane đổi tên nước thành Cộng hòa
Dân chủ Nhân dân Lào, đưa nhân dân Lào đi theo con đường xã hội chủ nghĩa.
1. Định hướng XHCN ở Lào
Đại hội IV (1986) của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào đã đánh giá lại
tình hình thực tiễn của đất nước và đề ra phương hướng nhiệm vụ nền tảng đối
với việc đổi mới để tiến lên chủ nghĩa xã hội trong tình hình mới của thế giới.
Tại Trung ương 7 khóa IV (1989), Chủ tịch Cay xỏn Phôm vi hản đã nhấn
mạnh: “Việc xây dựng CNXH yêu cầu phải suy nghĩ một cách toàn diện, đầy đủ
về tình hình thực tiễn về kinh tế - xã hội và chính trị xuất hiện ở các nước nhất
định và trong từng giai đoạn phát triển nhất định của nó... việc xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở nước ta (nước Lào) là một quá trình lâu dài thông qua việc xây
dựng và phát triển chế độ dân chủ nhân dân, xây dựng các yếu tố để tiến lên
chủ nghĩa xã hội”.
Từ đó, các kỳ Đại hội của Đảng, đặc biệt là Đại hội X của Đảng năm
2016 đã đánh giá một cách toàn diện quá trình đổi mới trong 30 năm qua (1986-
2016) và khẳng định sự quyết tâm tiếp tục đưa đất nước tiến lên mục tiêu CNXH
với khẩu hiệu “Nâng cao năng lực lãnh đạo và tính tiên phong của Đảng, tăng
cường đại đoàn kết toàn dân, kiên định đường lối đổi mới toàn diện, có nguyên
tắc, giữ gìn và phát triển đất nước theo hướng bền vững tiến tới mục tiêu xã hội chủ nghĩa”.
2. Một số thành tựu của quá trình xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa ở
Lào trong thời gian qua 11
Lào có những đặc điểm khác với các nước xã hội chủ nghĩa khác là nền
kinh tế phát triển thấp, dựa vào nền nông nghiệp làm nền tảng cho phát triển
công nghiệp, nhưng công nghiệp lại có cơ cấu non trẻ. Chính vì vậy, việc trực
tiếp xây dựng công nghiệp khoa học còn gặp nhiều khó khăn, nhưng Lào vẫn
kiên định vững chắc phát triển đất nước theo mục tiêu xã hội chủ nghĩa , đi theo
tư tưởng lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Cay xỏn Phôm vi hản.
Với mục tiêu đưa đất nước thoát khỏi tình trạng nước kém phát triển, Lào đã và
đang tạo điều kiện để đảm bảo ổn định chính trị, đảm bảo an ninh và trật tự an
toàn xã hội; xây dựng xã hội đoàn kết, hòa thuận, dân chủ, công bằng văn minh;
tạo tăng trưởng kinh tế có chất lượng bằng hình thức cấu trúc kinh tế mới trong
từng bộ ngành và địa phương; giải quyết có hiệu quả các khó khăn về tài chính-
tiền tệ, nợ công, loại bỏ rủi ro dẫn đến tình trạng khủng hoảng kinh tế bằng việc
đảm bảo các yếu tố cần thiết cho việc phát triển kinh tế-xã hội một cách liên tục;
phấn đấu đạt tăng trưởng kinh tế ở mức từ 4%/năm trở lên.
Đồng thời, Lào cũng tập trung phát triển nguồn nhân lực đảm bảo chất
lượng để làm yếu tố thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội, phát triển nông thôn và
giải quyết khó khăn của người dân để có chất lượng cuộc sống tốt hơn; nâng cao
chất lượng dịch vụ y tế cho người dân, đảm bảo khả năng thực tế trong việc
phòng chống hoặc đối phó dịch bệnh và các tình huống y tế khẩn cấp; phát triển
nền kinh tế sạch và thân thiện với môi trường, gìn giữ và sử dụng tài nguyên
thiên nhiên hợp lý, vững bền, tiết kiệm và có hiệu quả cao; tăng cường hợp tác
với các nước bạn bè và đối tác phát triển với nhiều hình thức, theo nguyên tắc
mỗi bên cùng có lợi, chủ động tham gia quá trình kết nối hội nhập rộng rãi với khu vực và quốc tế…
3. Những tồn tại, thách thức đối với sự lãnh đạo của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào
Một là, nhận thức và hiểu biết đối với đường lối đổi mới của Đảng chưa
sâu sắc, nhất là khâu đột phá theo tinh thần Đại hội IX của Đảng đã đề ra 4 khâu 12
đột phá, việc cụ thể hóa Nghị quyết thành kế hoạch, dự án phù hợp với năng lực
và tiềm năng nhằm mang lợi ích cho nhân dân còn chậm.
Hai là, nền kinh tế có sự tăng trưởng, nhưng cơ sở chưa vững chắc, nền
kinh tế vĩ mô chưa cân đối, còn dựa vào khai thác tài nguyên thiên nhiên và xuất
khẩu thô là chủ yếu, không thể tạo giá trị tăng thêm từ sản phẩm, trong nhiều
trường hợp còn chưa đi theo hướng bền vững và giữ gìn môi trường. Cơ cấu
kinh tế tuy có sự biến đổi, nhưng việc vận dụng khoa học, kỹ thuật - công nghệ
vào sản xuất còn hạn chế, làm cho năng suất thấp; việc tạo nền tảng cho việc
công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong lĩnh vực nông nghiệp còn chậm.
Ba là, quản lý nhà nước, quản lý kinh tế - xã hội bằng pháp luật chưa
nghiêm, còn có tình trạng lợi dụng và vi phạm pháp luật cũng như tham nhũng
với nhiều hình thức và nhiều cấp độ khác nhau. Bên cạnh đó việc phối hợp giữa
các ngành cũng như địa phương để giải quyết vấn đề xảy ra, giải quyết những vụ
án, các tranh chấp còn chưa hài hòa và chưa dứt khoát, nghiêm ngặt.
Bốn là, việc tuyên truyền giáo dục và tổ chức thực hiện đường lối quốc
phòng, an ninh toàn diện của Đảng ở cơ sở chưa làm được tốt, làm cho công tác
an ninh ở một số vùng chưa vững chắc; sự phối hợp giữa Trung ương và địa
phương trong việc quản lý người nước ngoài cũng như các tổ chức quốc tế chưa làm được tốt...
4. Một số xu hướng phát triển trong tương lai của Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào
Chúng ta biết, việc xây dựng Chủ nghĩa xã hội trên thế giới đã có nhiều
mô hình khác nhau. Nhưng việc thực hiện mô hình nào đó là phụ thuộc đặc
trưng và hoàn cảnh của mỗi nước; phụ thuộc sự sáng tạo của việc vận dụng chủ
nghĩa Mác - Lênin và bài học của các nước. Để tiếp tục xây dựng và phát triển
nhà nước dân chủ theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Lào, Đảng Lào đưa ra
một số phương hướng sau: 13
Một là, kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Cay xỏn Phôm vi hản;
xây dựng và chỉnh đốn Đảng làm cho Đảng trong sạch, vững mạnh và vững
chắc, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng và nắm quyền của Đảng trong điều
kiện mới. Kiên định theo lời dạy của Hồ Chí Minh: “Chỉ có sự lãnh đạo của
một Đảng biết vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện thực tiễn của
mình một cách sáng tạo mới có thể lãnh đạo cách mạng giải phóng dân tộc đi
tới thắng lợi và cách mạng XHCN thành công”.
Hai là, tiếp tục xây dựng và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa với nhiều thành phần kinh tế, nhiều hình thức sở hữu, nhiều hình
thức phân phối và nhiều hình thức tổ chức sản xuất bình đẳng, hợp tác và cạnh
tranh minh bạch trước pháp luật. Đồng thời, Nhà nước phải đóng vai trò định
hướng, chính sách, cơ chế, thể chế để trở thành công cụ điều tiết kinh tế, tạo môi
trường và điều kiện thuận lợi để làm cho nền kinh tế hoạt động theo quy luật
khách quan một cách đầy đủ, phù hợp với trình độ phát triển của đất nước trong
từng giai đoạn, vừa hội nhập với khu vực và quốc tế, đảm bảo cho quan hệ sản
xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất.
Ba là, xây dựng nhà nước của dân, do dân và vì dân, quản lý nhà nước,
quản lý xã hội bằng pháp luật, phát huy dân chủ trong xã hội. Mọi công dân đều
bình đẳng trước pháp luật, sinh sống và hoạt động theo pháp luật một cách
nghiêm ngặt; điều tiết lợi ích của thành viên trong xã hội một cách hài hòa, xây
dựng nhà nước vững mạnh đảm bảo sự bình đẳng trong xã hội. Nhà nước và cán
bộ của nhà nước phải phấn đấu thực hiện quyền và nghĩa vụ đúng đắn và đầy đủ
đối với công dân và công dân cũng phải thực hiện quyền và nghĩa vụ đối với nhà
nước một cách đúng đắn và đầy đủ.
Bốn là, tăng cường đoàn kết hài hòa giữa các bộ tộc, giữa các tầng lớp và
kiều bào sinh sống ở nước ngoài có tinh thần yêu nước, đồng thuận với chế độ
dân chủ nhằm xây dựng cộng đồng dân tộc cho vững mạnh, có sức mạnh tổng
hợp để phát triển đất nước. Tôn trọng quyền tự do tin hoặc không tin tôn giáo
cũng như hoạt động xã hội khác theo pháp luật và các quy định, nhằm đảm bảo 14
xây dựng xã hội đoàn kết hài hòa, dân chủ, bình đẳng và văn minh. Xây dựng
nền văn hóa tiên tiến và đậm đà bản sắc dân tộc; không ngừng nâng cao đời
sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
Năm là, kiên định xuyên suốt đường lối đối ngoại hòa bình, độc lập, hữu
nghị và hợp tác; thúc đẩy hợp tác với nước ngoài với hình thức đa phương hóa,
đa dạng hóa, nhiều cấp độ trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền lẫn nhau và
đôi bên cùng có lợi. Chính vì vậy, Chủ tịch Cay xỏn Phôm vi hản nhấn mạnh
“làm bạn với tất cả các nước, tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ
của nước ta, lập mối quan hệ toàn diện với các nước đó trên cơ sở nguyên tắc
bình đẳng, đôi bên cùng có lợi”.
2.1.2. Xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa ở Trung Quốc
Đại tác chiến trong Nội chiến Trung Quốc kết thúc vào
năm 1949 với kết quả là Đảng Cộng sản kiểm soát hầu hết
Trung Quốc đại lục, Quốc dân đảng rút chạy ra ngoài khơi với
lãnh thổ chỉ còn Đài Loan,RHải NamRvà các đảo nhỏ. Ngày 1
tháng 10 năm 1949, nhà lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung
Quốc làRMao Trạch ĐôngRtuyên bố thành lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.
Chính phủ Trung Quốc được mô tả là cộng sản và xã hội chủ
nghĩa, song cũng chuyên chế và xã đoàn,Rvới những hạn chế
nghiêm ngặt trong nhiều lĩnh vực, đáng chú ý nhất là truy cập
tự do Internet, tự do báo chí, tự do hội họp, quyền có con, tự do
hình thành các tổ chức xã hội và tự do tôn giáo.
Kể từ khi bắt đầu cải cách kinh tế vào năm 1978, Trung
Quốc đã phát triển thành một nền kinh tế có mức độ đa dạng
hóa cao và là một trong những nước đóng vai trò quan trọng
nhất trong thương mại quốc tế. Các lĩnh vực chính của nền kinh
tế Trung Quốc có sức mạnh cạnh tranh bao gồmRsản xuất,Rbán 15
lẻ,Rkhai khoáng,Rthép,Rdệt may,Rô tô,Rnăng lượng,Rnăng lượng
xanh,Rngân hàng,Rđiện tử,Rviễn thông,Rbất động sản,Rthương mại
điện tửRvàRdu lịch. Trung Quốc có ba trong số mườiRsàn giao
dịch chứng khoánRlớn nhất trên thế giớiRgồmRThượng Hải,RHồng
KôngRvàRThâm Quyến— ba sàn này có tổng giá trịRvốn hóa thị
trườngRhơn 15,9 nghìn tỷ đô la, tính đến tháng 10 năm 2020.
Trung Quốc có bốn trong số mười trung tâm tài chính cạnh
tranh nhất thế giới (Thượng Hải, Hồng Kông, Bắc Kinh và Thâm
Quyến), nhiều hơn bất kỳ quốc gia nào khác trong Chỉ số Trung
tâm Tài chính Toàn cầu năm 2020R.
Sau giai đoạn bùng nổ cơ sở hạ tầng kéo dài nhiều thập
kỷR, Trung Quốc đã xây dựng nên rất nhiều dự ánRcơ sở hạ
tầngRhàng đầu thế giới: Trung Quốc hiện sở hữu mạng lướiRtàu
cao tốcRlớn nhất thế giới, có số lượng tòaRnhà chọc trờiRnhiều
nhất trên thế giới, có nhà máy điện lớn nhất thế giới (đập Tam
Hiệp), cùng với một hệ thống định vị vệ tinh toàn cầu riêng với
số lượng vệ tinh lớn nhất trên thế giới. Trung Quốc đã khởi
xướngRSáng kiến Vành đai và Con đường, một sáng kiến xây
dựng cơ sở hạ tầng toàn cầu lớn với số tiền tài trợ từ 50–100 tỷ
USD mỗi năm. Sáng kiến Vành đai và Con đường có thể là một
trong những kế hoạch phát triển cơ sở hạ tầng lớn nhất trong lịch sử hiện đại.
Từ năm 2000, Trung Quốc đã chuyển từ phát triểnRchiều
rộngRsang chiều sâu, chú trọng việc nghiên cứu tạo ra các thành
tựu khoa học kỹ thuật mới thay vì sao chép của nước ngoài,
nhằm biến Trung Quốc từ mộtR"công xưởng của thế giới"Rthành
mộtR"nhà máy của tri thức". Trung Quốc đã đầu tư lượng lớn tiền
cho sản phẩm công nghệ cao như ô tô điện, sản phẩm bán dẫn,
công nghệ smartphone… Điều này đã được ghi rõ trong kế 16
hoạchR"Made in China 2025"Rcủa Trung Quốc. Các chuyên gia
cho rằng khi bịRMỹRgây sức ép, Trung Quốc có thể sẽ tập hợp
các hãng nội địa vào một cơ chế hợp tác ở cấp độ cao hơn và
phát triển công nghệ mới để đẩy nhanh tiến bộ công nghệ của họ
Trung Quốc hiện được gọi là "công xưởng của thế giới", lý
do là vì nhân công giá rẻ tại Trung Quốc đã thu hút một lượng
lớn đầu tư từ các nước phát triển. Theo phân tích năm 2018, khi
tăng trưởng của Trung Quốc chậm lại thì phần còn lại của thế giới cũng sẽ chậm theo.
2.1.3. Xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa ở Ấn Độ
Ấn Độ có nhiều giá trị xã hội chủ nghĩa đã tồn tại trong suốt chiều dài
lịch sử và vẫn tồn tại trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội. Lịch sử sơ khai và
hiện đại của Ấn Độ cũng tồn tại và nuôi dưỡng những yếu tố này của chủ nghĩa
xã hội, nhưng dường như theo những cách khác. Xã hội hóa kinh tế và dân chủ
hóa chính trị của Ấn Độ ngày nay có thể được coi là những nhân tố xã hội chủ
nghĩa thúc đẩy sự phát triển của đất nước đạt tiêu chuẩn nhanh, nhân văn và bền
vững. Con đường phát triển của Ấn Độ vẫn còn nhiều trở ngại, nhưng với những
di sản để lại, với những nỗ lực cải cách hiện nay, tin rằng những yếu tố tích cực
này sẽ ngày càng gia tăng. Quá trình phát triển được hình thành bởi các quá
trình kinh tế và xã hội, từ lịch sử và hiện tại của một quốc gia. gia đình; Nếu
hiểu chủ nghĩa xã hội là triển vọng về một xã hội đang trong quá trình phát triển
bao gồm nhiều yếu tố và xu hướng phát triển khác nhau và được hình thành từ
các quá trình kinh tế, xã hội, từ lịch sử và hiện tại của một quốc gia;
Nếu hiểu chủ nghĩa xã hội là công bằng, bình đẳng, dân chủ, tự do, độc
lập, hòa bình ... là những giá trị, quan niệm đã được định sẵn trong tâm trí,
nguyện vọng của nhân dân từ lâu trong lịch sử của một dân tộc;
Nếu chúng ta hiểu rằng những xu hướng và giá trị này vẫn tiếp tục đến ngày nay
và được hỗ trợ thêm bởi các yếu tố mới của phát triển hiện đại, chẳng hạn như 17
sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế ngày càng xã hội hóa, nền chính trị ngày
càng dân chủ hóa và nỗ lực tham gia vào toàn cầu hóa, thì ý thức trách nhiệm
của quốc gia đối với hòa bình Phát triển ổn định và chung với các nước trong
khu vực và trên thế giới;
Ấn Độ là một trường hợp điển hình về các nhân tố xã hội chủ nghĩa
trong lịch sử và hiện tại. Điều này cũng đã được đề xuất và truyền cảm hứng từ
các nhà tư tưởng lớn như Marx thông qua nghiên cứu về ảnh hưởng kép của chế
độ thực dân Anh trước đây đối với Ấn Độ; thông qua nghiên cứu sâu sắc và lòng
nhiệt thành của Hồ Chí Minh đối với chính phủ và nhân dân Ấn Độ ...
2.1.3.1. Những tiền đề lịch sử và đương đại của chủ nghĩa xã hội ở Ấn Độ
Thứ nhất, những tiền đề lịch sử :Phương thức sản xuất châu Á ở Ấn Độ
C.Mác đã cho thấy ngay tất yếu chủ nghĩa xã hội từ xuất phát điểm là con người
xã hội, Mác đã chứng minh sự cần thiết của việc tiến lên chủ nghĩa xã hội trong
nền sản xuất và quản lý xã hội ngày càng xã hội hóa của “phương thức sản xuất
châu Á” - Ấn Độ là một trường hợp điển hình của C.Mác. thời gian đó khái
niệm phát triển cộng đồng dựa trên hệ thống đất đai phi tư nhân hoặc công cộng
khá trì trệ. Trong phương thức sản xuất nhỏ lạc hậu, sở hữu công cộng về ruộng
đất có thể là nhân tố hạn chế chủ yếu, hạn chế sự phát triển của năng suất xã hội
nông nghiệp. Nhưng bản thân Mác đã nhìn thấy ở đây tiền đề kinh tế của việc
rút ngắn quá trình phát triển và đi lên xã hội cộng đồng, từ sở hữu truyền thống
sang quá trình phát triển mới dựa trên bản chất của xã hội cộng đồng.
Quyền sở hữu chung về đất đai trong các cộng đồng nông thôn ở Ấn
Độ nên được coi là một nhân tố tạo điều kiện cho việc hình thành và định vị chủ
nghĩa xã hội. Sau những tác động từ công nghiệp hóa của Anh, từ khi giành độc
lập, các cuộc “cách mạng xanh” trong trồng trọt, “cách mạng trắng” trong chăn
nuôi vào những năm 60 - 80 thế kỷ XX ở Ấn Độ có lẽ vừa tiếp nối vừa bổ sung,
và làm nảy nở thêm nhân tố xã hội hóa ấy. Nó đã bù đắp cho sự thiếu hụt của
phương thức cổ truyền là trình độ sản xuất lớn, bằng cách ứng dụng khoa học và
công nghệ trong nông nghiệp.
Công xã nông thôn và dân chủ kiểu phương Tây 18