






Preview text:
lOMoAR cPSD| 47206417
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
HỌC KỲ II NĂM HỌC 2022 – 2023
(Phần dành cho sinh viên/ học )
viên Số báo danh: 58
Bài thi học phần: Lịch sử Đảng
Mã số SV/HV: 21D260146 Mã số đề thi: 31 Lớp: 2332HCMI0131
Ngày thi: 10/6/2023 Tổng số trang: 7
Họ và tên: Nguyễn Thị Nhung Điểm kết luận: GV chấm thi 1: GV chấm thi 2: SV/HV không được viết vào cột này) Điểm từng câu, diểm thưởng (nếu có) và điểm toàn bài GV chấm 1: Câu 1: ……… điểm Câu 2: ……… điểm …………………. …………………. Cộng …… điểm GV chấm 2: Câu 1: ……… điểm Câu 2: ……… điểm …………………. ………………….
Họ tên SV/HV: N guyễ n Thị Nhung - Mã LHP : 2332 HCMI 013 1 Trang 1 /7 lOMoAR cPSD| 47206417 Cộng …… điểm
Bài làm Câu 1:
Quan điểm của Đảng về xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiến tiến, đậm
chất bản sắc văn hoá dân tộc trong thời kỳ đổi mới
Văn hóa Việt Nam là thành quả hàng nghìn năm lao động sáng tạo, đấu tranh
kiên cường dựng nước và giữ nước của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, là kết
quả giao lưu và tiếp thu tinh hoa của nhiều nền văn minh thế giới. Văn hóa Việt
Nam tiếp tục được phát huy, đã góp phần quyết định vào những thắng lợi to lớn
của nhân dân ta trong sự nghiệp đổi mới.
Theo chương trình toàn khóa VIII, Hội nghị Trung ương 5, khóa VIII
(71998) đã ban hành Nghị quyết xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Trung ương nhấn mạnh quan điểm: Văn hóa là
nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát
triển kinh tế-xã hội. Xây dựng và phát triển kinh tế phải nhằm mục tiêu văn học,
vì xã hội công bằng, văn minh, con người phát triển toàn diện. Nền văn hóa mà
chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Tiên tiến là yêu nước và tiến bộ mà nội dung cốt lõi là lý tưởng độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội theo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nhằm
mục tiêu tất cả vì con người, vì hạnh phúc và sự phát triển phong phú, tự do, toàn
diện của con người trong mối quan hệ hài hòa giữa cá nhân và cộng đồng, giữa
xã hội và tự nhiên. Tiên tiến không chỉ về nội dung tư tưởng mà cả trong hình
thức biểu hiện, trong các phương tiện chuyển tải nội dung.
Bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị bền vững, những tinh hoa của cộng đồng các dân tộc
Việt Nam được vun đắp nên qua lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước. Đó là
lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá
nhân-gia đình-làng-xã-Tổ quốc; lòng nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo lý; đức tính cần
cù, sáng tạo trong lao động; sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong lối sống... Bản sắc văn hóa
dân tộc còn đậm nét cả trong các hình thức biểu hiện mang tính dân tộc độc đáo.
Bảo vệ bản sắc dân tộc phải gắn kết với mở rộng giao lưu quốc tế, tiếp thu có chọn lọc những
cái hay, cái tiến bộ trong văn hóa các dân tộc khác. Giữ gìn bản sắc dân tộc phải đi liền với chống
lạc hậu, lỗi thời trong phong tục, tập quán, lề thói cũ. Nền văn hóa Việt Nam là nền văn hóa thống
nhất mà đa dạng trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam. 54 dân tộc sống trên đất nước ta đều có
những giá trị và sắc thái văn hóa riêng nhưng bổ sung cho nhau, làm phong phú nền văn hóa Việt Nam.
Họ tên SV/HV: Nguyễn Thị Nhung - Mã LHP: 2332HCMI0131 Trang 2/7 lOMoAR cPSD| 47206417
Xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo, trong đó đội ngũ
trí thức giữ vai trò quan trọng. Văn hóa là một mặt trận, xây dựng và phát triển văn hóa là một sự
nghiệp cách mạng lâu dài, đòi hỏi phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì thận trọng. Kiên trì cuộc
đấu tranh bài trừ thói hư tật xấu, nâng cao tính chiến đấu, chống mọi sự lợi dụng văn hóa để thực
hiện “diễn biến hòa bình”.
Mười nhiệm vụ cụ thể xây dựng và phát triển văn hóa là: Xây dựng con người Việt Nam; xây
dựng môi trường văn hóa; phát triển sự nghiệp văn học- nghệ thuật; bảo tồn và phát huy các di
sản văn hóa; phát triển sự nghiệp giáo dục- đào tạo và khoa học-công nghệ; phát triển đi đôi với
quản lý tốt hệ thống thông tin đại chúng; bảo tồn, phát huy và phát triển văn hóa các dân tộc thiểu
số; chính sách văn hóa đối với tôn giáo; củng cố, xây dựng và hoàn thiện thể chế văn hóa; mở
rộng hợp tác quốc tế về văn hóa.
Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII được ví như Tuyên ngôn văn hóa của Đảng trong thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Từ đó, phong trào thi đua yêu nước “Toàn dân đoàn kết,
xây dựng đời sống văn hóa” được phát động rộng rãi trên cả nước, trên nhiều lĩnh vực góp phần
làm chuyển biến phong phú thêm đời sống tinh thần toàn xã hội.
Liên hệ thực tiễn việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc Việt Nam ngày nay.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, lĩnh vực văn hóa đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, quan trọng.
Những thành tựu nổi bật cần khẳng định là nhận thức về văn hoá ngày càng toàn diện và sâu sắc
hơn trên các lĩnh vực, các loại hình; các sản phẩm văn hoá ngày càng đa dạng, phong phú, đáp
ứng yêu cầu mới, nhiều mặt của xã hội. Nhiều giá trị văn hoá truyền thống và di sản văn hoá của
dân tộc được kế thừa, bảo tồn và phát triển. Văn hoá trong chính trị và trong kinh tế bước đầu
được coi trọng và phát huy hiệu quả, tích cực. Công nghiệp văn hoá và thị trường văn hoá có
bước khởi sắc. Hoạt động giao lưu, hợp tác và hội nhập quốc tế có bước phát triển mới. Xây dựng
con người Việt Nam đang từng bước trở thành trung tâm của chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội. Việc đấu tranh, phê phán, đẩy lùi cái xấu, cái ác, hành vi sai trái gây tác hại đến văn hoá, lối
sống được chú trọng. Nhiều tấm gương sáng trong phong trào thi đua yêu nước, phong trào "Toàn
dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá" đã được biểu dương, củng cố niềm tin của nhân dân đối
với sự nghiệp xây dựng nền văn hoá nói riêng, xây dựng và phát triển đất nước nói chung.
Sinh viên biết coi trọng hơn các giá trị văn hóa, nhất là các giá trị di sản văn hóa truyền thống.
Dân chủ trên các lĩnh vực đời sống xã hội được mở rộng; dân trí được nâng lên, quyền con người
được tôn trọng. Con người Việt Nam năng động, tích cực, sáng tạo hơn. Người dân có nhiều cơ
hội tiếp cận thông tin và hưởng thụ các giá trị văn hóa. Tinh thần yêu nước, tự hào dân tộc, tính
chủ động, tính tích cực xã hội của sinh viên về các chủ thể văn hóa được phát huy. Đại đoàn kết
dân tộc được mở rộng, tạo sức mạnh trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Môi trường văn hóa được
cải thiện và có một số mặt tiến bộ; chú trọng xây dựng môi trường học tập văn minh, giữ gìn bản
sắc văn hóa dân tộc, từng bước tiếp thu tinh hoa văn hóa thế giới.
Họ tên SV/HV: N guyễ n Thị Nhung - Mã LHP : 2332 HCMI 013 1 Trang 3 /7 lOMoAR cPSD| 47206417
Song song với việc xác định được mô hình phát triển của nền văn hóa Việt Nam “tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc”, những đổi mới mạnh mẽ trên phương diện quản lý văn hóa đã tạo ra
những bước ngoặt quan trọng trong hoạt động bảo tồn, phát huy các giá trị của di sản văn hóa;
tham gia tích cực vào việc tạo ra những sản phẩm du lịch đặc trưng, thúc đẩy phát triển kinh tế
vùng và cả nước, tăng trưởng GDP địa phương và thúc đẩy phát triển du lịch.
Bằng cách tích cực và chủ động mở rộng hợp tác quốc tế về văn hóa, đường hướng “phát
triển văn hóa đối ngoại” đã trở thành phương châm chính trong chiến lược đối ngoại của các
ngành quản lý văn hóa, du lịch, ngoại giao. Kết quả đem lại là hàng loạt các di sản văn hóa vật
thể, phi vật thể của Việt Nam đã đến được với bạn bè quốc tế, đem lại sự ngạc nhiên thán phục
của thế giới về tính độc đáo, đặc trưng của văn hóa Việt Nam. Hàng loạt các di sản văn hóa Việt
Nam đã được ghi danh, xếp hạng là di sản văn hóa của nhân loại như: Vịnh Hạ Long (Quảng
Ninh); Quan họ (Bắc Ninh), Ca trù, Nhã nhạc cung đình Huế… và gần đây nhất là “thực hành tín ngưỡng Tam phủ”
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, vẫn tồn tại những hạn chế, bất cập, yếu
kém trên lĩnh vực văn hoá. Hạn chế, yếu kém nổi bật được nhắc lại nhiều lần lâu nay là văn hoá
chưa được các cấp, các ngành nhận thức một cách sâu sắc và chưa được quan tâm một cách đầy
đủ tương xứng với kinh tế và chính trị; chưa thật sự trở thành nguồn lực, động lực nội sinh của
sự phát triển bền vững đất nước. Thiếu những tác phẩm văn hoá, văn học, nghệ thuật lớn, tầm cỡ,
phản ánh được tầm vóc của sự nghiệp đổi mới, có tác dụng tích cực đối với việc xây dựng đất
nước, xây dựng con người. Môi trường văn hoá vẫn bị ô nhiễm bởi các tệ nạn xã hội, tệ xâm hại
tình dục, ngược đãi trẻ em, hành vi lệch chuẩn của học sinh, sinh viên có xu hướng gia tăng; bạo
lực học đường phổ biến ở cả những học sinh nữ; một bộ phận thầy, cô giáo suy giảm nhân cách,
đạo đức làm ảnh hưởng xấu đến hình ảnh nghề giáo… làm gia tăng sự khủng hoảng niềm tin
trong xã hội. Sự chênh lệch về hưởng thụ văn hoá giữa các vùng, các miền còn lớn. Đời sống văn
hoá ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới và hải đảo còn không ít
khó khăn. Nhiều di sản văn hoá quý báu của dân tộc có nguy cơ bị xuống cấp, mai một, thậm chí
bị tiêu vong. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý văn hoá còn lúng túng, chậm trễ, nhất là trong
việc thể chế hoá các quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng về văn hoá. Chất lượng và số
lượng đội ngũ cán bộ trực tiếp làm công tác văn hoá chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển văn
hoá trong thời kỳ mới. Công tác giới thiệu, quảng bá văn hoá Việt Nam ra nước ngoài chưa mạnh;
tiếp nhận tinh hoa văn hoá nhân loại còn hạn chế.
Những hạn chế, khuyết điểm nêu trên có cả nguyên nhân khách quan và chủ quan, trong đó
nguyên nhân chủ quan vẫn là chính. Đặc biệt là trong công tác lãnh đạo, quản lý, chúng ta chưa
nhận thức thật đầy đủ, sâu sắc và toàn diện về đường lối văn hoá của Đảng, nhất là trong thời kỳ
đổi mới hiện nay. Phương thức lãnh đạo và quản lý văn hoá chậm được đổi mới, chưa thích ứng
kịp thời với sự vận động và phát triển văn hoá trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá và hội nhập quốc tế.
Họ tên SV/HV: Nguyễn Thị Nhung - Mã LHP: 2332HCMI0131 Trang 4/7 lOMoAR cPSD| 47206417
Để tiếp tục xây dựng, giữ gìn nền văn hoá của dân tộc, chúng ta cần tập trung thực hiện thật
tốt một số nhiệm vụ trọng tâm sau đây: Trước hết là tiếp tục nâng cao nhận thức và năng lực lãnh
đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước trên lĩnh vực văn hoá; Thứ hai là xây dựng, bồi dưỡng
đội ngũ cán bộ trực tiếp làm công tác văn hoá tương xứng với yêu cầu và nhiệm vụ phát triển văn
hoá Việt Nam trong giai đoạn mới; Thứ ba là quan tâm hơn nữa đến việc bảo tồn, tôn tạo và phát
huy các giá trị văn hoá dân tộc, các giá trị văn hoá vật thể và phi vật thể của các vùng, miền; Thứ
tư là chú trọng xây dựng văn hoá ứng xử lành mạnh trong xã hội, phát huy những giá trị tích cực
về thuần phong, mỹ tục của gia đình và xã hội.
Câu 2: Anh ( Chị) hãy làm rõ nội dung của Chỉ thị “Kháng chiến kiến quốc” được Đảng đề
ra vào ngày 25-11-1945. Tại sao trong chỉ thị đó, Đảng xác định thực dân Pháp là kẻ thù
chính của cách mạng Việt Nam?
Nội dung của Chỉ thị “Kháng chiến kiến quốc” được Đảng đề ra vào ngày 25-111945.
Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, đất nước ta đứng trước tình thế “ngàn cân treo sợi
tóc”. Để giải quyết tình hình “thù trong, giặc ngoài”. Đảng Cộng sản Đông Dương đã ra Chỉ thị
"Kháng chiến và kiến quốc" ngày 25-11-1945
Dựa trên những nhận định về tình hình khách quan và chủ quan, về tình hình của ta và địch,
Chỉ thị chỉ rõ: Cuộc cách mạng Đông Dương lúc này vẫn là cuộc cách mạng dân tộc giải phóng.
Cuộc cách mạng ấy đang tiếp diễn, nó chưa hoàn thành vì nước chưa được hoàn toàn độc lập.
Nhiệm vụ cứu nước của giai cấp vô sản chưa xong. Giai cấp vô sản vẫn phải hăng hái, kiên
quyết hoàn thành nhiệm vụ thiêng liêng ấy. Khẩu hiệu vẫn là “Dân tộc trên hết. Tổ quốc trên hết”.
Chỉ thị xác định kẻ thù chính của nhân dân Đông Dương lúc này là thực dân Pháp xâm lược,
phải tập trung ngọn lửa đấu tranh vào chúng.
Chiến thuật của ta lúc này là lập Mặt trận Dân tộc Thống nhất chống thực dân Pháp xâm lược.
Mở rộng Việt Minh bao gồm mọi tầng lớp nhân dân.
Thống nhất mặt trận Việt - Miên - Lào chống Pháp xâm lược. Kiên quyết giành độc lập - tự
do - hạnh phúc dân tộc. Độc lập về chính trị, thực hiện chế độ dân chủ cộng hoà; cải thiện đời sống cho nhân dân.
Chỉ thị cũng đề ra nhiệm vụ cần kíp của nhân dân Đông Dương đối với cách mạng thế giới là
phải tranh đấu để thực hiện triệt để hiến chương các nước liên hiệp, ủng hộ Liên Xô, xây dựng
hoà bình thế giới, mở rộng chế độ dân chủ ra các nước, giải phóng cho các dân tộc thuộc địa. Đối
với cách mạng Việt Nam, nhiệm vụ riêng, cần kíp là phải củng cố chính quyền chống thực dân
Pháp xâm lược, bài trừ nội phản, cải thiện đời sống cho nhân dân.
Họ tên SV/HV: N guyễ n Thị Nhung - Mã LHP : 2332 HCMI 013 1 Trang 5 /7 lOMoAR cPSD| 47206417
Trong những nhiệm vụ đó, nhiệm vụ bao trùm là củng cố chính quyền. Để củng cố chính
quyền cách mạng, thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ “kháng chiến” và “kiến quốc”, Chỉ thị vạch
ra những biện pháp toàn diện và cơ bản để thực hiện.
Về nội chính: Một mặt xúc tiến việc đi đến thành lập Quốc hội để quy định Hiến pháp, bầu Chính phủ chính thức.
Về quân sự: Động viên lực lượng toàn dân, kiên trì kháng chiến, tổ chức và lãnh đạo cuộc
kháng chiến lâu dài; phối hợp chiến thuật du kích với phương pháp bất hợp tác đến triệt để.
Về ngoại giao: Nắm vững nguyên tắc thêm bạn, bớt thù, biểu dương thực lực; kiên trì chủ
trương ngoại giao với các nước theo nguyên tắc “bình đẳng và tương trợ”. Đối với Tưởng Giới
Thạch, vẫn chủ trương Hoa - Việt thân thiện, coi Hoa kiều như dân tối huệ quốc. Đối với Pháp,
thực hành độc lập về chính trị, nhân nhượng về kinh tế.
Về tuyên truyền: Kêu gọi đoàn kết, chống chủ nghĩa thực dân Pháp xâm lược. Chống thực
dân Pháp xâm lược. Không công kích nhân dân Pháp, chỉ công kích bọn thực dân Pháp xâm lược.
Về kinh tế và tài chính: Thực hiện khuyến nông, sửa chữa đê điều, lập quốc gia ngân hàng,
phát hành giấy bạc, định lại ngạch thuế, lập ngân quỹ toàn quốc, các xứ, các tỉnh.
Về cứu tế: Kêu gọi lòng yêu nước thương nòi của các giới đồng bào, lập quỹ cứu tế, lập kho
thóc cứu tế, tổ chức “bữa cháo cầm hơi”…
Về văn hoá – giáo dục: Tổ chức bình dân học vụ, tích cực bài trừ nạn mù chữ, mở các trường
đại học và trung học, cải cách việc học theo tinh thần mới.
Chỉ thị nhấn mạnh: Muốn thực hiện được những nhiệm vụ trên đây, Đảng và Mặt trận Việt
Minh phải được củng cố và phát triển.
Về Đảng, phải duy trì hệ thống tổ chức bí mật và nửa công khai của Đảng, phát triển thêm
đảng viên, đặc biệt chú trọng gây cơ sở xí nghiệp của Đảng cho thật rộng, làm sao cho sự phát
triển của Đảng ăn nhịp với sự phát triển của công nhân cứu quốc; giữ vững sinh hoạt của Đảng;
Về Mặt trận Việt Minh, hết sức phát triển các tổ chức cứu quốc. Lập các đoàn thể cứu quốc
mới, giải quyết những mâu thuẫn giữa Uỷ ban nhân dân và Uỷ ban Việt Minh; củng cố quyền
lãnh đạo của Đảng trong Mặt trận, thống nhất Mặt trận Việt Nam - Lào - Cam-pu-chia chống Pháp xâm lược.
Chỉ thị còn đề ra các biện pháp thực hiện những nhiệm vụ cụ thể về chính quyền, kháng chiến
ở Nam Bộ, về chống và đề phòng nạn đói, về tổng quyển cử…
Chỉ thị Kháng chiến kiến quốc của Ban Chấp hành Trung ương Đảng ngày 25/11/1945 là
Cương lĩnh hành động trước mắt của Đảng và nhân dân ta. Bản Chỉ thị đã giải quyết kịp thời
Họ tên SV/HV: Nguyễn Thị Nhung - Mã LHP: 2332HCMI0131 Trang 6/7 lOMoAR cPSD| 47206417
những vấn đề quan trọng về chuyển hướng chỉ đạo chiến lược và sách lược cách mạng trong thời
kỳ mới giành được chính quyền, đưa đất nước vượt qua tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”.
Nhờ có chủ trương đúng đắn, sáng suốt và nhiều quyết sách kịp thời của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh mà cách mạng Việt Nam đã vượt qua những thách
thức hiểm nghèo, tranh thủ từng thời gian hoà bình quý báu để xây dựng thực lực, chuẩn bị cho
cuộc kháng chiến lâu dài.
Lý do Đảng xác định thực dân Pháp là kẻ thù chính của cách mạng Việt Nam,
Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, với danh nghĩa đồng minh đến tước vũ khí của phát xít Nhật,
quân đội các nước đế quốc ồ ạt kéo vào chiếm đóng Việt Nam và khuyến khích bọn Việt gian
chống phá chính quyền cách mạng nhằm xóa bỏ nền độc lập và chia cắt nước ta, bao gồm: 20 vạn
quân Tưởng, quân đội Anh. Cùng thời điểm đó tại Nam Bộ, chúng ta cũng phải đối phó với dã
tâm xâm lược trở lại của Thực dân Pháp. Đảng, Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh vạch rõ: tránh
trường hợp phải một mình đối phó với nhiều lực lượng kẻ thù cùng một lúc, từ đó chủ trương tạm
thời hòa hoãn tránh xung đột với quân Tưởng. Quân Tưởng vào Việt Nam với danh nghĩa giải
giáp quân đồng minh chưa tuyên bố xâm lược như Pháp nếu đánh Tưởng thì sẽ rất khó khăn cho
ta, hơn nữa nhằm tránh được phe đồng mình câu kết chống Việt Nam, lực lượng cách mạng còn
non yếu, quân Tưởng thì đông và nhằm lợi dụng mâu thuẫn giữa hai tập đoàn Mỹ, Tưởng- Anh, Pháp vào Đông Dương.
Chỉ thị "Kháng chiến kiến quốc" đã chỉ rõ: thực dân Pháp là kẻ thù nguy hiểm hơn, là kẻ thù
chính, cần phải tập trung mũi nhọn vào chúng. Xác đinh thực dân Pháp là kẻ thù chính, bởi vì
chúng đã và đang trắng trợn vũ trang xâm lược nước ta ở Nam Bộ. Thực dân Pháp rắp tâm đặt lại
ách thống trị của chúng ở Đông Dương. Âm mưu đó được thể hiện trong Tuyên ngôn của chính
phủ Đờ Gôn ngày 24-3-1945. Nhận rõ âm mưu của chủ nghĩa đế quốc sau Chiến tranh thế giới
thứ hai, Đảng ta cho rằng, các thế lực đế quốc sẽ đi đến dàn xếp với nhau để cho thực dân
Pháp trở lại Đông Dương. Trước sau chính quyền Tưởng Giới Thạch cũng "sẽ bằng lòng cho
Đông Dương trở về tay Pháp, miễn là Pháp nhượng cho Tưởng nhiều quyền lợi quan trọng". Như
vậy, việc tập trung chống thực dân Pháp lúc này là hoàn toàn đúng. Để tập trung đối phó với thực
dân Pháp, cần phải hoà hoãn, nhân nhượng với Tưởng. Bởi lẽ chúng chưa thể trắng trợn gây chiến
tranh xâm lược nước ta được. Như vậy, tranh được tình thế khó khǎn bất lợi là phải đối đầu với
cả quân Pháp và quân Tưởng cùng một lúc. ---Hết---
Họ tên SV/HV: N guyễ n Thị Nhung - Mã LHP : 2332 HCMI 013 1 Trang 7 /7