Lịch sử thẩm mỹ công nghiệp | Đại học Mỹ thuật Công nghiệp

Lịch sử thẩm mỹ công nghiệp | Đại học Mỹ thuật Công nghiệp. Tài liệu được biên soạn dưới dạng file PDF gồm 32 trang, giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao trong kì thi sắp tới. Mời bạn đọc đón xem!

LỊCH SỬ THẨM MỸ CÔNG NGHIỆP
PHONG CÁCH POP ART, DESIGN HẬU HIỆN ĐẠI VÀ ẢNH
HƯỞNG CỦA CHÚNG ĐẾN DESIGN NGÀY NAY
I. POP ART
1. Khái niệm
Pop Art (viết tắt của chữ Popular Art, tức Nghệ thuật Đại chúng)
một phong trào nghệ thuật thị giác nổi lên vào thời đại công
nghiệp những năm 1950. Pop Art hình thức nghệ thuật phản
ánh hiện thực vật chất trong cuộc sống hàng ngày của đại
chúng (mà ảnh hưởng mạnh mẽ nhất hội Mỹ). Pop Art coi
trọng nền văn hóa pop nền văn hóa phổ biến cùng nguồn
cảm hứng được tìm thấy trên: sản phẩm tiêu dùng hàng ngày,
truyền thông quảng cáo, phim ảnh, hoạt họa, biểu tượng vv…
Nguồn gốc của phong trào pop art
Pop Art phát triển từ văn hóa đại chúng vào cuối những năm
1950 và 1960, nhưng nguồn gốc thực sự của trào lưu này là các
phong trào nghệ thuật đương đại đầu thế kỷ XX. Dưới đây
tổng quan về nguồn gốc của Pop Art.
Thuật ngữ Pop Art” được đặt ra bởi nhà phê bình nghệ thuật
người Anh Lawrence Alloway để tả ảnh ghép nổi tiếng năm
1956 của Richard Hamilton “Điều làm cho ngôi nhà ngày nay
trở nên khác biệt, hấp dẫn đến vậy?”, thường được trích dẫn
tác phẩm đầu tiên của Pop Art.
2. Đặc trưng của pop art
Dưới đây là một vài đặc trưng của phong trào Pop Art
Sử dụng các hình ảnh từ các phương tiện thông tin đại
chúng: Khía cạnh dễ nhận biết nhất của Pop Art sự kết
hợp của những hình ảnh dễ nhận biết từ văn hóa đại
chúng Mỹ. dụ, Andy Warhol đã sử dụng hình ảnh của
những người nổi tiếng, như Marilyn Monroe Elizabeth
Taylor, lấy hình ảnh từ quảng cáo công khai phim
tạp chí lá cải.
Nâng tầm sự bình thường: Pop Art đã nâng hình ảnh hàng
ngày như lon súp lên vị thế của một tác phẩm nghệ
thuật. Các nghệ sẽ kết hợp các đồ vật hoặc hình ảnh từ
cuộc sống đương thời trong những năm 1950 1960 vào
tác phẩm của họ, ưu tiên những thứ phổ biến, tầm thường
và sến sẩm.
Sự lặp lại: Các nghệ Pop Art thường tái tạo cùng một
hình ảnh nhiều lần trong một tác phẩm nghệ thuật. Việc
nối tiếp hóa chủ đề duy nhất này vừa sự ca ngợi, vừa
sự phê bình về sản xuất tiếp thị hàng loạt trong văn
hóa đương đại. Các nghệ như Andy Warhol, đã sử dụng
in lụa - một công nghệ được sử dụng trong sản xuất hàng
loạt - để tạo ra các tác phẩm nghệ thuật của mình, trong
khi những người khác như Roy Lichtenstein vẽ tỉ mỉ các
chấm Ben-Day để bắt chước sự xuất hiện của hình ảnh
trong truyện tranh in.
3. Những nhà thiết kế tiêu biểu của pop art
Andy Warhol
Andy Warhol thể nói biểu tượng của pop art, nhân vật
đầu tiên sức ảnh hưởng đến thế giới thời trang. Ông bắt đầu
sự nghiệp là một họa sĩ thiết kế, từng cộng tác với nhiều tạp chí
như Glamour, Mademoiselle Vogue. Ông cũng người đầu
tiên đưa nghệ thuật vào quần áo.
Vào những năm 1960, khi thời trang cao cấp của những người
giàu bị cạnh tranh với quần áo đại trà, Warhol bắt đầu in các
bản vẽ của mình lên những chiếc đầm bằng giấy biến chúng
thành hiện tượng mới. Walhol đã khơi dậy trào lưu quần áo chỉ
mặc một vài lần.
Chiếc đầm nổi tiếng nhất những năm 1960 Souper Dress, in
hình ảnh những lon súp Campbell. Ai cũng thể mua chiếc
đầm này với giá chỉ 2 đô-la Mỹ. Đầm giấy nhanh chóng trở
thành trang phục chính thống ngày nay đã biến mất khỏi
thị trường, những chiếc đầm này vẫn tiếp tục truyền cảm hứng
cho các nhà thiết kế đương đại.
Chiếc đầm giấy Souper Dress của Andy Warhol.
Roy Lichtenstein
Roy Lichtenstein một họa nổi tiếng người Mỹ. Ông lấy
nguồn cảm hứng từ truyện tranh phương pháp vẽ Ben-Day
dot” đã trở thành thương hiệu của ông. Năm 1961, một trong
những tác phẩm pop art đầu tiên của Roy Lichtenstein ra đời
bức Look Mickey với các chấm Ben-day.
Tác phẩm Look Mickey lấy cảm hứng từ truyện tranh Donald
Duck Lost and Found.
Phong cách Ben-day dot của Roy Lichtenstein trong bức tranh
Nude with Joyous 1994, được bán với giá 46 triệu USD.
Đến năm 1963, ông đã trình làng 2 tác phẩm nổi tiếng nhất
trong sự nghiệp của mình Drowning Girl Whaam!, chuyển
thể từ truyện tranh DC. Tuy nhiên, việc Roy Lichtenstein cắt
hình ảnh sẵn trong một quyển truyện biến hóa thành
một tác phẩm hoành tráng đã đặt ra những câu hỏi về bản
quyền. Tạp chí Life đã đăng một bài báo chỉ trích Roy
Lichtenstein là nghệ sĩ tồi nhất nước Mỹ.
vi phạm bản quyền, nhưng phương pháp biến những khung
truyện tranh đơn điệu thành tác phẩm hoành tráng đã giúp các
tác phẩm của ông đắt như tôm tươi. Vào năm 2017, bức tranh
Masterpiece của ông được mua lại với giá 165 triệu USD trở
thành tác phẩm giá trị nhất của Roy Lichtenstein.
Masterpiece, tác phẩm đắt đỏ nhất của Roy Lichtenstein.
Năm 1965, Roy Lichtenstein ngừng việc sử dụng truyện tranh
cho các tác phẩm của mình. Những bản vẽ khác của ông đã trở
thành nguồn cảm hứng tận cho nhiều nhà thiết kế nhãn
hàng như Iceberg và Lisa Perry. Các thương hiệu giày Nike, Vans
Converse cũng đặc biệt yêu thích phong cách của Roy
Lichtenstein.
4. Các tác phẩm tiêu biểu
Just What Is It That Makes Today’s Homes So
Different, So Appealing??” Richard Hamilton
(1956)
Được tạo ra vào năm 1956, bức ảnh ghép này được coi chất
xúc tác cho sự phát triển của Pop Art tại Vương quốc Anh. Nghệ
người Anh Richard Hamilton đã tổ chức buổi triển lãm đặc
biệt mang tên This is Tomorrow tại Phòng trưng bày nghệ thuật
Whitechapel London, cùng với sự góp mặt của các nghệ
đương đại để diễn giải về sự hiện đại dự đoán của họ cho
tương lai.
Just what is it that makes today’s homes so different, so
appealing? kết hợp một số chủ đề liên quan đến giao tiếp
được Hamilton sáng tạo đưa vào. Bức tranh bao gồm: người đàn
ông, người phụ nữ, thực phẩm, lịch sử, báo chí, điện ảnh, thiết
bị gia dụng, ô tô, không gian, truyện tranh, TV, điện thoại,
thông tin. Sử dụng các mẩu tin từ các tạp chí Mỹ, ông đã tạo ra
một khung cảnh dựa trên các họa tiết này, nghĩa đen muốn
tạo ra môt tác phẩm từ những mảnh văn hóa đại chúng và luận
bàn về “những ảnh hưởng khác nhau đang bắt đầu định hình
nước Anh sau chiến tranh.”
32 soup cans” – Andy Warhol (1962)
Năm 1962, nghệngười Mỹ tên Andy Warhol đã nổi tiếng với
típ “soup can (lon súp). Tác phẩm “32 Soup Cans” bao
gồm 32 bức tranh vẽ tay đóng khung tay, mỗi bức tranh
tả một hương vị soup khác nhau của Campbell. Warhol nghệ
tiên phong trong Pop Art, ông chọn chủ đề này một
trong những đặc trưng của Pop Art sự lặp đi lặp lại cũng
chính sở thích của ông. “Tôi đã từng uống chúng. Tôi đã từng
những bữa ăn giống nhau ,trong 20 năm, tôi đoán, điều
tương tự sẽ lặp đi lặp lại.”
Ngay sau khi vẽ bộ sưu tập này, Warhol vẫn tiếp tục thử nghiệm
với típ lon súp nhưng với hàng trăm lon súp chứ không chỉ
dừng lại con số 32. Tuy nhiên, với những tác phẩm sau này,
ông đã chuyển quá trình vẽ tranh sang in lụa, một phương pháp
in ấn được sử dụng phù hợp trong sản xuất quảng cáo thương
mại.
“Whaam!” – Roic Lichtenstein (1963)
Được biết đến với những bức tranh đầy màu sắc, lấy cảm hứng
từ truyện tranh, họa sĩ Roy Lichtenstein đã mang đến những tác
phẩm hoạt hình tràn đầy năng lượng Pop Art. “Whaam!” một
trong những tác phẩm nổi tiếng nhất của ông, lấy bối cảnh
trong All American Men of War, một bộ truyện nổi tiếng được
xuất bản bởi truyện tranh DC từ năm 1956 đến 1966.
Lấy hình thức như cuốn truyện tranh, Whaam! cũng được trình
bày trên 2 trang. phía bên trái của trang đôi (diptych) này,
một chiếc máy bay đang bắn một chiếc máy bay khác, cùng với
câu cảm thán “WHAAM!” chiếm toàn bộ bố cục bên phải của
tác phẩm. Mặc bố cục rất giống với tả ban đầu, nhưng
Lichtenstein đã thay đổi một số chi tiết: ông đã thay đổi các
thiết kế của máy bay, bỏ qua một câu hội thoại thay đổi
bảng màu.
Những thay đổi nhỏ này nói lên mục đích lớn hơn của
Lichtenstein, nhằm nhân hóa các tác phẩm nghệ thuật được
sản xuất hàng loạt này.Tôi không thể sao chép một bức tranh.
Tôi chỉ sắp xếp lại nó”, họa giải thích. “Tôi đã thử qua nhiều
cách để hoàn thành bản vẽ gần giống với bản gốc nhất.
Retroactive II” – Robert Rauschenberg (1964)
Nổi tiếng với cách sử dụng vật liệu độc đáo, Robert
Rauschenberg đã đóng góp cho phong trào Pop Art với kỹ
thuật kết hợp cắt dán đỉnh cao của mình. Một tác phẩm đặc
biệt lấy cảm hứng từ văn hóa Pop Retroactive II, bức tranh
lụa được tạo ra vào năm 1964.
Retroactive IItác phẩm quan trọng trong thời kỳ này, bao
gồm một bức chân dung của John F. Kennedy một phi hành
gia của NASA. Ngoài biểu tượng lấy cảm hứng từ các sự kiện
hiện tại, tác phẩm một bức ảnh với màu sắc đặc trưng của
thẩm mỹ Pop Art.
A Bigger Splash” – David Hockney (1967)
Vào nửa cuối thập niên 1960, nghệ người Anh David
Hockney đã sáng tác một bức tranh được lấy cảm hứng từ bể
bơi. Cảm hứng xuất phát từ một chuyến đi đến California, ông
thích những đường nét sạch sẽ, yếu tố thể hiện hiện đại.
Vào mùa xuân năm 1967, ông đã hoàn thành bức tranh hồ bơi
nổi tiếng nhất của mình: A Bigger Splash. Chỉ một ngôi nhà
hiện đại, một chiếc ghế xếp hai cây cọ, tâm điểm của mảnh
ghép hồ bơi. Một tấm ván được đặt lửng phía trên mặt
nước với những tia nước bắn giữa mặt hồ. Cùng với chủ đề này,
khi hết hợp cũng bảng màu đồ họa về bố cục đã thể hiện
được xu hướng thẩm mỹ được yêu thích của Hockey các
nghệ sĩ Pop thời kỳ bấy giờ.
II. DESIGN HẬU HIỆN ĐẠI
1. Khái niệm
Chủ nghĩa Hậu Hiện đại một phong trào nghệ thuật quốc tế,
trị vào cuối những năm 70 đến những năm 80 đặc trưng
bởi sự từ chối các cấu trúc chính thức được thiết lập bởi chủ
nghĩa hiện đại. Về bản chất, thuật ngữ này phổ biến hơn đối với
các nhà thuyết hơn các nghệ thực tế, với họ giống
như một cách để nhóm một số phong trào nghệ thuật đa dạng,
chiết trung vào một nhóm lớn.
2. Đặc trưng
Chủ nghĩa đa nguyên: Chủ nghĩa hậu hiện đại bác bỏ một
đối tượng, sự thật hoặc cách tiếp cận thực tế
Chống chủ nghĩa hình thức: Chủ nghĩa hậu hiện đại bác bỏ
hướng dẫn và lý thuyết nghệ thuật chính thức
Phương tiện truyền thông phi truyền thống hỗn hợp:
Ảnh ghép, video, nhựa thương mại khiêu diễn giải
đều có một vị trí trong nghệ thuật hậu hiện đại
Giải cấu trúc: Chủ nghĩa hậu hiện đại phá vỡ các khái niệm
truyền thống về cách nghệ thuật tạo ra ý nghĩa
Tự quy chiếu: Nghệ thuật hậu hiện đại thường kêu gọi sự
chú ý đến kỹ xảo của nó, thường một cách đặt câu hỏi
về bản chất của "nghệ thuật"
Mỉa mai: Chủ nghĩa hậu hiện đại chế giễu các quy ước
nghệ thuật bằng cách kết hợp những thứ sến sẩm và khiếu
hài hước “tệ hại”
3. Những nhà thiết kế tiêu biểu của pop art
Carolee Schneemann
Trong suốt sự nghiệp của mình, Carolee Schneemann đã sử
dụng thể của mình để thể hiện sự ảnh hưởng của đường nét
gợi cảm phái nữ đến chính trị nhân, giỏi phóng khỏi các
quy ước thẩm mỹ áp bức từ hội. Dựa vào khả năng thể
hiện của phim, trình diễn, nhiếp ảnh nghệ thuật sắp đặt,
trong số các phương tiện truyền thông khác, ấy đã khái thác
các chủ đề về thế hệ hình ảnh nữ thần, tình dục khiêu
dâm hàng ngày, cũng như tiểu sử nhân sự mất mát. Mặc
nổi tiếng với công việc biểu diễn các phương tiện truyền
thông khác, Schneemann bắt đầu sự nghiệp của mình với
cách một họa sĩ, nói rằng: "Tôi một họa sĩ. Tôi vẫn một
họa sĩ và tôi sẽ chết với tư cách là một họa sĩ. Mọi thứ mà tôi đã
phát triển đều liên quan đến mở rộng các nguyên tắc trực quan
ra khỏi tranh vẽ." ấy tiếp tục biểu diễn, quay phim thu
âm cho đến ngày nay, được nhiều người công nhận người
tiên phong của nghệ thuật Nữ quyền, cũng như nghệ thuật
trình diễn và đa phương tiện.
“Điều khiến màn trình diễn của Schneemann trở thành một
phần mang tính biểu tượng của lịch sử Hậu hiện đại được
cho chống lại những ý tưởng truyền thống đã chi phối nghệ
thuật cổ điển văn hóa cao cấp, vốn vẫn tồn tại do phong
trào Chủ nghĩa hiện đại. Ngoài ra, màn trình diễn của ấy tồn
tại như một tác phẩm nghệ thuật nữ quyền, giới thiệu
thể phụ nữ như một nguồn năng lượng sáng tạo thách thức
sự đại diện của nó trong xã hội.”
Barbara Kruger
Một nữ nghệ nổi bật khác trong thời kỳ Hậu hiện đại
Barbara Kruger, người có tác phẩm tồn tại như những tác phẩm
mang tính biểu tượng của phong trào. Kruger đã sử dụng quảng
cáo để thiết kế các tác phẩm nghệ thuật của mình, với một số
tác phẩm nổi tiếng hơn của được sản xuất hàng loạt trên túi
mua sắm các sản phẩm khác như áo phông. Một quan niệm
phổ biến xuất hiện trong một số tác phẩm của ấy chủ đề
về chủ nghĩa tiêu dùng, đây đặc điểm chính trong tác phẩm
mang tính biểu tượng năm 1987 của cô ấy, Untitled.
Một triển lãm khác của Barbara Kruger, Joyful Losers (2014) tại
Modern Art Oxford; Tháng 6 từ Melbourne, Úc , CC BY-SA 2.0 ,
qua Wikimedia Commons
Marina Abramović (1946 – Hiện tại)
Hiện tại với cách nghệ của một tác phẩm trình diễn
quan trọng nghệ Marina Abramović, người có tác phẩm nổi
tiếng trong thời kỳ Hậu hiện đại. Tác phẩm mang tính biểu
tượng nhất của cô, được trình diễn vào năm 1974, tựa đề
Rhythm 0/Seven Easy Pieces .
Buổi biểu diễn này được coi đột phá vào thời điểm đó,
hỗ trợ cho sự chuyển đổi Hậu hiện đại nghiêng về việc bao gồm
cả sự tham gia của khán giả như một phần của tác phẩm nghệ
thuật. Abramović đã thể hiện sự từ bỏ hoàn toàn quyền kiểm
soát quyền tác giả trong tác phẩm nghệ thuật của mình
bằng cách cho phép khán giả quyết định kết quả của nó, điều
này thách thức ý tưởng của Người theo chủ nghĩa hiện đại rằng
nghệ thuật phải duy nhất được tạo ra bởi một nhân vật
nghệ thuật nổi tiếng.
Cuốn sách nghệ sĩ 3 Buổi biểu diễn của Marina Abramović, phát
hành nhân dịp Liên hoan Biểu diễn Quốc tế, tháng 4 năm
1978; Marina Abramović và Bảo tàng CODA , CC BY 3.0 , qua
Wikimedia Commons
4. Các tác phẩm tiêu biểu
“Marilyn Diptych” - Andy Warhol (1962)
Nghệ Andy Warhol mặc người tiêu biểu cho phong trào
pop art nhưng ông cũng đã tạo ra một số tác phẩm nghệ thuật
mang tính biểu tượng được xác định là một phần của kỷ nguyên
nghệ thuật Hậu hiện đại. Trong số các tác phẩm của
mình, Marilyn Diptych in lụa năm 1962 của ông tồn tại như một
tác phẩm đáng chú ý trong phong trào Hậu hiện đại, khi Warhol
thử nghiệm một phong cách thẩm mỹ thường thấy trong ngành
quảng cáo vào thời điểm đó.
Bức tranh đôi này, mô tả hai tác phẩm nghệ thuật được kết hợp
để tạo ra một tác phẩm nghệ thuật hoàn chỉnh, mô tả bức tranh
của Marilyn Monroe trong bộ phim Niagara , Warhol lần đầu tiên
tái tạo bảng màu bên trái sau đó bảng bên phải màu đen
trắng. Được thực hiện trong những tháng sau cái chết của
Monroe, Warhol đã thể hiện niềm đam mê của mình với cái chết
những người nổi tiếng, với tác phẩm nghệ thuật kết hợp
những sở thích này. Ngoài ra, sự tương phản rõ rệt về màu sắc
giữa hai tấm bảng gợi ý về sự khác biệt giữa sự sống cái
chết.
Warhol đã thách thức hình thức thể hiện chủ đề truyền thống
được duy trì trong phong trào nghệ thuật Hiện đại thông qua
việc lặp lại cùng một hình ảnh của Monroe. Sự lặp lại này cũng
được coi một lời bình luận chế giễu về quá trình sản xuất
hàng loạt ngày càng tăng đã bắt đầu trong nghệ thuật, cũng
như tính xác thực được cho tồn tại trong tất cả các tác phẩm
nghệ thuật. Warhol thường đặt câu hỏi về truyền thống nghệ
thuật cao trong các tác phẩm của mình, với việc tạo ra Marilyn
Diptych tồn tại như một câu trả lời nhẹ nhàng cho câu hỏi của
ông.
Đây thể được coi một tác phẩm nghệ thuật của Chủ nghĩa
hậu hiện đại do liên quan rõ ràng đến văn hóa đại chúng,
vốn thường gắn liền với nghệ thuật thấp, sự nổi loạn của
chống lại các lý tưởng thẩm mỹ của Chủ nghĩa hiện đại trước đó
việc sử dụng sự lặp lại tượng trưng cho sản xuất hàng
loạt. Ngoài ra, Warhol đã thành công trong việc phá vỡ tính xác
thực trong tác phẩm nghệ thuật của mình khi ông sử dụng một
hình ảnh tìm thấy, lặp lại dán nhãn nghệ thuật. Tác
phẩm này đã thách thức ranh giới truyền thống giữa nghệ thuật
cao và thấpMỹ, vì nó tồn tại như một tuyên bố cho chủ nghĩa
tiêu dùng và cảnh tượng.
“(Untitled ) Your body is a battleground- Barbara
Kruger (1989)
Kruger đã thiết kế bản in này cho cuộc biểu tình đòi quyền sinh
sản của phụ nữ tháng 3 năm 1989 Washington, D.C. Bằng
cách sử dụng bảng màu đỏ, đen trắng đặc trưng của mình,
khuôn mặt của người phụ nữ được chia dọc theo trục dọc, thể
hiện các mặt tích cực tiêu cực của bức ảnh, gợi ý một cuộc
đấu tranh nội tâm giữa cái thiện và cái ác được đơn giản hóa rất
nhiều. Ý nghĩa chính trị hội của tác phẩm điều dễ nhận
thấy, nhưng Kruger nhấn mạnh tính trực tiếp trong cảm xúc của
bằng cách để đối tượng của nhìn thẳng vào bản in, thẳng
thắn nói với người xem qua cả ánh mắt những từ ngữ được
thể hiện trên khuôn mặt ấy. Thông điệp đề cập ràng đến
vấn đề tiếp tục đấu tranh cho nữ quyền, kết nối thể của
khán giả nữ với các điều kiện đương đại dẫn đến sự phản kháng
của nữ quyền. Tính thẩm mỹ đồ họa bóng bẩy của Kruger
việc sử dụng hình ảnh ấn tượng được tìm thấy cũng đặt tác
phẩm này vào tầm nhìn của chủ nghĩa hậu hiện đại, buộc
không chỉ với phê bình đương thời còn với các phản ứng
hội và văn hóa lớn hơn trong thời kỳ đó.
“You invest in the divinity of the masterpiece -
Barbara Kruger (1982)
Đối với tác phẩm ban đầu này, Kruger đã sử dụng một phần bức
bích họa trên trần nhà nguyện Sistine nổi tiếng của
Michelangelo, đáng chú ý hình ảnh bàn tay của Chúa chạm
vào bàn tay của Adam vào thời điểm sáng tạo. Thông qua việc
sử dụng đại từ "You", Kruger trực tiếp nói với người xem, mời h
áp đặt câu chuyện của riêng mình vào kiệt tác của
Michelangelo. Suy luận về trách nhiệm nhân trong tác phẩm
này, trừu tượng đến đâu, một chủ đề nhất quán xuyên
suốt tác phẩm của Kruger. gợi ý rằng tất cả chúng ta bằng
cách nào đó đều liên quan đến một câu chuyện lịch sử; trong
trường hợp này, của hệ tưởng, hội nghệ thuật phương
Tây với tư cáchngười xem các tác phẩm nghệ thuật, quan
điểm của chúng ta về tầm quan trọng hoặc vai trò của tác
phẩm nghệ thuật bị ảnh hưởng, đôi khi thậm chí được xác
định trước, bởi tôn giáo hoặc triết học, văn hóa, niềm tin
tưởng. Tham gia vào tưởng đặt câu hỏi về sự phát triển
tường thuật của chủ nghĩa hiện đại của chủ nghĩa hậu hiện đại,
Kruger sử dụng tác phẩm này để giúp người xem thừa nhận vai
trò và cơ quan của họ khi xem nghệ thuật.
“Horn Players” - Jean-Michel Basquiat (1983)
Bức tranh năm 1983 của Jean-Michel Basquiat “Những người
chơi kèn cho chúng ta thấy tất cả các đặc điểm phong cách
chính chúng ta mong đợi từ nghệ nổi tiếng người Mỹ này.
Ngoài các bức chân dung dài một nửa ở các tấm bên trái và bên
phải của bộ ba này (một bức tranh bao gồm ba tấm ghép lại),
nghệ đã đưa vào một số hình vẽ từ ngữ nhiều trong số
đó Basquiat đã vẽ sau đó bị gạch bỏ. Trên mỗi bảng, chúng
ta cũng nhận thấy những vệt sơn trắng lớn, dường như đồng
thời làm nổi bật nền đen che khuất các hình vẽ và/hoặc chữ
bên dưới. Đáng chú ý nhất lẽ sự vượt trội của các từ lặp đi
lặp lại như DIZZY,” ORNITHOLOGY,” PREE” "TEETH
nghệ sĩ đã rải khắp ba tấm của tác phẩm này.
III. MỘT SỐ ỨNG DỤNG THỰC TẾ
1. Pop art
Những hoạ tiết theo Phong cách pop art tái hiện hình ảnh cuộc
sống phim ảnh, truyện tranh,… để thể hiện tính nhân mạnh
mẽ. Sự sáng tạo, ý tưởng đằng sau cuốn lịch này cũng mang
đậm dấu ấn nghệ thuật đương đại. Hoạ tiết từ truyện tranh
hoặc Graffiti, sự lặp lại của các dấu chấm đầy tính độc
đáo yếu tố tạo nên sự ngẫu hứng cho thiết kế Phong cách
pop art cũng được dùng trong cuốn lịch. Những hoạ tiết này
xuất phát từ trào lưu comic nghệ thuật Underground khi
phong cách này bùng nổ tại Mỹ.
Gam màu được dùng chính vàng, đỏ, xanh dương tươi sáng.
không chỉ mang cảm giác trẻ trung, năng động để không
gian vận động theo chiều hướng tích cực. Đây cũng những
màu phổ biến được dùng trong pop art.
2. Design hậu hiện đại
Phương pháp cắt dán, đặt các yếu tố không liên quan cạnh
nhau khá phổ biến trong thiết kế hậu hiện đại. Những hình ảnh
được sử dụng trong thiết kế của bao chai nước trên đã sử
dụng các yếu tố cắt ghép lộn xộn, rõ ràng không thuộc về cùng
một không gian, thu hút sự chú ý đến tính giả tạo của bố cục.
Phương tiện hỗn hợp đặc điểm cốt lõi của thiết kế hậu hiện
đại. Trong thiết kế trên, hình ảnh nàng công, con gấu toà
lâu đài đứng chồng lên nhau. Điều này tác dụng nhấn mạnh
sự đối lập sức hút được tạo ra bởi những phần khác nhau
này.
Một trong những ưu điểm được áp dụng của của chủ nghĩa hậu
hiện đại trong thiết kế trên sự hài hước. Sự hài hước ngẫu
nhiên của những đối tượng xuất hiện trong bao cùng táo
bạo mà không làm khán giả nản lòng.
_END_
Thành viên
nhóm:
1. Vũ Quỳnh Trang
2. Nguyễn Thị Tiền
3. Nguyễn Thùy Vi
| 1/32

Preview text:

LỊCH SỬ THẨM MỸ CÔNG NGHIỆP
PHONG CÁCH POP ART, DESIGN HẬU HIỆN ĐẠI VÀ ẢNH
HƯỞNG CỦA CHÚNG ĐẾN DESIGN NGÀY NAY I. POP ART 1. Khái niệm
Pop Art (viết tắt của chữ Popular Art, tức Nghệ thuật Đại chúng)
là một phong trào nghệ thuật thị giác nổi lên vào thời đại công
nghiệp những năm 1950. Pop Art là hình thức nghệ thuật phản
ánh hiện thực vật chất trong cuộc sống hàng ngày của đại
chúng (mà ảnh hưởng mạnh mẽ nhất là xã hội Mỹ). Pop Art coi
trọng nền văn hóa pop – nền văn hóa “phổ biến” cùng nguồn
cảm hứng được tìm thấy trên: sản phẩm tiêu dùng hàng ngày,
truyền thông quảng cáo, phim ảnh, hoạt họa, biểu tượng vv… 
Nguồn gốc của phong trào pop art
Pop Art phát triển từ văn hóa đại chúng vào cuối những năm
1950 và 1960, nhưng nguồn gốc thực sự của trào lưu này là các
phong trào nghệ thuật đương đại đầu thế kỷ XX. Dưới đây là
tổng quan về nguồn gốc của Pop Art.
Thuật ngữ “Pop Art” được đặt ra bởi nhà phê bình nghệ thuật
người Anh Lawrence Alloway để mô tả ảnh ghép nổi tiếng năm
1956 của Richard Hamilton “Điều gì làm cho ngôi nhà ngày nay
trở nên khác biệt, hấp dẫn đến vậy?”, thường được trích dẫn là
tác phẩm đầu tiên của Pop Art.
2. Đặc trưng của pop art
Dưới đây là một vài đặc trưng của phong trào Pop Art 
Sử dụng các hình ảnh từ các phương tiện thông tin đại
chúng: Khía cạnh dễ nhận biết nhất của Pop Art là sự kết
hợp của những hình ảnh dễ nhận biết từ văn hóa đại
chúng Mỹ. Ví dụ, Andy Warhol đã sử dụng hình ảnh của
những người nổi tiếng, như Marilyn Monroe và Elizabeth
Taylor, và lấy hình ảnh từ quảng cáo công khai phim và tạp chí lá cải. 
Nâng tầm sự bình thường: Pop Art đã nâng hình ảnh hàng
ngày — như lon súp — lên vị thế của một tác phẩm nghệ
thuật. Các nghệ sĩ sẽ kết hợp các đồ vật hoặc hình ảnh từ
cuộc sống đương thời trong những năm 1950 và 1960 vào
tác phẩm của họ, ưu tiên những thứ phổ biến, tầm thường và sến sẩm. 
Sự lặp lại: Các nghệ sĩ Pop Art thường tái tạo cùng một
hình ảnh nhiều lần trong một tác phẩm nghệ thuật. Việc
nối tiếp hóa chủ đề duy nhất này vừa là sự ca ngợi, vừa là
sự phê bình về sản xuất và tiếp thị hàng loạt trong văn
hóa đương đại. Các nghệ sĩ như Andy Warhol, đã sử dụng
in lụa - một công nghệ được sử dụng trong sản xuất hàng
loạt - để tạo ra các tác phẩm nghệ thuật của mình, trong
khi những người khác như Roy Lichtenstein vẽ tỉ mỉ các
chấm Ben-Day để bắt chước sự xuất hiện của hình ảnh trong truyện tranh in.
3. Những nhà thiết kế tiêu biểu của pop art Andy Warhol
Andy Warhol có thể nói là biểu tượng của pop art, là nhân vật
đầu tiên có sức ảnh hưởng đến thế giới thời trang. Ông bắt đầu
sự nghiệp là một họa sĩ thiết kế, từng cộng tác với nhiều tạp chí
như Glamour, Mademoiselle và Vogue. Ông cũng là người đầu
tiên đưa nghệ thuật vào quần áo.
Vào những năm 1960, khi thời trang cao cấp của những người
giàu bị cạnh tranh với quần áo đại trà, Warhol bắt đầu in các
bản vẽ của mình lên những chiếc đầm bằng giấy và biến chúng
thành hiện tượng mới. Walhol đã khơi dậy trào lưu quần áo chỉ mặc một vài lần.
Chiếc đầm nổi tiếng nhất những năm 1960 là Souper Dress, in
hình ảnh những lon súp Campbell. Ai cũng có thể mua chiếc
đầm này với giá chỉ 2 đô-la Mỹ. Đầm giấy nhanh chóng trở
thành trang phục chính thống và dù ngày nay đã biến mất khỏi
thị trường, những chiếc đầm này vẫn tiếp tục truyền cảm hứng
cho các nhà thiết kế đương đại.
Chiếc đầm giấy Souper Dress của Andy Warhol.  Roy Lichtenstein
Roy Lichtenstein là một họa sĩ nổi tiếng người Mỹ. Ông lấy
nguồn cảm hứng từ truyện tranh và phương pháp vẽ “Ben-Day
dot” đã trở thành thương hiệu của ông. Năm 1961, một trong
những tác phẩm pop art đầu tiên của Roy Lichtenstein ra đời là
bức Look Mickey với các chấm Ben-day.
Tác phẩm Look Mickey lấy cảm hứng từ truyện tranh Donald Duck Lost and Found.
Phong cách Ben-day dot của Roy Lichtenstein trong bức tranh
Nude with Joyous 1994, được bán với giá 46 triệu USD.
Đến năm 1963, ông đã trình làng 2 tác phẩm nổi tiếng nhất
trong sự nghiệp của mình là Drowning Girl và Whaam!, chuyển
thể từ truyện tranh DC. Tuy nhiên, việc Roy Lichtenstein cắt
hình ảnh sẵn có trong một quyển truyện và biến hóa nó thành
một tác phẩm hoành tráng đã đặt ra những câu hỏi về bản
quyền. Tạp chí Life đã đăng một bài báo chỉ trích Roy
Lichtenstein là nghệ sĩ tồi nhất nước Mỹ.
Dù vi phạm bản quyền, nhưng phương pháp biến những khung
truyện tranh đơn điệu thành tác phẩm hoành tráng đã giúp các
tác phẩm của ông đắt như tôm tươi. Vào năm 2017, bức tranh
Masterpiece của ông được mua lại với giá 165 triệu USD và trở
thành tác phẩm giá trị nhất của Roy Lichtenstein.
Masterpiece, tác phẩm đắt đỏ nhất của Roy Lichtenstein.
Năm 1965, Roy Lichtenstein ngừng việc sử dụng truyện tranh
cho các tác phẩm của mình. Những bản vẽ khác của ông đã trở
thành nguồn cảm hứng vô tận cho nhiều nhà thiết kế và nhãn
hàng như Iceberg và Lisa Perry. Các thương hiệu giày Nike, Vans
và Converse cũng đặc biệt yêu thích phong cách của Roy Lichtenstein.
4. Các tác phẩm tiêu biểu
“Just What Is It That Makes Today’s Homes So
Different, So Appealing??”
– Richard Hamilton (1956)
Được tạo ra vào năm 1956, bức ảnh ghép này được coi là chất
xúc tác cho sự phát triển của Pop Art tại Vương quốc Anh. Nghệ
sĩ người Anh Richard Hamilton đã tổ chức buổi triển lãm đặc
biệt mang tên This is Tomorrow tại Phòng trưng bày nghệ thuật
Whitechapel ở London, cùng với sự góp mặt của các nghệ sĩ
đương đại để diễn giải về sự hiện đại và dự đoán của họ cho tương lai.
Just what is it that makes today’s homes so different, so
appealing?
kết hợp một số chủ đề liên quan đến giao tiếp
được Hamilton sáng tạo đưa vào. Bức tranh bao gồm: người đàn
ông, người phụ nữ, thực phẩm, lịch sử, báo chí, điện ảnh, thiết
bị gia dụng, ô tô, không gian, truyện tranh, TV, điện thoại,
thông tin. Sử dụng các mẩu tin từ các tạp chí Mỹ, ông đã tạo ra
một khung cảnh dựa trên các họa tiết này, nghĩa đen là muốn
tạo ra môt tác phẩm từ những mảnh văn hóa đại chúng và luận
bàn về “những ảnh hưởng khác nhau đang bắt đầu định hình
nước Anh sau chiến tranh.”

32 soup cans” – Andy Warhol (1962)
Năm 1962, nghệ sĩ người Mỹ tên Andy Warhol đã nổi tiếng với
mô típ “soup can” (lon súp). Tác phẩm “32 Soup Cans” bao
gồm 32 bức tranh vẽ tay và đóng khung tay, mỗi bức tranh mô
tả một hương vị soup khác nhau của Campbell. Warhol là nghệ
sĩ tiên phong trong Pop Art, ông chọn chủ đề này vì nó là một
trong những đặc trưng của Pop Art và sự lặp đi lặp lại cũng
chính là sở thích của ông. “Tôi đã từng uống chúng. Tôi đã từng
có những bữa ăn giống nhau ,trong 20 năm, tôi đoán, điều
tương tự sẽ lặp đi lặp lại.”

Ngay sau khi vẽ bộ sưu tập này, Warhol vẫn tiếp tục thử nghiệm
với mô típ lon súp nhưng với hàng trăm lon súp chứ không chỉ
dừng lại ở con số 32. Tuy nhiên, với những tác phẩm sau này,
ông đã chuyển quá trình vẽ tranh sang in lụa, một phương pháp
in ấn được sử dụng phù hợp trong sản xuất quảng cáo thương mại. 
“Whaam!” – Roic Lichtenstein (1963)
Được biết đến với những bức tranh đầy màu sắc, lấy cảm hứng
từ truyện tranh, họa sĩ Roy Lichtenstein đã mang đến những tác
phẩm hoạt hình tràn đầy năng lượng Pop Art. “Whaam!” là một
trong những tác phẩm nổi tiếng nhất của ông, lấy bối cảnh
trong All American Men of War, một bộ truyện nổi tiếng được
xuất bản bởi truyện tranh DC từ năm 1956 đến 1966.
Lấy hình thức như cuốn truyện tranh, Whaam! cũng được trình
bày trên 2 trang. Ở phía bên trái của trang đôi (diptych) này,
một chiếc máy bay đang bắn một chiếc máy bay khác, cùng với
câu cảm thán “WHAAM!” – chiếm toàn bộ bố cục bên phải của
tác phẩm. Mặc dù bố cục rất giống với mô tả ban đầu, nhưng
Lichtenstein đã thay đổi một số chi tiết: ông đã thay đổi các
thiết kế của máy bay, bỏ qua một câu hội thoại và thay đổi bảng màu.
Những thay đổi nhỏ này nói lên mục đích lớn hơn của
Lichtenstein, nhằm cá nhân hóa các tác phẩm nghệ thuật được
sản xuất hàng loạt này. “Tôi không thể sao chép một bức tranh.
Tôi chỉ sắp xếp lại nó”
, họa sĩ giải thích. “Tôi đã thử qua nhiều
cách để hoàn thành bản vẽ gần giống với bản gốc nhất.”

Retroactive II” – Robert Rauschenberg (1964)
Nổi tiếng với cách sử dụng vật liệu độc đáo, Robert
Rauschenberg đã đóng góp cho phong trào Pop Art với kỹ
thuật kết hợp và cắt dán đỉnh cao của mình. Một tác phẩm đặc
biệt lấy cảm hứng từ văn hóa Pop là Retroactive II, bức tranh
lụa được tạo ra vào năm 1964.
Retroactive II là tác phẩm quan trọng trong thời kỳ này, nó bao
gồm một bức chân dung của John F. Kennedy và một phi hành
gia của NASA. Ngoài biểu tượng lấy cảm hứng từ các sự kiện
hiện tại, tác phẩm là một bức ảnh với màu sắc đặc trưng của thẩm mỹ Pop Art. 
A Bigger Splash” – David Hockney (1967)
Vào nửa cuối thập niên 1960, nghệ sĩ người Anh – David
Hockney đã sáng tác một bức tranh được lấy cảm hứng từ bể
bơi. Cảm hứng xuất phát từ một chuyến đi đến California, ông
thích những đường nét sạch sẽ, yếu tố thể hiện hiện đại.
Vào mùa xuân năm 1967, ông đã hoàn thành bức tranh hồ bơi
nổi tiếng nhất của mình: A Bigger Splash. Chỉ có một ngôi nhà
hiện đại, một chiếc ghế xếp và hai cây cọ, tâm điểm của mảnh
ghép là hồ bơi. Một tấm ván được đặt lơ lửng phía trên mặt
nước với những tia nước bắn giữa mặt hồ. Cùng với chủ đề này,
khi hết hợp cũng bảng màu và đồ họa về bố cục đã thể hiện
được xu hướng thẩm mỹ được yêu thích của Hockey và các
nghệ sĩ Pop thời kỳ bấy giờ.
II. DESIGN HẬU HIỆN ĐẠI 1. Khái niệm
Chủ nghĩa Hậu Hiện đại là một phong trào nghệ thuật quốc tế,
trị vì vào cuối những năm 70 đến những năm 80 và đặc trưng
bởi sự từ chối các cấu trúc chính thức được thiết lập bởi chủ
nghĩa hiện đại. Về bản chất, thuật ngữ này phổ biến hơn đối với
các nhà lý thuyết hơn là các nghệ sĩ thực tế, với họ nó giống
như một cách để nhóm một số phong trào nghệ thuật đa dạng,
chiết trung vào một nhóm lớn. 2. Đặc trưng
Chủ nghĩa đa nguyên: Chủ nghĩa hậu hiện đại bác bỏ một
đối tượng, sự thật hoặc cách tiếp cận thực tế 
Chống chủ nghĩa hình thức: Chủ nghĩa hậu hiện đại bác bỏ
hướng dẫn và lý thuyết nghệ thuật chính thức 
Phương tiện truyền thông phi truyền thống và hỗn hợp:
Ảnh ghép, video, nhựa thương mại và khiêu vũ diễn giải
đều có một vị trí trong nghệ thuật hậu hiện đại 
Giải cấu trúc: Chủ nghĩa hậu hiện đại phá vỡ các khái niệm
truyền thống về cách nghệ thuật tạo ra ý nghĩa 
Tự quy chiếu: Nghệ thuật hậu hiện đại thường kêu gọi sự
chú ý đến kỹ xảo của nó, thường là một cách đặt câu hỏi
về bản chất của "nghệ thuật" 
Mỉa mai: Chủ nghĩa hậu hiện đại chế giễu các quy ước
nghệ thuật bằng cách kết hợp những thứ sến sẩm và khiếu hài hước “tệ hại”
3. Những nhà thiết kế tiêu biểu của pop art Carolee Schneemann
Trong suốt sự nghiệp của mình, Carolee Schneemann đã sử
dụng cơ thể của mình để thể hiện sự ảnh hưởng của đường nét
gợi cảm phái nữ đến chính trị và cá nhân, giỏi phóng khỏi các
quy ước thẩm mỹ và áp bức từ xã hội. Dựa vào khả năng thể
hiện của phim, trình diễn, nhiếp ảnh và nghệ thuật sắp đặt,
trong số các phương tiện truyền thông khác, cô ấy đã khái thác
các chủ đề về thế hệ và hình ảnh nữ thần, tình dục và khiêu
dâm hàng ngày, cũng như tiểu sử cá nhân và sự mất mát. Mặc
dù nổi tiếng với công việc biểu diễn và các phương tiện truyền
thông khác, Schneemann bắt đầu sự nghiệp của mình với tư
cách là một họa sĩ, nói rằng: "Tôi là một họa sĩ. Tôi vẫn là một
họa sĩ và tôi sẽ chết với tư cách là một họa sĩ. Mọi thứ mà tôi đã
phát triển đều liên quan đến mở rộng các nguyên tắc trực quan
ra khỏi tranh vẽ." Cô ấy tiếp tục biểu diễn, quay phim và thu
âm cho đến ngày nay, và được nhiều người công nhận là người
tiên phong của nghệ thuật Nữ quyền, cũng như nghệ thuật
trình diễn và đa phương tiện.
“Điều khiến màn trình diễn của Schneemann trở thành một
phần mang tính biểu tượng của lịch sử Hậu hiện đại là nó được

cho là chống lại những ý tưởng truyền thống đã chi phối nghệ
thuật cổ điển và văn hóa cao cấp, vốn vẫn tồn tại do phong
trào Chủ nghĩa hiện đại. Ngoài ra, màn trình diễn của cô ấy tồn
tại như một tác phẩm nghệ thuật nữ quyền, vì nó giới thiệu cơ
thể phụ nữ như một nguồn năng lượng sáng tạo và thách thức
sự đại diện của nó trong xã hội.”
Barbara Kruger
Một nữ nghệ sĩ nổi bật khác trong thời kỳ Hậu hiện đại là
Barbara Kruger, người có tác phẩm tồn tại như những tác phẩm
mang tính biểu tượng của phong trào. Kruger đã sử dụng quảng
cáo để thiết kế các tác phẩm nghệ thuật của mình, với một số
tác phẩm nổi tiếng hơn của cô được sản xuất hàng loạt trên túi
mua sắm và các sản phẩm khác như áo phông. Một quan niệm
phổ biến xuất hiện trong một số tác phẩm của cô ấy là chủ đề
về chủ nghĩa tiêu dùng, đây là đặc điểm chính trong tác phẩm
mang tính biểu tượng năm 1987 của cô ấy, Untitled.
Một triển lãm khác của Barbara Kruger, Joyful Losers (2014) tại
Modern Art Oxford; Tháng 6 từ Melbourne, Úc , CC BY-SA 2.0 , qua Wikimedia Commons
Marina Abramović (1946 – Hiện tại)
Hiện tại với tư cách là nghệ sĩ của một tác phẩm trình diễn
quan trọng là nghệ sĩ Marina Abramović, người có tác phẩm nổi
tiếng trong thời kỳ Hậu hiện đại. Tác phẩm mang tính biểu
tượng nhất của cô, được trình diễn vào năm 1974, có tựa đề
Rhythm 0/Seven Easy Pieces .
Buổi biểu diễn này được coi là đột phá vào thời điểm đó, vì nó
hỗ trợ cho sự chuyển đổi Hậu hiện đại nghiêng về việc bao gồm
cả sự tham gia của khán giả như một phần của tác phẩm nghệ
thuật. Abramović đã thể hiện sự từ bỏ hoàn toàn quyền kiểm
soát và quyền tác giả trong tác phẩm nghệ thuật của mình
bằng cách cho phép khán giả quyết định kết quả của nó, điều
này thách thức ý tưởng của Người theo chủ nghĩa hiện đại rằng
nghệ thuật phải là duy nhất và được tạo ra bởi một nhân vật nghệ thuật nổi tiếng.
Cuốn sách nghệ sĩ 3 Buổi biểu diễn của Marina Abramović, phát
hành nhân dịp Liên hoan Biểu diễn Quốc tế, tháng 4 năm
1978; Marina Abramović và Bảo tàng CODA , CC BY 3.0 , qua Wikimedia Commons
4. Các tác phẩm tiêu biểu
“Marilyn Diptych” - Andy Warhol (1962)
Nghệ Andy Warhol mặc dù là người tiêu biểu cho phong trào
pop art nhưng ông cũng đã tạo ra một số tác phẩm nghệ thuật
mang tính biểu tượng được xác định là một phần của kỷ nguyên
nghệ thuật Hậu hiện đại. Trong số các tác phẩm của
mình, Marilyn Diptych in lụa năm 1962 của ông tồn tại như một
tác phẩm đáng chú ý trong phong trào Hậu hiện đại, khi Warhol
thử nghiệm một phong cách thẩm mỹ thường thấy trong ngành
quảng cáo vào thời điểm đó.
Bức tranh đôi này, mô tả hai tác phẩm nghệ thuật được kết hợp
để tạo ra một tác phẩm nghệ thuật hoàn chỉnh, mô tả bức tranh
của Marilyn Monroe trong bộ phim Niagara , Warhol lần đầu tiên
tái tạo bảng màu bên trái và sau đó là bảng bên phải màu đen
và trắng. Được thực hiện trong những tháng sau cái chết của
Monroe, Warhol đã thể hiện niềm đam mê của mình với cái chết
và những người nổi tiếng, với tác phẩm nghệ thuật kết hợp
những sở thích này. Ngoài ra, sự tương phản rõ rệt về màu sắc
giữa hai tấm bảng gợi ý về sự khác biệt giữa sự sống và cái chết.
Warhol đã thách thức hình thức thể hiện chủ đề truyền thống
được duy trì trong phong trào nghệ thuật Hiện đại thông qua
việc lặp lại cùng một hình ảnh của Monroe. Sự lặp lại này cũng
được coi là một lời bình luận chế giễu về quá trình sản xuất
hàng loạt ngày càng tăng đã bắt đầu trong nghệ thuật, cũng
như tính xác thực được cho là tồn tại trong tất cả các tác phẩm
nghệ thuật. Warhol thường đặt câu hỏi về truyền thống nghệ
thuật cao trong các tác phẩm của mình, với việc tạo ra Marilyn
Diptych
tồn tại như một câu trả lời nhẹ nhàng cho câu hỏi của ông.
Đây có thể được coi là một tác phẩm nghệ thuật của Chủ nghĩa
hậu hiện đại do nó có liên quan rõ ràng đến văn hóa đại chúng,
vốn thường gắn liền với nghệ thuật thấp, sự nổi loạn của nó
chống lại các lý tưởng thẩm mỹ của Chủ nghĩa hiện đại trước đó
và việc sử dụng sự lặp lại tượng trưng cho sản xuất hàng
loạt. Ngoài ra, Warhol đã thành công trong việc phá vỡ tính xác
thực trong tác phẩm nghệ thuật của mình khi ông sử dụng một
hình ảnh tìm thấy, lặp lại nó và dán nhãn nó là nghệ thuật. Tác
phẩm này đã thách thức ranh giới truyền thống giữa nghệ thuật
cao và thấp ở Mỹ, vì nó tồn tại như một tuyên bố cho chủ nghĩa
tiêu dùng và cảnh tượng. 
“(Untitled ) Your body is a battleground” - Barbara Kruger (1989)
Kruger đã thiết kế bản in này cho cuộc biểu tình đòi quyền sinh
sản của phụ nữ tháng 3 năm 1989 ở Washington, D.C. Bằng
cách sử dụng bảng màu đỏ, đen và trắng đặc trưng của mình,
khuôn mặt của người phụ nữ được chia dọc theo trục dọc, thể
hiện các mặt tích cực và tiêu cực của bức ảnh, gợi ý một cuộc
đấu tranh nội tâm giữa cái thiện và cái ác được đơn giản hóa rất
nhiều. Ý nghĩa chính trị và xã hội của tác phẩm là điều dễ nhận
thấy, nhưng Kruger nhấn mạnh tính trực tiếp trong cảm xúc của
cô bằng cách để đối tượng của cô nhìn thẳng vào bản in, thẳng
thắn nói với người xem qua cả ánh mắt và những từ ngữ được
thể hiện trên khuôn mặt cô ấy. Thông điệp đề cập rõ ràng đến
vấn đề tiếp tục đấu tranh cho nữ quyền, kết nối cơ thể của
khán giả nữ với các điều kiện đương đại dẫn đến sự phản kháng
của nữ quyền. Tính thẩm mỹ đồ họa bóng bẩy của Kruger và
việc sử dụng hình ảnh ấn tượng được tìm thấy cũng đặt tác
phẩm này vào tầm nhìn của chủ nghĩa hậu hiện đại, buộc nó
không chỉ với phê bình đương thời mà còn với các phản ứng xã
hội và văn hóa lớn hơn trong thời kỳ đó. 
“You invest in the divinity of the masterpiece” - Barbara Kruger (1982)
Đối với tác phẩm ban đầu này, Kruger đã sử dụng một phần bức
bích họa trên trần nhà nguyện Sistine nổi tiếng của
Michelangelo, đáng chú ý là hình ảnh bàn tay của Chúa chạm
vào bàn tay của Adam vào thời điểm sáng tạo. Thông qua việc
sử dụng đại từ "You", Kruger trực tiếp nói với người xem, mời họ
áp đặt câu chuyện của riêng mình vào kiệt tác của
Michelangelo. Suy luận về trách nhiệm cá nhân trong tác phẩm
này, dù trừu tượng đến đâu, là một chủ đề nhất quán xuyên
suốt tác phẩm của Kruger. Cô gợi ý rằng tất cả chúng ta bằng
cách nào đó đều liên quan đến một câu chuyện lịch sử; trong
trường hợp này, của hệ tư tưởng, xã hội và nghệ thuật phương
Tây và với tư cách là người xem các tác phẩm nghệ thuật, quan
điểm của chúng ta về tầm quan trọng hoặc vai trò của tác
phẩm nghệ thuật bị ảnh hưởng, và đôi khi thậm chí được xác
định trước, bởi tôn giáo hoặc triết học, văn hóa, và niềm tin tư
tưởng. Tham gia vào lý tưởng đặt câu hỏi về sự phát triển và
tường thuật của chủ nghĩa hiện đại của chủ nghĩa hậu hiện đại,
Kruger sử dụng tác phẩm này để giúp người xem thừa nhận vai
trò và cơ quan của họ khi xem nghệ thuật. 
“Horn Players” - Jean-Michel Basquiat (1983)
Bức tranh năm 1983 của Jean-Michel Basquiat “Những người
chơi kèn” cho chúng ta thấy tất cả các đặc điểm phong cách
chính mà chúng ta mong đợi từ nghệ sĩ nổi tiếng người Mỹ này.
Ngoài các bức chân dung dài một nửa ở các tấm bên trái và bên
phải của bộ ba này (một bức tranh bao gồm ba tấm ghép lại),
nghệ sĩ đã đưa vào một số hình vẽ và từ ngữ — nhiều trong số
đó Basquiat đã vẽ và sau đó bị gạch bỏ. Trên mỗi bảng, chúng
ta cũng nhận thấy những vệt sơn trắng lớn, dường như đồng
thời làm nổi bật nền đen và che khuất các hình vẽ và/hoặc chữ
bên dưới. Đáng chú ý nhất có lẽ là sự vượt trội của các từ lặp đi
lặp lại như “DIZZY,” “ORNITHOLOGY,” “PREE” và "TEETH” mà
nghệ sĩ đã rải khắp ba tấm của tác phẩm này.
III. MỘT SỐ ỨNG DỤNG THỰC TẾ 1. Pop art
Những hoạ tiết theo Phong cách pop art tái hiện hình ảnh cuộc
sống phim ảnh, truyện tranh,… để thể hiện tính cá nhân mạnh
mẽ. Sự sáng tạo, ý tưởng đằng sau cuốn lịch này cũng mang
đậm dấu ấn nghệ thuật đương đại. Hoạ tiết từ truyện tranh
hoặc Graffiti, sự lặp lại của các dấu chấm đầy cá tính và độc
đáo là yếu tố tạo nên sự ngẫu hứng cho thiết kế Phong cách
pop art cũng được dùng trong cuốn lịch. Những hoạ tiết này
xuất phát từ trào lưu comic và nghệ thuật Underground khi
phong cách này bùng nổ tại Mỹ.
Gam màu được dùng chính là vàng, đỏ, xanh dương tươi sáng.
Nó không chỉ mang cảm giác trẻ trung, năng động để không
gian vận động theo chiều hướng tích cực. Đây cũng là những
màu phổ biến được dùng trong pop art.
2. Design hậu hiện đại
Phương pháp cắt dán, đặt các yếu tố không liên quan ở cạnh
nhau khá phổ biến trong thiết kế hậu hiện đại. Những hình ảnh
được sử dụng trong thiết kế của bao bì chai nước trên đã sử
dụng các yếu tố cắt ghép lộn xộn, rõ ràng không thuộc về cùng
một không gian, thu hút sự chú ý đến tính giả tạo của bố cục.
Phương tiện hỗn hợp là đặc điểm cốt lõi của thiết kế hậu hiện
đại. Trong thiết kế trên, hình ảnh nàng vũ công, con gấu và toà
lâu đài đứng chồng lên nhau. Điều này có tác dụng nhấn mạnh
sự đối lập và sức hút được tạo ra bởi những phần khác nhau này.
Một trong những ưu điểm được áp dụng của của chủ nghĩa hậu
hiện đại trong thiết kế trên là sự hài hước. Sự hài hước và ngẫu
nhiên của những đối tượng xuất hiện trong bao bì vô cùng táo
bạo mà không làm khán giả nản lòng. _END_ Thành viên 1. Vũ Quỳnh Trang nhóm:
2. Nguyễn Thị Tiền 3. Nguyễn Thùy Vi