Lợi ích quốc gia dân tộc - Quan hệ quốc tế | Học viện Ngoại giao Việt Nam

Lợi ích quốc gia dân tộc - Quan hệ quốc tế | Học viện Ngoại giao Việt Nam được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!

MỤC LỤC
MỤC LỤC................................................................................................................1
MỞ ĐẦU...................................................................................................................2
I. Nhận thức về lợi ích quốc gia – dân tộc...........................................................3
1. Khái niệm lợi ích quốc gia – dân tộc............................................................3
2. Khái niệm lợi ích dân tộc, lợi ích giai cấp, lợi ích nhân loại......................5
3. Phân loại lợi ích quốc gia – dân tộc..............................................................6
4. Xác định lợi ích quốc gia – dân tộc...............................................................9
5. Quan điểm của Hồ Chí Minh về lợi ích quốc gia – dân tộc......................10
II. Lợi ích quốc gia - dân tộc: hòn đá tảng trong hoạch định chính sách đối
ngoại Việt Nam.......................................................................................................12
KẾT LUẬN............................................................................................................15
TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................................................16
1
MỞ ĐẦU
Bộ trưởng Bộ ngoại giao Anh thế kỷ XIX - Palmerston từng nói: “Không
đồng minh vĩnh viễn, không kẻ thù vĩnh viễn. Chỉ lợi ích quốc gia vĩnh
viễn và nhiệm vụ của chúng ta là theo đuổi những lợi ích đó”.
Chính sách đối ngoại của một quốc gia thường được quyết định bởi ba yếu tố
thiết yếu quan trọng: lợi ích quốc gia - dân tộc, thế lực của quốc gia trên
trường quốc tế, cục diện thế giới khu vực. Trong đó, lợi ích quốc gia - dân tộc
luôn vấn đề tối quan trọng, nguyên tắc tối thượng, kim chỉ nam trong việc
hoạch định, thực thi chiến lược, chính sách phát triển, bảo vệ đất nước hợp tác
quốc tế. Hay nói cách khác, lợi ích quốc gia dân tộc hòn đá tảng trong công
cuộc hoạch định chính sách đối ngoại của các quốc gia nói chung và Việt Nam nói
riêng.
Thông qua tìm hiểu nghiên cứu, dựa trên nhiều tài liệu sẵn nhiều hình
thức, bài tiểu luận này sẽ tìm hiểu đi sâu vào chủ đề: “Lợi ích quốc gia - dân
tộc Hòn đá tảng trong hoạch định chính sách đối ngoại” với hai lớn: I. Nhận
thức về lợi ích quốc gia – dân tộc và II. Lợi ích quốc gia-dân tộc, hòn đá tảng trong
hoạch định chính sách đối ngoại Việt Nam.
2
I. Nhận thức về lợi ích quốc gia – dân tộc
1. Khái niệm lợi ích quốc gia – dân tộc
Khái niệm lợi ích quốc gia – dân tộc có lịch sử phát triển rất dày, và có rất nhiều
nhận thức khác nhau về lợi ích quốc gia dân tộc trong giới nghiên cứu chính trị
quốc tế. Tuy nhiên, những nhận thức này đều có một đặc điểm chung là đều đề cập
việc lợi ích dân tộc là nhân tố cực kỳ quan trọng để xác định chính sách đối ngoại
của một quốc gia.
dụ như H.Morgenthau, cha đẻ chủ nghĩa hiện thực chính trị, nói rằng: “Lợi
ích dân tộc là thực thể khách quan. Nó được hình thành trên cơ sở đặc thù của địa-
chính trị, sự phát triển kinh tế, chính trị, xã hội trên cơ sở bản chất môi trường
quốc tế. Cho nên lợi ích dân tộc là cơ sở bền vững của chính sách quốc tể của quốc
gia.”
1
Hay giáo K.X.Gagiev của Nga viết: “Chính sách đối ngoại của quốc gia
được xác định bởi nhiều nhân tố trong đó trình độ phát triển kinh tế - hội,
chính trị - xã hội, vị trí địa-chính trị, truyền thống lịch sử dân tộc, mục tiêu và yêu
cầu đảm bảo chủ quyền an ninh... Tất cả những cái đó được chuyển vào chính
sách đối ngoại và biểu hiện tập trung là quan điểm lợi ích dân tộc.”
2
Vậy định nghĩa lợi ích quốc gia – dân tộc là gì?
Jack C.Plano Roy Olton nước Mỹ đã đưa ra khái niệm về lợi ích dân tộc
trong cuốn như sau: “Lợi ích dân tộc mục tiêu bảnTừ điển Quan hệ quốc tế
nhân tố quyết định cuối cùng trong việc hoạch định chính sách đối ngoại. Lợi
ích quốc gia một khái niệm tính khái quát hóa cao bao gồm những nhu cầu
sống còn của quốc gia đó. Đó là tự bảo vệ, độc lập, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh quân
sự và thịnh vượng về kinh tế.”
3
Một tác giả khác đến từ Mỹ - Chas W.Freeman cũng viết về lợi ích dân tộc
trong cuốn : “Quan hệ giữa nhà nước với nhà nước đượcTừ điển Nhà ngoại giao
nhận thức sự tồn tại an ninh, thịnh vượng quyền lực của quốc gia này an
ninh, thịnh vượng, quyền lực của quốc gia khác”
4
1 Vũ Dương Huân (2009), “Một số vấn đề quan hệ quốc tế: Chính sách đối ngoại và ngoại giao Việt Nam - Tập 1”,
Nxb. Chính trị - Hành chính, Hà Nội, tr.148.
2 Vũ Dương Huân (2009), “Một số vấn đề quan hệ quốc tế: Chính sách đối ngoại và ngoại giao Việt Nam - Tập 1”,
Nxb. Chính trị - Hành chính, Hà Nội, tr.149.
3 Jack C.Plano, Roy Olton (1982), The International Rẹlations Dictionary, Third Editon, Nxb. Caliíbmia, ABC-
CLIO Santa Barlarra, tr. 9.)
4 Chas W. Freeman, Jr. (1994) “The Diplomat's Dictionary”, Nxb. National Defence University Press, Washington
D.C, tr18.
3
Tại Việt Nam, tác giả Đoàn Văn Thắng cũng đưa ra định nghĩa về lợi ích
quốc gia như sau: “Việc xác định lợi ích quốc gia vấn đề mấu chốt trong hoạch
định thực hiện chính sách đối ngoại, cũng điểm mấu chốt để đánh giá bản
chất giai cấp khả năng ảnh hưởng của một chính quyền. Lợi ích quốc gia thể
hiện nhu cầu, mục tiêu một quốc gia theo đuổi thực hiện trong nước cũng
như trong quan hệ với các nước và các tổ chức quốc tế.”
5
GS. TS Trần Hữu Tiến cũng đã đưa ra khái niệm lợi ích dân tộc trên Tạp chí
luận chính trị: “Khái niệm lợi ích dân tộc nội hàm rộng, bao hàm trong đó
tất cả những tạo thành điều kiện cần thiết cho sự trường tồn của cộng đồng với
tư cách quốc gia dân tộc có chủ quyền, thống nhất, độc lập, lãnh thổ toàn vẹn; cho
sự phát triển đi lên về mọi mặt của quốc gia dân tộc theo hướng làm cho đời sống
vật chất và tinh thần của cộng đồng ngày càng phong phú, tốt đẹp hơn; cho sự nâng
cao không ngừng sức mạnh tổng hợp quốc gia, năng lực cạnh tranh quốc gia trên
trường quốc tế, vị trí, vai trò, uy tín quốc tế của quốc gia dân tộc. Các dân tộc trên
thế giới đều coi lợi ích căn bản nhất của dân tộc Tổ quốc độc lập, thống nhất,
giàu mạnh, lãnh thổ toàn vẹn (bao gồm vùng đất, vùng trời, vùng biển, hải đảo,
thềm lục địa), nhân dân làm chủ đối với Tổ quốc mình.”
6
Từ các khái niệm được đưa ra ở trên, tathể có được các đặc điểm chung
về lợi ích quốc gia – dân tộc:
- Lợi ích dân tộc là nhu cầu tồn vong và phát triển của dân tộc;
- Nhu cầu này đã được lãnh đạo quốc gia nhận thức trở thành mục tiêu cơ bản
của chính sách đối ngoại quốc gia;
- nhân tố rất quan trọng trong hoạch định chính sách đối ngoại của quốc
gia;
- Lợi ích dân tộc có tính lịch sử
Lợi ích quốc gia dân tộc, hay lợi ích quốc gia, hay lợi ích dân tộc những
khái niệm đồng nghĩa. Khi nói đến quốc gia dân tộc chính nói đến chủ thể thực
sự trên trường quốc tế. Quốc gia đại diện cho dân tộc trên trường quốc tế. Cho
nên lợi ích dân tộc hay lợi ích quốc gia đều mang cùng một ý nghĩa.
Tóm gọn lại, lợi ích quốc gia – dân tộc có thể được định nghĩa như sau: Lợi ích
quốc gia dân tộc toàn bộ những nhu cầu sống còn phát triển của quốc gia,
được lãnh đạo quốc gia nhận thức dưới dạng mục tiêu chiến lược an ninh đối
ngoại, chiến lược đổi ngoại cùa quốc gia trong một giai đoạn lịch sử nhất định. Lợi
5 Đoàn Văn Thắng: Quan hệ quốc tế. Các phương pháp tiếp cận, Nxb. Thống kê, 2003, tr. 75-76.
6 GS, TS Trần Hữu Tiến (2015), “Lợi ích dân tộc”, Tạp chí điện tử Lý luận chính trị. Truy cập ngày 09/01/2023.
4
ích quốc gia – dân tộc là công cụ cực kỳ quan trọng trong phân tích và hoạch định
chính sách đổi ngoại.
7
Lợi ich quốc gia – dân tộc là khách quan, hiện thực. Lợi ích này gắn bó với chủ
quyền toàn vẹn lãnh thổ, đến nguyên tắc không can thiệp vào công việc nội bộ của
nhau, nhân tố quyết định hoạt động đối ngoại của quốc gia hiện thực hóa
quan hệ quốc tế.
2. Khái niệm lợi ích dân tộc, lợi ích giai cấp, lợi ích nhân loại
2.1. Lợi ích dân tộc và lợi ích giai cấp
Khi đề cập đến khái niệm lợi ích dân tộc, ta không thể không nhắc tới lợi ích
giai cấp. Trong một cộng đồng dân tộc bao giờ cũng nhiều giai cấp các tầng
lớp xã hội khác nhau. Vậy nên lợi ích dân tộc, lợi ích quốc gia là lợi ích chung của
tất cả các giai cấp, lực lượng xã hội trong cộng đồng.
Học thuyết Mác Lênin khẳng định bản chất giai cấp của nhà nước vai trò
quyết định của kinh tế trong quan hệ với chính trị. Giai cấp nào trong đất nước
thống trị về kinh tế sẽ thống trị về chính trị. Vậy nên, lợi ích của giai cấp thống trị
là duy trì sự lãnh đạo của mình đối với toànhội, tối đa hóa lợi ích cho giai cấp
mình.
Ví dụ, ở Mỹ dù Đảng Cộng họa hay Dân chủ cầm quyền, song cũng đều bảo vệ
quyền lợi của giai cấp tư sản. Còn ở các nước xã hội chủ nghĩa, lợi ích của giai cấp
cầm quyền là giai cấp công nhân. Tuy nhiên, lợi ích dân tộc và lợi ích của giai cấp
công nhân phù hợp với nhau bởi phương thức sản xuất của những nước này
phương thức sản xuất dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất.
2.2. Lợi ích dân tộc và lợi ích nhân loại
Ngoài lợi ích dân tộc, lợi ích giai cấp, còn xuất hiện lợi ích nhân loại liên quan
đến sự sống còn của nhân loại như chiến tranh hạt nhân, bảo vệ môi truờng, dịch
bệnh, ăng trưởng dân số, thiên tai...
Lợi ích nhân loại yêu cầu phát triển của cả loài người không phân biệt giai cấp,
dận tộc, tôn giáo. Trong xã hộigiai cấp, lợi ích nhân loại không tách rời lợi ích
giai cấp, dân lộc và bị chi phối bởi lợi ích giai cấp. Vậy nên lợi ích giai cấp tiến bộ
phù hợp với lợi ích nhân loại.
3. Phân loại lợi ích quốc gia – dân tộc
Nhà nghiên cứu chính trị Mỹ Alexander Wendt, lợi ích quốc gia được chia ra
hai loại khách quan chủ quan. Lợi ích khách quan những lợi ích căn bản,
7 Vũ Dương Huân (2009), “Một số vấn đề quan hệ quốc tế: Chính sách đối ngoại và ngoại giao Việt Nam - Tập 1”,
Nxb. Chính trị - Hành chính, Hà Nội, tr.152.
5
chung cho mọi quốc gia và cần được đảm bảo để chủ thể có thể tồn tại. Còn lợi ích
chủ quan nhu cầu của mỗi quốc gia nhằm đảm bảo các lợi ích khách quan đó.
Lợi ích khách quan thể như nhau, nhưng mỗi quốc gia nhu cầu chủ quan
khác nhau tùy hoàn cảnh và điều kiện để theo đuổi các nhu cầu khách quan, do đó
dẫn tới chính sách của mỗi quốc gia cũng khác nhau.
8
Học giả người Mỹ H.Morgenthau đã phân chia lợi ích quốc gia thành hai kiểu là
lợi ích chính yếu (primary)lợi ích thứ yếu (secondary). Theo ông, lợi ích chính
yếu bao gồm lợi ích vật chất, lợi ích chính trị, bản sắc văn hóa và an ninh cũng như
sự tồn vong của quốc gia, toàn bộ công dân phải bảo vệ lợi ích này bằng mọi giá.
Lợi ích thứ yếu kiểu lợi ích thể thương lượng thỏa hiệp, mặc kiểu lợi
ích này khó thể định nghĩa được, song phải nằm ngoài lợi ích chính yếu
không được đe dọa đến chủ quyền quốc gia.
Một học giả khác là Donald Nuechterlein lại phân chia lợi ích quốc gia thành 4
loại căn bản. Đó là: Lợi ích quốc phòng (Defense interests); Lợi ích kinh tế
(Economic interests); Lợi ích trật tự thế giới (World Order interests); Lợi ích về ý
thức hệ (Ideological interests).
9
Có rất nhiều cách phân loại lợi ích quốc gia – dân tộc từ các góc độ khác nhau.
Như dựa trên quy mô không gian,lợi ích tổng thể - lợi ích cụ thể. Dựa trên khả
năng chia sẻ với các quốc gia khác, lợi ích chung - lợi ích riêng. Dựa trên so
sánh có lợi ích tuyệt đối và lợi ích tương đối. Dựa trên lĩnh vực có lợi ích chính trị
- lợi ích kinh tế - lợi ích an ninh - lợi ích văn hóa…
Tuy nhiên, bài tiểu luận này sẽ chỉ đề cập những cách phân loại lợi ích quốc gia
dân tộc phổ biến nhất là theo nội dung, theo tầm quan trọng, và theo thời gian.
3.1. Theo nội dung
3.1.1. Lợi ích chính trị an ninh:
Vấn đề cốt lõi của chính trị quốc gia là quyền độc lập. Quyền độc lập là nhân tố
quyết định vận mệnh đẩt nước về chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ. Đó những lợi
ích tối thượng, thiêng liêng của bất kỳ quốc gia nào. Lợi ích chính trị - an ninh tập
trung ở những nội dung sau:
- Độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia;
- Sự toàn vẹn lãnh thổ;
- Sự an toàn của thể chế hợp hiến;
- Vị trí, vai trò ừong nền chính trị thế giới.
8 Nguyễn Hoàng Như Thanh (2016), “Sự thống nhất của các trường phái lý luận QHQT: Mô hình duy lý về hành vi
quốc gia”. Tạp chí Nghiên cứu quốc tế, truy cập ngày 10/01/2023
9 Nguyễn Tiến Dũng, (2020), ““Lợi ích quốc gia” - tiếp cận từ góc độ lý thuyết”. Tạp chí Nghiên cứu Văn Hóa, số
32. Truy cập ngày 09/01/2023
6
3.1.2. Lợi ích kinh tế hay lợi ích phát triển
Đằng sau các sự kiện chính trị đều có yếu tố kinh tế. Kinh tế là nhân tố rất quan
trọng cấu thành sức mạnh quốc gia trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay. Lợi ích
kinh tế của mỗi quốc gia là phát triển kinh tế là đem lại thịnh vượng cho quốc gia,
cho nhân dân. Lợi ích kinh tế - phát triển tập trung ở các nội dung:
- Chủ quyền về tài nguyên khoảng sản, thủy sản, là thương mại, thuế quan,
tài chính...;
- Mửc độ về số lượng, chất lượng cụ thể của sự phát triển lực lượng sản
xuất, nărig xuất lao động của khu vực và thế giói;
- GDP chung của quốc gia tính theo đầu nguời trong so sánh với khu
vực và thế giới
3.1.3. Lợi ích văn hóa – xã hội
“Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc
đẩy phát triển kinh tế - hội” (Đảng Cộig sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại
biều loàn quốc lần thứ VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, í. 1996, tr. 110.)
Nguồn sức mạnh của một dân tộc là bản sắc văn hóa của dân tộc đó.
Bản sắc dân tộc khoogn bao giờ mất đi dù chosự giao lưu giữa các nền văn
hóa trong quá trình hội nhập. dụ, châu Âu quá trình liên kết trở nên hết sức
chặt chẽ nhờ liên minh châu Âu, nhưng các nền văn hóa không bị trộn lẫn với
nhau. Văn hóa Pháp vẫn văn hóa Pháp, văn hóa Bỉ vẫn văn hóa Bỉ. Các nội
dung chính của lợi ích văn hóa – xã hội là:
- Bản sắc văn hóa dân tộc
- Mức độ bình đẳng giữa các dân tộc, nhóm xã hội
- Chất lượng cuộc sống, trình độ dân chủ và tự do của nhân dân
3.2. Theo tầm quan trọng
3.2.1. Lợi ích sống còn
Đối với Mỹ, trong Chiến lược An ninh quốc gia năm 1999 và Báo cáo đánh giá
quốc phòng thường kỳ ngày 30-9-2001, họ định nghĩa lợi ích sống còn như sau:
“Những lợi ích liên quan đến sự tồn vong, an ninhkhả năng sinh tồn của nước
Mỹ. Cụ thể đảm bảo an ninh quyền tự do hành động của Mỹ; chủ quyền,
toàn vẹn lãnh thổ và tự do cùa nứớc Mỹ; sự an toàn của công dân Mỹ ở trong nước
và nước ngoài; bảo vệ cơ sờ hạ tầng của Mỹ và của đồng minh. Nếu lợi ích trên bị
đe dọa, Mỹ sẽ dùng mọi biện pháp kể cả quân sự đơn phương khi cần thiết.”
10
Còn đối với nước Nga, Các chuyên gia Hội đồng Chính sách đối ngoại và quốc
phòng, một tổ chức phi chinh phủ Liên bang Nga định nghĩa lợi ích sống còn
“Những lợi ích quốc gia phải sẵn sàng bảo vệ bằng mọi phương tiện, kể cả
10 Vũ Dương Huân (2009), “Một số vấn đề quan hệ quốc tế: Chính sách đối ngoại và ngoại giao Việt Nam - Tập 1”,
Nxb. Chính trị - Hành chính, Hà Nội, tr.156.
7
quân sự. Đó đảm bảo tự do, tăng trường phúc lợi của nhân dân Nga, toàn vẹn
lãnh thổ, độc lập của nước Nga; ngăn chặn sự thống trị, đặc biệt về mặt quân sự,
chính trị của những cường quốc khác trên lãnh thổ Liên trước đây; ngăn chặn
việc hình thành trên thế giới các liên minh chống lại nước Nga, kể cả việc trả đũa
lại những hành động của Liên bang Nga trên lãnh thổ Liên Xô trước đây.”
11
Từ hai định nghĩa trên, ta có thể nhận định được lợi ích cốt lõinhững lợi ích
liên quan đến sự tồn vong, an ninh của một quốc gia. Quốc gia phải sẵn sàng bảo
vệ lợi ích cốt lõi bằng mọi phương tiện, kể cả quân sự. Lợi ích này bao gồm các
yếu tố như toàn vẹn lãnh thổ, độc lập, ngăn chặn sự thống trị của những quốc gia
khác, đảm bảo sự an toàn của công dân và cơ sở hạ tầng của quốc gia.
3.2.2. Lợi ích thiết yếu hay lợi ích quan trọng
Lợi ích thiết yếu hay lợi ích quan trọng các lợi ích không xác định sự sống
còn của đất nước; nếu lợi ích thiết yếu của cường quốc thì lợi ích này còn ảnh
hưởng đến sự phồn vinh và đặc điểm thế giới. Việc xác định lợi ích nào là thiết yếu
quan trọng còn tùy thuộc vào nhận thức của từng quốc gia.dụ, trong Chiến
lược An ninh quốc gia năm 1999 Báo cáo đánh giá quốc phòng thường kỳ
(30/09/2001) đã nêu rõ lợi ích thiết yếu của Mỹ là tôn trọng những cam kết quốc tế
bao gồm an ninh thịnh vượng của các nước đồng minh bạn bè, đồng thời
ngăn chặn sự thống trị của kẻ thù đối với những khu vực quan trọng như châu Âu,
Đông Bắc Á, Trung Đông Tây Nam Á; cũng như hòa bình ổn định Tây bán
cầu.
3.2.3. Lợi ích thông thường hay lợi ích ít quan trọng
Lợi ích thông thường hay lợi ích ít quan trọng các lợi ích ít quan trọng hơn,
các quốc gia tùy từng trường hợp cụ thể có thể cân nhắc hi sinh, nhân nhượng các
lợi ích này. Ví dụ, theo Mỹ, lợi ích thông thường là những lợi ích Góp phần vào sự
thịnh vượng kinh tế và những vấn đề nhân đạo... Đó là khả năng tồn tại, phát triển
bền vững sức sản xuất của nền kinh tế toàn cầu; an ninh của vùng biển, vùng
trời, không gian các tuyến thông tin liên lạc quốc tế; quyền tiếp cận các thị
trường chủ chốt và những nguồn tài nguyên chiến lược.
3.3. Theo thời gian:
Theo học giả Ole Holsti, lợi ích quốc gia dân tộc phân loại theo thời gian
nhiệm vụ cơ bản, nhiệm vụ lâu dài hay nhiệm vụ trung hạn.
11 Vũ Dương Huân (2009), “Một số vấn đề quan hệ quốc tế: Chính sách đối ngoại và ngoại giao Việt Nam - Tập 1”,
Nxb. Chính trị - Hành chính, Hà Nội, tr.157.
8
4. Xác định lợi ích quốc gia – dân tộc
Chính sách đối ngoại được xác định bởi nhiều nhân tố trong đó có trình độ phát
triển kinh tế - xã hội, vị trí địa – chính trị, truyền thống lịch sử dân tộc, mục tiêu và
yêu cầu đảm bảo chủ quyền, an ninh Tất cả các nhân tố đó chuyển vào chính
sách đối ngoại chính là lợi ích dân tộc.
4.1. Địa – chiến lược
Thứ nhất, khi xác định lợi ích quốc gia dân tộc, trước hết phải bàn đến là nhân
tố địa lý, địachiến lược. Đó là vị trí địa lý, dân số, vị trí địa – chiến lược. Địa
chiến lược lại bao gồm tài nguyên thiên nhiên, khí hậu, địa hình Đây những
nhân tố khá quan trọng trong việc xác định lợi ích quốc gia. Những nhân tố này ít
thay đổi ảnh hường trực tiếp đến an ninh phát triển quốc gia. Khi nghiên
cứu về địa – chính trị hay địachiến lược xem xét phạm vi ảnh hưởng của các
yếu tố trên tới chính sách đối ngoại của một quốc gia hay vị trí của quốc gia đó
trên trường quốc tế.
4.2. Thực lực quốc gia
Thứ hai, yếu tố rất quan trọng tiếp theo để xác định lợi ích dân tộc thực lực
của quốc gia, vị trí quốc gia ừên bàn cờ chính trị thế giới. Thực lực quốc gia bao
gồm trình độ phát triển kinh tế - hội, khoa học - cồng nghệ, sức mạnh quân sự.
Sức mạnh quốc gia nhân tố trọng yếu trong hoạch định chính sách đối ngoại,
như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Thực lực cái chiêng ngoại giao
là cái tiếng.
Thực lực quốc gia không chỉ sức mạnh “cứng” còn cả sức mạnh
“mềm”. Sức mạnh cứng cách các quốc gia thể hiện ảnh hưởng của mình thông
qua lực, dưới các hình thức đe dọa, ngoại giao cưỡng bức, trừng phạt kinh tế
hoặc quân sự. Còn sức mạnh mềm là các yếu tố như văn hóa, truyền thống dân tộc.
Bản sắc văn hóa dân tộc là sức mạnh của dân tộc. Đồng thời, văn hóa chính trị với
ba yếu tố: hệ giá trị, cấu quyền lực phương pháp triển khai các quyết định,
liên quan chặt đến xác định hiện thực hóa lợi ích dân tộc. Việc kết hợp hai sức
mạnh này sẽ tạo ra “sức mạnh thông minh”, giúp quốc gia củng cố thực lực trên
trường quốc tế.
4.3. Bối cảnh quốc tế
Thứ ba, bối cảnh quốc tế một nhân tố quan trọng không thể không nhắc tới.
Mỗi quốc gia là một bộ phận không thể tách rời của thế giới. Không nhìn thấy đặc
điểm, xu thế phát triển của thế giới thì không thể xác định được vị trí của quốc gia
trong bàn cờ chính trị quốc tế. Từ đó không xác định được yêu cầu đối với đất
9
nước, dẫn tới không xác định được lợi ích quốc gia, lợi ích dân tộc. Trong bối
cảnh quốc tế, cần đặc biệt lưu ý cơ cấu quốc tế đồng thời phải hiểu trật tự thế giới.
Trong thời đại ngày nay, bối cảnh khu vực thế giới những biến động
nhanh chóng, phức tạp, khó lường, đem theo cả thời cơ, thuận lợi đan xen với khó
khăn thách thức cho nhiều quốc gia. Trong tình cảnh đó, cần hoạch định chính sách
đối ngoại theo hướng tranh thủ, khai thác có hiệu quả những điểm tương đồng, tạo
dựng mặt đồng thuận, hạn chế, khắc chế mặt bất đồng với những tác hại đến lợi ích
chiến lược của đất nước.
4.4. Yêu cầu của đất nước
Thứ tư, là yêu cầu của đất nước. Chính sách đối ngoại là “cánh tay nối dài” của
chính sách đối nội. Vì vậy, việc xác định yêu cầu của đất nước là yếu tố tiên quyết
để xác định lợi ích ưu tiên của quốc gia - dân tộc.
Trong từng giai đoạn lịch sử, quốc gia những nhiệm vụ ưu tiên, nhiệm vụ
trọng tâm, lợi ích quốc gia là phục vụ nhiệm vụ trọng tâm đó.
dụ, giai đoạn từ sau Cách mạng Tháng Tám 1945 đến trước ngày toàn quốc
kháng chiến 19/12/1946, công tác đối nội đối ngoại Việt Nam đã đạt được
những kết quả tương đối tích cực. Về đối nội, thông qua việc tổ chức tổng tuyển
cử, chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã nâng cao được sự gắn của
nhân dân trong nước, đồng thời làm tăng tính chính danh của chính quyền cách
mạng. Về đối ngoại, xuất phát từ nhu cầu củng cố nền hoà bình vừa được thiết lập
cũng như ổn định xây dựng lực lượng chiến đấu lâu dài, Việt Nam Dân chủ
Cộng Hoà đã có những sự nhân nhượng nhất định.
Ngoài ra, còn rất nhiều nhân tố khác ảnh hưởng tới việc xác định lợi ích
quốc gia dân tộc như chế độ chính trị, luậnhội, lịch sử, văn hóa, quan điểm
đối ngoại của các học giả …
Muốn xác định trúng lợi ích dân tộc phải kết hợp phương pháp duy vật biện
chứng và ngũ tri.
12
5. Quan điểm của Hồ Chí Minh về lợi ích quốc gia – dân tộc
Trong suốt cuộc đời sự nghiệp hoạt động cách mạng của mình, Chủ tịch Hồ
Chí Minh luôn đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên trên hết, trước hết. Quan điểm này
nguyên tắc tối cao trong quá trình lãnh đạo cách mạng một trong những
nguyên nhân đưa đến thành công của cách mạng Việt Nam. Đặt lợi ích quốc gia -
dân tộc lên trên hết, trước hết, được lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc xác định ngay từ đầu,
12 : 5 cái biết – biết mình, biết ngirời, biết thời thế, biết đừng và biết biến.ngũ tri
10
trong quá trình vận động thành lập Đảng lãnh đạo cách mạng Việt Nam đấu
tranh để giành và bảo vệ nền độc lập dân tộc.
Thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 kết quả sáng tạo trong
tưởng Hồ Chí Minh, của tầm nhìn đổi mới phương pháp cách mạng của
Người trong cuộc cách mạng giải phóng dân tộc một nước nửa phong kiến, nửa
thuộc địa như Việt Nam. Trong Tuyên ngôn độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng
định một chân lý: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã
thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh
thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.
thể khẳng định khẳng định, quan điểm đưa lợi ích quốc gia - dân tộc lên
hàng đầu, đặt mục tiêu giải phóng dân tộc là tối thượng của Chủ tịch Hồ Chí Minh
là rất đúng quy luật và phù hợp xu thế vận động của lịch sử cũng như truyền thống
phòng chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam. Đó cũng là khao khát mãnh liệt và
mong muốn cháy bỏng của toàn dân tộc Việt Nam.
Quan điểm “đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên trên hết, trước hết” của Chủ tịch
Hồ Chí Minh không chỉ đấu tranh giải phóng và bảo vệ nền độc lập của dân tộc
mà còn hướng tới lợi ích của nhân dân. Yêu nước, thương dân là mối quan hệ biện
chứng, dòng tưởng lớn nhất xuyên suốt duy hành động cách mạng
của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Với Người, không có lòng yêu nước chung chung, trừu
tượng. Yêu nước chính yêu nhân dân, đem lại độc lập, cuộc sống ấm no, tự
do, hạnh phúc cho nhân dân.
11
II. Lợi ích quốc gia - dân tộc: hòn đá tảng trong
hoạch định chính sách đối ngoại Việt Nam.
Lợi ích dân tộc của nước ta trong giai đoạn hiện nay đã được Hội nghị Trung
ương 8 khóa IX (7-2003) xác đinh như sau :
13
(1)Bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ;
(2)Bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa;
(3)Bảo vệ sự nghiệp đổi mới, hiện đại hóa đất nước;
(4)Bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc;
(5)Bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và nền văn hóa;
(6)Giữ vững ổn định chính trị và môi 'trường hòa bình, phát triển đất nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa
Đối với Việt Nam, quan điểm về lợi ích quốc gia - dân tộc sự kế thừa từ
truyền thống lịch sử của ông cha ta cũng như tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh về
“đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên trên hết, trước hết” trong quan hệ đối ngoại
Việt Nam tiến hành từ khi bắt đầu công cuộc đổi mới đến nay. Quan điểm đó được
Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định cũng như thể hiện ở mục tiêu xuyên
suốt, đó là “độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”.
Kế thừa, phát triển quan điểm đối ngoại trong Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nghị quyết Đại hội XII của Đảng đã chỉ
rõ mục tiêu hoạt động đối ngoại của nước ta phải nhằm bảo đảm lợi ích tối cao của
quốc gia - dân tộc, trên sở các nguyên tắc bản của luật pháp quốc tế, bình
đẳng và cùng có lợi. Qua đó, Đảng ta khẳng định:
(1)Lợi ích quốc gia và lợi ích dân tộc là thống nhất;
(2)Lợi ích quốc gia - dân tộc của Việt Namnhững lợi ích chính đáng, không
phải là những lợi ích vị kỷ;
(3)Lợi ích quốc gia - dân tộc của Việt Nam được xác định trên sở các
nguyên tắc bản của Hiến chương Liên hợp quốc luật pháp quốc tế,
bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi, cùng phấn đấu vì hòa bình, độc lập dân tộc,
dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới;
13 Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương (2003): Tài liệu họp tập Nghị quyết Trung ương 8 khóa IX, Nxb. Chính trị
quốc gia, tr. 45-46.
12
(4)Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc nghĩa đặt lợi ích quốc gia -
dân tộc lên trước hết và trên hết, luôn nỗ lực đạt được lợi ích quốc gia - dân
tộc tới mức cao nhất thể, lợi ích quốc gia - dân tộc tiêu chí hàng đầu
đánh giá hiệu quả của mọi hoạt động đối ngoại .
(13)
Trong giai đoạn hiện nay, thể thấy, lợi ích quốc gia - dân tộc cao nhất của
Việt Nam là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ.
Việc này gắn liền với bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân chế độ hội chủ
nghĩa; bảo hộ lợi ích chính đáng và hợp pháp của công dân cũng như doanh nghiệp
Việt Nam trong nước và ở nước ngoài.
Ngoài ra bảo vệ lợi ích quốc gia dân tộc còn bảo vệ sự nghiệp đổi mới,
công nghiệp hóa, hiện đại hóa; bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn hội
nền văn hóa dân tộc. Bối cảnh mới của quốc gia - dân tộc hiện đại còn mở rộng
thêm các lợi ích quốc gia - dân tộc, như: hòa bình, ổn định, hợp tác, phát triển, tự
do lưu thông hàng hóa, tự do hàng hải, tự do hàng không, tự do khai thác tài
nguyên phù hợp với luật pháp quốc tế.
Cũng như các quốc gia - dân tộc khác, Việt Nam còn chủ động và tích cực tham
gia giải quyết những vấn đề chung của nhân loại, như chống chiến tranh, ứng phó
với biến đổi khí hậu, dịch bệnh; các thách thức an ninh phi truyền thống (an ninh
biển, an ninh mạng, an ninh năng lượng, an ninh lương thực, an ninh tiền tệ, tội
phạm xuyên quốc gia, khủng bố...) không một quốc gia nào tự mình đủ sức
gánh vác.
Việt Nam luôn nghiêm chỉnh tuân thủ các cam kết quốc tế mà nước ta tham gia,
tận dụng hiệu quả các quy tắc, luật lệ quốc tế tham gia các hoạt động của cộng
đồng, khu vực quốc tế. Đồng thời, chủ động tích cực đề xuất sáng kiến xây
dựng, định hình các thể chế đa phương trên nguyên tắc cùng lợi, với phương
châm chuyển mạnh từ “tham dự” sang “chủ động tham gia”; “là bạn, là đối tác tin
cậy thành viên tích cực, trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế” , nhất
14
trong quá trình xây dựng và định hình các quy tắc, cơ chế hợp tác và những luật lệ
mới, củng cố nâng cao vai trò trong cộng đồng khu vực quốc tế, góp phần
tích cực vào cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội
trên thế giới.
Nhìn lại hơn 35 năm triển khai sự nghiệp đổi mới, do nắm bắt được xu thế của
thời đại, tận dụng hiệu quả mọi nguồn lực ở bên ngoài, công cuộc đổi mới của Việt
14 2021, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII – tập 1, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr. 161 -
162, 161 - 162, 162
13
Nam đã thu về nhiều thành tựu quan trọng thông qua việc bảo đảm lợi ích quốc gia
- dân tộc để nâng cao uy tín thực lực của đất nước, giúp tăng cường sức mạnh
tổng hợp quốc gia cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa trong giai đoạn mới.
Tuy nhiên, để bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc, Việt Nam đứng trước nhiều
thuận lợi song cũng đối mặt với không ít khó khăn, thách thức chung và riêng, bao
gồm:
(1)Việc chủ động, tích cực hội nhập quốc tế đẩy mạnh các hoạt động đối
ngoại đa phương hóa, đa dạng hóa tầm khu vực toàn cầu để thực hiện
và bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc trong bối cảnh diễn ra những thay đổi
khó đoán định của tình hình quốc tế, khu vực;
(2)Cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, các trung tâm quyền lực tiếp tục
diễn ra gay gắt; ở khu vực, vấn đề Biển Đông ngày càng phức tạp
(3)Hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, hợp tác phát triển vẫn xu thế lớn,
song chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa dân túy, chủ nghĩa bảo hộ có xu
hướng gia tăng..., tác động không nhỏ đến vấn đề bảo đảm lợi ích quốc gia -
dân tộc;
(4)Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ phát triển mạnh mẽ chưa từng có,
nhất cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ cùng với đó vấn đề an
ninh mạng.
Như vậy, thể thấy rằng lợi ích quốc gia dân tộc của Việt Nam trong giai
đoạn hiện nay có thể được nội hàm hóa là: bảo đảm độc lập dân tộc, chủ quyền
an ninh quốc gia, thúc đẩy phát triển đất nước toàn diện bền vững, nâng cao vị
thế, uy tín quốc tế của đất nước. Phương châm bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia –
dân tộc vẫn tiếp tục định hướng cho việc hoạch định chính sách đối ngoại của
đất nước ta. Mọi phương hướng, nhiệm vụ trong chính sách đối ngoại đều phải
lợi ích quốc gia – dân tộc và mọi lợi ích khác đều phải phục tùng lợi ích quốc gia –
dân tộc.
14
KẾT LUẬN
Lợi ích quốc gia - dân tộcmột trong những khái niệm cơ bản, ý nghĩa
đặc biệt quan trọng trong quan hệ quốc tế nói chung hoạch định chính sách đối
ngoại nói riêng. Đây nhân tố không thể thiếu khi xác định chính sách đối ngoại
của tất cả các quốc gia, cũng công cụ thiết yếu khi phân tích chính sách đối
ngoại của một quốc gia. Có thể khẳng định, lợi ích quốc gia-dân tộc chính“hòn
đá tảng” trong hoạch định chính sách đối ngoại.
Trong mọi giai đoạn của cách mạng Việt Nam, lợi ích quốc gia – dân tộc vừa
mục tiêu, vừa phương châm động lực phát triển. thể khẳng định, bảo
đảm cao nhất lợi ích quốc gia dân tộc chính quan điểm xuyên suốt chi phối
việc hoạch định chủ trường, đường lối, chính ch đối ngoại của Đảng Nhà
nước.
Trong tương lai, tình hình thế giới và khu vực sẽ tiếp tục diễn biến phức tạp.
Các nhà hoạch định chính sách đối ngoại cần kiên định trong việc đặt lợi ích quốc
gia dân tộc cao nhất trên sở hài hòa đóng góp vào lợi ích của đối tác, khu
vực và toàn cầu.
15
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Báo Chính phủ (2022), “Công tác đối ngoại của đất nước trước yêu cầu, nhiệm
vụ mới”. Truy cập ngày 08/01/2022. Link truy cập:
https://baochinhphu.vn/cong-tac-doi-ngoai-cua-dat-nuoc-truoc-yeu-cau-nhiem-
vu-moi-102306501.htm
2. Nguyễn Tiến Dũng, (2020), ““Lợi ích quốc gia” - tiếp cận từ góc độ lý thuyết”.
Tạp chí Nghiên cứu Văn Hóa, số 32.
3. Vũ Dương Huân (2009), “Một số vấn đề quan hệ quốc tế: Chính sách đối ngoại
và ngoại giao Việt Nam - Tập 1”, Nxb. Chính trị - Hành chính, Hà Nội.
4. PGS.TS. Thái Văn Long (2021), “Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về lợi
ích quốc gia - dân tộc trong quan hệ đối ngoại - Những vấn đề đặt ra đối với Việt
Nam hiện nay”, Tạp chí Cộng sản. Truy cập ngày 10/01/2023. Link truy cập:
https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/quoc-phong-an-ninh-oi-
ngoai1/-/2018/823927/quan-diem-cua-chu-tich-ho-chi-minh-ve-loi-ich-quoc-
gia---dan-toc-trong-quan-he-doi-ngoai---nhung-van-de-dat-ra-doi-voi-viet-nam-
hien-nay.aspx
5. Nguyễn Hoàng Như Thanh (2016), “Sự thống nhất của các trường phái lý luận
QHQT: Mô hình duy lý về hành vi quốc gia”. Tạp chí Nghiên cứu quốc tế, truy
cập ngày 10/01/2023. Link truy cập:
https://nghiencuuquocte.org/2016/05/24/mo-hinh-duy-ly-ve-hanh-vi-quoc-gia/
6. Nghiêm Thị Thanh Thúy (2022), “Bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc trong bối
cảnh hiện nay”, Tạp chí Cộng sản. Truy cập ngày 11/01/2023. Link truy cập:
https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/quoc-phong-an-ninh-oi-
ngoai1/-/2018/825429/bao-dam-loi-ich-quoc-gia---dan-toc-trong-boi-canh-hien-
nay.aspx
7. GS. TS. Trần Hữu Tiến (2015), “Lợi ích dân tộc”, Tạp chí điện tử Lý luận chính
trị. Truy cập ngày 09/01/2023. Link truy cập:
16
http://lyluanchinhtri.vn/home/index.php/tu-dien-mo/item/1092-loi-ich-dan-
toc.html
17
| 1/17

Preview text:

MỤC LỤC
MỤC LỤC................................................................................................................1
MỞ ĐẦU...................................................................................................................2
I. Nhận thức về lợi ích quốc gia – dân tộc...........................................................3
1. Khái niệm lợi ích quốc gia – dân tộc............................................................3
2. Khái niệm lợi ích dân tộc, lợi ích giai cấp, lợi ích nhân loại......................5
3. Phân loại lợi ích quốc gia – dân tộc..............................................................6
4. Xác định lợi ích quốc gia – dân tộc...............................................................9
5. Quan điểm của Hồ Chí Minh về lợi ích quốc gia – dân tộc......................10 II.
Lợi ích quốc gia - dân tộc: hòn đá tảng trong hoạch định chính sách đối
ngoại Việt Nam.......................................................................................................12
KẾT LUẬN............................................................................................................15
TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................................................16 1 MỞ ĐẦU
Bộ trưởng Bộ ngoại giao Anh thế kỷ XIX - Palmerston từng nói: “Không có
đồng minh vĩnh viễn, không có kẻ thù vĩnh viễn. Chỉ có lợi ích quốc gia là vĩnh
viễn và nhiệm vụ của chúng ta là theo đuổi những lợi ích đó”.
Chính sách đối ngoại của một quốc gia thường được quyết định bởi ba yếu tố
thiết yếu và quan trọng: lợi ích quốc gia - dân tộc, thế và lực của quốc gia trên
trường quốc tế, cục diện thế giới và khu vực. Trong đó, lợi ích quốc gia - dân tộc
luôn là vấn đề tối quan trọng, là nguyên tắc tối thượng, kim chỉ nam trong việc
hoạch định, thực thi chiến lược, chính sách phát triển, bảo vệ đất nước và hợp tác
quốc tế. Hay nói cách khác, lợi ích quốc gia – dân tộc là hòn đá tảng trong công
cuộc hoạch định chính sách đối ngoại của các quốc gia nói chung và Việt Nam nói riêng.
Thông qua tìm hiểu và nghiên cứu, dựa trên nhiều tài liệu sẵn có ở nhiều hình
thức, bài tiểu luận này sẽ tìm hiểu và đi sâu vào chủ đề: “Lợi ích quốc gia - dân
tộc – Hòn đá tảng trong hoạch định chính sách đối ngoại”
với hai lớn: I. Nhận
thức về lợi ích quốc gia – dân tộc và II. Lợi ích quốc gia-dân tộc, hòn đá tảng trong
hoạch định chính sách đối ngoại Việt Nam. 2 I.
Nhận thức về lợi ích quốc gia – dân tộc
1. Khái niệm lợi ích quốc gia – dân tộc
Khái niệm lợi ích quốc gia – dân tộc có lịch sử phát triển rất dày, và có rất nhiều
nhận thức khác nhau về lợi ích quốc gia – dân tộc trong giới nghiên cứu chính trị
quốc tế. Tuy nhiên, những nhận thức này đều có một đặc điểm chung là đều đề cập
việc lợi ích dân tộc là nhân tố cực kỳ quan trọng để xác định chính sách đối ngoại của một quốc gia.
Ví dụ như H.Morgenthau, cha đẻ chủ nghĩa hiện thực chính trị, nói rằng: “Lợi
ích dân tộc là thực thể khách quan. Nó được hình thành trên cơ sở đặc thù của địa-
chính trị, sự phát triển kinh tế, chính trị, xã hội và trên cơ sở bản chất môi trường
quốc tế. Cho nên lợi ích dân tộc là cơ sở bền vững của chính sách quốc tể của quốc gia.”1
Hay giáo sư K.X.Gagiev của Nga viết: “Chính sách đối ngoại của quốc gia
được xác định bởi nhiều nhân tố trong đó có trình độ phát triển kinh tế - xã hội,
chính trị - xã hội, vị trí địa-chính trị, truyền thống lịch sử dân tộc, mục tiêu và yêu
cầu đảm bảo chủ quyền và an ninh... Tất cả những cái đó được chuyển vào chính
sách đối ngoại và biểu hiện tập trung là quan điểm lợi ích dân tộc.”2
Vậy định nghĩa lợi ích quốc gia – dân tộc là gì?
Jack C.Plano và Roy Olton ở nước Mỹ đã đưa ra khái niệm về lợi ích dân tộc
trong cuốn Từ điển Quan hệ quốc tế như sau: “Lợi ích dân tộc là mục tiêu cơ bản
và nhân tố quyết định cuối cùng trong việc hoạch định chính sách đối ngoại. Lợi
ích quốc gia là một khái niệm có tính khái quát hóa cao bao gồm những nhu cầu
sống còn của quốc gia đó. Đó là tự bảo vệ, độc lập, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh quân
sự và thịnh vượng về kinh tế.”3
Một tác giả khác đến từ Mỹ - Chas W.Freeman cũng viết về lợi ích dân tộc
trong cuốn Từ điển Nhà ngoại giao: “Quan hệ giữa nhà nước với nhà nước được
nhận thức là sự tồn tại an ninh, thịnh vượng và quyền lực của quốc gia này là an
ninh, thịnh vượng, quyền lực của quốc gia khác”4
1 Vũ Dương Huân (2009), “Một số vấn đề quan hệ quốc tế: Chính sách đối ngoại và ngoại giao Việt Nam - Tập 1”,
Nxb. Chính trị - Hành chính, Hà Nội, tr.148.
2 Vũ Dương Huân (2009), “Một số vấn đề quan hệ quốc tế: Chính sách đối ngoại và ngoại giao Việt Nam - Tập 1”,
Nxb. Chính trị - Hành chính, Hà Nội, tr.149.
3 Jack C.Plano, Roy Olton (1982), The International Rẹlations Dictionary, Third Editon, Nxb. Caliíbmia, ABC- CLIO Santa Barlarra, tr. 9.)
4 Chas W. Freeman, Jr. (1994) “The Diplomat's Dictionary”, Nxb. National Defence University Press, Washington D.C, tr18. 3
Tại Việt Nam, tác giả Đoàn Văn Thắng cũng đưa ra định nghĩa về lợi ích
quốc gia như sau: “Việc xác định lợi ích quốc gia là vấn đề mấu chốt trong hoạch
định và thực hiện chính sách đối ngoại, cũng là điểm mấu chốt để đánh giá bản
chất giai cấp và khả năng ảnh hưởng của một chính quyền. Lợi ích quốc gia thể
hiện ở nhu cầu, mục tiêu mà một quốc gia theo đuổi thực hiện ở trong nước cũng
như trong quan hệ với các nước và các tổ chức quốc tế.”5
GS. TS Trần Hữu Tiến cũng đã đưa ra khái niệm lợi ích dân tộc trên Tạp chí
Lý luận chính trị: “Khái niệm lợi ích dân tộc có nội hàm rộng, bao hàm trong đó
tất cả những gì tạo thành điều kiện cần thiết cho sự trường tồn của cộng đồng với
tư cách quốc gia dân tộc có chủ quyền, thống nhất, độc lập, lãnh thổ toàn vẹn; cho
sự phát triển đi lên về mọi mặt của quốc gia dân tộc theo hướng làm cho đời sống
vật chất và tinh thần của cộng đồng ngày càng phong phú, tốt đẹp hơn; cho sự nâng
cao không ngừng sức mạnh tổng hợp quốc gia, năng lực cạnh tranh quốc gia trên
trường quốc tế, vị trí, vai trò, uy tín quốc tế của quốc gia dân tộc. Các dân tộc trên
thế giới đều coi lợi ích căn bản nhất của dân tộc là Tổ quốc độc lập, thống nhất,
giàu mạnh, lãnh thổ toàn vẹn (bao gồm vùng đất, vùng trời, vùng biển, hải đảo,
thềm lục địa), nhân dân làm chủ đối với Tổ quốc mình.”6
Từ các khái niệm được đưa ra ở trên, ta có thể có được các đặc điểm chung
về lợi ích quốc gia – dân tộc:
- Lợi ích dân tộc là nhu cầu tồn vong và phát triển của dân tộc;
- Nhu cầu này đã được lãnh đạo quốc gia nhận thức trở thành mục tiêu cơ bản
của chính sách đối ngoại quốc gia;
- Là nhân tố rất quan trọng trong hoạch định chính sách đối ngoại của quốc gia;
- Lợi ích dân tộc có tính lịch sử
Lợi ích quốc gia – dân tộc, hay lợi ích quốc gia, hay lợi ích dân tộc là những
khái niệm đồng nghĩa. Khi nói đến quốc gia dân tộc chính là nói đến chủ thể thực
sự trên trường quốc tế. Quốc gia là đại diện cho dân tộc trên trường quốc tế. Cho
nên lợi ích dân tộc hay lợi ích quốc gia đều mang cùng một ý nghĩa.
Tóm gọn lại, lợi ích quốc gia – dân tộc có thể được định nghĩa như sau: Lợi ích
quốc gia dân tộc là toàn bộ những nhu cầu sống còn và phát triển của quốc gia,
được lãnh đạo quốc gia nhận thức dưới dạng mục tiêu chiến lược an ninh đối
ngoại, chiến lược đổi ngoại cùa quốc gia trong một giai đoạn lịch sử nhất định. Lợi
5 Đoàn Văn Thắng: Quan hệ quốc tế. Các phương pháp tiếp cận, Nxb. Thống kê, 2003, tr. 75-76.
6 GS, TS Trần Hữu Tiến (2015), “Lợi ích dân tộc”, Tạp chí điện tử Lý luận chính trị. Truy cập ngày 09/01/2023. 4
ích quốc gia – dân tộc là công cụ cực kỳ quan trọng trong phân tích và hoạch định chính sách đổi ngoại.7
Lợi ich quốc gia – dân tộc là khách quan, hiện thực. Lợi ích này gắn bó với chủ
quyền toàn vẹn lãnh thổ, đến nguyên tắc không can thiệp vào công việc nội bộ của
nhau, là nhân tố quyết định hoạt động đối ngoại của quốc gia và hiện thực hóa quan hệ quốc tế.
2. Khái niệm lợi ích dân tộc, lợi ích giai cấp, lợi ích nhân loại 2.1.
Lợi ích dân tộc và lợi ích giai cấp
Khi đề cập đến khái niệm lợi ích dân tộc, ta không thể không nhắc tới lợi ích
giai cấp. Trong một cộng đồng dân tộc bao giờ cũng có nhiều giai cấp và các tầng
lớp xã hội khác nhau. Vậy nên lợi ích dân tộc, lợi ích quốc gia là lợi ích chung của
tất cả các giai cấp, lực lượng xã hội trong cộng đồng.
Học thuyết Mác – Lênin khẳng định bản chất giai cấp của nhà nước và vai trò
quyết định của kinh tế trong quan hệ với chính trị. Giai cấp nào trong đất nước
thống trị về kinh tế sẽ thống trị về chính trị. Vậy nên, lợi ích của giai cấp thống trị
là duy trì sự lãnh đạo của mình đối với toàn xã hội, tối đa hóa lợi ích cho giai cấp mình.
Ví dụ, ở Mỹ dù Đảng Cộng họa hay Dân chủ cầm quyền, song cũng đều bảo vệ
quyền lợi của giai cấp tư sản. Còn ở các nước xã hội chủ nghĩa, lợi ích của giai cấp
cầm quyền là giai cấp công nhân. Tuy nhiên, lợi ích dân tộc và lợi ích của giai cấp
công nhân phù hợp với nhau bởi vì phương thức sản xuất của những nước này là
phương thức sản xuất dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất. 2.2.
Lợi ích dân tộc và lợi ích nhân loại
Ngoài lợi ích dân tộc, lợi ích giai cấp, còn xuất hiện lợi ích nhân loại liên quan
đến sự sống còn của nhân loại như chiến tranh hạt nhân, bảo vệ môi truờng, dịch
bệnh, ăng trưởng dân số, thiên tai...
Lợi ích nhân loại yêu cầu phát triển của cả loài người không phân biệt giai cấp,
dận tộc, tôn giáo. Trong xã hội có giai cấp, lợi ích nhân loại không tách rời lợi ích
giai cấp, dân lộc và bị chi phối bởi lợi ích giai cấp. Vậy nên lợi ích giai cấp tiến bộ
phù hợp với lợi ích nhân loại.
3. Phân loại lợi ích quốc gia – dân tộc
Nhà nghiên cứu chính trị Mỹ Alexander Wendt, lợi ích quốc gia được chia ra
hai loại là khách quan và chủ quan. Lợi ích khách quan là những lợi ích căn bản,
7 Vũ Dương Huân (2009), “Một số vấn đề quan hệ quốc tế: Chính sách đối ngoại và ngoại giao Việt Nam - Tập 1”,
Nxb. Chính trị - Hành chính, Hà Nội, tr.152. 5
chung cho mọi quốc gia và cần được đảm bảo để chủ thể có thể tồn tại. Còn lợi ích
chủ quan là nhu cầu của mỗi quốc gia nhằm đảm bảo các lợi ích khách quan đó.
Lợi ích khách quan có thể như nhau, nhưng mỗi quốc gia có nhu cầu chủ quan
khác nhau tùy hoàn cảnh và điều kiện để theo đuổi các nhu cầu khách quan, do đó
dẫn tới chính sách của mỗi quốc gia cũng khác nhau.8
Học giả người Mỹ H.Morgenthau đã phân chia lợi ích quốc gia thành hai kiểu là
lợi ích chính yếu (primary) và lợi ích thứ yếu (secondary). Theo ông, lợi ích chính
yếu bao gồm lợi ích vật chất, lợi ích chính trị, bản sắc văn hóa và an ninh cũng như
sự tồn vong của quốc gia, toàn bộ công dân phải bảo vệ lợi ích này bằng mọi giá.
Lợi ích thứ yếu là kiểu lợi ích có thể thương lượng và thỏa hiệp, mặc dù kiểu lợi
ích này khó có thể định nghĩa được, song nó phải nằm ngoài lợi ích chính yếu và
không được đe dọa đến chủ quyền quốc gia.
Một học giả khác là Donald Nuechterlein lại phân chia lợi ích quốc gia thành 4
loại căn bản. Đó là: Lợi ích quốc phòng (Defense interests); Lợi ích kinh tế
(Economic interests); Lợi ích trật tự thế giới (World Order interests); Lợi ích về ý
thức hệ (Ideological interests).9
Có rất nhiều cách phân loại lợi ích quốc gia – dân tộc từ các góc độ khác nhau.
Như dựa trên quy mô không gian, có lợi ích tổng thể - lợi ích cụ thể. Dựa trên khả
năng chia sẻ với các quốc gia khác, có lợi ích chung - lợi ích riêng. Dựa trên so
sánh có lợi ích tuyệt đối và lợi ích tương đối. Dựa trên lĩnh vực có lợi ích chính trị
- lợi ích kinh tế - lợi ích an ninh - lợi ích văn hóa…
Tuy nhiên, bài tiểu luận này sẽ chỉ đề cập những cách phân loại lợi ích quốc gia
dân tộc phổ biến nhất là theo nội dung, theo tầm quan trọng, và theo thời gian. 3.1. Theo nội dung
3.1.1. Lợi ích chính trị an ninh:
Vấn đề cốt lõi của chính trị quốc gia là quyền độc lập. Quyền độc lập là nhân tố
quyết định vận mệnh đẩt nước về chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ. Đó là những lợi
ích tối thượng, thiêng liêng của bất kỳ quốc gia nào. Lợi ích chính trị - an ninh tập
trung ở những nội dung sau:
- Độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia;
- Sự toàn vẹn lãnh thổ;
- Sự an toàn của thể chế hợp hiến;
- Vị trí, vai trò ừong nền chính trị thế giới.
8 Nguyễn Hoàng Như Thanh (2016), “Sự thống nhất của các trường phái lý luận QHQT: Mô hình duy lý về hành vi
quốc gia”. Tạp chí Nghiên cứu quốc tế, truy cập ngày 10/01/2023
9 Nguyễn Tiến Dũng, (2020), ““Lợi ích quốc gia” - tiếp cận từ góc độ lý thuyết”. Tạp chí Nghiên cứu Văn Hóa, số
32. Truy cập ngày 09/01/2023 6
3.1.2. Lợi ích kinh tế hay lợi ích phát triển
Đằng sau các sự kiện chính trị đều có yếu tố kinh tế. Kinh tế là nhân tố rất quan
trọng cấu thành sức mạnh quốc gia trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay. Lợi ích
kinh tế của mỗi quốc gia là phát triển kinh tế là đem lại thịnh vượng cho quốc gia,
cho nhân dân. Lợi ích kinh tế - phát triển tập trung ở các nội dung:
- Chủ quyền về tài nguyên khoảng sản, thủy sản, là thương mại, thuế quan, tài chính...;
- Mửc độ về số lượng, chất lượng cụ thể của sự phát triển lực lượng sản
xuất, nărig xuất lao động của khu vực và thế giói;
- GDP chung của quốc gia và tính theo đầu nguời trong so sánh với khu vực và thế giới
3.1.3. Lợi ích văn hóa – xã hội
“Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc
đẩy phát triển kinh tế - xã hội” (Đảng Cộig sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại
biều loàn quốc lần thứ VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, í. 1996, tr. 110.)
Nguồn sức mạnh của một dân tộc là bản sắc văn hóa của dân tộc đó.
Bản sắc dân tộc khoogn bao giờ mất đi dù cho có sự giao lưu giữa các nền văn
hóa trong quá trình hội nhập. Ví dụ, ở châu Âu quá trình liên kết trở nên hết sức
chặt chẽ nhờ liên minh châu Âu, nhưng các nền văn hóa không bị trộn lẫn với
nhau. Văn hóa Pháp vẫn là văn hóa Pháp, văn hóa Bỉ vẫn là văn hóa Bỉ. Các nội
dung chính của lợi ích văn hóa – xã hội là:
- Bản sắc văn hóa dân tộc
- Mức độ bình đẳng giữa các dân tộc, nhóm xã hội
- Chất lượng cuộc sống, trình độ dân chủ và tự do của nhân dân 3.2.
Theo tầm quan trọng
3.2.1. Lợi ích sống còn
Đối với Mỹ, trong Chiến lược An ninh quốc gia năm 1999 và Báo cáo đánh giá
quốc phòng thường kỳ ngày 30-9-2001, họ định nghĩa lợi ích sống còn như sau:
“Những lợi ích liên quan đến sự tồn vong, an ninh và khả năng sinh tồn của nước
Mỹ. Cụ thể là đảm bảo an ninh và quyền tự do hành động của Mỹ; là chủ quyền,
toàn vẹn lãnh thổ và tự do cùa nứớc Mỹ; sự an toàn của công dân Mỹ ở trong nước
và nước ngoài; bảo vệ cơ sờ hạ tầng của Mỹ và của đồng minh. Nếu lợi ích trên bị
đe dọa, Mỹ sẽ dùng mọi biện pháp kể cả quân sự đơn phương khi cần thiết.”10
Còn đối với nước Nga, Các chuyên gia Hội đồng Chính sách đối ngoại và quốc
phòng, một tổ chức phi chinh phủ ở Liên bang Nga định nghĩa lợi ích sống còn là
“Những lợi ích mà quốc gia phải sẵn sàng bảo vệ bằng mọi phương tiện, kể cả
10 Vũ Dương Huân (2009), “Một số vấn đề quan hệ quốc tế: Chính sách đối ngoại và ngoại giao Việt Nam - Tập 1”,
Nxb. Chính trị - Hành chính, Hà Nội, tr.156. 7
quân sự. Đó là đảm bảo tự do, tăng trường phúc lợi của nhân dân Nga, toàn vẹn
lãnh thổ, độc lập của nước Nga; ngăn chặn sự thống trị, đặc biệt về mặt quân sự,
chính trị của những cường quốc khác trên lãnh thổ Liên Xô trước đây; ngăn chặn
việc hình thành trên thế giới các liên minh chống lại nước Nga, kể cả việc trả đũa
lại những hành động của Liên bang Nga trên lãnh thổ Liên Xô trước đây.”11
Từ hai định nghĩa trên, ta có thể nhận định được lợi ích cốt lõi là những lợi ích
liên quan đến sự tồn vong, an ninh của một quốc gia. Quốc gia phải sẵn sàng bảo
vệ lợi ích cốt lõi bằng mọi phương tiện, kể cả quân sự. Lợi ích này bao gồm các
yếu tố như toàn vẹn lãnh thổ, độc lập, ngăn chặn sự thống trị của những quốc gia
khác, đảm bảo sự an toàn của công dân và cơ sở hạ tầng của quốc gia.
3.2.2. Lợi ích thiết yếu hay lợi ích quan trọng
Lợi ích thiết yếu hay lợi ích quan trọng là các lợi ích không xác định sự sống
còn của đất nước; nếu là lợi ích thiết yếu của cường quốc thì lợi ích này còn ảnh
hưởng đến sự phồn vinh và đặc điểm thế giới. Việc xác định lợi ích nào là thiết yếu
và quan trọng còn tùy thuộc vào nhận thức của từng quốc gia. Ví dụ, trong Chiến
lược An ninh quốc gia năm 1999 và Báo cáo đánh giá quốc phòng thường kỳ
(30/09/2001) đã nêu rõ lợi ích thiết yếu của Mỹ là tôn trọng những cam kết quốc tế
bao gồm an ninh và thịnh vượng của các nước đồng minh và bạn bè, đồng thời
ngăn chặn sự thống trị của kẻ thù đối với những khu vực quan trọng như châu Âu,
Đông Bắc Á, Trung Đông và Tây Nam Á; cũng như hòa bình ổn định ở Tây bán cầu.
3.2.3. Lợi ích thông thường hay lợi ích ít quan trọng
Lợi ích thông thường hay lợi ích ít quan trọng là các lợi ích ít quan trọng hơn,
các quốc gia tùy từng trường hợp cụ thể có thể cân nhắc hi sinh, nhân nhượng các
lợi ích này. Ví dụ, theo Mỹ, lợi ích thông thường là những lợi ích Góp phần vào sự
thịnh vượng kinh tế và những vấn đề nhân đạo... Đó là khả năng tồn tại, phát triển
bền vững và sức sản xuất của nền kinh tế toàn cầu; an ninh của vùng biển, vùng
trời, không gian và các tuyến thông tin liên lạc quốc tế; quyền tiếp cận các thị
trường chủ chốt và những nguồn tài nguyên chiến lược. 3.3. Theo thời gian:
Theo học giả Ole Holsti, lợi ích quốc gia dân tộc phân loại theo thời gian có
nhiệm vụ cơ bản, nhiệm vụ lâu dài hay nhiệm vụ trung hạn.
11 Vũ Dương Huân (2009), “Một số vấn đề quan hệ quốc tế: Chính sách đối ngoại và ngoại giao Việt Nam - Tập 1”,
Nxb. Chính trị - Hành chính, Hà Nội, tr.157. 8
4. Xác định lợi ích quốc gia – dân tộc
Chính sách đối ngoại được xác định bởi nhiều nhân tố trong đó có trình độ phát
triển kinh tế - xã hội, vị trí địa – chính trị, truyền thống lịch sử dân tộc, mục tiêu và
yêu cầu đảm bảo chủ quyền, an ninh … Tất cả các nhân tố đó chuyển vào chính
sách đối ngoại chính là lợi ích dân tộc.
4.1. Địa – chiến lược
Thứ nhất, khi xác định lợi ích quốc gia dân tộc, trước hết phải bàn đến là nhân
tố địa lý, địa – chiến lược. Đó là vị trí địa lý, dân số, vị trí địa – chiến lược. Địa –
chiến lược lại bao gồm tài nguyên thiên nhiên, khí hậu, địa hình … Đây là những
nhân tố khá quan trọng trong việc xác định lợi ích quốc gia. Những nhân tố này ít
thay đổi và có ảnh hường trực tiếp đến an ninh và phát triển quốc gia. Khi nghiên
cứu về địa – chính trị hay địa – chiến lược là xem xét phạm vi ảnh hưởng của các
yếu tố trên tới chính sách đối ngoại của một quốc gia hay vị trí của quốc gia đó trên trường quốc tế.
4.2. Thực lực quốc gia
Thứ hai, yếu tố rất quan trọng tiếp theo để xác định lợi ích dân tộc là thực lực
của quốc gia, vị trí quốc gia ừên bàn cờ chính trị thế giới. Thực lực quốc gia bao
gồm trình độ phát triển kinh tế - xã hội, khoa học - cồng nghệ, sức mạnh quân sự.
Sức mạnh quốc gia là nhân tố trọng yếu trong hoạch định chính sách đối ngoại,
như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Thực lực là cái chiêng mà ngoại giao là cái tiếng.
Thực lực quốc gia không chỉ có sức mạnh “cứng” mà còn có cả sức mạnh
“mềm”. Sức mạnh cứng là cách các quốc gia thể hiện ảnh hưởng của mình thông
qua vũ lực, dưới các hình thức đe dọa, ngoại giao cưỡng bức, trừng phạt kinh tế
hoặc quân sự. Còn sức mạnh mềm là các yếu tố như văn hóa, truyền thống dân tộc.
Bản sắc văn hóa dân tộc là sức mạnh của dân tộc. Đồng thời, văn hóa chính trị với
ba yếu tố: hệ giá trị, cơ cấu quyền lực và phương pháp triển khai các quyết định,
liên quan chặt đến xác định và hiện thực hóa lợi ích dân tộc. Việc kết hợp hai sức
mạnh này sẽ tạo ra “sức mạnh thông minh”, giúp quốc gia củng cố thực lực trên trường quốc tế.
4.3. Bối cảnh quốc tế
Thứ ba, bối cảnh quốc tế là một nhân tố quan trọng không thể không nhắc tới.
Mỗi quốc gia là một bộ phận không thể tách rời của thế giới. Không nhìn thấy đặc
điểm, xu thế phát triển của thế giới thì không thể xác định được vị trí của quốc gia
trong bàn cờ chính trị quốc tế. Từ đó không xác định được yêu cầu đối với đất 9
nước, và dẫn tới không xác định được lợi ích quốc gia, lợi ích dân tộc. Trong bối
cảnh quốc tế, cần đặc biệt lưu ý cơ cấu quốc tế đồng thời phải hiểu trật tự thế giới.
Trong thời đại ngày nay, bối cảnh khu vực và thế giới có những biến động
nhanh chóng, phức tạp, khó lường, đem theo cả thời cơ, thuận lợi đan xen với khó
khăn thách thức cho nhiều quốc gia. Trong tình cảnh đó, cần hoạch định chính sách
đối ngoại theo hướng tranh thủ, khai thác có hiệu quả những điểm tương đồng, tạo
dựng mặt đồng thuận, hạn chế, khắc chế mặt bất đồng với những tác hại đến lợi ích
chiến lược của đất nước.
4.4. Yêu cầu của đất nước
Thứ tư, là yêu cầu của đất nước. Chính sách đối ngoại là “cánh tay nối dài” của
chính sách đối nội. Vì vậy, việc xác định yêu cầu của đất nước là yếu tố tiên quyết
để xác định lợi ích ưu tiên của quốc gia - dân tộc.
Trong từng giai đoạn lịch sử, quốc gia có những nhiệm vụ ưu tiên, nhiệm vụ
trọng tâm, lợi ích quốc gia là phục vụ nhiệm vụ trọng tâm đó.
Ví dụ, giai đoạn từ sau Cách mạng Tháng Tám 1945 đến trước ngày toàn quốc
kháng chiến 19/12/1946, công tác đối nội và đối ngoại Việt Nam đã đạt được
những kết quả tương đối tích cực. Về đối nội, thông qua việc tổ chức tổng tuyển
cử, chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã nâng cao được sự gắn bó của
nhân dân trong nước, đồng thời làm tăng tính chính danh của chính quyền cách
mạng. Về đối ngoại, xuất phát từ nhu cầu củng cố nền hoà bình vừa được thiết lập
cũng như ổn định và xây dựng lực lượng chiến đấu lâu dài, Việt Nam Dân chủ
Cộng Hoà đã có những sự nhân nhượng nhất định.
Ngoài ra, còn có rất nhiều nhân tố khác ảnh hưởng tới việc xác định lợi ích
quốc gia dân tộc như chế độ chính trị, dư luận xã hội, lịch sử, văn hóa, quan điểm
đối ngoại của các học giả …
Muốn xác định trúng lợi ích dân tộc phải kết hợp phương pháp duy vật biện chứng và ngũ tri.12
5. Quan điểm của Hồ Chí Minh về lợi ích quốc gia – dân tộc
Trong suốt cuộc đời và sự nghiệp hoạt động cách mạng của mình, Chủ tịch Hồ
Chí Minh luôn đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên trên hết, trước hết. Quan điểm này
là nguyên tắc tối cao trong quá trình lãnh đạo cách mạng và là một trong những
nguyên nhân đưa đến thành công của cách mạng Việt Nam. Đặt lợi ích quốc gia -
dân tộc lên trên hết, trước hết, được lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc xác định ngay từ đầu,
12 ngũ tri: 5 cái biết – biết mình, biết ngirời, biết thời thế, biết đừng và biết biến. 10
trong quá trình vận động thành lập Đảng và lãnh đạo cách mạng Việt Nam đấu
tranh để giành và bảo vệ nền độc lập dân tộc.
Thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là kết quả sáng tạo trong
tư tưởng Hồ Chí Minh, của tầm nhìn đổi mới và phương pháp cách mạng của
Người trong cuộc cách mạng giải phóng dân tộc ở một nước nửa phong kiến, nửa
thuộc địa như Việt Nam. Trong Tuyên ngôn độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng
định một chân lý: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã
thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh
thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.
Có thể khẳng định khẳng định, quan điểm đưa lợi ích quốc gia - dân tộc lên
hàng đầu, đặt mục tiêu giải phóng dân tộc là tối thượng của Chủ tịch Hồ Chí Minh
là rất đúng quy luật và phù hợp xu thế vận động của lịch sử cũng như truyền thống
phòng chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam. Đó cũng là khao khát mãnh liệt và
mong muốn cháy bỏng của toàn dân tộc Việt Nam.
Quan điểm “đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên trên hết, trước hết” của Chủ tịch
Hồ Chí Minh không chỉ là đấu tranh giải phóng và bảo vệ nền độc lập của dân tộc
mà còn hướng tới lợi ích của nhân dân. Yêu nước, thương dân là mối quan hệ biện
chứng, là dòng tư tưởng lớn nhất và xuyên suốt tư duy và hành động cách mạng
của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Với Người, không có lòng yêu nước chung chung, trừu
tượng. Yêu nước chính là yêu nhân dân, là đem lại độc lập, cuộc sống ấm no, tự
do, hạnh phúc cho nhân dân. 11
II. Lợi ích quốc gia - dân tộc: hòn đá tảng trong
hoạch định chính sách đối ngoại Việt Nam.
Lợi ích dân tộc của nước ta trong giai đoạn hiện nay đã được Hội nghị Trung
ương 8 khóa IX (7-2003) xác đinh như sau 13:
(1)Bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ;
(2)Bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa;
(3)Bảo vệ sự nghiệp đổi mới, hiện đại hóa đất nước;
(4)Bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc;
(5)Bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và nền văn hóa;
(6)Giữ vững ổn định chính trị và môi 'trường hòa bình, phát triển đất nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa
Đối với Việt Nam, quan điểm về lợi ích quốc gia - dân tộc có sự kế thừa từ
truyền thống lịch sử của ông cha ta cũng như tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh về
“đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên trên hết, trước hết” trong quan hệ đối ngoại mà
Việt Nam tiến hành từ khi bắt đầu công cuộc đổi mới đến nay. Quan điểm đó được
Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định cũng như thể hiện ở mục tiêu xuyên
suốt, đó là “độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”.
Kế thừa, phát triển quan điểm đối ngoại trong Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nghị quyết Đại hội XII của Đảng đã chỉ
rõ mục tiêu hoạt động đối ngoại của nước ta phải nhằm bảo đảm lợi ích tối cao của
quốc gia - dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình
đẳng và cùng có lợi. Qua đó, Đảng ta khẳng định:
(1)Lợi ích quốc gia và lợi ích dân tộc là thống nhất;
(2)Lợi ích quốc gia - dân tộc của Việt Nam là những lợi ích chính đáng, không
phải là những lợi ích vị kỷ;
(3)Lợi ích quốc gia - dân tộc của Việt Nam được xác định trên cơ sở các
nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế,
bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi, cùng phấn đấu vì hòa bình, độc lập dân tộc,
dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới;
13 Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương (2003): Tài liệu họp tập Nghị quyết Trung ương 8 khóa IX, Nxb. Chính trị quốc gia, tr. 45-46. 12
(4)Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc nghĩa là đặt lợi ích quốc gia -
dân tộc lên trước hết và trên hết, luôn nỗ lực đạt được lợi ích quốc gia - dân
tộc tới mức cao nhất có thể, lợi ích quốc gia - dân tộc là tiêu chí hàng đầu
đánh giá hiệu quả của mọi hoạt động đối ngoại(13).
Trong giai đoạn hiện nay, có thể thấy, lợi ích quốc gia - dân tộc cao nhất của
Việt Nam là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ.
Việc này gắn liền với bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ
nghĩa; bảo hộ lợi ích chính đáng và hợp pháp của công dân cũng như doanh nghiệp
Việt Nam trong nước và ở nước ngoài.
Ngoài ra bảo vệ lợi ích quốc gia – dân tộc còn là bảo vệ sự nghiệp đổi mới,
công nghiệp hóa, hiện đại hóa; bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và
nền văn hóa dân tộc. Bối cảnh mới của quốc gia - dân tộc hiện đại còn mở rộng
thêm các lợi ích quốc gia - dân tộc, như: hòa bình, ổn định, hợp tác, phát triển, tự
do lưu thông hàng hóa, tự do hàng hải, tự do hàng không, tự do khai thác tài
nguyên phù hợp với luật pháp quốc tế.
Cũng như các quốc gia - dân tộc khác, Việt Nam còn chủ động và tích cực tham
gia giải quyết những vấn đề chung của nhân loại, như chống chiến tranh, ứng phó
với biến đổi khí hậu, dịch bệnh; các thách thức an ninh phi truyền thống (an ninh
biển, an ninh mạng, an ninh năng lượng, an ninh lương thực, an ninh tiền tệ, tội
phạm xuyên quốc gia, khủng bố...) mà không một quốc gia nào tự mình đủ sức gánh vác.
Việt Nam luôn nghiêm chỉnh tuân thủ các cam kết quốc tế mà nước ta tham gia,
tận dụng hiệu quả các quy tắc, luật lệ quốc tế và tham gia các hoạt động của cộng
đồng, khu vực và quốc tế. Đồng thời, chủ động tích cực đề xuất sáng kiến xây
dựng, định hình các thể chế đa phương trên nguyên tắc cùng có lợi, với phương
châm chuyển mạnh từ “tham dự” sang “chủ động tham gia”; “là bạn, là đối tác tin
cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”14, nhất là
trong quá trình xây dựng và định hình các quy tắc, cơ chế hợp tác và những luật lệ
mới, củng cố và nâng cao vai trò trong cộng đồng khu vực và quốc tế, góp phần
tích cực vào cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.
Nhìn lại hơn 35 năm triển khai sự nghiệp đổi mới, do nắm bắt được xu thế của
thời đại, tận dụng hiệu quả mọi nguồn lực ở bên ngoài, công cuộc đổi mới của Việt
14 2021, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII – tập 1, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr. 161 - 162, 161 - 162, 162 13
Nam đã thu về nhiều thành tựu quan trọng thông qua việc bảo đảm lợi ích quốc gia
- dân tộc để nâng cao uy tín và thực lực của đất nước, giúp tăng cường sức mạnh
tổng hợp quốc gia cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa trong giai đoạn mới.
Tuy nhiên, để bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc, Việt Nam đứng trước nhiều
thuận lợi song cũng đối mặt với không ít khó khăn, thách thức chung và riêng, bao gồm:
(1)Việc chủ động, tích cực hội nhập quốc tế và đẩy mạnh các hoạt động đối
ngoại đa phương hóa, đa dạng hóa ở tầm khu vực và toàn cầu để thực hiện
và bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc trong bối cảnh diễn ra những thay đổi
khó đoán định của tình hình quốc tế, khu vực;
(2)Cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, các trung tâm quyền lực tiếp tục
diễn ra gay gắt; ở khu vực, vấn đề Biển Đông ngày càng phức tạp
(3)Hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn,
song chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa dân túy, chủ nghĩa bảo hộ có xu
hướng gia tăng..., tác động không nhỏ đến vấn đề bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc;
(4)Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ phát triển mạnh mẽ chưa từng có,
nhất là cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư cùng với đó là vấn đề an ninh mạng.
Như vậy, có thể thấy rằng lợi ích quốc gia – dân tộc của Việt Nam trong giai
đoạn hiện nay có thể được nội hàm hóa là: bảo đảm độc lập dân tộc, chủ quyền và
an ninh quốc gia, thúc đẩy phát triển đất nước toàn diện và bền vững, nâng cao vị
thế, uy tín quốc tế của đất nước. Phương châm bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia –
dân tộc vẫn tiếp tục là định hướng cho việc hoạch định chính sách đối ngoại của
đất nước ta. Mọi phương hướng, nhiệm vụ trong chính sách đối ngoại đều phải vì
lợi ích quốc gia – dân tộc và mọi lợi ích khác đều phải phục tùng lợi ích quốc gia – dân tộc. 14 KẾT LUẬN
Lợi ích quốc gia - dân tộc là một trong những khái niệm cơ bản, có ý nghĩa
đặc biệt quan trọng trong quan hệ quốc tế nói chung và hoạch định chính sách đối
ngoại nói riêng. Đây là nhân tố không thể thiếu khi xác định chính sách đối ngoại
của tất cả các quốc gia, và cũng là công cụ thiết yếu khi phân tích chính sách đối
ngoại của một quốc gia. Có thể khẳng định, lợi ích quốc gia-dân tộc chính là “hòn
đá tảng” trong hoạch định chính sách đối ngoại.
Trong mọi giai đoạn của cách mạng Việt Nam, lợi ích quốc gia – dân tộc vừa
là mục tiêu, vừa là phương châm và động lực phát triển. Có thể khẳng định, bảo
đảm cao nhất lợi ích quốc gia – dân tộc chính là quan điểm xuyên suốt chi phối
việc hoạch định chủ trường, đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước.
Trong tương lai, tình hình thế giới và khu vực sẽ tiếp tục diễn biến phức tạp.
Các nhà hoạch định chính sách đối ngoại cần kiên định trong việc đặt lợi ích quốc
gia – dân tộc cao nhất trên cơ sở hài hòa và đóng góp vào lợi ích của đối tác, khu vực và toàn cầu. 15 TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Báo Chính phủ (2022), “Công tác đối ngoại của đất nước trước yêu cầu, nhiệm
vụ mới”. Truy cập ngày 08/01/2022. Link truy cập:
https://baochinhphu.vn/cong-tac-doi-ngoai-cua-dat-nuoc-truoc-yeu-cau-nhiem- vu-moi-102306501.htm
2. Nguyễn Tiến Dũng, (2020), ““Lợi ích quốc gia” - tiếp cận từ góc độ lý thuyết”.
Tạp chí Nghiên cứu Văn Hóa, số 32.
3. Vũ Dương Huân (2009), “Một số vấn đề quan hệ quốc tế: Chính sách đối ngoại
và ngoại giao Việt Nam - Tập 1”, Nxb. Chính trị - Hành chính, Hà Nội.
4. PGS.TS. Thái Văn Long (2021), “Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về lợi
ích quốc gia - dân tộc trong quan hệ đối ngoại - Những vấn đề đặt ra đối với Việt
Nam hiện nay”, Tạp chí Cộng sản. Truy cập ngày 10/01/2023. Link truy cập:
https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/quoc-phong-an-ninh-oi-
ngoai1/-/2018/823927/quan-diem-cua-chu-tich-ho-chi-minh-ve-loi-ich-quoc-
gia---dan-toc-trong-quan-he-doi-ngoai---nhung-van-de-dat-ra-doi-voi-viet-nam- hien-nay.aspx
5. Nguyễn Hoàng Như Thanh (2016), “Sự thống nhất của các trường phái lý luận
QHQT: Mô hình duy lý về hành vi quốc gia”. Tạp chí Nghiên cứu quốc tế, truy
cập ngày 10/01/2023. Link truy cập:
https://nghiencuuquocte.org/2016/05/24/mo-hinh-duy-ly-ve-hanh-vi-quoc-gia/
6. Nghiêm Thị Thanh Thúy (2022), “Bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc trong bối
cảnh hiện nay”, Tạp chí Cộng sản. Truy cập ngày 11/01/2023. Link truy cập:
https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/quoc-phong-an-ninh-oi-
ngoai1/-/2018/825429/bao-dam-loi-ich-quoc-gia---dan-toc-trong-boi-canh-hien- nay.aspx
7. GS. TS. Trần Hữu Tiến (2015), “Lợi ích dân tộc”, Tạp chí điện tử Lý luận chính
trị. Truy cập ngày 09/01/2023. Link truy cập: 16
http://lyluanchinhtri.vn/home/index.php/tu-dien-mo/item/1092-loi-ich-dan- toc.html 17