


Preview text:
 Tỷ suất lợi tức là gì Lợi tức là gì? 3.3.2. Lợi tức
- Trong nền kinh tế thị trường, luôn xuất hiện hiện tượng có chủ thể thì có lượng
tiền nhàn rỗi, trong khi lại có những chủ thể khác lại rất cần
tiền để mở rộng sản xuất kinh doanh. Tình hình đó thúc đẩy
hình thành quan hệ cho vay và đi vay.
- Dù cho vay sẽ thu được lợi tức. Người đi vay phải trả lợi
tức cho người cho vay. Vậy lợi tức đó từ đâu?
Người đi vay thu được lợi nhuận bình quân, do phải đi vay tiền của người khác
cho nên người đi vay phải khấu trừ một phần từ lợi nhuận bình
quân thu được để trả cho người cho vay.
- Vậy là, lợi tức là một phần của lợi nhuận bình quân mà
người đi vay phải trả cho người cho vay vì đã sử dụng
lượng tiền nhàn rỗi của người cho vay. Đây là quan hệ kinh
tếphản ánh quan hệ lợi ích giữa người đi vay với người cho
vay. Xong về thực chất, lợi tức đó là một phần của giá trị
thặng dư mà người đi vay đã thu được thông qua sử dụng tiền vay đó.
 Tư bản cho vay trong chủ nghĩa tư bản có đặc điểm:
- Thứ nhất, quyền sử dụng tách khỏi quyền sở hữu.
Chủ thể sở hữu tư bản không phải là chủ thể sử dụng, chủ thể
sử dụng cơ bản chỉ được sử dụng trong một thời hạn nhất định
và không có quyền sở hữu.
- Thứ hai, là hàng hóa đặc biệt.
Người bán không mất tiền sở hữu, người mua chỉ được quyền sử
dụng trong một thời gian. Sau khi hết sử dụng, tư bản cho vay
không mất giá trị sử dụng và giá trị mà được bảo tồn, thậm chí còn tăng thêm.
Giá cả của tư bản cho vay được quyết định bởi giá trị sử dụng
của nó là khả năng thu được lợi nhuận bình quân, do đó không
những không được quyết định bởi giá trị, mà còn thấp hơn nhiều so với giá trị.
- Thứ ba, là hình thái tư bản phiến diện nhất xong được sùng bái nhất.
Tư bản cho vay vận động theo công thức T – T’, tạo ra ảo tưởng
là tiền đẻ ra tiền không phản ánh rõ nguồn gốc của lợi tức cho vay.
- Tỉ suất lợi tức là tỉ lệ phần trăm giữa lợi tức và tư bản cho
vay. Nếu kí hiệu tỉ suất lợi tức là z’ , tư bản cho vay là
TBCV, thì công thức tính tỉ suất như sau:
 Công thức tính tỷ suất lợi tức : Z’ = (Z/Tổng vốn) x 100%
Trong đó: Z’ là tỷ suất lợi tức Z là lợi tức
- Tỉ suất lợi tức chịu ảnh hưởng của các nhân tố chủ yếu là tỉ
suất lợi nhuận bình quân và tình hình cung cầu về tư bản cho vay.
- Trong điều kiện quan hệ tín dụng ngày càng phát triển,
các quy mô sản xuất kinh doanh ngày càng được đổi mới
không ngừng, nền kinh tế thị trường thúc đẩy hình thành
các công ty cổ phần. Các công ty này phát hành các loại
cổ phiếu, trái phiếu. Các loại cổ phiếu, trái phiếu này, được
C.Mác gọi là tư bản giả do nó được giao dịch tách biệt
tương đối với quá trình sản xuất kinh doanh thực. Tư bản
giả được mua bán trên thị trường chứng khoán. Với sự
phát triển của sản xuất, kinh doanh và khoa học công
nghệ, thị trường chứng khoán ngày càng phát triển mạnh
mẽ trở thành một loại hình thị trường chuyên biệt phục vụ
các quan hệ giao dịch mua bán chứng khoán. Với sự phát
triển của thị trường chứng khoán và các công ty chứng
khoán, trong những năm gần đây, các công ty chứng
khoáng còn phát hành các chứng quyền, các chứng quyền
này còn được mua bán đem lại thu nhập cho người có chứng quyền.
1. Ví dụ: Ông X đang nợ ngân hàng một số tiền là
10.000.000 đồng trong thời hạn 1 năm. Sau 12 tháng, ông
A sẽ phải trả ngân hàng số tiền là 11.000.000 đồng, trong
đó 10.000.000 đồng là tiền gốc và 1.000.000 đồng là tiền lãi.
Như vậy, lãi suất ngân hàng cho vay =1.000.000/10.000.000 = 0.1 = 10%/năm.
Tỷ suất lợi tức = 10%/năm.
Tỷ suất lợi tức phụ thuộc vào những yếu tố nào?
Có 3 yếu tố cơ bản sẽ chi phối tỷ suất lợi tức, đó là:
Tỷ suất lợi nhuận bình quân;Tỷ lệ phân chia lợi nhuận bình quân
thành lợi tức và lợi nhuận của nhà tư bản hoạt động;Quan hệ
cung – cầu về tư bản cho vay.
Tài liệu tham khảo : https://ttmn.mobi/ty-suat-loi-tuc-la- gi
Nguồn : kinh tế chính trị (POLE1002) Tác giả: MY TRA Ngày đăng : 30/4/2020