Luyện tập đọc hiểu truyện ngụ ngôn môn Cơ sở văn hóa Việt Nam | Đại học Sư Phạm Hà Nội
Luyện tập đọc hiểu truyện ngụ ngôn môn Cơ sở văn hóa Việt Nam | Đại học Sư Phạm Hà Nội với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp sinh viên tham khảo, ôn luyện và phục vụ nhu cầu học tập của mình cụ thể là có định hướng, ôn tập, nắm vững kiến thức môn học và làm bài tốt trong những bài kiểm tra, bài tiểu luận, bài tập kết thúc học phần, từ đó học tập tốt và có kết quả cao cũng như có thể vận dụng tốt những kiến thức mình đã học vào thực tiễn cuộc sống
Môn: Cơ sở văn hóa Việt Nam (PHIL177)
Trường: Đại học Sư Phạm Hà Nội
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
LUYỆN TẬP ĐỌC HIỂU TRUYỆN NGỤ NGÔN
BIỆN PHÁP TU TỪ NÓI QUÁ – NÓI GIẢM NÓI TRÁNH
Bài 1: Đọc đoạn trích sau và trả lời các câu hỏi: ĐEO NHẠC CHO MÈO
Tự bao giờ đến giờ, mèo cứ xơi chuột mãi, nên chuột mới đẻ ra là đã sợ mèo rồi.
Nhưng, con giun xéo lắm cũng quằn, chuột ta lấy thế làm giận. Một hôm, mới hội
cả nhau lại làm một làng chuột để chống mèo. Thôi thì đủ mặt: nào anh Chù, mùi
hôi đến nỗi thành câu ca; nào chú Nhắt, có tính nhí nhắt đã nên câu ví; nào lại
ông Cống, rung rinh béo tốt, quan trường lại chấm cho ở trên ông Đồ; …
Khi làng dài răng đã tề tựu đông đủ cả rồi, ông Cống mới lên giọng rằng:
- Cái giống quái kia sở dĩ nó chụp được anh em mình chỉ vì trời phú cho nó cái tài
rình mò và khéo bắt lén mà thôi. Bây giờ, bà con ta nên mua một cái nhạc buộc
vào cổ nó, để khi nào nó đến, nghe tiếng nhạc, ta biết đường chạy trước, thì nó còn làm gì nổi ta nữa.
Cả làng chuột nghe nói, dẩu mõm, quật đuôi, đều lấy làm phục cái câu chí lí của
ông Cống và đồng thanh ưng thuận.
Khi nhạc đã kiếm được rồi, hội đồng chuột lại họp. Con nào con nấy lao xao hớn
hở, bảo nhau đã sắp tới ngày thoát được cái ách ông Miu ranh mãnh rồi.
Nhưng kịp lúc hội đồng hỏi ai dám đem nhạc đeo vào cổ mèo, thì thấy cả hội đồng
im phăng phắc, không một cái tai nào nhích, một cái răng nào nhe cả.
Không biết cử ai nào việc đại sự ấy, bất đắc dĩ làng cắt ông Cống phải đi, vì chính
ông Cống đã xướng lên cái thuyết đeo nhạc vậy.
Ấy mới khốn! Nhưng Cống ta trong lòng tuy nao, mà ngoài mặt làm ra bộ bệ vệ kẻ cả, nói rằng:
- Tôi đây, chẳng gì nhờ tổ ấm cũng được vào bậc ông Cống, ông Nghè, ăn trên
ngồi trước trong làng, có đâu làng lại cắt tôi đi làm cái việc tầm thường ấy được!
Trong làng ta nào có thiếu chi người! Tôi xin cử anh Nhắt, anh ấy nhanh nhảu, chắc làm được việc.
Ấy mới hay! Nhưng Nhắt ta trở mặt láu, cãi lí rằng:
- Làng cắt tôi đi, tôi cũng xin vâng, không dám chối từ. Nhưng tôi, dù bé vậy, mà
cũng còn ở chiếu trên, chưa đến nỗi nào. Ông Cống không đi, phải; tôi đây không
đi, cũng phải. Để xin cắt anh Chù, anh ấy tuy chậm, nhưng chắc chắn, làng không lo hỏng việc.
Ấy mới không có gì lạ! Chù ta thật thà, không biết cãi sao, ụt ịt nói rằng:
- Tôi là đầy tớ làng, làng sai tôi đi là phải lắm. Nhưng tôi chỉ sợ, nếu tôi đến gần
mèo mà mèo thịt tôi đi, thì rồi lấy ai thay tôi mà buộc nhạc được nữa.
Chuột Cống nhanh miệng bảo:
- Mèo nó có vờn là vờn chúng tao, vờn cái anh Nhắt kia, chớ chú mày hôi hám như
thế, thì nó bắt mà thèm vào. Thôi cứ nhận đi ngay đi, không được nói lôi thôi gì nữa.
Chuột Chù ì ạch phải nhận, vác nhạc đi tìm mèo thật. Khốn chưa trông thấy mèo,
mới nghe thấy tiếng, Chù đã sợ run cả mình, không dám tiến. Nhưng sợ lệ làng,
sau đánh bạo, phải lại gần, thì thấy mèo quả nhiên không thèm vờn đến thật. Song
mèo cũng nhe nanh, giương vuốt, làm cho Chù cắm đầu, vác cái thân ì ạch chạy
không chạy khổ về báo cho làng hay. Cả làng nghe báo cũng sợ, bỏ chạy tán loạn,
chẳng ai hỏi đến cái nhạc, nó bon đi đâu, và bon tự bao giờ không biết.
Thành ra từ đó, chuột vốn sợ mèo, vẫn hoàn sợ mèo mãi.
Theo Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc, In trong sách Ngữ văn 6, tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, 2016)
Câu 1:Xácđịnhphươngthứcbiểuđạtchínhcủavănbản.
Câu 2.Mèocóbiệttàigìlàmchocảlàngchuộtphảikhiếpsợ?
Câu 3.Trongtruyện,tínhcáchcủachuộtCốngđượcbộclộnhưthếnào?
Câu 4.BàihọcrútratừtruyệnĐeonhạcchomèolàgì?
Câu 5.TruyệnĐeo nhạc cho mèonhằmphêphánai?
Bài 2. Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi: CHÚ RÙA HỌC BAY
Bên bờ sông có một chú Rùa đang ra sức tập bay.
- Cố lên nào… 1, 2, 3… Cố lên…
Một con Chim Sẻ bay ngang qua, thấy thế liền hỏi:
- Anh Rùa ơi, anh đang làm gì thế? Rùa thở dài đáp:
- Tôi đang tập bay đấy, Chim Sẻ ạ.
Nghe vậy, Chim Sẻ rất ngạc nhiên, hỏi lại Rùa:
- Sao cơ? Chẳng phải anh đã chiến thắng trong cuộc thi chạy với Thỏ đó sao? Tất
cả là nhờ bốn chiếc chân của anh mà. Rùa nhăn mặt trả lời:
- Thôi thôi, anh đừng nhắc nữa. Tôi và Thỏ đã thi lại lần nữa. Thỏ không ngủ quên
giữa cuộc nữa nên đã dễ dàng thắng tôi. Lần này, khi tập bay được, tôi sẽ quyết
đấu một trận nữa với Thỏ. Chim Sẻ cười:
- Nhưng mà anh đâu có cánh!
Nhưng Rùa vẫn không lay chuyển.
- Bất kể thế nào tôi cũng phải học bay cho bằng được, Chim Sẻ ạ! Chim Sẻ lại nói:
- Nhưng anh đâu có cánh thì làm sao mà bay được, tôi khuyên anh nên từ bỏ ý
định đó đi thì hơn. Thôi, tôi đi chơi đây!
Chim Sẻ bỏ đi rồi, Rùa đi kiếm về rất nhiều lông chim, may cho mình một đôi cánh
tuyệt đẹp. Nó ra sức tập luyện, nhưng đã mấy ngày trôi qua mà vẫn không có gì
tiến triển. Rùa nghĩ:
- Thế này không ổn. Mình phải đi mời thầy về dạy mới được.
Ngày hôm sau, Rùa lên đường đi tìm thầy dạy bay. Ròng rã mấy ngày, nó đi đến
một vách núi cheo leo, hi vọng sẽ tìm được thầy.
Một hôm, Rùa đi tới một vách đá, đột nhiên có một đôi cánh lớn liệng qua. Rùa ta
vô cùng ngưỡng mộ, nghĩ bụng:
- Đây chính là người thầy mà mình đang tìm kiếm. Rùa liền hét to:
- Đại Bàng ơi, xin hãy dạy tôi bay với!
Đại Bàng ân cần nhắc nhở Rùa:
- Tôi và Rùa không giống nhau. Rùa không có cánh, làm sao mà bay được!
Rùa cầm ra đôi cánh tự làm, liên tục xin:
- Đại Bàng xem, tôi có cánh rồi đây này. Xin anh hãy nhận tôi làm đồ đệ đi.
Đại Bàng đành phải chấp nhận lời thỉnh cầu của Rùa.
- Thôi được, nếu Rùa đã quyết thì tôi sẽ giúp. Nhưng tôi không chắc là Rùa sẽ bay được đâu nhé!
Rùa tự lắp thêm đôi cánh, Đại Bàng nhấc bổng Rùa lên, bay cao hơn những ngọn
cây. Rùa thích quá reo lên:
- A ha! Mình sắp biết bay rồi!
Đang bay trên không trung thì Đại Bàng bỏ Rùa ra. Rùa ta giống như diều đứt
dây, rơi tự do xuống, mặc cho Rùa cố gắng vỗ đôi cánh tới tấp nhưng không ăn thua gì.
- Cứu với! Ai cứu tôi với…
Rùa rơi thẳng xuống một tảng đá to, khiến cho mai Rùa bị vỡ rạn.
Kể từ đó, trên mai của Rùa có những vết rạn ngang dọc, đó là dấu tích của
lần Rùa học bay với Đại Bàng.
Câu 1.VănbảnChú rùa học bay thuộcthểloạitruyệndângiannào?
Câu 2. Đểtậpbay,Rùađãchuẩnbịnhữnggì?
Câu 3.Dấubachấmtrongcâusaucócôngdụnggì?
- Cố lên nào… 1, 2, 3… Cố lên…
Câu 4.LờikhuyêncủaChimSẻ:
– Nhưng anh đâu có cánh thì làm sao mà bay được, tôi khuyên anh nên từ
bỏ ý định đó đi thì hơn gợichoemsuynghĩagì?
Câu 5.Bàihọctâmđắcnhấtmàemrútratừvănbảntrên?(Trìnhbàybằng
đoạnvăntừ5-7câu)
Bài 3. Đọc ngữ liệu sau và trả lời các câu hỏi: CHUYỆN BÓ ĐŨA
Ngày xưa, có ông lão nông dân nọ rất thông minh. Ông rất buồn vì thấy trong
gia đình, các con ông hay cãi cọ với nhau. Ông cố khuyên nhủ, nhưng vô ích.
Một hôm, nằm trên giường bệnh, ông gọi các con lại. Ông buộc đũa thành một
bó, để trước mặt con. Sau đó, ông truyền cho mỗi đứa đến bẻ bó đũa làm đôi,
nhưng không đứa nào bẻ nổi. Cuối cùng, ông cởi bó đũa ra, đưa cho mỗi đứa một
chiếc. Ai nấy bẻ gẫy dễ dàng.
Mấy đứa con nhìn nhau, không biết người cha có ý nói gì. Ông già nghiêm nghị bảo:
- Các con yêu dấu! Bây giờ các con còn đoàn kết như bó đũa này thì không kẻ
thù nào làm hại được các con. Nhưng nếu các con cứ chia rẽ và cãi vã, thì các
con sẽ sớm bị tiêu diệt1.
(158 Truyện ngụ ngôn Aesop, Phan Như Huyên, 1995)
Câu 1.Xácđịnhphươngthứcbiểuđạtchínhvàngôikểcủavănbản.
Câu 2.Xácđịnhnộidungcủavănbản.
Câu 3.Xácđịnhtìnhhuốngtrongtruyện.Tìnhhuốngấycótácdụngnhưthế
nàotrongviệcthểhiệnđặcđiểmnhânvật?
Câu 4.Bàihọcrútratừvănbản?
Câu 5.Emcósuynghĩgìvềhìnhảnhngườichatrongcâuchuyệntrên?
Bài 4. Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi: CHÚ RÙA THÔNG MINH
Ngày xưa, ở trên núi Ba Vì có một con hổ rất hung dữ. Mỗi khi bắt được một
con vật nào đó thường đùa giỡn làm cho con vật đó khiếp sợ rồi mới ăn thịt. Một
hôm, Hổ đang lang thang đi tìm mồi thì nhìn thấy một con Rùa bé nhỏ. Hổ cong
đuôi nhảy tới bên cạnh, giơ chân vờn mai Rùa và cất tiếng ồm ồm chế giễu:
- Hỡi chú Rùa bé nhỏ, thân hình chú chưa bằng nửa bàn chân của ta, mà cái vỏ
chú lại nặng nề thế này thì còn làm ăn gì được. Chú để ta lột cái vỏ này đi cho nhé!
Rùa gặp Hổ thì rất sợ hãi, nhưng khi thấy Hổ không ăn thịt mình liền bình tĩnh
và nghĩ ra một kế để lừa hổ. Rùa trả lời rằng:
- Bác Hổ ạ, tôi tuy bé nhỏ nhưng trong rừng này tôi đều có thể bắt cả các loài thú
vật to lớn hơn tôi để ăn thịt đấy.
Nghe Rùa nói vậy, Hổ lấy làm lạ, liền hỏi lại:
- Này, chú đừng nói láo thế. Nếu chú đã ăn thịt được con nào lớn hơn chú thì
cũng phải có gì làm bằng chứng chứ.
Rùa ta khạc ngay trong miệng ra một miếng mộc nhĩ mà Rùa thường ăn rồi nói với Hổ:
- Bác hãy xem, đây là gan con Voi tôi vừa ăn sáng nay đấy. Tôi bắt được con
vật nào cũng chỉ có lá gan là đủ no, chứ không như bác phải ăn cả xương lẫn thịt nhé.
Con Hổ chưa ăn mộc nhĩ bao giờ nên tưởng là gan Voi thật, nó hoảng quá, sợ
Rùa cũng sẽ bắt nó ăn gan, liền cong đuôi chạy mất.
(Hổ và các con vật nhỏ bé, Truyện ngụ ngôn Việt Nam, trong Thegioicotich.vn)
Câu 1: Xácđịnhngôikểvàthểloạicủavănbản.
Câu 2: Xácđịnhđềtài,nhânvật,khônggian,thờigiantrongvănbản.
Câu 3: Mỗikhigặpconvậtnàođó,Hổthườnglàmgì?
Câu 4: KhigặpconvậthungdữnhưHổ,Rùađãthoátnạnbằngcáchnào?
Quađó,emcónhậnxétgìvềRùa. học?
Câu 5:Emhãynêubàihọcemrútrasaukhiđọcxongcâuchuyệntrên.Bài
họcấycóýnghĩavớiemnhưthếnào?
LUYỆN TẬP BIỆN PHÁP TU TỪ NÓI QUÁ – NÓI GIẢM NÓI TRÁNH
Bài 1.Tìmbiệnphápnóiquátrongcáccâusau:
1.Nếu người quay lại ấy là người khác thì thật là một trò cười tức bụng cho lũ bạn
tôi, chúng nó khua guốc inh ỏi và nô đùa ầm ĩ trên hè. Và cái lầm đó không những
làm tôi thẹn mà còn tủi cực nữa, khác gì cái ảo ảnh của một dòng nước trong suốt
chảy dưới bóng râm đã hiện ra trước mắt gần rạn nứt của người bộ hành ngã gục dưới sa mạc.
(NguyênHồng)
2.Cailệvẫngiọnghầmhè:
-Nếukhôngcótiềnnộpsưuchoôngbâygiờ,thìôngsẽdỡcảnhàmàyđi,chửi mắngthôià!
(NgôTấtTố)
3.Tôinghĩđếnmấyquyểnsáchquýcủatôi.Tôiquýchúngcólẽcònhơnnhững ngóntaytôi.
(NamCao)
4.Công cha như núi ngất trời
Nghĩa mẹ như nước ở ngoài biển Đông.
(Cadao)
5.Ngó lên nuộc lạt mái nhà,
Bao nhiêu nuộc lạt nhớ ông bà bấy nhiêu.
(cadao)
6.Thương em chẳng biết để đâu
Để quán quán đổ, để cầu cầu xiêu.
(Cadao)
7.Nghe đồn bác mẹ anh hiền,
Cắn cơm không bể, cắn tiền bể hai.
(Cadao)
8.Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi!
(NguyễnTrãi,BìnhNgôđạicáo)
9.Nghe hắn ninh sượng cả mặt.
(Khẩungữ)
10.Làm mửa mật vẫn không xong.
(Khẩungữ)
11.[...]Cái cụ bá thét ra lửa ấy lại xử nhũn mời hắn vào nhà xơi nước.
(NamCao,ChíPhèo)
12.Lỗ mũi mười tám gánh lông,
Chồng yêu, chồng bảo tơ hồng trời cho. Đêm nằm thì ngáy o o,
Chồng yêu, chồng bảo ngáy cho vui nhà.
(Cadao)
13.Đau lòng kẻ ở người đi
Lệ rơi thấm đá, tơ chia rũ mành.
(NguyễnDu)
14.Rồi Đăm Săn múa khiên. Một bước nhảy, chàng vượt qua mấy đồi tranh. Một
bước lùi, vượt qua mấy đồi mía. Tiếng gió khiên rít vù vù như dông bão, cây cối
nhà cửa ở xung quanh cũng nghiêng ngả...
15.Múa trên cao, tiếng khiên kêu như gió lốc gào. Múa dưới thấp, tiếng khiên kêu
như tiếng nhạc rung. Múa đi, múa lại, mỗi bước nhảy vượt qua ba ngọn đồi, đồi
sụt lở. Mỗi bước nhảy qua ba đồi tranh, tranh bị gió khiên thổi bật tung gốc.
Chàng ném lao bên này, đỡ lao bên kia, tiến tới, thoái lui, mũi lao như những vệt sao băng chớp sáng...
16.Bàitoánnàykhóquánghĩnátóckhôngra.
17.TâyThicóvẻđẹpnghiêngnướcnghiêngthành.
18.Mấy cô má đỏ hây hây
Đội bông như thể đội mây về làng.
19.Đội trời, đạp đất ở đời
Họ Từ, tên Hải vốn người Việt Đông.
(NguyễnDu)
20.Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay
21.Bác ơi tim Bác mênh mông thế
Ôm cả non sông mọi kiếp người
Bài 2: Tìm biện pháp nói giảm nói tránh trong các câu sau?
1.Bàlãolánggiềnglạilậtđậtchạysang:
-Báctraiđãkhárồichứ?
(NgôTấtTố)
2.Nó(RùaVàng)đứngnổitrênmặtnướcvànói:“Xinbệhạhoàngươmlạicho LongQuân”.
(SựtíchHồGươm)
3.Rộngthươngcỏnộihoahèn
Chútthânbèobọtdámphiềnmaisau.
(NguyễnDu,TruyệnKiều)
4.BácđãđirồisaoBácơi
(TốHữu)
5.Lãolàmbộđấy!Thậtralãochỉtẩmngẩmthế,nhưngcũngraphếtchứchảvừa
đâu:lãovừaxintôimộtítbảchó.
(NamCao)
6.Thânlươnbaoquảnlấmđầu
Chútlòngtrinhbạchtừsauxinchừa.
(NguyễnDu,TruyệnKiều)
7.Congáicủaanhvócdángcũngdễnhìnđóchứ.
(Khẩungữ)
8.BácDươngthôiđãthôirồi
Nướcmâymanmácngậmngùilòngta…
(NguyễnKhuyến)
9.Bácđãlênđườngtheotổthiên
Mác–Lênin,thếgiớingườihiền.
(TốHữu)
10.Bỗnglòechớpđỏ,
Thôirồi,Lượmơi!
Chúđồngchínhỏ,
Mộtdòngmáutươi!
(TốHữu)
11.Kiếphồngnhancómongmanh
Nửachừngxuânthoắtgãycànhthiênhương.
(NguyễnDu,TruyệnKiều)
12.Rảirácbiêncươngmồviễnxứ
Chiếntrườngđichẳngtiếcđờixanh
Áobàothaychiếuanhvềđất
SôngMãgầmlênkhúcđộchành.
(QuangDũng)
13.Ngườinằmdướiđấtaiaiđó,
Gianghồmêchơiquênquêhương.
(TảnĐà)
14.Cậuvàngđiđờirồiônggiáoạ!
15.Nhưngnóiralàmgìnữa!LãoHạcơi!Lãohãyyênlòngmànhắmmắt!lão
đừnglogìchocáivườncủalão.Tôisẽcốgiữgìncholão.
(NamCao)
16.Khuyarồi,mờiôngbàđinghỉạ.
17.Cháubéđãbớtđingoàichưabác?
18.Cậuđểkiểutócnàytớnhìnchưaưngýlắm.
19.Ngụcquancảmđộng,váingườitùmộtvái,chắptaynóimộtcâumàdòng
nướcmắtrỉvàokẽmiệnglàmchonghẹnngào:“Kẻmêmuộinàyxinbáilĩnh”.
(NguyễnTuân)
20.Dùemnênvợnênchồng,
Xótngườimệnhbạcắtlòngchẳngquên
Mấtngườicònchútcủatin
Phímđànvớimảnhhươngnguyềnngàyxưa.
(NguyễnDu)
21.Vìvậy,tôiđểsẵnmấylờinày,phòngkhitôisẽđigặpcụCácMác,cụLê-nin
vàcácvịcáchmạngđànanhkhác,thìđồngbàocảnước,đồngchítrongĐảngvà
bầubạnkhắpnơiđềukhỏicảmthấyđộtngột.
(HồChíMinh,Dichúc)
22.LượngconôngĐộđâymà…Rõtộinghiệp,vềđếnnhàthìbốmẹchẳngcòn.
(HồPhương,Thưnhà)
23.Bàithơanhviếtvềýtứ,hìnhảnhthìđược,nhưngtìnhcảmcònchưađủsâu.
24.Nóinăngnhưthếlàcóphầnchưađượcthiệnchílắm.
Bài 3. Chỉ ra những cách nói thay thế cho từ “chết” trong các câu sau. Hãy lấy
thêm những ví dụ cũng giúp nói giảm nói tránh cho việc “chết”.
a.Chỉđếnlúcthântànlựckiệt,trảxácchođời,ThịKínhmớiđượcminhoanvà
đượctrởvềcõiPhật.
(TrầnLâmBiền)
b.ThếrồiDếChoắttắcthở.Tôithươnglắm.Vừathươngvừaănnăntộimình.
(TôHoài)
c.Bỗnglòechớpđỏ
ThôirồiLượmơi.
(TốHữu)
d.ADiĐàPhật!Khôngcóngàithìtínhmạngcontôinguyrồi,chúngtôibiếtlấy
gìđềnđápchoxứng.
(QuỳnhCư)
e.Chẳngbaolâu,ngườichồngmất.
(SọDừa)
g.[…]TrướckiakhibàchưavềvớiThượngđếchínhân,bàcháutađãtừngsung sướngbiếtbao!
(An-đéc-xen)
h.Cáchmấythángsau,đứaconlênsàilạibỏđiđểchịởmộtmình.
(NguyễnKhải)