Lý luận chung về con người và vấn đề xây dựng nguồn lực con người đáp ứng nhu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay | Tiểu luận môn Triết học Mác – Lênin

Phát triển con người là mục tiêu cao cả nhất cả nhất của toàn nhân loại. Làn sóng văn minh thứ ba đang được loài người tới một kỉ nguyên mới, mở ra bao khả năng để họ tìm ra những con đường tối ưu đi tới tương lai. Trong bối cảnh đó sự tan rã của hệ thống xã hội chủ nghĩa càng làm cho các tư tưởng tự do tìm kiếm con đường khả quan nhất cho sự nghiệp phát triển con người Việt Nam. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP. HCM
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ




MÔN HỌC: TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN
TIỂU LUẬN CUỐI KỲ
LÝ LUẬN CHUNG VỀ CON NGƯỜI VÀ VẤN ĐỀ XÂY DỰNG
NGUỒN LỰC CON NGƯỜI ĐÁP ỨNG NHU CẦU CÔNG NGHIỆP
HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC HIỆN NAY
GVHD: TS. PHẠM THỊ LAN
SVTH:
1. Nguyễn Quốc Triệu 22145492
2. Lê Huy Phát 22145432
3. Phạm Đức Anh 22145299
4. Hồ Sỹ Đạt 22145340
5. Lê Đức Toàn 22145487
Mã lớp học: LLCT130105_22_1_65
i
Thành phố Hồ Chí Minh tháng 12 năm 2022
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài................................................................................................1
2. Mục tiêu nghiên cứu...........................................................................................2
3. Phương pháp nghiên cứu....................................................................................2
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ CON NGƯỜI
1.1. Con người là thực thể sinh học – xã hội...........................................................3
1.2. Con người khác biệt với con vật ngay từ khi con người bắt đầu sản xuất
ra tư liệu sinh hoạt của mình............................................................................4
1.3. Con người là sản phẩm của lịch sử và của chính bản thân con người.............5
1.4. Con người vừa là chủ thể của lịch sử, vừa là sản phẩm của lịch sử.................5
1.5. Bản chất con người là tổng hòa các quan hệ xã hội.........................................7
CHƯƠNG 2. VẤN ĐỀ XÂY DỰNG NGUỒN LỰC CON NGƯỜI ĐÁP
ỨNG NHU CẦU CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC
HIỆN NAY
2.1. Một số thành tựu về nguồn nhân lực chất lượng cao........................................9
2.2. Một số giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực con người đáp ứng
nhu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay.............................11
KẾT LUẬN...........................................................................................................19
TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................................20
ii
DANH SÁCH NHÓM THAM GIA VIẾT TIỂU LUẬN
HỌC KÌ I, NĂM HỌC 2022-2023
Nhóm số 1
Tên đề tài: BẢN CHẤT CỦA CÁCH MẠNG HỘI Ý NGHĨA
THỰC TIỄN CỦA CÁCH MẠNG XÃ HỘI TRONG LỊCH SỬ VIỆT NAM
STT HỌ VÀ TÊN SINH VIÊN MÃ SỐ SINH
VIÊN
TỶ LỆ % HOÀN
THÀNH
1 Nguyễn Quốc Triệu 22145492
2 Lê Huy Phát 22145432
4 Phạm Đức Anh 22145299
5 Hồ Sỹ Đạt 22145340
6 Lê Đức Toàn 22145487
.............................................................................................................................
Nhận xét của giảng viên
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
Ngày tháng năm 2022
Điểm của giảng viên
iii
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Lời mở đầu
Phát triển con người là mục tiêu cao cả nhất cả nhất của toàn nhân loại.
Làn sóng văn minh thứ ba đang được loài người tới một kỉ nguyên mới, mở ra
bao khả năng để họ tìm ra những con đường tối ưu đi tới tương lai. Trong bối
cảnh đó sự tan rã của hệ thống xã hội chủ nghĩa càng làm cho các tư tưởng tự
do tìm kiếm con đường khả quan nhất cho sự nghiệp phát triển con người Việt
Nam.
Trong thực tế, không ít người rẽ ngang đi tìm khả năng phát triển đó
trong chủ nghĩa tư bản. Nhiều người trở về phục sinh và tìm sự hoàn thiện con
người trong các tôn giáo hệ tưởng truyền thống, con người lại “sáng
tạo” ra những tưởng, tôn giáo mới cho “phù hợp” hơn với con người Việt
Nam hiện nay. Có lẽ không ai phủ nhận được vai trò ưu trội và triển vọng của
nó trong sự phát triển con người.
Trên cơ sở vận dụng khoa học sáng tạo lý luận chung về con người
tại hội nghị lần thứ tư của ban chấp hành trung ương khoá VII, Đảng ta đã đề
ra thông qua nghị quyết về việc phát triển con người Việt Nam toàn diện
với tư cách quyết về việc phát triển con người Việt Nam toàn diện với tư cách
là “động lực của sự nghiệp xây dựng xã hội mới đồng thời là mục tiêu của chủ
nghĩa hội. Đó “con người phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể
chất, phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức”.
Phát triển con người Việt Nam toàn diện - đó cũng chính là động lực, là
mục tiêu nhân đạo của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá chúng ta
đang từng bước tiến hành. Bởi lẽ, người lao động nước ta ngày càng đóng vai
trò quan trọng trong mọi lĩnh vực của đời sống hội trong sự phát triển
nền kinh tế đất nước theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước, theo
định hướng hội chủ nghĩa, thì chất lượng người lao độngnhân tố quyết
định.
Nghị quyết đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã khẳng
định: “Nâng cao dân trí, bồi dưỡng phát huy nguồn lực to lớn của con
người Việt Nam nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc công nghiệp
hóa, hiện đại hóa”. Thực tiễn đã chứng tỏ rằng không có người lao động chất
lượng cao.
1
Chúng ta không thể phát triển kinh tế, đưa nước ta thoát khỏi nghèo
nàn, lạc hậu. Nhưng cũng chính nghèo nàn, lạc hậu về kinh tế chất
lượng của người lao động nước ta chưa cao. Để thoát khỏi cái vòng luẩn quẩn
này tạo đà cho bước phát triển tiếp theo của sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước, thì một nước đang còn ở tình trạng kém phát triển như
nước ta không thể không xây dựng một chính sách phát triển lâu bền, tầm
nhìn xa trông rộng, phát triển con người, nâng cao dần chất lượng của người
lao động.
1
Do nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề con người, đặc biệt
vấn đề con người trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước ta
hiện nay, nên em đã chọn đề tài tiểu luận: “Lý luận chung về con người
vấn đề xây dựng nguồn lực con người đáp ứng nhu cầu công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước hiện nay”.
người và vấn đề con người trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước”.
Để hoàn thành bài tiểu luận này em xin chân thành cảm ơn sự hướng
dẫn tận tình của Cô.
2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1. Về kiến thức
Trang bị cho sinh viên những kiến thức về học thuyết hình thái kinh tế
- hội; vận dụng ý nghĩa phương pháp luận vào thực tiễn của Việt Nam.
Giúp sinh viên nắm được những quan điểm cơ bản của triết học Mác -
Lênin về giai cấp và đấu tranh giai cấp; về nhà nước và cách mạnghội; về
dân tộc, quan hệ giai cấp - dân tộc - nhân loại; ý nghĩa phương pháp luận
trong nhận thức những vấn đề bản của cách mạng Việt Nam.
Trang bị cho sinh viên những quan điểm bản của triết học Mác -
Lênin về con người, về ý thứchội; sự vận dụng vào cách mạng Việt Nam.
2.2. Về kỹ năng: Giúp sinh viên biết vận dụng những nguyên tắc phương
pháp luận rút ra từ nội dung luận của chủ nghĩa duy vật lịch sử vào phân
tích sự nhận thức vận dụng sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong
thực tiễn cách mạng Việt Nam.
2.3. Về tưởng: Giúp cho sinh viên bồi dưỡng lập trường mácxít, củng cố
niềm tin vào bản chất khoa học cách mạng của chủ nghĩa duy vật lịch sử;
tin tưởng vào đường lối quan điểm của Đảng; đấu tranh với các quan điểm thù
địch, sai trái, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.
3. Phương pháp nghiên cứu
- sở phương pháp luận: Đề tài được triển khai dựa trên nội dung của triết
học Mác - Lênin.
- Các phương pháp cụ thể: Trong quá trình nghiên cứu và trình bày đề tài, các
phương pháp nghiên cứu đã được sử dụng như: phương pháp lịch sử, phương
2
pháp phân tích tổng hợp, …
Chương 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ CON NGƯỜI
1.1. Con người là thực thể sinh học – xã hội
Theo C. Mác, con người là một sinh vật có tínhhội ở trình độ phát
triển cao nhất của giới tự nhiên của lịch sử hội, chủ thể của lịch sử,
sáng tạo nên tất cả các thành tựu của văn minh văn hóa. Về phương diện
sinh học, con người là một thực thể sinh vật, là sản phẩm của giới tự nhiên, là
một động vật hội. “Bản thân cái sự kiện con người từ loài động vật
ra, cũng đã quyết định việc con người không bao giờ hoàn toàn thoát ly khỏi
những đặc tính vốn của con vật”. Điều đó nghĩa rằng con người cũng
như mọi động vật khác phải tìm kiếm thức ăn, nước uống, phải “đấu tranh
sinh tồn” để tồn tại phát triển. Tuy nhiên, không được tuyệt đối hóa điều
đó, không phải đặc tính sinh học, bản năng sinh học, sự sinh tồn thể xác là cái
duy nhất tạo nên bản chất của con người, mà con người còn là một thực thể xã
hội. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, khi xem xét con người,
không thể tách rời hai phương diện sinh học hội của con người thành
những phương diện biệt lập, duy nhất, quyết định phương diện kia.
Không chỉ là một thực thể sinh học, mà con người cũng còn là một bộ
phận của giới tự nhiên. “Giới tự nhiên... thân thể của con người, ...
đời sống thể xác tinh thần của con người gắn liền với giới tự nhiên”. Về
phương diện thực thể sinh học, con người còn phải phục tùng các quy luật của
giới tự nhiên, các quy luật sinh học như di truyền, tiến hóa sinh học các
quá trình sinh học của giới tự nhiên. Con người là một bộ phận đặc biệt, quan
trọng của giới tự nhiên, nhưng lại thể biến đổi giới tự nhiên chính bản
thân mình, dựa trên các quy luật khách quan. Đây chính là điểm khác biệt đặc
biệt, rất quan trọng giữa con người và các thực thể sinh học khác. Về mặt thể
xác, con người sống bằng những sản phẩm tự nhiên, dù là dưới hình thức thực
phẩm, nhiên liệu, áo quần, nhà ở, v.v... Bằng hoạt động thực tiễn con người
trở thành một bộ phận của giới tự nhiên quan hệ với giới tự nhiên, thống
nhất với giới tự nhiên, bởi giới tự nhiên là “thân thể vô cơ của con người”. Vì
thế con người phải dựa vào giới tự nhiên, gắn với giới tự nhiên, hòa hợp
với giới tự nhiên mới thể tồn tại phát triển. Quan điểm này nền tảng
luận phương pháp luận rất quan trọng, tính thời sự trong bối cảnh
khủng hoảng sinh thái và yêu cầu phát triển bền vững hiện nay.
3
Con người còn một thực thể hội các hoạt động hội. Hoạt
động hội quan trọng nhất của con người lao động sản xuất. “Người
giống vật duy nhấtthể bằng lao độngthoát khỏi trạng thái thuần túy là
loài vật”. Nếu các động vật khác phải sống dựa hoàn toàn vào các sản phẩm
của tự nhiên, dựa vào bản năng thì con người lại sống bằng lao động sản xuất,
bằng việc cải tạo tự nhiên, sáng tạo ra các vật phẩm để thỏa mãn nhu cầu của
mình. Nhờ lao động sản xuất về mặt sinh học con người thể trở
thành thực thể xã hội, thành chủ thể của “lịch sử có tính tự nhiên”, có lý tính,
“bản năng hội”. Lao động đã góp phần cải tạo bản năng sinh học của
con người, làm cho con người trở thành con người đúng nghĩa của nó. Lao
động là điều kiện tiên quyết, cần thiết và chủ yếu quyết định sự hình thành
phát triển của con người cả về phương diện sinh học lẫn phương diện xã hội.
Trong hoạt động, con người không chỉ có các quan hệ lẫn nhau trong
sản xuất, còn hàng loạt các quan hệ hội khác. Những quan hệ đó
ngày càng phát triển phong phú, đa dạng, thể hiện những tác động qua lại
giữa họ với nhau. hội, xét đến cùng, sản phẩm của sự tác động qua lại
lẫn nhau giữa những con người. Tính xã hội của con người chỉ có trong xã hội
loài người, con người không thể tách khỏi hội đó điểm bản làm
cho con người khác với các động vật khác. Hoạt động của con người gắn liền
với các quan hệ hội không chỉ phục vụ cho con người còn cho hội,
khác với hoạt động của con vật chỉ phục vụ cho nhu cầu bản năng sinh học
trực tiếp của nó. Hoạt động giao tiếp của con người đã sinh ra ý thức
người. duy, ý thức của con người chỉ thể phát triển trong lao động
giao tiếp hội với nhau. Cũng nhờ có lao độnggiao tiếp hội ngôn
ngữ xuất hiện phát triển. Ngôn ngữ duy của con người thể hiện tập
trung nổi trội tính hội của con người, một trong những biểu hiện
nhất phương diện con người một thực thể hội. Chính vậy, khác với
con vật, con người chỉ có thể tồn tại và phát triển trong xã hội loài người.
1.2. Con người khác biệt với con vật ngay từ khi con người bắt đầu sản
xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình
“Có thể phân biệt con người với súc vật, bằng ý thức, bằng tôn giáo,
nói chung bằng bất cứ cái cũng được. Bản thân con người bắt đầu bằng tự
phân biệt với súc vật ngay khi con người bắt đầu sản xuất ra những liệu
sinh hoạt của mình - đó là một bước tiến do tổ chức cơ thể của con người quy
định. Sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình, như thế con người đã gián
tiếp sản xuất ra chính đời sống vật chất của mình”.
4
“Điểm khác biệt căn bản giữa xã hội loài người với xã hội loài vật là
chỗ: loài vượn may mắn lắm chỉ hái lượm trong khi con người lại sản xuất.
Chỉ riêng sự khác biệt duy nhất nhưng bản ấy cũng khiến ta không thể
chuyển - nếu không kèm theo những điều kiện tương ứng - các quy luật của
các xã hội loài vật sang xã hội loài người”.
Các nhà tư tưởng trước C. Mác cũng đã có những ý kiến khác nhau về
sự khác biệt giữa con người các động vật khác với cách những dấu
hiệu về nội hàm của khái niệm con người. Chẳng hạn, Aristoteles đã cho rằng
con người một động vật chính trị. Nhưng quan niệm của triết học Mác -
Lênin về sự khác biệt giữa con người và các động vật khác thể hiện tính chất
duy vật nhất quán: xác định sự khác biệt đó dựa trên nền tảng của sản xuất vật
chất. Lao động, tức là sản xuất ra tư liệu sinh hoạt của mình, tạo ra con người
hội, thúc đẩy con người hội phát triển. Đây điểm khác biệt rất
căn bản, chi phối các đặc điểm khác biệt khác giữa con người với các động
vật khác. Quan niệm này được Ph. Ăngghen làm sáng trong tác phẩm Tác
dụng của lao động trong quá trình chuyển biến từ vượn thành người.
1.3. Con người là sản phẩm của lịch sử và của chính bản thân con người
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin phê phán quan niệm của
Feuerbach đã xem xét con người tách khỏi điều kiện lịch sử cụ thể hoạt
động thực tiễn của họ, xem xét con người chỉ như là đối tượng cảm tính, trừu
tượng, không hoạt động thực tiễn. Feuerbach đã không nhìn thấy những
quan hệ hiện thực, sống động giữa người với người trong đời sống xã hội, đặc
biệt là trong sản xuất. Do vậy, Feuerbach đã tuyệt đối hóa tình yêu giữa người
với người. Hơn nữa, đó cũng không phải là tình yêu hiện thực mà tình yêu
đã đượctưởng hóa. Phê phán quan niệm sai lầm của Feuerbach và của các
nhà tưởng khác về con người, kế thừa các quan niệm tiến bộ trong lịch sử
tư tưởng nhân loại và dựa vào những thành tựu của khoa học, chủ nghĩa Mác
khẳng định con người vừa sản phẩm của sự phát triển lâu dài của giới tự
nhiên, vừa sản phẩm của lịch sử hội loài người của chính bản thân
con người. C. Mác đã khẳng định trong tác phẩm Hệ tưởng Đức rằng, tiền
đề của lý luận duy vật biện chứngduy vật lịch sử là những con người hiện
thực đang hoạt động, lao động sản xuất và làm ra lịch sử của chính mình, làm
cho họ trở thành những con người như đang tồn tại. Cần lưu ý rằng con người
sản phẩm của lịch sử của bản thân con người, nhưng con người, khác
với các động vật khác, không thụ động để lịch sử làm mình thay đổi, con
người còn là chủ thể của lịch sử.
5
1.4. Con người vừa là chủ thể của lịch sử, vừa là sản phẩm của lịch sử
Con người vừa sản phẩm của lịch sử tự nhiên lịch sử hội,
nhưng đồng thời, lại chủ thể của lịch sử bởi lao động sáng tạo thuộc
tính hội tối cao của con người. Con người động vật đều lịch sử của
mình, nhưng lịch sử con người khác với lịch sử động vật. Lịch sử của động
vật “là lịch sử nguồn gốc của chúng sự phát triển dần dần của chúng cho
tới trạng thái hiện nay của chúng. Nhưng lịch sử ấy không phải do chúng làm
ra trong chừng mực chúng tham dự vào việc làm ra lịch sử ấy thì
điều đó diễn rachúng không hề biếtkhông phải do ý muốn của chúng.
Ngược lại, con người càng cách xa con vật hiểu theo nghĩa hẹp của từ này bao
nhiêu thì con người lại càng tự mình làm ra lịch sử của mình một cách ý
thức bấy nhiêu”. Hoạt động lịch sử đầu tiên khiến con người tách khỏi các
động vật khác, ý nghĩa sáng tạo chân chính hoạt động chế tạo công cụ
lao động, hoạt động lao động sản xuất. Nhờ chế tạo công cụ lao độngcon
người tách khỏi loài vật, tách khỏi tự nhiên trở thành chủ thể hoạt động thực
tiễn xã hội. Chính thời điểm đó con người bắt đầu làm ra lịch sử của mình.
“Sáng tạo ra lịch sử” bản chất của con người, nhưng con người không thể
sáng tạo ra lịch sử theo ý muốn tùy tiện của mình, phải dựa vào những
điều kiện do quá khứ, do thế hệ trước để lại trong những hoàn cảnh mới. Con
người, một mặt, phải tiếp tục các hoạt động trên các tiền đề, điều kiện của
thế hệ trước để lại; mặt khác, lại phải tiến hành các hoạt động mới của mình
để cải biến những điều kiện cũ. Lịch sử sản xuất ra con người như thế nào thì
tương ứng, con người cũng sáng tạo ra lịch sử như thế ấy. Từ khi con người
tạo ra lịch sử cho đến nay con người luôn chủ thể của lịch sử, nhưng cũng
luôn là sản phẩm của lịch sử.
Con người tồn tại phát triển luôn luôn trong một hệ thống môi
trường xác định. Đó toàn bộ điều kiện tự nhiên hội, cả điều kiện vật
chất lẫn tinh thần, quan hệ trực tiếp hoặc gián tiếp đến đời sống của con
người vàhội. Đónhững điều kiện cần thiết, tất yếu, không thể thiếu đối
với sự tồn tại và phát triển của con người. Một mặt, con người là một bộ phận
của giới tự nhiên, để tồn tại và phát triển phải quan hệ với giới tự nhiên, phải
phụ thuộc vào giới tự nhiên, thu nhận sử dụng các nguồn lực của tự nhiên
để cải biến chúng cho phù hợp với nhu cầu của chính mình. Mặt khác, là một
bộ phận của tự nhiên, con người cũng phải tuân theo các quy luật của tự
nhiên, tuân theo các quá trình tự nhiên như cơ học, vật lý, hóa học, đặc biệt là
các quá trình y học, sinh học, tâm sinh lý khác nhau. Về phương diện sinh thể
hay sinh học, con người một tiểu trụ cấu trúc phức tạp, một hệ
6
thống mở, biến đổi phát triển không ngừng, thay đổi thích nghi khá
nhanh chóng so với các động vật khác trước những biến đổi của môi trường.
Con người vừa tiếp nhận, thích nghi, hòa nhịp với giới tự nhiên, nhưng cũng
bằng cách đó cải biến giới tự nhiên để thích ứng và biến đổi chính mình.
Con người cũng tồn tại trong môi trường xã hội. Chính nhờ môi trường
hội con người trở thành một thực thể hội mang bản chất hội.
Con người sản phẩm của hoàn cảnh, của môi trường, trong đó môi
trường xã hội. Môi trường xã hội cũng là điều kiện và tiền đề để con người
thể thực hiện quan hệ với giới tự nhiên quy rộng lớn hữu hiệu hơn.
Về thực chất, môi trường xã hội cũng là một bộ phận của tự nhiên với những
đặc thù riêng. So với môi trường tự nhiên, môi trường hội ảnh hưởng
trực tiếp quyết định đến con người, sự tác động của môi trường tự nhiên
đến từng cá nhân con người thường phải thông qua môi trường xã hội và chịu
ảnh hưởng sâu sắc của các nhân tố xã hội. Môi trường xã hội cũng như mỗi
nhân con người thường xuyên phải có quan hệ với môi trường tự nhiên và tồn
tại trong mối quan hệ tác động qua lại, chi phối và quy định lẫn nhau.
Do sự phát triển của công nghiệp, của cách mạng khoa học công
nghệ, nhiều loại môi trường khác đã và đang được phát hiện. Đó là những môi
trường, như môi trường thông tin, kiến thức, môi trường từ tính, môi trường
điện, môi trường hấp dẫn, môi trường sinh học, v.v... Nhưng cần lưu ý rằng,
những môi trường trong số đó mới được phát hiện đang được nghiên
cứu, nên còn nhiều ý kiến, quan niệm khác nhau, thậm chí đối lập nhau.
Môi trường sinh học, môi trường cận tâm lý, môi trường tương tác yếu đang
được nghiên cứu trong khoa học tự nhiên những môi trường như vậy. Tuy
nhiên, dù chưa được nhận thức đầy đủ, mới được phát hiện hay còn có những
ý kiến, quan niệm khác nhau, thì chúng đều hoặc thuộc về môi trường tự
nhiên, hoặc thuộc về môi trường hội. Tính chất, phạm vi, vai trò tác
động của chúng đến con người là khác nhau, không giống hoàn toàn như môi
trường tự nhiên môi trường hội. Chúng những hiện tượng, quá trình
cụ thể của tự nhiên hoặc xã hội, có tác động, ảnh hưởng ở một khía cạnh hẹp,
cụ thể và xác định ở phương diện tự nhiên hoặc xã hội.
1.5. Bản chất con người là tổng hòa các quan hệ xã hội
Trong sinh hoạt hội, khi hoạt động những điều kiện lịch sử nhất
định con người quan hệ với nhau để tồn tạiphát triển. “Trong tính hiện
thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội”. Bản chất
của con người luôn được hình thành và thể hiện ở những con người hiện thực,
7
cụ thể trong những điều kiện lịch sử cụ thể. Các quan hệ hội tạo nên bản
chất của con người, nhưng không phải sự kết hợp giản đơn hoặc tổng
cộng chúng lại với nhau sự tổng hòa chúng; mỗi quan hệ hội vị
trí, vai trò khác nhau, tác động qua lại, không tách rời nhau. Các quan hệ
xã hội có nhiều loại: quan hệ quá khứ, quan hệ hiện tại, quan hệ vật chất, quan
hệ tinh thần, quan hệ trực tiếp, quan hệ gián tiếp, quan hệ tất nhiên hoặc ngẫu
nhiên, quan hệ bản chất hoặc hiện tượng, quan hệ kinh tế, quan hệ phi kinh tế,
v.v... Tất cả các quan hệ đó đều góp phần hình thành nên bản chất của con
người. Các quan hệ hội thay đổi thì ít hoặc nhiều, sớm hoặc muộn, bản
chất con người cũng sẽ thay đổi theo. Trong các quan hệ hội cụ thể, xác
định, con người mới thể bộc lộ được bản chất thực sự của mình, cũng
trong những quan hệ hội đó thì bản chất người của con người mới được
phát triển. Các quan hệ hội khi đã hình thành thì vai trò chi phối
quyết định các phương diện khác của đời sống con người khiến cho con người
không còn thuần túy một động vật một động vật hội. Con người
“bẩm sinh đã là sinh vật có tính xã hội”. Khía cạnh thực thể sinh vật là tiền đề
trên đó thực thể xã hội tồn tại, phát triển và chi phối.
8
Chương 2
VẤN ĐỀ XÂY DỰNG NGUỒN LỰC CON NGƯỜI ĐÁP ỨNG NHU
CẦU CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC HIỆN NAY
2.1. Một số thành tựu về nguồn nhân lực chất lượng cao
Với nguồn lao động trẻ dồi dào, Việt Nam đang có lợi thế lớn để phát
triển lực lượng sản xuất, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của nền sản xuất
hiện đại, thúc đẩy nền kinh tế của đất nước. Nguồn lao động trẻ sẽ gặp nhiều
thuận lợi trong việc tiếp thu những tiến bộ của khoa học, công nghệ vào sản
xuất; thích ứng bắt nhịp nhanh với quá trình sản xuất đòi hỏi công nghệ
cao, áp lực lớn thích ứng được việc thay đổi nghề nghiệp, điều kiện làm
việc theo yêu cầu của quá trình sản xuất. Do quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa, trong những năm gần đây, Việt Nam rất nhiều các công ty, nhà
máy lớn được xây dựng do các tập đoàn kinh tế lớn bỏ vốn như Samsung,
Toyota, Intel, ... Các chủ đầu của những công ty đó đã nhìn thấy ưu điểm
nổi bật của nguồn lao động nước ta là sự cần cù, chăm chỉ, khéo léo. Nhờ đó,
cấu lao động của Việt Nam đã sự chuyển biến theo hướng tích cực,
giảm dần tỉ lệ lao động nông nghiệp, tăng lên đáng kể tỉ lệ lao động công
nghiệp, góp phần giải quyết tình trạng thiếu việc làm cho lao động nông
thôn, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người lao động. Tuy nhiên,
do nền kinh tế phát triển của Việt Nam chưa thực sự phát triển nên việc đầu tư
cho công tác y tế chăm sóc sức khỏe nhân dân nhìn chung còn thấp, tỉ lệ
những người lao động đã qua đào tạo, lao động tay tay nghề, trình độ
chuyên môn kỹ thuật chiếm tỷ lệ thấp.
Hệ thống hạ tầng kỹ thuật đô thị, nhấttại các đô thị lớn đang từng
bước được đầu tư, mở rộng hoàn thiện theo hướng hiện đại hoá, đồng bộ
hoá với các hình thức đầu đa dạng, các nguồn vốn đầu được mở rộng
hơn. Nhiều công trình tuyến chính ra vào thành phố, các trục giao thông
hướng tâm, các tuyến tránh đô thị, các cầu lớn nút giao lập thể được đầu
tư xây dựng. Chất lượng phục vụ của hạ tầng kỹ thuật đô thị được cải thiện rõ
rệt. Tỉ lệ đô thị hoá tăng từ 35,7% năm 2015 lên khoảng 40% năm 2021.
Kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn được đầu nâng cấp
từng bước hiện đại hoá; hạ tầng thuỷ lợi đồng bộ theo hướng đa mục tiêu;
nhiều dự án trọng điểm, quylớn được đầunâng cấp, sửa chữahoàn
thành góp phần quan trọng thúc đẩy phát triển nông nghiệp, nông thôn và tăng
năng lực tưới tiêu, tạo nguồn cấp nước tiêu thuỷ, ngăn mặn... Củng cố,
hoàn thiện, phát triển tổ chức quản lý khai thác hệ thống thuỷ lợi nhỏ, thuỷ lợi
nội đồng.
9
Hạ tầng năng lượng đã được đầutăng thêm, nhiều công trình lớn
(trên 1.000 MW) được hoàn thành, như Mông Dương 1 công suất 1.000 MW
(năm 2016), Duyên Hải 1 công suất 1.200 MW (năm 2016), Duyên Hải 3
công suất 1.200 MW (năm 2017), Vĩnh Tân 4 công suất 1.200 MW (năm
2017). Đồng thời, đưa điện lưới ra các đảo Phú Quốc, Lý Sơn, Cù Lao Chàm,
Tô, Vân Đồn... bản đáp ứng được yêu cầu phát triển bảo đảm an
ninh năng lượng quốc gia. Hạ tầng khu kinh tế, khu công nghiệp, cụm công
nghiệp được hoàn thiện góp phần thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước,
phát triển sản xuất công nghiệp, nhấtcác ngành, lĩnh vực tiềm năng, lợi
thế, có giá trị gia tăng cao.
Hạ tầng thông tin và truyền thông phát triển khá hiện đại, rộng khắp,
kết nối với quốc tế và bước đầu hình thành siêu xa lộ thông tin, cáp quang hoá
đến cấp xã, thôn, bản với trên 1 triệu km, phủ sóng thông tin di động đến 98%
người dân với công nghệ hiện đại, thuộc nhóm các quốc gia thử nghiệm thành
công sớm công nghệ 5G. Tốc độ kết nối Internet năm 2018 xếp hạng 58 thế
giới. Từng bước xây dựng hệ thống thông tin, sở dữ liệu lớn; ứng dụng
công nghệ thông tin trong quan quản lý nhà nước ngày càng được hoàn
thiện mang lại hiệu quả thiết thực. Hạ tầng bưu chính chuyển dịch nhanh
chóng, chuyển dần từ các dịch vụ bưu chính truyền thống sang tham gia phát
triển dịch vụ chuyển phát hàng cho thương mại điện tử hỗ trợ các dịch vụ
công. Hạ tầng giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, y tế, văn hoá, thể
thao, du lịch... được quan tâm đầu tư. Phát triển kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện
đại chưa đạt yêu cầu, chưa cân đối giữa các vùng, miền. Các dự án, công trình
giao thông khởi công mới trong giai đoạn 2016 - 2020 rất ít so với quy hoạch
phát triển, một số dự án hạ tầng giao thông còn chậm tiến độ. Vận tải hàng
hoá trong nước chủ yếu là đường bộ, chi phí logistics còn ở mức cao. Hạ tầng
hàng không đã được nâng cấp, mở rộng, xây dựng mới nhưng chưa đáp ứng
yêu cầu phát triển kinh tế và du lịch.
Hạ tầng năng lượng còn thiếu tính đồng bộ, một số dự án điện quan
trọng chậm tiến độ, việc phát triển năng lượng tái tạo năng lượng thay thế
còn có những bất cập. Kết nốitruyền tải điện tại một số khu vực chưa đáp
ứng yêu cầu, chưa chế để nhân tham gia đầu phát triển truyền tải
điện. Trong các “nhà máy thông minh”, các máy móc được kết nối internet và
liên kết với nhau qua một hệ thống thể tự hình dung toàn bộ quy trình sản
xuất rồi đưa ra quyết định sẽ thay thế dần các dây chuyền sản xuất trước đây.
Nhờ khả năng kết nối của hàng tỷ người trên trên thế giới thông qua các thiết
bị di động khả năng tiếp cận được với sở dữ liệu lớn, những tính năng
xử lý thông tin sẽ được nhân lên bởi những đột phá công nghệ trong các lĩnh
vực như trí tuệ nhân tạo, công nghệ người máy, internet kết nối vạn vật, xe tự
lái, công nghệ in 3D, công nghệ nano, công nghệ sinh học, khoa học vật liệu,
lưu trữ năng lượng và tính toán lượng tử.
10
2.2. Một số giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực con người đáp
ứng nhu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay
2.2.1. Thực trạng nguồn nhân lực nước ta hiện nay
Việt Nam là một trong những nước đông dân, dân số với quy mô dân số
đứng thứ hai Đông Nam Á và thứ mười ba trên thế giới. Một đất nước với
cấu dân số trẻ với số người trong độ tuổi 16 - 34 chiếm 60% trong tổng số
35,9 triệu người lao động: Nguồn bổ sung hàng năm là 3% - tức khoảng 1,24
triệu người. Theo tổng điều tra dân số năm 2021 quy dân số nước ta
khoảng 98 triệu số người trong độ tuổi lao động gần 58 triệu, chiếm
59,18% dân số. Dự báo thời kỳ 2021 đến 2030 cần tạo thêm chỗ làm việc mới
cho khoảng 11 - 12 triệu lao động (chưa kể số lao động tồn đọng các năm
chuyển sang), bình quân mỗi năm phải tạo thêm 1,1 đến 1,2 triệu chỗ làm
việc mới. Với tốc độ tăng 2,7% một năm, trong khi tốc độ tăng bình quân
hàng hàng năm của thời kỳ này là 1,5% một năm.
Việt Nam tuy lực lượng lao động dồi dào nhưng lực lượng lao động
đã qua đào tạo thực tế lại thiếu, đó mâu thuẫn về quy của nguồn nhân
lực nước ta, chúng ta vừa thừa vừa thiếu nguồn nhân lực. Hiện nay đội ngũ
cán bộ, công chức trong các quan quản nhà nước thuộc các bộ, các
ngành các quan trung ương 129763 người, trong đó 74% công
chức có trình độ từ đại học trở lên.
Nguồn nhân lực Việt Nam với xuất phát điểm thấp, trước yêu cầu lớn
của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế tỏ ra bất cập.
Từ nền kinh tế nông nghiệp, phong cách duy con người Việt Nam còn
mang nặng tính chất sản xuất nhỏ, thủ công, lạc hậu. Sản xuất và quản lý bằng
kinh nghiệm theo kiểu trực giác, lấy thâm niên công tác, cụ thể nghề nghiệp
và lòng trung thành để đánh giá kết quả lao động phân chia thu nhập. Lao
động chưa được đào tạo rèn luyện trong môi trường sản xuất công nghiệp
nên hiệu xuất lao động chưa được đề cao đánh giá đúng mức. Khi tiến bộ
khoa học kỹ thuật và công nghệ hiện đại được thâm nhậpchuyển giao vào
Việt Nam thì mâu thuẫn giữa trình độ hiện đại của trang thiết bị kỹ thuật -
công nghệ với trình độ lạc hậu của người sử dụng xuất hiện. Người quản
người sử dụng công nghệ thì không thể tiếp thu, càng không thể khai thác
hiệu quả công nghệ, nên giảm hiệu xuất của vốn đầu tư. Hiện nay, công nghệ
Việt Nam ở mức trung bình kém. Trong các ngành công nghiệp, hệ thống máy
móc thiết bị lạc hậu từ 2 đến 4 thế hệ so với thế giới. Các chỉ tiêu chủ yếu về
tiêu hao nguyên, nhiên, vật liệu gấp 1,5 đến 2 lần mức chung của thế giới, giá
thành sản phẩm cao, năng suất lao động công nghiệp chỉ đạt 30% mức trung
bình của thế giới (theo số liệu báo cáo của GS. Đặng Hữu tại hội cán bộ khoa
học công nghệ toàn quốc ngày 12/2/1995). Số nhân công có trình độ bậc 4 trở
11
lên chỉ bằng 1/3 tổng số công nhân kỹ thuật, công nhân trình độ bậc 7 chỉ
4000 người đa phần tuổi đã cao. Thiếu công nhân kỹ thuật, đặc biệt
công nhân bậc cao nhân tố trực tiếp ảnh hưởng đến quá trình chuyển giao
công nghệ, làm giảm hiệu suất sử dụng của thiết bị công nghệ. Hiện nay các
nhà công nghệ, công trình sư, kỹ sư thực hành nước ta rất thiếu, nhất là cán bộ
các ngành công nghệ thông tin, vi điện tử sinh học, tự động hoá sản xuất...
Số cán bộ khoa học thuộc các ngành kỹ thuật liên quan đến công nghệ chỉ
chiếm 11% tổng cán bộ trong chế kinh tế nên kinh nghiệm, năng lực
sáng tạo thực tiễn, khả năng sáng tạo công nghệ yếu.
Trình độ lao động kỹ thuật nước ta vừa yếu, vừa thiếu, vừa bất hợp
về cơ cấu đào tạo, vừa phân bố không đồng đều giữa các ngành, các vùng, các
thành phần kinh tế. Trình độ non kém, lạc hậu về khoa học công nghệ, tác
phong lao dộng, kỷ luật, sự thiếu hiểu biết về kinh tế thị trường, tính từ chịu
trách nhiệm nhân thấp ảnh hưởng đến cạnh tranh của nguồn nhân lực Việt
Nam khi hoà nhập vào thị trường nhân lực tiên tiến của thế giới. Hiện nay,
nguồn nhân lực dồi dào, giá nhân công rẻ, về lâu dài không thể là lợi thế phát
triển Việt Nam. Vì lợi thế nhân công rẻ trên thế giới đang dần mất đi và thay
vào đó trình độ trí tuệ cao đồng đều của nhân công. Trong quan hệ kinh tế
quốc tế, trình độ, năng lực của cán bộ đối tác, sự sắc sảo mềm dẻo, nhạy bén,
linh hoạt trong ngoại giao của cán bộ ảnh hưởng đến lợi ích của những quốc
gia. Để giảm được những bất lợi, tạo ra sự tương đồng trong hoà nhập, cạnh
tranh với thị trường nhân lực khu vực thế giới, người lao động Việt Nam
phải được trang bị các kiến thức chuyên môn nghề nghiệp, ngoại ngữ, lao
động, kỷ luật, tác phong lao động nhận thức đúng đắn mối quan hệ chủ -
thợ trong nền kinh tế thị trường, phải hiểu biết được phong tục tập quán, đặc
điểm của các nước bạn trong cùng thị trưòng lao động. Trong các doanh
nghiệp vốn đầu nước ngoài lao động Việt Nam cũng bộc lộ những
nhược điểm lạc hậu về trình độ kỹ thuật - công nghệ, kỷ luật và thói quen lao
động. Năng lực quản lý kinh tế yếu kém, tính tuỳ tiện của người sản xuất nhỏ,
ý thức dân tộc, ý thức cộng đồng chưa cao tạo nên bất lợi và thua thiệt về kinh
tế cho phía Việt Nam.
Đường lối đổi mới mở cửa của Đảng đã mở ra khả năng phát triển
nền kinh tế đa phần, đa dạng hoá việc làm, thu hút được nhiều lao động, sử
dụng tốt hơn năng lực nguồn nhân lực (đặc biệt là sử dụng lao động ở trình độ
cao các khu công nghiệp, khu chế xuất); đường lối đổi mới đã giải quyết
việc làm cho lao động hội thông qua phát triển kinh tế hộ gia đình, trang
tại, doanh nghiệp nhỏ vừa, khôi phục phát triển làng nghề, phổ nghề,
khu vực phi kết cấu... Lần đầu tiên trong những năm 1996-1998 bình quân
mỗi năm tạo thêm chỗ làm việc mới cho khoảng 1,2 đến 1,3 triệu lao động,
tương đương với số lao động trẻ mới bước vào tuổi lao động mỗi năm. Quản
nhà nước về nguồn nhân lực ngày càng được quan tâm, chính sách phát
triển nguồn nhân lực ngày càng được hoàn thiện, đặc biệt là từ năm 1995 đến
nay, Bộ luật lao động đầu tiên nước ta được ban hành hiệu lực đang
12
phát huy trong cuộc sống. Bộ luật lao động điều chỉnh các quan hệ lao động
theo mộtchế mới, dựa trên cơ sở tự do hoá lao động, giải phóng mọi tiềm
năng lao động nâng cao tính năng động hội của lao động. Thị trường
sức lao động đã hình thành ngày càng phát triển trở thành một thị trường
thống nhất, xoá hàng rào hành chính, người lao động được tự do di chuyển và
hành nghề theo pháp luật sự hướng dẫn của nhà nước. Tiền công lao động
ngày càng phản ánh đúng giá trị và giá cả lao động, có tính đến quan hệ cung
cầu lao động trên thị trường sức lao động. Lao động được tự do, được giải
phóng tạo ra động lực mới để mọi người lao động, sáng tạo có năng suất cao.
Nếu ta tiếp tục có chính sách khuyến khích lao động chất xám và tay nghề tốt
hơn, sẽ yếu tố năng lực nội sinh to lớn phát triển nguồn nhân lực đất nước
trong hiện tại cũng như trong tương lai.
Người lao động Việt Nam nhìn chung những phẩm chất vượt trội
như thông minh, cần cù, chịu khó, khả năng nắm bắt các kỹ năng lao động,
đặc biệt kỹ năng sử dụng các công nghệ hiện đại tương đối nhanh. Đây
lợi thế cạnh tranh quan trọng của nguồn nhân lực nước ta trong quá trình toàn
cầu hóaphát triển nền kinh tế tri thức. Một trong những lợi thế cạnh tranh
của Việt Nam thường được nói đến nhân công giá rẻ. Tuy nhiên chúng ta
nên "giải mã" để xem đây là lợi hay là nhược điểm của Việt Nam. Lý do là giá
nhân công r đồng nghĩa với lao động tay nghề thấp. Như vậy, lợi thế này
cũng chính là nhược điểm ngoài than phiền rằng khó tuyển dụng nhân sự cho
ngành công nghệ thông tin, ngân hàng, viễn thông... Do đó Việt Nam khó
thể thu hút đầu vào những khu vực dịch vụ cao cấp mà Việt Nam đang rất
cần để chuyển dịch cấu kinh tế. vậy, việc đào tạo nhân lực chất lượng
cao, tạo ngành công nghiệp hỗ trợ, nâng cao hàm lượng nội địa... việc
Nhà nước phải nhanh chóng thực hiện để "tạo chất" cho "lợi thế nhân công"
mà Việt Nam đang có hiện nay.
Tuy nhiên, so với yêu cầu của nền kinh tế tri thức thì chất lượng nguồn
nhân lực ở nước ta hiện nay còn nhiều bất cập và hạn chế. Hiện nay, Việt Nam
mới chỉ thể đáp ứng được 35% đến 40% nhu cầu nhân sự bậc cao của các
doanh nghiệp. Thị trường nhân sự cấp cao của Việt Nam đang đứng trước một
nguy khủng hoảng trầm trọng không đủ khả năng bắt kịp sự phát triển
của nền kinh tế. Theo khảo sát của Trung tâm Dự báo nhu cầu nhân lực
thông tin thị trường lao động TPHCM, chỉ khoảng 40% sinh viên đại học
sau khi tốt nghiệp tìm được việc làm đúng ngành, đúng trình độ; 60% còn lại
phải làm trái ngành hoặc thấp hơn trình độ đào tạo.
Theo ông Trần Anh Tuấn, Phó giám đốc Trung tâm thì nguyên nhân
tình trạng trên là do sinh viên chạy đua theo phong trào, học ngành “hot” dẫn
đến cảnh ngành cần người làm lại ít người học, ngành nhiều người học lại ít
chỗ làm. Khi ra trường, sự mất cân đối này dẫn đến việc những lao động
trình độ chuyên môn kỹ thuật này phải làm những công việc trái ngành. Thậm
13
chí một số doanh nghiệp phải cử đi đào tạo lạinước ngoài hoặc thuê người
gây sự lãng phí nguồn lực quá lớn.
Theo xu hướng chung hiện nay, lực lượng lao động tri thức học sinh
sinh viên đều thích đi du học làm việc nước ngoài. Đến khi về già mới
trở về nước để đóng góp một phần sức lực cuối cùng cho đất nước quê hương.
còn lại đa số bộ phận công nhân tài năng còn lại trong nước thì thích làm
việc trong các doanh nghiệp nước ngoài đặc biệt các doanh nghiệp vốn
100% nước ngoài.
Có thể nói, từ những thực trạng trên, vấn đề chất lượng nguồn nhân lực
cao đã được đặt ra một cách cấp bách trong thời hội nhập. Trước hết, phải
đi tìm nguyên nhân của “sự khủng hoảng này.
Chúng ta sử dụng vốn nhiều chứ không chú trọng đến nguồn nhân lực
chất lượng cao thế thì hinh kinh tế này đúng trong một giai đoạn nào
đấy nhưng nếu để dài quá thì sẽ gây ra thảm họa về hiệu quả. Trong nhân
lõi các mô hình đó chúng ta thấy bóng dáng của công nghệ và chất lượng cao
rất ít.
Nền kinh tế thế giới đang chuyển dần sang nền kinh tế tri thức và nước
ta cũng sang tiến hành, một số mặt có thể của nó. Nền kinh tế tri thứcmột
số đặc trưng nổi bật sẽ đòi hỏi ở nguồn nhân lực tương ứng phải được đào tạo
đặc biệt về nội dung và phương pháp mới. Những nét khái quát về nền kinh tế
tri thức với các đặc trưng của đã đủ nhận thấy sẽ xuất hiện một thị trường
lao động hết sức đặc biệt với thách thức mới đối với nguồn nhân lực. Đó là cơ
cấu ngành nghề mới do cơ cấu công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, năng
lượng vi điện tử đòi hỏi. ràng đội ngũ lập trình viên kỹ thuật giỏi; các
chuyên gia công nghệ phần mềm ở mọi lĩnh vực các lao động kỹ thuật sử
dụng Internet giỏi là yêu cầu mới của nhân lực trong thị trường lao động mới
của nền kinh tế thị trường. Nguồn nhân lực trong tương lai sẽ phải được coi
trọng giáo dục về tư duy sáng tạo, về năng lực tự chủ, tự học hỏi và cần được
đào tạo kỹ năng thành thạo, linh hoạt về công nghệ mới; về quản mạng
đặc biệt năng lực về kinh doanh; về tính nhạy cảm với cái mới sự bền
vững trong phát huy bản sắc dân tộc với nền văn hoá vững chắc. Cũng cần
nhấn mạnh đến một vài phương tiện quan trọng của nguồn nhân lực mới trong
nền kinh tế thị trường, đó là năng lực sử dụng máy vi tính, năng lực sử dụng
ngoại ngữ năng lực giao tiếp, đó những phương tiện giúp cho lao động
kỹ thuật phát huy với hiệu quả cao không chỉ thị trường lao động trong
nước cả thị trường lao động quốc tế. Dân số trẻ về lâu dài một thế
mạnh, song trước mắt xét về mặt kinh tế, nếu không một chính sách phù
hợp sẽ bất lợi, do bình quân số người phải nuôi dưỡng (trẻ em ăn theo) trên
một lao động cao hơn các nước khác, kèm theo đó là những khó khăn về việc
làm, giáo dục, y tế và dịch vụ xã hội khác.
14
Chính sách của nhà nước còn thiếu đồng bộ, nhất chính sách thuế,
đất đai, tín dụng v.v. chưa khuyến khích tạo ra động lực đẩy mạnh đầu
trong nước để phát triển sản xuất, tạo mở việc làm, trong khi nguồn vốn còn
trong dân rất lớn, nhưng dân chưa đầu vào các ngành chính sản xuất,
chủ yếu đầu tư vào dịch vụ, buôn bán phi sản xuất. Trong hoạt động mở rộng
thị trường, kể cả thị trường nội địa ngoài nước thì năng lực tổ chức thị
trường còn yếu kém; chưa chính sách khuyến khích tiêu dùng hàng nội để
kích thích sản xuất trong nước phát triển, từ đó tạo thêm nhiều chỗ làm việc
mới. Tất nhiên hàng trong nước cũng phải nâng chất lượng, mẫu mã và giá cả
hợp lý.
Với những lợi thế trên, Việt Nam có nhiều cơ hội để tiến tới nền kinh tế
tri thức vào những thập kỷ tới của thế kỷ XXI. Tuy nhiên, bước đột phá sẽ
phải từ việc đổi mới duy thể chế quốc gia trong điều kiện mới của đất
nước và của thế giới, đồng thời tập trung cao vào việc giáo dục đào tạo nguồn
nhân lực mới chất lượng cao, phù hợp và đón đầu chiến lược phát triển kinh tế
xã hội của Việt Nam tới những năm 2050. Nguồn nhân lực Việt Nam hơn bao
giờ hết cần được đào tạo để phát triển nội lực với giá trị mới vượt qua
được những thách thức mới cuả thị trường lao động trong nền kinh tế tri thức
tương lai.
2.2.2. Giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực con người đáp ứng
nhu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay
Đầu tiên là phải nâng cao nhận thức cho mọi cá nhân tổ chức để hiểu
tầm quan trọng của việc xây dựng, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao
trong quá trình phát triển kinh tế tri thức và hội nhập vào nền kinh tế thế giới
của nước ta hiện nay. Phải xác định cho nguồn nhân lực tài nguyên quý
giá nhất của Việt Nam trong công cuộc đổi mới phát triển đất nước. Một
đất nước với nguồn tài nguyên thiên nhiên đang ngày càng bị cạn kiệt như
Việt Nam, cần phải lấy nguồn nhân lực làm tài nguyên thay thế chính.
- Đối với nhà nước: làm tốt công tác quy hoạch phát triển nguồn nhân
lực. Xây dựng và triển khai chiến lược phát triển nguồn nhân lực Việt Nam từ
nay đến năm 2025 tầm nhìn 2040. Tuy nhiên, trước mắt cần kế hoạch
đột phá vào phát triển nhóm nhân lực chất lượng cao, đó là:
+ Đối với đội ngũ cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý có năng lực quản lý giỏi và
phẩm chất đạo đức tốt cần được xây dựng, bồi dưỡng sử dụng hợp
bởi đây là lực lượng có ý nghĩa đầu tàu quan trọng lãnh đạo phát triển kinh tế
- xã hội của đất nước.
+ Đối với đội ngũ cán bộ khoa học, công nghệ thì phải nâng cao chất lượng và
hiệu quả sử dụng thông qua việc trang bị đầy đủ những yếu tố thiết bị kĩ thuật
hiện đại và đảm bảo một môi trường làm việc hợp lí. Đây là một trong những
15
nhiệm vụ vừa mang tính cấp bách, vừa tầm chiến lược nhằm tạo ra lực
lượng đầu đàn trong đội ngũ những người lao động, góp phần tạo ra nguồn
nhân lực chất lượng cao của nước ta.
+ Đối với công nhân kỹ thuật thì cần phải có kế hoạch đào tạo và nâng cao tay
nghề cụ thể rõ ràng vì đâylực lượng quan trọng tham gia trực tiếp vào quá
trình sản xuất.
Cải thiện thông tin về nguồn nhân lực theo hướng rộng rãi dân chủ,
làm cho mọi người thấy được tầm quan trọng của phát triển nguồn nhân lực
của nước ta trên thế giới. Mở những đợt tuyên truyền rộng rãi, thấm sâu
vào lòng người về nguồn nhân lực, chất lượng sinh sống, thông tin về học tập,
giáo dục ngành nghề trong các tầng lớp nhân dân, nhất trong thanh niên,
học sinh. Chìa khóa vạn năng để phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao
chính phải nâng cao giáo dục toàn diện, đổi mới cấu tổ chức, chế
quản lý, nội dung, phương pháp dạy học; thực hiện "chuẩn hóa, hiện đại
hóa, xã hội hóa", chấn hưng nền giáo dục Việt Nam.
Thực hiện cải cách mạnh mẽ hệ thống giáo dục quốc dân theo hướng
hiện đại, góp phần đào tạo xây dựng nguồn nhân lực chất lượng ngày
càng cao, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế tri thức như: Tăng đầu ngân
sách hơn nữa cho giáo dục đào tạo; Thực hiện hội hóa giáo dục; Mở
rộng quy tăng nhanh tốc độ đào tạo; Thực hiện đào tạo theo nhu cầu
của hội; Tiếp tục cải cách nội dung phương pháp đào tạo; Tăng cường
sự lãnh đạo và quản lý của Nhà nước đối với giáo dục, đào tạo.
Để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của nền kinh tế tri thức, trong thời
gian tới giáo dục đại học Việt Nam cần sự đổi mới, trước mắt nên chú
trọng vào các vấn đề:
+ Xây dựng một hệ thống các trường đại học uy tín, khả năng đào tạo
nguồn nhân lực chất lượng cao trong các lĩnh vực kinh tế, tài chính - ngân
hàng, công nghệ thông tin, kiểm toán và ngoại ngữ.
+ Về chế quản lý, thay đổi theo hướng tăng thêm tính chủ động cho các
trường đại học nhất tự chủ về tài chính. Khuyến khích các trường dân lập
hoạt động thực sự hiệu quả đảm bảo nguồn cung đáp ứng nhu cầu.
+ Về nội dung, chương trình: tăng cường thực hành nhằm phát triển duy
sáng tạo của sinh viên, gắn lý thuyết trong sách vở với thực tiễn hoạt động sản
xuất kinh doanh. Hiện nay vấn đề này còn rất lỏng lẻo. Học sinh sinh viên
mặc rất giỏi thuyết nhưng khi bắt tay vào công việc hay tình huống cụ
thể thì cách giải quyết gặp rất nhiều khó khăn. Nên nhiều những bài học
thực tế, tổ chức những dịp giao lưu cọ xát bên ngoài để đánh giá chung vào
quá trình nhận thức của học sinh sinh viên. Tất nhiên để làm được điều này
16
thì không phải trách nhiệm của riêng ai mà là của tất cả mọi thành phần trong
xã hội.
Ngoài ra, cần đẩy mạnh công tác hội hóa giáo dục, cho phép các
thành phần kinh tế trong và ngoài nước tham gia vào quá trình đào tạo và phát
triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu
hội nhập quốc tế phù hợp với luật pháp Việt Nam cũng là cần thiết trong bối
cảnh hiện nay.Điều này rất phổ biến hiện nay đơn cử như rất nhiều trung
tâm ngoại ngữ được thành lập nhằm thỏa mãn nhu cầu của mọi người giao lưu
học hỏi hay có cơ hội kiếm việc tốt hơn.
Nhà nước phải kế hoạch phối hợp tạo nguồn nhân lực từ nông dân,
công nhân, trí thức; kế hoạch khai thác, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng các
nguồn nhân lực nhân tài cho đúng. Phải sự phân biệt rành mạch giữa tài
thật và tài giả, giữa những người cơ hội và những người chân chính trong các
cơ quan công quyền. Không giải quyết được vấn đề này một cách rõ ràng, thì
nhân tài của đất nước sẽ lại "rơi lả tả như mùa thu", "vàng thau lẫn lộn",
làm cho những người thật sự có tài năng không phát triển được, trong khi đó,
những ngườihội, “ăn theo nói leo”, xu nịnh, bợ đỡ lại tồn tại trong các cơ
quan công quyền.
Hằng năm, Nhà nước cần tổng kết về luận thực tiễn về nguồn
nhân lực ở Việt Nam, đánh giá đúng mặt được, mặt chưa được, kịp thời rút ra
những kinh nghiệm, trên cơ sở đó mà xây dựng chính sách mới và điều chỉnh
chính sách đã về nguồn nhân lực Việt Nam, như chính sách hướng
nghiệp, chính sách dạy nghề, học nghề; chính sách thu hút các thành phần
kinh tế tích cực tham gia vào lĩnh vực tạo nguồn nhân lực cho đất nước; chính
sách đối với các tổ chức NGO liên quan đến vấn đề nhân tài, nhân lực;
chính sách đối với lao động đi làm việc nước ngoài thu hút các thành
phần kinh tế tham gia đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài.
- Đối với doanh nghiệp và người lao động:
Ở nước ta, mốc quan trọng đánh dấu những thay đổi của doanh nghiệp
nhà nước trong những năm vừa qua cổ phần hóa. Cổ phần hóa được coi
giải pháp tối ưu tăng tính tự chủhiệu quả của các doanh nghiệp nhà nước.
Mặc chưa nghiên cứu đánh giá về việc làm của người lao động tại các
doanh nghiệp hậu cổ phần hóa, nhưng vấn đề nổi cộm tại các doanh nghiệp
này là sắp xếp lại, đào tạo lại, tinh giản biên chế... với số đông người lao động
do không đáp ứng được yêu cầu mới.
Tại sao lại vấn đề đó? Nhìn trực diện, thể thấy ngay do rất
nhiều người lao động năng lực yếu không đáp ứng được yêu cầu công
việc trong bối cảnh mới. Nhưng nhìn kỹ lại, do quan trọng nhất do môi
trường văn hóa doanh nghiệp trước đó chưa chú trọng đúng mức văn hóa học
17
| 1/24

Preview text:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP. HCM KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ 
MÔN HỌC: TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN TIỂU LUẬN CUỐI KỲ
LÝ LUẬN CHUNG VỀ CON NGƯỜI VÀ VẤN ĐỀ XÂY DỰNG
NGUỒN LỰC CON NGƯỜI ĐÁP ỨNG NHU CẦU CÔNG NGHIỆP
HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC HIỆN NAY
GVHD: TS. PHẠM THỊ LAN SVTH:
1. Nguyễn Quốc Triệu 22145492 2. Lê Huy Phát 22145432 3. Phạm Đức Anh 22145299 4. Hồ Sỹ Đạt 22145340 5. Lê Đức Toàn 22145487
Mã lớp học: LLCT130105_22_1_65 i
Thành phố Hồ Chí Minh tháng 12 năm 2022 MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài................................................................................................1
2. Mục tiêu nghiên cứu...........................................................................................2
3. Phương pháp nghiên cứu....................................................................................2 NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ CON NGƯỜI
1.1. Con người là thực thể sinh học – xã hội...........................................................3
1.2. Con người khác biệt với con vật ngay từ khi con người bắt đầu sản xuất
ra tư liệu sinh hoạt của mình............................................................................4
1.3. Con người là sản phẩm của lịch sử và của chính bản thân con người.............5
1.4. Con người vừa là chủ thể của lịch sử, vừa là sản phẩm của lịch sử.................5
1.5. Bản chất con người là tổng hòa các quan hệ xã hội.........................................7
CHƯƠNG 2. VẤN ĐỀ XÂY DỰNG NGUỒN LỰC CON NGƯỜI ĐÁP
ỨNG NHU CẦU CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC HIỆN NAY

2.1. Một số thành tựu về nguồn nhân lực chất lượng cao........................................9
2.2. Một số giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực con người đáp ứng
nhu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay.............................11
KẾT LUẬN...........................................................................................................19
TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................................20 ii
DANH SÁCH NHÓM THAM GIA VIẾT TIỂU LUẬN
HỌC KÌ I, NĂM HỌC 2022-2023 Nhóm số 1
Tên đề tài: BẢN CHẤT CỦA CÁCH MẠNG XÃ HỘI VÀ Ý NGHĨA
THỰC TIỄN CỦA CÁCH MẠNG XÃ HỘI TRONG LỊCH SỬ VIỆT NAM STT HỌ VÀ TÊN SINH VIÊN MÃ SỐ SINH TỶ LỆ % HOÀN VIÊN THÀNH 1 Nguyễn Quốc Triệu 22145492 2 Lê Huy Phát 22145432 4 Phạm Đức Anh 22145299 5 Hồ Sỹ Đạt 22145340 6 Lê Đức Toàn 22145487
.............................................................................................................................
Nhận xét của giảng viên
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
............................................................................................................................. Ngày tháng năm 2022
Điểm của giảng viên iii MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài Lời mở đầu
Phát triển con người là mục tiêu cao cả nhất cả nhất của toàn nhân loại.
Làn sóng văn minh thứ ba đang được loài người tới một kỉ nguyên mới, mở ra
bao khả năng để họ tìm ra những con đường tối ưu đi tới tương lai. Trong bối
cảnh đó sự tan rã của hệ thống xã hội chủ nghĩa càng làm cho các tư tưởng tự
do tìm kiếm con đường khả quan nhất cho sự nghiệp phát triển con người Việt Nam.
Trong thực tế, không ít người rẽ ngang đi tìm khả năng phát triển đó
trong chủ nghĩa tư bản. Nhiều người trở về phục sinh và tìm sự hoàn thiện con
người trong các tôn giáo và hệ tư tưởng truyền thống, con người lại “sáng
tạo” ra những tư tưởng, tôn giáo mới cho “phù hợp” hơn với con người Việt
Nam hiện nay. Có lẽ không ai phủ nhận được vai trò ưu trội và triển vọng của
nó trong sự phát triển con người.
Trên cơ sở vận dụng khoa học và sáng tạo lý luận chung về con người
tại hội nghị lần thứ tư của ban chấp hành trung ương khoá VII, Đảng ta đã đề
ra và thông qua nghị quyết về việc phát triển con người Việt Nam toàn diện
với tư cách quyết về việc phát triển con người Việt Nam toàn diện với tư cách
là “động lực của sự nghiệp xây dựng xã hội mới đồng thời là mục tiêu của chủ
nghĩa xã hội. Đó là “con người phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể
chất, phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức”.
Phát triển con người Việt Nam toàn diện - đó cũng chính là động lực, là
mục tiêu nhân đạo của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá mà chúng ta
đang từng bước tiến hành. Bởi lẽ, người lao động nước ta ngày càng đóng vai
trò quan trọng trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và trong sự phát triển
nền kinh tế đất nước theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước, theo
định hướng xã hội chủ nghĩa, thì chất lượng người lao động là nhân tố quyết định.
Nghị quyết đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã khẳng
định: “Nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn của con
người Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc công nghiệp
hóa, hiện đại hóa”. Thực tiễn đã chứng tỏ rằng không có người lao động chất lượng cao. 1
Chúng ta không thể phát triển kinh tế, đưa nước ta thoát khỏi nghèo
nàn, lạc hậu. Nhưng cũng chính vì nghèo nàn, lạc hậu về kinh tế mà chất
lượng của người lao động nước ta chưa cao. Để thoát khỏi cái vòng luẩn quẩn
này và tạo đà cho bước phát triển tiếp theo của sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước, thì một nước đang còn ở tình trạng kém phát triển như
nước ta không thể không xây dựng một chính sách phát triển lâu bền, có tầm
nhìn xa trông rộng, phát triển con người, nâng cao dần chất lượng của người lao động. 1
Do nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề con người, đặc biệt là
vấn đề con người trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước ta
hiện nay, nên em đã chọn đề tài tiểu luận: “Lý luận chung về con người và
vấn đề xây dựng nguồn lực con người đáp ứng nhu cầu công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước hiện nay”.
người và vấn đề con người trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”.
Để hoàn thành bài tiểu luận này em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của Cô.
2. Mục tiêu nghiên cứu 2.1. Về kiến thức
Trang bị cho sinh viên những kiến thức về học thuyết hình thái kinh tế
- xã hội; vận dụng ý nghĩa phương pháp luận vào thực tiễn của Việt Nam.
Giúp sinh viên nắm được những quan điểm cơ bản của triết học Mác -
Lênin về giai cấp và đấu tranh giai cấp; về nhà nước và cách mạng xã hội; về
dân tộc, quan hệ giai cấp - dân tộc - nhân loại; ý nghĩa phương pháp luận
trong nhận thức những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam.
Trang bị cho sinh viên những quan điểm cơ bản của triết học Mác -
Lênin về con người, về ý thức xã hội; sự vận dụng vào cách mạng Việt Nam.
2.2. Về kỹ năng: Giúp sinh viên biết vận dụng những nguyên tắc phương
pháp luận rút ra từ nội dung lý luận của chủ nghĩa duy vật lịch sử vào phân
tích sự nhận thức và vận dụng sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong
thực tiễn cách mạng Việt Nam.
2.3. Về tư tưởng: Giúp cho sinh viên bồi dưỡng lập trường mácxít, củng cố
niềm tin vào bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa duy vật lịch sử;
tin tưởng vào đường lối quan điểm của Đảng; đấu tranh với các quan điểm thù
địch, sai trái, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.
3. Phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở phương pháp luận: Đề tài được triển khai dựa trên nội dung của triết học Mác - Lênin.
- Các phương pháp cụ thể: Trong quá trình nghiên cứu và trình bày đề tài, các
phương pháp nghiên cứu đã được sử dụng như: phương pháp lịch sử, phương 2
pháp phân tích tổng hợp, … Chương 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ CON NGƯỜI
1.1. Con người là thực thể sinh học – xã hội
Theo C. Mác, con người là một sinh vật có tính xã hội ở trình độ phát
triển cao nhất của giới tự nhiên và của lịch sử xã hội, là chủ thể của lịch sử,
sáng tạo nên tất cả các thành tựu của văn minh và văn hóa. Về phương diện
sinh học, con người là một thực thể sinh vật, là sản phẩm của giới tự nhiên, là
một động vật xã hội. “Bản thân cái sự kiện là con người từ loài động vật mà
ra, cũng đã quyết định việc con người không bao giờ hoàn toàn thoát ly khỏi
những đặc tính vốn có của con vật”. Điều đó có nghĩa rằng con người cũng
như mọi động vật khác phải tìm kiếm thức ăn, nước uống, phải “đấu tranh
sinh tồn” để tồn tại và phát triển. Tuy nhiên, không được tuyệt đối hóa điều
đó, không phải đặc tính sinh học, bản năng sinh học, sự sinh tồn thể xác là cái
duy nhất tạo nên bản chất của con người, mà con người còn là một thực thể xã
hội. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, khi xem xét con người,
không thể tách rời hai phương diện sinh học và xã hội của con người thành
những phương diện biệt lập, duy nhất, quyết định phương diện kia.
Không chỉ là một thực thể sinh học, mà con người cũng còn là một bộ
phận của giới tự nhiên. “Giới tự nhiên... là thân thể vô cơ của con người, ...
đời sống thể xác và tinh thần của con người gắn liền với giới tự nhiên”. Về
phương diện thực thể sinh học, con người còn phải phục tùng các quy luật của
giới tự nhiên, các quy luật sinh học như di truyền, tiến hóa sinh học và các
quá trình sinh học của giới tự nhiên. Con người là một bộ phận đặc biệt, quan
trọng của giới tự nhiên, nhưng lại có thể biến đổi giới tự nhiên và chính bản
thân mình, dựa trên các quy luật khách quan. Đây chính là điểm khác biệt đặc
biệt, rất quan trọng giữa con người và các thực thể sinh học khác. Về mặt thể
xác, con người sống bằng những sản phẩm tự nhiên, dù là dưới hình thức thực
phẩm, nhiên liệu, áo quần, nhà ở, v.v... Bằng hoạt động thực tiễn con người
trở thành một bộ phận của giới tự nhiên có quan hệ với giới tự nhiên, thống
nhất với giới tự nhiên, bởi giới tự nhiên là “thân thể vô cơ của con người”. Vì
thế con người phải dựa vào giới tự nhiên, gắn bó với giới tự nhiên, hòa hợp
với giới tự nhiên mới có thể tồn tại và phát triển. Quan điểm này là nền tảng
lý luận và phương pháp luận rất quan trọng, có tính thời sự trong bối cảnh
khủng hoảng sinh thái và yêu cầu phát triển bền vững hiện nay. 3
Con người còn là một thực thể xã hội có các hoạt động xã hội. Hoạt
động xã hội quan trọng nhất của con người là lao động sản xuất. “Người là
giống vật duy nhất có thể bằng lao động mà thoát khỏi trạng thái thuần túy là
loài vật”. Nếu các động vật khác phải sống dựa hoàn toàn vào các sản phẩm
của tự nhiên, dựa vào bản năng thì con người lại sống bằng lao động sản xuất,
bằng việc cải tạo tự nhiên, sáng tạo ra các vật phẩm để thỏa mãn nhu cầu của
mình. Nhờ có lao động sản xuất mà về mặt sinh học con người có thể trở
thành thực thể xã hội, thành chủ thể của “lịch sử có tính tự nhiên”, có lý tính,
có “bản năng xã hội”. Lao động đã góp phần cải tạo bản năng sinh học của
con người, làm cho con người trở thành con người đúng nghĩa của nó. Lao
động là điều kiện tiên quyết, cần thiết và chủ yếu quyết định sự hình thành và
phát triển của con người cả về phương diện sinh học lẫn phương diện xã hội.
Trong hoạt động, con người không chỉ có các quan hệ lẫn nhau trong
sản xuất, mà còn có hàng loạt các quan hệ xã hội khác. Những quan hệ đó
ngày càng phát triển phong phú, đa dạng, thể hiện những tác động qua lại
giữa họ với nhau. Xã hội, xét đến cùng, là sản phẩm của sự tác động qua lại
lẫn nhau giữa những con người. Tính xã hội của con người chỉ có trong xã hội
loài người, con người không thể tách khỏi xã hội và đó là điểm cơ bản làm
cho con người khác với các động vật khác. Hoạt động của con người gắn liền
với các quan hệ xã hội không chỉ phục vụ cho con người mà còn cho xã hội,
khác với hoạt động của con vật chỉ phục vụ cho nhu cầu bản năng sinh học
trực tiếp của nó. Hoạt động và giao tiếp của con người đã sinh ra ý thức
người. Tư duy, ý thức của con người chỉ có thể phát triển trong lao động và
giao tiếp xã hội với nhau. Cũng nhờ có lao động và giao tiếp xã hội mà ngôn
ngữ xuất hiện và phát triển. Ngôn ngữ và tư duy của con người thể hiện tập
trung và nổi trội tính xã hội của con người, là một trong những biểu hiện rõ
nhất phương diện con người là một thực thể xã hội. Chính vì vậy, khác với
con vật, con người chỉ có thể tồn tại và phát triển trong xã hội loài người.
1.2. Con người khác biệt với con vật ngay từ khi con người bắt đầu sản
xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình
“Có thể phân biệt con người với súc vật, bằng ý thức, bằng tôn giáo,
nói chung bằng bất cứ cái gì cũng được. Bản thân con người bắt đầu bằng tự
phân biệt với súc vật ngay khi con người bắt đầu sản xuất ra những tư liệu
sinh hoạt của mình - đó là một bước tiến do tổ chức cơ thể của con người quy
định. Sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình, như thế con người đã gián
tiếp sản xuất ra chính đời sống vật chất của mình”. 4
“Điểm khác biệt căn bản giữa xã hội loài người với xã hội loài vật là ở
chỗ: loài vượn may mắn lắm chỉ hái lượm trong khi con người lại sản xuất.
Chỉ riêng sự khác biệt duy nhất nhưng cơ bản ấy cũng khiến ta không thể
chuyển - nếu không kèm theo những điều kiện tương ứng - các quy luật của
các xã hội loài vật sang xã hội loài người”.
Các nhà tư tưởng trước C. Mác cũng đã có những ý kiến khác nhau về
sự khác biệt giữa con người và các động vật khác với tư cách là những dấu
hiệu về nội hàm của khái niệm con người. Chẳng hạn, Aristoteles đã cho rằng
con người là một động vật chính trị. Nhưng quan niệm của triết học Mác -
Lênin về sự khác biệt giữa con người và các động vật khác thể hiện tính chất
duy vật nhất quán: xác định sự khác biệt đó dựa trên nền tảng của sản xuất vật
chất. Lao động, tức là sản xuất ra tư liệu sinh hoạt của mình, tạo ra con người
và xã hội, thúc đẩy con người và xã hội phát triển. Đây là điểm khác biệt rất
căn bản, chi phối các đặc điểm khác biệt khác giữa con người với các động
vật khác. Quan niệm này được Ph. Ăngghen làm sáng rõ trong tác phẩm Tác
dụng của lao động trong quá trình chuyển biến từ vượn thành người.
1.3. Con người là sản phẩm của lịch sử và của chính bản thân con người
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin phê phán quan niệm của
Feuerbach đã xem xét con người tách khỏi điều kiện lịch sử cụ thể và hoạt
động thực tiễn của họ, xem xét con người chỉ như là đối tượng cảm tính, trừu
tượng, không có hoạt động thực tiễn. Feuerbach đã không nhìn thấy những
quan hệ hiện thực, sống động giữa người với người trong đời sống xã hội, đặc
biệt là trong sản xuất. Do vậy, Feuerbach đã tuyệt đối hóa tình yêu giữa người
với người. Hơn nữa, đó cũng không phải là tình yêu hiện thực mà là tình yêu
đã được lý tưởng hóa. Phê phán quan niệm sai lầm của Feuerbach và của các
nhà tư tưởng khác về con người, kế thừa các quan niệm tiến bộ trong lịch sử
tư tưởng nhân loại và dựa vào những thành tựu của khoa học, chủ nghĩa Mác
khẳng định con người vừa là sản phẩm của sự phát triển lâu dài của giới tự
nhiên, vừa là sản phẩm của lịch sử xã hội loài người và của chính bản thân
con người. C. Mác đã khẳng định trong tác phẩm Hệ tư tưởng Đức rằng, tiền
đề của lý luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử là những con người hiện
thực đang hoạt động, lao động sản xuất và làm ra lịch sử của chính mình, làm
cho họ trở thành những con người như đang tồn tại. Cần lưu ý rằng con người
là sản phẩm của lịch sử và của bản thân con người, nhưng con người, khác
với các động vật khác, không thụ động để lịch sử làm mình thay đổi, mà con
người còn là chủ thể của lịch sử. 5
1.4. Con người vừa là chủ thể của lịch sử, vừa là sản phẩm của lịch sử
Con người vừa là sản phẩm của lịch sử tự nhiên và lịch sử xã hội,
nhưng đồng thời, lại là chủ thể của lịch sử bởi lao động và sáng tạo là thuộc
tính xã hội tối cao của con người. Con người và động vật đều có lịch sử của
mình, nhưng lịch sử con người khác với lịch sử động vật. Lịch sử của động
vật “là lịch sử nguồn gốc của chúng và sự phát triển dần dần của chúng cho
tới trạng thái hiện nay của chúng. Nhưng lịch sử ấy không phải do chúng làm
ra và trong chừng mực mà chúng có tham dự vào việc làm ra lịch sử ấy thì
điều đó diễn ra mà chúng không hề biết và không phải do ý muốn của chúng.
Ngược lại, con người càng cách xa con vật hiểu theo nghĩa hẹp của từ này bao
nhiêu thì con người lại càng tự mình làm ra lịch sử của mình một cách có ý
thức bấy nhiêu”. Hoạt động lịch sử đầu tiên khiến con người tách khỏi các
động vật khác, có ý nghĩa sáng tạo chân chính là hoạt động chế tạo công cụ
lao động, hoạt động lao động sản xuất. Nhờ chế tạo công cụ lao động mà con
người tách khỏi loài vật, tách khỏi tự nhiên trở thành chủ thể hoạt động thực
tiễn xã hội. Chính ở thời điểm đó con người bắt đầu làm ra lịch sử của mình.
“Sáng tạo ra lịch sử” là bản chất của con người, nhưng con người không thể
sáng tạo ra lịch sử theo ý muốn tùy tiện của mình, mà phải dựa vào những
điều kiện do quá khứ, do thế hệ trước để lại trong những hoàn cảnh mới. Con
người, một mặt, phải tiếp tục các hoạt động trên các tiền đề, điều kiện cũ của
thế hệ trước để lại; mặt khác, lại phải tiến hành các hoạt động mới của mình
để cải biến những điều kiện cũ. Lịch sử sản xuất ra con người như thế nào thì
tương ứng, con người cũng sáng tạo ra lịch sử như thế ấy. Từ khi con người
tạo ra lịch sử cho đến nay con người luôn là chủ thể của lịch sử, nhưng cũng
luôn là sản phẩm của lịch sử.
Con người tồn tại và phát triển luôn luôn ở trong một hệ thống môi
trường xác định. Đó là toàn bộ điều kiện tự nhiên và xã hội, cả điều kiện vật
chất lẫn tinh thần, có quan hệ trực tiếp hoặc gián tiếp đến đời sống của con
người và xã hội. Đó là những điều kiện cần thiết, tất yếu, không thể thiếu đối
với sự tồn tại và phát triển của con người. Một mặt, con người là một bộ phận
của giới tự nhiên, để tồn tại và phát triển phải quan hệ với giới tự nhiên, phải
phụ thuộc vào giới tự nhiên, thu nhận và sử dụng các nguồn lực của tự nhiên
để cải biến chúng cho phù hợp với nhu cầu của chính mình. Mặt khác, là một
bộ phận của tự nhiên, con người cũng phải tuân theo các quy luật của tự
nhiên, tuân theo các quá trình tự nhiên như cơ học, vật lý, hóa học, đặc biệt là
các quá trình y học, sinh học, tâm sinh lý khác nhau. Về phương diện sinh thể
hay sinh học, con người là một tiểu vũ trụ có cấu trúc phức tạp, là một hệ 6
thống mở, biến đổi và phát triển không ngừng, thay đổi và thích nghi khá
nhanh chóng so với các động vật khác trước những biến đổi của môi trường.
Con người vừa tiếp nhận, thích nghi, hòa nhịp với giới tự nhiên, nhưng cũng
bằng cách đó cải biến giới tự nhiên để thích ứng và biến đổi chính mình.
Con người cũng tồn tại trong môi trường xã hội. Chính nhờ môi trường
xã hội mà con người trở thành một thực thể xã hội và mang bản chất xã hội.
Con người là sản phẩm của hoàn cảnh, của môi trường, trong đó có môi
trường xã hội. Môi trường xã hội cũng là điều kiện và tiền đề để con người có
thể thực hiện quan hệ với giới tự nhiên ở quy mô rộng lớn và hữu hiệu hơn.
Về thực chất, môi trường xã hội cũng là một bộ phận của tự nhiên với những
đặc thù riêng. So với môi trường tự nhiên, môi trường xã hội có ảnh hưởng
trực tiếp và quyết định đến con người, sự tác động của môi trường tự nhiên
đến từng cá nhân con người thường phải thông qua môi trường xã hội và chịu
ảnh hưởng sâu sắc của các nhân tố xã hội. Môi trường xã hội cũng như mỗi cá
nhân con người thường xuyên phải có quan hệ với môi trường tự nhiên và tồn
tại trong mối quan hệ tác động qua lại, chi phối và quy định lẫn nhau.
Do sự phát triển của công nghiệp, của cách mạng khoa học và công
nghệ, nhiều loại môi trường khác đã và đang được phát hiện. Đó là những môi
trường, như môi trường thông tin, kiến thức, môi trường từ tính, môi trường
điện, môi trường hấp dẫn, môi trường sinh học, v.v... Nhưng cần lưu ý rằng,
có những môi trường trong số đó mới được phát hiện và đang được nghiên
cứu, nên còn có nhiều ý kiến, quan niệm khác nhau, thậm chí đối lập nhau.
Môi trường sinh học, môi trường cận tâm lý, môi trường tương tác yếu đang
được nghiên cứu trong khoa học tự nhiên là những môi trường như vậy. Tuy
nhiên, dù chưa được nhận thức đầy đủ, mới được phát hiện hay còn có những
ý kiến, quan niệm khác nhau, thì chúng đều hoặc là thuộc về môi trường tự
nhiên, hoặc là thuộc về môi trường xã hội. Tính chất, phạm vi, vai trò và tác
động của chúng đến con người là khác nhau, không giống hoàn toàn như môi
trường tự nhiên và môi trường xã hội. Chúng là những hiện tượng, quá trình
cụ thể của tự nhiên hoặc xã hội, có tác động, ảnh hưởng ở một khía cạnh hẹp,
cụ thể và xác định ở phương diện tự nhiên hoặc xã hội.
1.5. Bản chất con người là tổng hòa các quan hệ xã hội
Trong sinh hoạt xã hội, khi hoạt động ở những điều kiện lịch sử nhất
định con người có quan hệ với nhau để tồn tại và phát triển. “Trong tính hiện
thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội”. Bản chất
của con người luôn được hình thành và thể hiện ở những con người hiện thực, 7
cụ thể trong những điều kiện lịch sử cụ thể. Các quan hệ xã hội tạo nên bản
chất của con người, nhưng không phải là sự kết hợp giản đơn hoặc là tổng
cộng chúng lại với nhau mà là sự tổng hòa chúng; mỗi quan hệ xã hội có vị
trí, vai trò khác nhau, có tác động qua lại, không tách rời nhau. Các quan hệ
xã hội có nhiều loại: quan hệ quá khứ, quan hệ hiện tại, quan hệ vật chất, quan
hệ tinh thần, quan hệ trực tiếp, quan hệ gián tiếp, quan hệ tất nhiên hoặc ngẫu
nhiên, quan hệ bản chất hoặc hiện tượng, quan hệ kinh tế, quan hệ phi kinh tế,
v.v... Tất cả các quan hệ đó đều góp phần hình thành nên bản chất của con
người. Các quan hệ xã hội thay đổi thì ít hoặc nhiều, sớm hoặc muộn, bản
chất con người cũng sẽ thay đổi theo. Trong các quan hệ xã hội cụ thể, xác
định, con người mới có thể bộc lộ được bản chất thực sự của mình, và cũng
trong những quan hệ xã hội đó thì bản chất người của con người mới được
phát triển. Các quan hệ xã hội khi đã hình thành thì có vai trò chi phối và
quyết định các phương diện khác của đời sống con người khiến cho con người
không còn thuần túy là một động vật mà là một động vật xã hội. Con người
“bẩm sinh đã là sinh vật có tính xã hội”. Khía cạnh thực thể sinh vật là tiền đề
trên đó thực thể xã hội tồn tại, phát triển và chi phối. 8 Chương 2
VẤN ĐỀ XÂY DỰNG NGUỒN LỰC CON NGƯỜI ĐÁP ỨNG NHU
CẦU CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC HIỆN NAY
2.1. Một số thành tựu về nguồn nhân lực chất lượng cao
Với nguồn lao động trẻ dồi dào, Việt Nam đang có lợi thế lớn để phát
triển lực lượng sản xuất, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của nền sản xuất
hiện đại, thúc đẩy nền kinh tế của đất nước. Nguồn lao động trẻ sẽ gặp nhiều
thuận lợi trong việc tiếp thu những tiến bộ của khoa học, công nghệ vào sản
xuất; thích ứng và bắt nhịp nhanh với quá trình sản xuất đòi hỏi công nghệ
cao, áp lực lớn và thích ứng được việc thay đổi nghề nghiệp, điều kiện làm
việc theo yêu cầu của quá trình sản xuất. Do quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa, trong những năm gần đây, ở Việt Nam có rất nhiều các công ty, nhà
máy lớn được xây dựng do các tập đoàn kinh tế lớn bỏ vốn như Samsung,
Toyota, Intel, ... Các chủ đầu tư của những công ty đó đã nhìn thấy ưu điểm
nổi bật của nguồn lao động nước ta là sự cần cù, chăm chỉ, khéo léo. Nhờ đó,
cơ cấu lao động của Việt Nam đã có sự chuyển biến theo hướng tích cực,
giảm dần tỉ lệ lao động nông nghiệp, tăng lên đáng kể tỉ lệ lao động công
nghiệp, góp phần giải quyết tình trạng thiếu việc làm cho lao động ở nông
thôn, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người lao động. Tuy nhiên,
do nền kinh tế phát triển của Việt Nam chưa thực sự phát triển nên việc đầu tư
cho công tác y tế chăm sóc sức khỏe nhân dân nhìn chung còn thấp, tỉ lệ
những người lao động đã qua đào tạo, lao động tay có tay nghề, có trình độ
chuyên môn kỹ thuật chiếm tỷ lệ thấp.
Hệ thống hạ tầng kỹ thuật đô thị, nhất là tại các đô thị lớn đang từng
bước được đầu tư, mở rộng và hoàn thiện theo hướng hiện đại hoá, đồng bộ
hoá với các hình thức đầu tư đa dạng, các nguồn vốn đầu tư được mở rộng
hơn. Nhiều công trình tuyến chính ra vào thành phố, các trục giao thông
hướng tâm, các tuyến tránh đô thị, các cầu lớn và nút giao lập thể được đầu
tư xây dựng. Chất lượng phục vụ của hạ tầng kỹ thuật đô thị được cải thiện rõ
rệt. Tỉ lệ đô thị hoá tăng từ 35,7% năm 2015 lên khoảng 40% năm 2021.
Kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn được đầu tư nâng cấp và
từng bước hiện đại hoá; hạ tầng thuỷ lợi đồng bộ theo hướng đa mục tiêu;
nhiều dự án trọng điểm, quy mô lớn được đầu tư nâng cấp, sửa chữa và hoàn
thành góp phần quan trọng thúc đẩy phát triển nông nghiệp, nông thôn và tăng
năng lực tưới tiêu, tạo nguồn cấp nước và tiêu thuỷ, ngăn mặn... Củng cố,
hoàn thiện, phát triển tổ chức quản lý khai thác hệ thống thuỷ lợi nhỏ, thuỷ lợi nội đồng. 9
Hạ tầng năng lượng đã được đầu tư tăng thêm, nhiều công trình lớn
(trên 1.000 MW) được hoàn thành, như Mông Dương 1 công suất 1.000 MW
(năm 2016), Duyên Hải 1 công suất 1.200 MW (năm 2016), Duyên Hải 3
công suất 1.200 MW (năm 2017), Vĩnh Tân 4 công suất 1.200 MW (năm
2017). Đồng thời, đưa điện lưới ra các đảo Phú Quốc, Lý Sơn, Cù Lao Chàm,
Cô Tô, Vân Đồn... cơ bản đáp ứng được yêu cầu phát triển và bảo đảm an
ninh năng lượng quốc gia. Hạ tầng khu kinh tế, khu công nghiệp, cụm công
nghiệp được hoàn thiện góp phần thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước,
phát triển sản xuất công nghiệp, nhất là các ngành, lĩnh vực có tiềm năng, lợi
thế, có giá trị gia tăng cao.
Hạ tầng thông tin và truyền thông phát triển khá hiện đại, rộng khắp,
kết nối với quốc tế và bước đầu hình thành siêu xa lộ thông tin, cáp quang hoá
đến cấp xã, thôn, bản với trên 1 triệu km, phủ sóng thông tin di động đến 98%
người dân với công nghệ hiện đại, thuộc nhóm các quốc gia thử nghiệm thành
công sớm công nghệ 5G. Tốc độ kết nối Internet năm 2018 xếp hạng 58 thế
giới. Từng bước xây dựng hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu lớn; ứng dụng
công nghệ thông tin trong cơ quan quản lý nhà nước ngày càng được hoàn
thiện mang lại hiệu quả thiết thực. Hạ tầng bưu chính chuyển dịch nhanh
chóng, chuyển dần từ các dịch vụ bưu chính truyền thống sang tham gia phát
triển dịch vụ chuyển phát hàng cho thương mại điện tử và hỗ trợ các dịch vụ
công. Hạ tầng giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, y tế, văn hoá, thể
thao, du lịch... được quan tâm đầu tư. Phát triển kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện
đại chưa đạt yêu cầu, chưa cân đối giữa các vùng, miền. Các dự án, công trình
giao thông khởi công mới trong giai đoạn 2016 - 2020 rất ít so với quy hoạch
phát triển, một số dự án hạ tầng giao thông còn chậm tiến độ. Vận tải hàng
hoá trong nước chủ yếu là đường bộ, chi phí logistics còn ở mức cao. Hạ tầng
hàng không đã được nâng cấp, mở rộng, xây dựng mới nhưng chưa đáp ứng
yêu cầu phát triển kinh tế và du lịch.
Hạ tầng năng lượng còn thiếu tính đồng bộ, một số dự án điện quan
trọng chậm tiến độ, việc phát triển năng lượng tái tạo và năng lượng thay thế
còn có những bất cập. Kết nối và truyền tải điện tại một số khu vực chưa đáp
ứng yêu cầu, chưa có cơ chế để tư nhân tham gia đầu tư phát triển truyền tải
điện. Trong các “nhà máy thông minh”, các máy móc được kết nối internet và
liên kết với nhau qua một hệ thống có thể tự hình dung toàn bộ quy trình sản
xuất rồi đưa ra quyết định sẽ thay thế dần các dây chuyền sản xuất trước đây.
Nhờ khả năng kết nối của hàng tỷ người trên trên thế giới thông qua các thiết
bị di động và khả năng tiếp cận được với cơ sở dữ liệu lớn, những tính năng
xử lý thông tin sẽ được nhân lên bởi những đột phá công nghệ trong các lĩnh
vực như trí tuệ nhân tạo, công nghệ người máy, internet kết nối vạn vật, xe tự
lái, công nghệ in 3D, công nghệ nano, công nghệ sinh học, khoa học vật liệu,
lưu trữ năng lượng và tính toán lượng tử. 10
2.2. Một số giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực con người đáp
ứng nhu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay
2.2.1. Thực trạng nguồn nhân lực nước ta hiện nay
Việt Nam là một trong những nước đông dân, dân số với quy mô dân số
đứng thứ hai Đông Nam Á và thứ mười ba trên thế giới. Một đất nước với cơ
cấu dân số trẻ với số người trong độ tuổi 16 - 34 chiếm 60% trong tổng số
35,9 triệu người lao động: Nguồn bổ sung hàng năm là 3% - tức khoảng 1,24
triệu người. Theo tổng điều tra dân số năm 2021 quy mô dân số nước ta
khoảng 98 triệu và số người trong độ tuổi lao động gần 58 triệu, chiếm
59,18% dân số. Dự báo thời kỳ 2021 đến 2030 cần tạo thêm chỗ làm việc mới
cho khoảng 11 - 12 triệu lao động (chưa kể số lao động tồn đọng các năm
chuyển sang), bình quân mỗi năm phải tạo thêm 1,1 đến 1,2 triệu chỗ làm
việc mới. Với tốc độ tăng 2,7% một năm, trong khi tốc độ tăng bình quân
hàng hàng năm của thời kỳ này là 1,5% một năm.
Việt Nam tuy có lực lượng lao động dồi dào nhưng lực lượng lao động
đã qua đào tạo thực tế lại thiếu, đó là mâu thuẫn về quy mô của nguồn nhân
lực nước ta, chúng ta vừa thừa vừa thiếu nguồn nhân lực. Hiện nay đội ngũ
cán bộ, công chức trong các cơ quan quản lý nhà nước thuộc các bộ, các
ngành ở các cơ quan trung ương có 129763 người, trong đó có 74% công
chức có trình độ từ đại học trở lên.
Nguồn nhân lực Việt Nam với xuất phát điểm thấp, trước yêu cầu lớn
của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế tỏ ra bất cập.
Từ nền kinh tế nông nghiệp, phong cách tư duy con người Việt Nam còn
mang nặng tính chất sản xuất nhỏ, thủ công, lạc hậu. Sản xuất và quản lý bằng
kinh nghiệm theo kiểu trực giác, lấy thâm niên công tác, cụ thể nghề nghiệp
và lòng trung thành để đánh giá kết quả lao động và phân chia thu nhập. Lao
động chưa được đào tạo và rèn luyện trong môi trường sản xuất công nghiệp
nên hiệu xuất lao động chưa được đề cao và đánh giá đúng mức. Khi tiến bộ
khoa học kỹ thuật và công nghệ hiện đại được thâm nhập và chuyển giao vào
Việt Nam thì mâu thuẫn giữa trình độ hiện đại của trang thiết bị kỹ thuật -
công nghệ với trình độ lạc hậu của người sử dụng xuất hiện. Người quản lý
người sử dụng công nghệ thì không thể tiếp thu, càng không thể khai thác có
hiệu quả công nghệ, nên giảm hiệu xuất của vốn đầu tư. Hiện nay, công nghệ
Việt Nam ở mức trung bình kém. Trong các ngành công nghiệp, hệ thống máy
móc thiết bị lạc hậu từ 2 đến 4 thế hệ so với thế giới. Các chỉ tiêu chủ yếu về
tiêu hao nguyên, nhiên, vật liệu gấp 1,5 đến 2 lần mức chung của thế giới, giá
thành sản phẩm cao, năng suất lao động công nghiệp chỉ đạt 30% mức trung
bình của thế giới (theo số liệu báo cáo của GS. Đặng Hữu tại hội cán bộ khoa
học công nghệ toàn quốc ngày 12/2/1995). Số nhân công có trình độ bậc 4 trở 11
lên chỉ bằng 1/3 tổng số công nhân kỹ thuật, công nhân có trình độ bậc 7 chỉ
có 4000 người là đa phần tuổi đã cao. Thiếu công nhân kỹ thuật, đặc biệt là
công nhân bậc cao là nhân tố trực tiếp ảnh hưởng đến quá trình chuyển giao
công nghệ, làm giảm hiệu suất sử dụng của thiết bị công nghệ. Hiện nay các
nhà công nghệ, công trình sư, kỹ sư thực hành nước ta rất thiếu, nhất là cán bộ
ở các ngành công nghệ thông tin, vi điện tử sinh học, tự động hoá sản xuất...
Số cán bộ khoa học thuộc các ngành kỹ thuật liên quan đến công nghệ chỉ
chiếm 11% tổng cán bộ trong cơ chế kinh tế cũ nên kinh nghiệm, năng lực
sáng tạo thực tiễn, khả năng sáng tạo công nghệ yếu.
Trình độ lao động kỹ thuật nước ta vừa yếu, vừa thiếu, vừa bất hợp lý
về cơ cấu đào tạo, vừa phân bố không đồng đều giữa các ngành, các vùng, các
thành phần kinh tế. Trình độ non kém, lạc hậu về khoa học công nghệ, tác
phong lao dộng, kỷ luật, sự thiếu hiểu biết về kinh tế thị trường, tính từ chịu
trách nhiệm cá nhân thấp ảnh hưởng đến cạnh tranh của nguồn nhân lực Việt
Nam khi hoà nhập vào thị trường nhân lực tiên tiến của thế giới. Hiện nay,
nguồn nhân lực dồi dào, giá nhân công rẻ, về lâu dài không thể là lợi thế phát
triển Việt Nam. Vì lợi thế nhân công rẻ trên thế giới đang dần mất đi và thay
vào đó là trình độ trí tuệ cao đồng đều của nhân công. Trong quan hệ kinh tế
quốc tế, trình độ, năng lực của cán bộ đối tác, sự sắc sảo mềm dẻo, nhạy bén,
linh hoạt trong ngoại giao của cán bộ ảnh hưởng đến lợi ích của những quốc
gia. Để giảm được những bất lợi, tạo ra sự tương đồng trong hoà nhập, cạnh
tranh với thị trường nhân lực khu vực và thế giới, người lao động Việt Nam
phải được trang bị các kiến thức chuyên môn nghề nghiệp, ngoại ngữ, lao
động, kỷ luật, tác phong lao động và nhận thức đúng đắn mối quan hệ chủ -
thợ trong nền kinh tế thị trường, phải hiểu biết được phong tục tập quán, đặc
điểm của các nước bạn trong cùng thị trưòng lao động. Trong các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài lao động Việt Nam cũng bộc lộ những
nhược điểm lạc hậu về trình độ kỹ thuật - công nghệ, kỷ luật và thói quen lao
động. Năng lực quản lý kinh tế yếu kém, tính tuỳ tiện của người sản xuất nhỏ,
ý thức dân tộc, ý thức cộng đồng chưa cao tạo nên bất lợi và thua thiệt về kinh tế cho phía Việt Nam.
Đường lối đổi mới và mở cửa của Đảng đã mở ra khả năng phát triển
nền kinh tế đa phần, đa dạng hoá việc làm, thu hút được nhiều lao động, sử
dụng tốt hơn năng lực nguồn nhân lực (đặc biệt là sử dụng lao động ở trình độ
cao ở các khu công nghiệp, khu chế xuất); đường lối đổi mới đã giải quyết
việc làm cho lao động xã hội thông qua phát triển kinh tế hộ gia đình, trang
tại, doanh nghiệp nhỏ và vừa, khôi phục và phát triển làng nghề, phổ nghề,
khu vực phi kết cấu... Lần đầu tiên trong những năm 1996-1998 bình quân
mỗi năm tạo thêm chỗ làm việc mới cho khoảng 1,2 đến 1,3 triệu lao động,
tương đương với số lao động trẻ mới bước vào tuổi lao động mỗi năm. Quản
lý nhà nước về nguồn nhân lực ngày càng được quan tâm, chính sách phát
triển nguồn nhân lực ngày càng được hoàn thiện, đặc biệt là từ năm 1995 đến
nay, Bộ luật lao động đầu tiên ở nước ta được ban hành có hiệu lực và đang 12
phát huy trong cuộc sống. Bộ luật lao động điều chỉnh các quan hệ lao động
theo một cơ chế mới, dựa trên cơ sở tự do hoá lao động, giải phóng mọi tiềm
năng lao động và nâng cao tính năng động xã hội của lao động. Thị trường
sức lao động đã hình thành và ngày càng phát triển trở thành một thị trường
thống nhất, xoá hàng rào hành chính, người lao động được tự do di chuyển và
hành nghề theo pháp luật và sự hướng dẫn của nhà nước. Tiền công lao động
ngày càng phản ánh đúng giá trị và giá cả lao động, có tính đến quan hệ cung
cầu lao động trên thị trường sức lao động. Lao động được tự do, được giải
phóng tạo ra động lực mới để mọi người lao động, sáng tạo có năng suất cao.
Nếu ta tiếp tục có chính sách khuyến khích lao động chất xám và tay nghề tốt
hơn, sẽ là yếu tố năng lực nội sinh to lớn phát triển nguồn nhân lực đất nước
trong hiện tại cũng như trong tương lai.
Người lao động Việt Nam nhìn chung có những phẩm chất vượt trội
như thông minh, cần cù, chịu khó, khả năng nắm bắt các kỹ năng lao động,
đặc biệt là kỹ năng sử dụng các công nghệ hiện đại tương đối nhanh. Đây là
lợi thế cạnh tranh quan trọng của nguồn nhân lực nước ta trong quá trình toàn
cầu hóa và phát triển nền kinh tế tri thức. Một trong những lợi thế cạnh tranh
của Việt Nam thường được nói đến là nhân công giá rẻ. Tuy nhiên chúng ta
nên "giải mã" để xem đây là lợi hay là nhược điểm của Việt Nam. Lý do là giá
nhân công rẻ đồng nghĩa với lao động tay nghề thấp. Như vậy, lợi thế này
cũng chính là nhược điểm ngoài than phiền rằng khó tuyển dụng nhân sự cho
ngành công nghệ thông tin, ngân hàng, viễn thông... Do đó Việt Nam khó có
thể thu hút đầu tư vào những khu vực dịch vụ cao cấp mà Việt Nam đang rất
cần để chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Vì vậy, việc đào tạo nhân lực chất lượng
cao, tạo ngành công nghiệp hỗ trợ, nâng cao hàm lượng nội địa... là việc mà
Nhà nước phải nhanh chóng thực hiện để "tạo chất" cho "lợi thế nhân công"
mà Việt Nam đang có hiện nay.
Tuy nhiên, so với yêu cầu của nền kinh tế tri thức thì chất lượng nguồn
nhân lực ở nước ta hiện nay còn nhiều bất cập và hạn chế. Hiện nay, Việt Nam
mới chỉ có thể đáp ứng được 35% đến 40% nhu cầu nhân sự bậc cao của các
doanh nghiệp. Thị trường nhân sự cấp cao của Việt Nam đang đứng trước một
nguy cơ khủng hoảng trầm trọng vì không đủ khả năng bắt kịp sự phát triển
của nền kinh tế. Theo khảo sát của Trung tâm Dự báo nhu cầu nhân lực và
thông tin thị trường lao động TPHCM, chỉ có khoảng 40% sinh viên đại học
sau khi tốt nghiệp tìm được việc làm đúng ngành, đúng trình độ; 60% còn lại
phải làm trái ngành hoặc thấp hơn trình độ đào tạo.
Theo ông Trần Anh Tuấn, Phó giám đốc Trung tâm thì nguyên nhân
tình trạng trên là do sinh viên chạy đua theo phong trào, học ngành “hot” dẫn
đến cảnh ngành cần người làm lại ít người học, ngành nhiều người học lại ít
chỗ làm. Khi ra trường, sự mất cân đối này dẫn đến việc những lao động có
trình độ chuyên môn kỹ thuật này phải làm những công việc trái ngành. Thậm 13
chí một số doanh nghiệp phải cử đi đào tạo lại ở nước ngoài hoặc thuê người
gây sự lãng phí nguồn lực quá lớn.
Theo xu hướng chung hiện nay, lực lượng lao động tri thức học sinh
sinh viên đều thích đi du học và làm việc ở nước ngoài. Đến khi về già mới
trở về nước để đóng góp một phần sức lực cuối cùng cho đất nước quê hương.
Và còn lại đa số bộ phận công nhân tài năng còn lại trong nước thì thích làm
việc trong các doanh nghiệp nước ngoài đặc biệt là các doanh nghiệp có vốn 100% nước ngoài.
Có thể nói, từ những thực trạng trên, vấn đề chất lượng nguồn nhân lực
cao đã được đặt ra một cách cấp bách trong thời kì hội nhập. Trước hết, phải
đi tìm nguyên nhân của “sự khủng hoảng này.
Chúng ta sử dụng vốn nhiều chứ không chú trọng đến nguồn nhân lực
chất lượng cao thế thì mô hinh kinh tế này nó đúng trong một giai đoạn nào
đấy nhưng nếu để dài quá thì nó sẽ gây ra thảm họa về hiệu quả. Trong nhân
lõi các mô hình đó chúng ta thấy bóng dáng của công nghệ và chất lượng cao rất ít.
Nền kinh tế thế giới đang chuyển dần sang nền kinh tế tri thức và nước
ta cũng sang tiến hành, một số mặt có thể của nó. Nền kinh tế tri thức có một
số đặc trưng nổi bật sẽ đòi hỏi ở nguồn nhân lực tương ứng phải được đào tạo
đặc biệt về nội dung và phương pháp mới. Những nét khái quát về nền kinh tế
tri thức với các đặc trưng của nó đã đủ nhận thấy sẽ xuất hiện một thị trường
lao động hết sức đặc biệt với thách thức mới đối với nguồn nhân lực. Đó là cơ
cấu ngành nghề mới do cơ cấu công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, năng
lượng và vi điện tử đòi hỏi. Rõ ràng đội ngũ lập trình viên kỹ thuật giỏi; các
chuyên gia công nghệ phần mềm ở mọi lĩnh vực và các lao động kỹ thuật sử
dụng Internet giỏi là yêu cầu mới của nhân lực trong thị trường lao động mới
của nền kinh tế thị trường. Nguồn nhân lực trong tương lai sẽ phải được coi
trọng giáo dục về tư duy sáng tạo, về năng lực tự chủ, tự học hỏi và cần được
đào tạo kỹ năng thành thạo, linh hoạt về công nghệ mới; về quản lý mạng và
đặc biệt là năng lực về kinh doanh; về tính nhạy cảm với cái mới và sự bền
vững trong phát huy bản sắc dân tộc với nền văn hoá vững chắc. Cũng cần
nhấn mạnh đến một vài phương tiện quan trọng của nguồn nhân lực mới trong
nền kinh tế thị trường, đó là năng lực sử dụng máy vi tính, năng lực sử dụng
ngoại ngữ và năng lực giao tiếp, đó là những phương tiện giúp cho lao động
kỹ thuật phát huy với hiệu quả cao không chỉ ở thị trường lao động trong
nước mà cả ở thị trường lao động quốc tế. Dân số trẻ về lâu dài là một thế
mạnh, song trước mắt xét về mặt kinh tế, nếu không có một chính sách phù
hợp sẽ bất lợi, do bình quân số người phải nuôi dưỡng (trẻ em ăn theo) trên
một lao động cao hơn các nước khác, kèm theo đó là những khó khăn về việc
làm, giáo dục, y tế và dịch vụ xã hội khác. 14
Chính sách của nhà nước còn thiếu đồng bộ, nhất là chính sách thuế,
đất đai, tín dụng v.v. chưa khuyến khích và tạo ra động lực đẩy mạnh đầu tư
trong nước để phát triển sản xuất, tạo mở việc làm, trong khi nguồn vốn còn
trong dân rất lớn, nhưng dân chưa đầu tư vào các ngành chính sản xuất, mà
chủ yếu đầu tư vào dịch vụ, buôn bán phi sản xuất. Trong hoạt động mở rộng
thị trường, kể cả thị trường nội địa và ngoài nước thì năng lực tổ chức thị
trường còn yếu kém; chưa có chính sách khuyến khích tiêu dùng hàng nội để
kích thích sản xuất trong nước phát triển, từ đó tạo thêm nhiều chỗ làm việc
mới. Tất nhiên hàng trong nước cũng phải nâng chất lượng, mẫu mã và giá cả hợp lý.
Với những lợi thế trên, Việt Nam có nhiều cơ hội để tiến tới nền kinh tế
tri thức vào những thập kỷ tới của thế kỷ XXI. Tuy nhiên, bước đột phá sẽ
phải từ việc đổi mới tư duy và thể chế quốc gia trong điều kiện mới của đất
nước và của thế giới, đồng thời tập trung cao vào việc giáo dục đào tạo nguồn
nhân lực mới chất lượng cao, phù hợp và đón đầu chiến lược phát triển kinh tế
xã hội của Việt Nam tới những năm 2050. Nguồn nhân lực Việt Nam hơn bao
giờ hết cần được đào tạo để phát triển nội lực với giá trị mới và vượt qua
được những thách thức mới cuả thị trường lao động trong nền kinh tế tri thức tương lai.
2.2.2. Giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực con người đáp ứng
nhu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay

Đầu tiên là phải nâng cao nhận thức cho mọi cá nhân tổ chức để hiểu rõ
tầm quan trọng của việc xây dựng, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao
trong quá trình phát triển kinh tế tri thức và hội nhập vào nền kinh tế thế giới
của nước ta hiện nay. Phải xác định cho rõ nguồn nhân lực là tài nguyên quý
giá nhất của Việt Nam trong công cuộc đổi mới và phát triển đất nước. Một
đất nước với nguồn tài nguyên thiên nhiên đang ngày càng bị cạn kiệt như ở
Việt Nam, cần phải lấy nguồn nhân lực làm tài nguyên thay thế chính.
- Đối với nhà nước: làm tốt công tác quy hoạch phát triển nguồn nhân
lực. Xây dựng và triển khai chiến lược phát triển nguồn nhân lực Việt Nam từ
nay đến năm 2025 và tầm nhìn 2040. Tuy nhiên, trước mắt cần có kế hoạch
đột phá vào phát triển nhóm nhân lực chất lượng cao, đó là:
+ Đối với đội ngũ cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý có năng lực quản lý giỏi và
có phẩm chất đạo đức tốt cần được xây dựng, bồi dưỡng và sử dụng hợp lý
bởi đây là lực lượng có ý nghĩa đầu tàu quan trọng lãnh đạo phát triển kinh tế
- xã hội của đất nước.
+ Đối với đội ngũ cán bộ khoa học, công nghệ thì phải nâng cao chất lượng và
hiệu quả sử dụng thông qua việc trang bị đầy đủ những yếu tố thiết bị kĩ thuật
hiện đại và đảm bảo một môi trường làm việc hợp lí. Đây là một trong những 15
nhiệm vụ vừa mang tính cấp bách, vừa có tầm chiến lược nhằm tạo ra lực
lượng đầu đàn trong đội ngũ những người lao động, góp phần tạo ra nguồn
nhân lực chất lượng cao của nước ta.
+ Đối với công nhân kỹ thuật thì cần phải có kế hoạch đào tạo và nâng cao tay
nghề cụ thể rõ ràng vì đây là lực lượng quan trọng tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất.
Cải thiện thông tin về nguồn nhân lực theo hướng rộng rãi và dân chủ,
làm cho mọi người thấy được tầm quan trọng của phát triển nguồn nhân lực
của nước ta và trên thế giới. Mở những đợt tuyên truyền rộng rãi, thấm sâu
vào lòng người về nguồn nhân lực, chất lượng sinh sống, thông tin về học tập,
giáo dục ngành nghề trong các tầng lớp nhân dân, nhất là trong thanh niên,
học sinh. Chìa khóa vạn năng để phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao
chính là phải nâng cao giáo dục toàn diện, đổi mới cơ cấu tổ chức, cơ chế
quản lý, nội dung, phương pháp dạy và học; thực hiện "chuẩn hóa, hiện đại
hóa, xã hội hóa", chấn hưng nền giáo dục Việt Nam.
Thực hiện cải cách mạnh mẽ hệ thống giáo dục quốc dân theo hướng
hiện đại, góp phần đào tạo và xây dựng nguồn nhân lực có chất lượng ngày
càng cao, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế tri thức như: Tăng đầu tư ngân
sách hơn nữa cho giáo dục và đào tạo; Thực hiện xã hội hóa giáo dục; Mở
rộng quy mô và tăng nhanh tốc độ đào tạo; Thực hiện đào tạo theo nhu cầu
của xã hội; Tiếp tục cải cách nội dung và phương pháp đào tạo; Tăng cường
sự lãnh đạo và quản lý của Nhà nước đối với giáo dục, đào tạo.
Để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của nền kinh tế tri thức, trong thời
gian tới giáo dục đại học Việt Nam cần có sự đổi mới, trước mắt nên chú trọng vào các vấn đề:
+ Xây dựng một hệ thống các trường đại học có uy tín, có khả năng đào tạo
nguồn nhân lực chất lượng cao trong các lĩnh vực kinh tế, tài chính - ngân
hàng, công nghệ thông tin, kiểm toán và ngoại ngữ.
+ Về cơ chế quản lý, thay đổi theo hướng tăng thêm tính chủ động cho các
trường đại học nhất là tự chủ về tài chính. Khuyến khích các trường dân lập
hoạt động thực sự hiệu quả đảm bảo nguồn cung đáp ứng nhu cầu.
+ Về nội dung, chương trình: tăng cường thực hành nhằm phát triển tư duy
sáng tạo của sinh viên, gắn lý thuyết trong sách vở với thực tiễn hoạt động sản
xuất kinh doanh. Hiện nay vấn đề này còn rất lỏng lẻo. Học sinh sinh viên
mặc dù rất giỏi lý thuyết nhưng khi bắt tay vào công việc hay tình huống cụ
thể thì cách giải quyết gặp rất nhiều khó khăn. Nên có nhiều những bài học
thực tế, tổ chức những dịp giao lưu cọ xát bên ngoài để đánh giá chung vào
quá trình nhận thức của học sinh sinh viên. Tất nhiên để làm được điều này 16
thì không phải trách nhiệm của riêng ai mà là của tất cả mọi thành phần trong xã hội.
Ngoài ra, cần đẩy mạnh công tác xã hội hóa giáo dục, cho phép các
thành phần kinh tế trong và ngoài nước tham gia vào quá trình đào tạo và phát
triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu
hội nhập quốc tế phù hợp với luật pháp Việt Nam cũng là cần thiết trong bối
cảnh hiện nay.Điều này rất phổ biến hiện nay đơn cử như có rất nhiều trung
tâm ngoại ngữ được thành lập nhằm thỏa mãn nhu cầu của mọi người giao lưu
học hỏi hay có cơ hội kiếm việc tốt hơn.
Nhà nước phải có kế hoạch phối hợp tạo nguồn nhân lực từ nông dân,
công nhân, trí thức; có kế hoạch khai thác, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng các
nguồn nhân lực nhân tài cho đúng. Phải có sự phân biệt rành mạch giữa tài
thật và tài giả, giữa những người cơ hội và những người chân chính trong các
cơ quan công quyền. Không giải quyết được vấn đề này một cách rõ ràng, thì
nhân tài của đất nước sẽ lại "rơi lả tả như lá mùa thu", "vàng thau lẫn lộn",
làm cho những người thật sự có tài năng không phát triển được, trong khi đó,
những người cơ hội, “ăn theo nói leo”, xu nịnh, bợ đỡ lại tồn tại trong các cơ quan công quyền.
Hằng năm, Nhà nước cần tổng kết về lý luận và thực tiễn về nguồn
nhân lực ở Việt Nam, đánh giá đúng mặt được, mặt chưa được, kịp thời rút ra
những kinh nghiệm, trên cơ sở đó mà xây dựng chính sách mới và điều chỉnh
chính sách đã có về nguồn nhân lực ở Việt Nam, như chính sách hướng
nghiệp, chính sách dạy nghề, học nghề; chính sách thu hút các thành phần
kinh tế tích cực tham gia vào lĩnh vực tạo nguồn nhân lực cho đất nước; chính
sách đối với các tổ chức NGO có liên quan đến vấn đề nhân tài, nhân lực;
chính sách đối với lao động đi làm việc ở nước ngoài và thu hút các thành
phần kinh tế tham gia đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài.
- Đối với doanh nghiệp và người lao động:
Ở nước ta, mốc quan trọng đánh dấu những thay đổi của doanh nghiệp
nhà nước trong những năm vừa qua là cổ phần hóa. Cổ phần hóa được coi là
giải pháp tối ưu tăng tính tự chủ và hiệu quả của các doanh nghiệp nhà nước.
Mặc dù chưa có nghiên cứu đánh giá về việc làm của người lao động tại các
doanh nghiệp hậu cổ phần hóa, nhưng vấn đề nổi cộm tại các doanh nghiệp
này là sắp xếp lại, đào tạo lại, tinh giản biên chế... với số đông người lao động
do không đáp ứng được yêu cầu mới.
Tại sao lại có vấn đề đó? Nhìn trực diện, có thể thấy ngay lý do vì rất
nhiều người lao động có năng lực yếu và không đáp ứng được yêu cầu công
việc trong bối cảnh mới. Nhưng nhìn kỹ lại, lý do quan trọng nhất là do môi
trường văn hóa doanh nghiệp trước đó chưa chú trọng đúng mức văn hóa học 17