Lý luận C.Mác về giai cấp và đấu tranh giai cấp. Liên hệ trách nhiệm của sinh viên hiện nay| Tiểu luận môn Triết học Mác - Lênin

Trong lịch sử giai cấp đã xuất hiện từ lâu trong quá trình hình thành và phát
triển của con người. Song, dù nhận được sự tồn tại của giai cấp nhưng do hạn chế về nhiều khía cạnh đặc biệt là về mặt nhận thức của con người nên họ đã không thể nào lý giải về “hiện tượng phức tạp này trước đây”. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP. HCM
TIỂU LUẬN CUỐI KỲ
MÔN: TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN
ĐỀ TÀI
LÝ LUẬN C. MÁC VỀ GIAI CẤP VÀ ĐẤU TRANH GIAI CẤP. LIÊN HỆ
TRÁCH NHIỆM CỦA SINH VIÊN TRONG SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG VÀ BẢO
VỆ TỔ QUỐC Ở NƯỚC TA TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
MÃ MÔN HỌC & MÃ LỚP: 231LLCT130105
NHÓM THỰC HIỆN: 01. Thứ 7 - tiết: 10-12
GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN: TS. Nguyễn Văn Thiên
Tp. Hồ Chí Minh, tháng ... năm ...
DANH SÁCH NHÓM THAM GIA VIẾT TIỂU LUẬN
HỌC KỲ ..., NĂM HỌC: 20... – 20...
Nhóm 01. Thứ 7 tiết 10-12
Tên đề tài
STT HỌ VÀ TÊN SINH VIÊN
MÃ SỐ
SINH VIÊN
TỈ LỆ %
HOÀN
THÀNH
SĐT
1 Phạm Quốc An 23104001
2 Lê Đức Anh 23104002
3 Nguyễn Minh Anh 23163001
4 Ngô Văn Bảo 23104004
5 Trần Lê Gia Bảo 23104005
6 Nguyễn Đăng Bách 23104006
7 Trần Ngọc Bảo Châu 23163002
8 Nguyễn Viên Thành Công 23104007
Ghi chú:
- Tỉ lệ % = 100%
- Trưởng nhóm: Trần Ngọc Bảo Châu
Nhận xét của giáo viên
Ngày...tháng...năm...
Giáo viên chấm điểm
MỤC LỤC
MỤC LỤC............................................................................................................3
PHẦN 1: MỞ ĐẦU..............................................................................................4
1. Lý do chọn đề tài..........................................................................................4
PHẦN 2: NỘI DUNG..........................................................................................7
1.1. Định nghĩa về giai cấp...............................................................................7
1.3. Kết cấu xã hội – giai cấp...........................................................................9
2.1. Định nghĩa về đấu tranh giai cấp...........................................................10
2.2. Nguồn gốc đấu tranh giai cấp................................................................10
2.3. Tính tất yếu và thực chất của đấu tranh giai cấp.................................11
2.4. Vai trò của đấu tranh giai cấp trong sự phát triển của xã hội có giai
cấp....................................................................................................................12
3.1. Nhận thức đúng đắn trong việc xây dựng và bảo vệ Tổ......................13
3.2. Tích cực trong học tập, rèn luyện thân thể...........................................14
3.3. Toàn dân đoàn kết, tích cực xây dựng và phát triển nền văn hoá dân
tộc.....................................................................................................................14
3.4. Bảo vệ an ninh, tuyên truyền chống tệ nạn xã hội...............................14
3.5. Cảnh giác trước những âm mưu chia rẽ...............................................16
PHẦN 3: KẾT LUẬN.......................................................................................17
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................18
PHẦN 1: MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong hội luôn tồn tại các tầng lớp, giai cấp khác nhau, khác biệt về chức
năng xã hội mức sống, từ đó dẫn đến sự xung đột, đối lập mâu thuẫn giữa các
giai cấp với nhau. Sự xung đột giữa các giai cấp sẽ dẫn đến việc đấu tranh giai cấp
trong xã hội. rất nhiều nguyên nhân dẫn đến đấu tranh giữa các giai cấp, đầu tiên
và không thể không đề cập đến nguồn gốc của đấu tranh giai cấp. Đấu tranh giai cấp
xuất phát từ nghiên cứu của Mác- Lênin khi nghiên cứu về xã hội là “con người hiện
thực”, tức không chung chung, không trừu tượng đó người đang sống trong
một đất nước, một dân tộc, một thời đại nhất định nào đó. Những thuộc tính, tính chất
cơ bản của một cơ thể sống là muốn sống được, tồn tại được thì phải có thức ăn, nước
uống, quần áo, nhà ở… Đây những nhu cầu đầu tiên tối thiểu đối với một con
người để họ thể sống, tồn tại muốn những thứ bắt buộc con người phải
lao động mới được. Chính thế, trong hội nguyên thủy (còn được gọi thời
kì đồ đá), khi có những người chưa tạo ra được những thiết bị, dụng cụ, sản phẩm để
thể sống, tồn tại, thì cũng tồn tại một số những con người thể làm ra nhiều
dụng cụ, thiết bị, sản phẩm hơn vì có những thiết bị, dụng cụ hiện đại hơn như những
vật dụng làm từ sắt hay công cụ lao động mới, thế nên mới hiện tượng phân
chia về giai cấp. Xã hội khi đó được chia thành hai giai cấp chính là chủ nô và nô lệ.
Tiếp theo đó tính tất yếu của đấu tranh giai cấp. Theo C. Mác, trong hội
giai cấp, giai cấp thống trị chiếm đoạt lao động của các giai cấp, tầng lớp bị trị.
Đặc biệt giai cấp và tầng lớp bị trị luôn bị áp bức, bóc lột rất nhiều. Giai cấp thống trị
bao giờ cũng dùng mọi cách để bảo vệ địa vị, vị thế của họ. Chính thế mới phát
sinh ra tính khách quan đó lợi ích giai cấp không phải do ý thức của giai cấp quy
định mà là do địa vị kinh tế - xã hội quyết định. Để từ đó, giai cấp thống trị luôn duy
trì và củng cố chế độ kinh tế - xã hội bằng cách bóc lột sức lao động của các giai cấp,
tầng lớp bị trị. Đây cũngnguyên nhân trực tiếp dẫn đến sự đấu tranh giữa các giai
cấp. Đồng thời, khi nhìn sâu hơn nữa, ta có thể nhận thấy những nguyên nhân sâu xa
dẫn đến sự đấu tranh giữa các giai cấp. Theo C. Mác, đấu tranh giai cấp các mâu
thuẫn giữa trình độ phát triển của các lực lượng sản xuất giữa các tầng lớp, giai cấp
khác nhau. Nếu đấu tranh giai cấp đỉnh cao nhất của chỉ cách mạng hội
chỉ thể nổ ra trên sở lực lượng sản xuất phát triển đến mức không thể giải
quyết với quan hệ sản xuất đã lỗi thời.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Thể hiện rõ được quan điểm của Mác – Lênin về vấn đề đấu tranh giai cấp và
làm vấn đề về đấu tranh giai cấp Việt Nam hiện nay cùng với phương hướng
giải quyết đấu tranh giữa các giai cấp. Thêm vào đó, thời gian gần đây những
hiện tượng xuyên tạc về vấn đề giai cấp đấu tranh giữa các giai cấp giữa các
nước khác trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Khi nói đến Việt Nam, có
nhiều ý kiến cho rằng đấu tranh giai cấp của Việt Nam là lạc hậu, không phù hợp, đi
ngược lại xu thế của thời đại. Do vậy, thể nói việc nâng cao nhận thức khoa học
của người dân về đấu tranh giai cấp là rất quan trọng, góp phần chống lại những thế
lực thù địch, quan điểm sai trái, bảo vệ chủ nghĩa Mác Lênin và tưởng Hồ Chí
Minh về nền tư tưởng là việc làm rất thiết thực và cần phải có trong xã hội hiện nay.
Đặc biệt là đối với thế hệ sinh viên trên mảnh đất Việt Nam tươi đẹp.
3. Phương pháp nghiên cứu
Để tìm hiểu và trình bày chủ đề này, chúng em đã kết hợp nhiều phương pháp
nghiên cứu để nâng cao hiệu quả như quan sát thực tiễn, tổng hợp phân tích dữ
liệu, chọn lọc thông tin để có thể đưa ra một cái nhìn chính xác, một nhận xét, đánh
giá hợp lý. Kết hợp với việc nghiên cứu tài liệu từ những nguồn tài liệu chính thống
để thể hiểu hơn về vấn đề giai cấp đấu tranh giai cấp, đồng thời nêu được
trách nhiệm của sinh viên ngày nay trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ tổ quốc.
PHẦN 2 NỘI DUNG:
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN C.MÁC VỀ GIAI CẤP
1.1. Định nghĩa về giai cấp
Trong lịch sử giai cấp đã xuất hiện từ lâu trong quá trình hình thành phát
triển của con người. Song, dù nhận được sự tồn tại của giai cấp nhưng do hạn chế về
nhiều khía cạnh đặc biệt là về mặt nhận thức của con người nên họ đã không thể nào
lý giải về “hiện tượng phức tạp này trước đây”. Những thứ họ dựng lên được gọi
định nghĩa cho “giai cấp” về thức chất chỉ cái cớ để họ tránh đụng đến các
vấn đề như về sở hữu tư liệu sản xuất, âm mưu xóa mờ sự khác biệt giữa giai cấp và
đối kháng giai cấp bảo vệ quyền lợi cho giai cấp thống trị.
Các Mác nghiên cứu về giai cấp và tiếp cận đến nó một cách khoa học khi ông
lấy hình thái kinh tế - hộim sở nhận ra rằng tất yếu trong quá trình
hình thành phát triển kinh tế- xã hội. Kế thừaphát triển ý tưởng của C.Mác
Ph.Angghen, V.I.Lenin đã chỉ ra đặc trưng cơ bản của giai cấp :
Giai cấp được V.I.Lenin định nghĩa bản như sau: “Giai cấp những
tập đoàn người có địa vị kinh tế - xã hội nhất định trong lịch sử.”
1
Và trong tập đoàn người ấy, mỗi cá nhân nắm giữ một địa vị kinh tế khác nhau
và được quy định kể từ khi sinh ra. Địa vị kinh tế tronghội quy định mỗi cá nhân
thuộc giai cấp thống trị hay bị thống trị. Trong hệ thống sản xuất trong xã hội thường
tồn tại phương thức sản xuất thống trị, phương thức sản xuất tàn phương thức
sản xuất mầm mống.
“ Thực chất của quan hệ giai cấptập đoàn người này chiếm đoạt lao động
của tập đoàn người khác do đối lập về địa vị trong chế độ kinh tế - xã hội
2
Trong hội, quan hệ sở hữu thường được nhà nước thể chế hóa thành luật
pháp, được bảo vệ bằng một hệ thống kiến trúc thượng tầng chính trị - pháp lý. Giai
cấp thống trị nắm quyền kinh tế lẫn các lĩnh khác trong xã hội. Từ những bất công ấy
hình thành nên các mâu thuẫn giai cấp gay gắt trải dài theo bề dày của lịch sử. Sự
1
Giáo trình triết học Mác-Lênin (Dành cho bậc đại học hệ không chuyên lý luận chính trị), trang 332
2
Giáo trình triết học Mác-Lênin (Dành cho bậc đại học hệ không chuyên lý luận chính trị), trang 335
mâu thuẫn giữa các giai cấp đã sự khác biệt về lợi ích đã hình thành gắn liền
với xã hội loài người từ khi loài người hình thành và bắt đầu có nhận thức.
Định nghĩa giai cấp của Lenin cho thấy, giai cấp một phạm trù kinh tế-
hội có tính lịch sử, sự tồn tại của nó gắn liền với hệ thống sản xuất xã hội dựa trên
sở chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất.
3
Định nghĩa giai cấp của Lenin mang bản chất cách mạng, khoa học, giá trị
to lớn về lý luận thực tiễn, góp phần giải phóng cho giai cấp vô sản mang đến những
lý luận khoa học, đầy tính thuyết phục cho giai cấp vô sản, giúp cho giai cấp bị thống
trị thoát khỏi sự nô dịch từ giai cấp thống trị trong xã hội cũ.
1.2. Nguồn gốc giai cấp
Trong những thời kì đầu và thời kì giữa của xã hội nguyên thủy, sản xuất chưa
phát triển, các tộc người còn làm chung hưởng chung, lúc bấy giờ vẫn chưa
xuất hiện sphân chia giai cấp nhưng đến cuối thời nguyên thủy, con người biết
sản xuất và sử dụng công cụ bằng kim loại để tạo ra của cải và hình thành của dư. Sự
xuất hiện “của dư” nguyên nhân chính dẫn đến phân công lao động hội phát
triển. Bấy giờ sản xuất theo công động không còn phù hợp và đổi thành sản xuất theo
hộ gia đình. Các gia đình tài sản riêng ngày một nhiều. Lúc bấy giờ các người
chức, quyền trong bộ lạc lợi dụng chiếm đoạt của cải của công làm của riêng.
hội lúc bấy giờ đã từng bước đi sang thời mới, hội từng bước phân hóa
thành các tập đoàn người có sự đối lập về địa vị kinh tế- xã hội
Nguyên nhân sâu xa của sự xuất hiện giai cấp là: sự phát triển của lực
lượng sản xuất làm cho năng xuất lao động tăng lên, xuất hiện “của dư”, tạo khả năng
khách quan, tiền để cho tập đoàn của người này chiếm đoạt thành quả lao động của
người khác.
4
Nguyên nhân trực tiếp: do sự xuất hiện chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất dẫn
đến sự tồn tại của giai cấp. Giai cấp chỉ mất khi chế độ hữu về liệu sản xuất bị
xoá bỏ hoàn toàn.
3
Giáo trình triết học Mác-Lênin (Dành cho bậc đại học hệ không chuyên lý luận chính trị), trang 336
4
Giáo trình triết học Mác-Lênin (Dành cho bậc đại học hệ không chuyên lý luận chính trị), trang 339
+ Chế độ hữu về liệu sản xuất sở trực tiếp của sự hình thành các
giai cấp. Và chừng nào, ở đâu còn tồn tại chế độ tự hữu về tư liệu sản xuất thì ở đó còn
có sự tồn tại của các giai cấp và đấu tranh giai cấp.
+ Giai cấp bị mất đi khi chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất hoàn toàn bị xoá bỏ
Theo các nhà kinh điển mácxit, con đường hình thành giai cấp rất phức tạp:
Những người chức, quyền lợi dụng quyền lực để chiếm đoạt tài sản công làm
của riêng; tù binh bắt được trong chiến tranh được sử dụng làm nô lệ để sản xuất; các
tầng lớp hội tự do trao đổi, bị phân hoá thành các giai cấp khác nhau...Từ hội
cộng sản nguyên thuỷ sang chế độ chiếm hữu lệ cả một bước quá độ lâu dài từ
chế độ công hữu sang chế độ hữu về liệu sản xuất; từ chưa giai cấp sang
giai cấp. Điều kiện góp phần đẩy nhanh quá trình phân hoá giai cấp là các cuộc chiến
tranh, những thủ đoạn cướp bóc, những hành vi bạo lực trong hội... hội cộng
sản nguyên thuỷ tan rã, hội chiếm hữu lệ hội giai cấp đầu tiên trong
lịch sử ra đời, xuất hiện khoảng 3 - 5 nghìn năm trước.
1.3. Kết cấu xã hội – giai cấp
Kết cấuhội - giai cấp tổng thể các giai cấp và mối quan hệ giữa các giai
cấp, tồn tại trong một giai đoạn lịch sử nhất định. Kết cấu xã hội - giai cấp trước hết
do trình độ phát triển của phương thức sản xuất xã hội quy định.
5
Kết cấu xã hộigiai cấp gồm hai giai cấp cơ bản và những giai cấp không cơ
bản, bên cạnh đó còn các tầng lớp xã hội trung gian.
Trong hội chiếm hữu lệ, giai cấp bản giai cấp chủ lệ,
trong xã hội phong kiến là địa chủ và nông dân, giai cấp tư sản và vô sản trong xã hội
bản chủ nghĩa. Đó những giai cấp bản gắn liền với phương thức sản xuất
thống trị, đồng thời những sản phẩm của phương thức sản xuất thống trị. Những
giai cấp không bản gắn liền với phương thức sản xuất tàn hoặc mầm mống
trong xã hội.
Trong quá trình phát triển của lịch sử, các giai cấpbản và không cơ bản
thể chuyển hoá thay thế nhau. Kết cấu hội giai cấp luôn vận động phát
triển không ngừng, sự phát triển của nó có ý nghĩa cực kì quan trọng trong lý luận và
thực tiễn đối với điều kiện như hiện nay. Giúp xác dịnh đúng mâu thuẫn bản chủ
5
Giáo trình triết học Mác-Lênin (Dành cho bậc đại học hệ không chuyên lý luận chính trị), trang 340
yếu của hội, nhận thức đúng địa vị cũng như vai trò của các sở chính đảng.
Từ đó xác định đúng đối tượng, lực lượng cũng như là nhiệm vụ và giai cấp lãnh đạo
cách mạng.
CHƯƠNG 2: LÝ LUẬN C.MÁC VỀ ĐẤU TRANH GIAI CẤP
2.1. Định nghĩa về đấu tranh giai cấp
Đấu tranh giai cấp một khái niệm trong thuyết Marx về hội, phản
ánh mối quan hệ đối lập giữa hai giai cấp chính trong hội loài người: giai cấp
sản giai cấp công nhân. Theo Karl Marx, mỗi một giai cấp đều có quyền
lợi và mục đích riêng biệt, do đó mối quan hệ giữa chúng tạo ra sự mâu thuẫn căn
bản trong xã hội.
Giai cấp tư sản (Bourgeoisie):những người sử dụng các phương tiện sản xuất
như nhà máy, công xưởng, đất đai vốn. Giai cấp bản hướng đến mục đích gia
tăng lợi nhuận và củng cố địa vị của họ trong xã hội.
Giai cấp công nhân (Proletariat): những người lao động trong các nhà
máy, phân xưởng, và cung ứng lao động. Giai cấp này phải bán lao động của
mình mới có thu nhập và tồn tại.
Đấu tranh giai cấp là sự mâu thuẫn giữa quyền lợi và mục tiêu của hai giai cấp
này. Theo Marx, giai cấp công nhân bị áp bức bởi giai cấp sản trong một loạt
các phương thức sản xuất không công bằng. Đấu tranh giai cấp không chỉ diễn ra
mức nhân giữa giai cấp tư sản và công nhân, còn mức hội với mục
tiêu biến đổi xã hội từ chế độ nô lệ sang xã hội chủ nghĩa. Trong quá trình đấu tranh,
Marx tin rằng giai cấp công nhân sẽ nhận thức được tình trạng của mình và cuối cùng
sẽ tự giải phóng, tạo ra một xã hội không còn sự phân biệt giai cấp. Điều này thường
được kỳ vọng xảy ra thông qua một cuộc cách mạng xã hội.
2.2. Nguồn gốc đấu tranh giai cấp
Nguồn gốc của đấu tranh giai cấp xuất phát từ triết học chính trị và kinh tế của
Karl Marx Friedrich Engels, những nhà triết học nhà khoa học hội người
Đức. Ông Marx Engels đã phát triển học thuyết về đấu tranh giai cấp vào
khoảng cuối thế kỷ 19, chủ yếu thông qua các tác phẩm như "Chủ nghĩa Cộng sản"
(The Communist Manifesto) và "Ma-nơ-can thần duyên" (Das Kapital).
Ở thời này , thế kỷ 19, hội Châu Âu đang trải qua các biến động
lớn dẫn đến sự chuyển dịch từ nền nông nghiệp sang nền công nghiệp, tạo ra sự phân
hoá của giai cấp sản giai cấp công nhân. Marx Engels nghiên cứu sâu
sắc về sự biến động xã hội đã rút ra kết luận rằng lịch sử hội lịch sử của sự đấu
tranh.
Theo quan điểm của họ, đấu tranh giai cấp không chỉ một hiện tượng tạm
thời mà là một lực động lịch sử ảnh hưởng đến sự thay đổi của xã hội. Họ nhấn mạnh
mối quan hệ giữa quyền sở hữu phương tiện sản xuất, đảm bảo rằng đấu tranh
giữa giai cấp tư sản và giai cấp công nhân sẽ đưa đến sự thay đổi căn bản của xã hội.
Đấu tranh giai cấp được xem là một phần quan trọng của lịch sử hội
một trong những nền tảng quan trọng của thuyết Marx. Ý tưởng về đấu tranh giai
cấp đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến các phong trào hội chính trị trên toàn thế giới,
đặc biệt là trong cuộc cách mạng công nghiệp và phong trào xã hội chủ nghĩa.
2.3. Tính tất yếu và thực chất của đấu tranh giai cấp
Đấu tranh giai cấp là tất yếu, do sự đối lập về lợi ích căn bản không thể điều
hoà được giữa các giai cấp.
6
Từ trước đến nay, khi bắt đầu tồn tại hình thái kinh tế hội chiếm hữu lệ
đến khi xuất những hình thái kinh tếhội hiện đại hơn như hình thái kinh tế xã hội
tư bản chủ nghĩa, giai cấp lao động tầng lớp luôn chịu thiệt thòi bị kìm hãm về
mọi mặt. Do đó, đấu tranh cũng như là xung đột về lợi ích giữa hai giai cấp là không
thể nào tránh khỏi.
Tính tất yếu của giai cấp xuất hiện từ sự đối kháng về lợi ích cơ bản của những
kẻ áp bức và những người bị áp bức. Giai cấp thống trị chiếm thiểu số nhưng lại nắm
trong tay nhiều quyền lực, nhiều tư liệu sản xuất của xã hội. Ngược lại, giai cấp bị trị
tuy nhiều đại diện cho lực lượng sản xuất tiên tiến, song lại không quyền nắm
trong tay liệu sản xuất. Cả hai giai cấp ấy luôn đối kháng nhau tạo nên một mẫu
thuẫn tồn tại sâu sắc trong xã hội lúc bấy giờ.
6
Giáo trình triết học Mác-Lênin (Dành cho bậc đại học hệ không chuyên lý luận chính trị), trang 343
Thực chất của đấu tranh giai cấp là cuộc đấu tranh của quần chúng lao động bị
áp bức, bóc lột chống lại giai cấp áp bức, bóc lột nhằm lật đổ ách thống trị của
chúng.
7
Giai cấp thống trị nắm trong tay nhiều sở hạ tầng, chi phối được quan hệ
thống trị lẫn quan hệ sở hữu, không chỉ vậyhọ còn dùng những đặc quyền chính
trị của mình để đàn áp hoạt động, tinh thần của giai cấp bị trị. Từ đó dẫn đến việc
cách mạng xã hội ra đời, bắt đầu cho công cuộc lật đổ ách thống trị của những kẻ bóc
lột. Trong lịch sử cũng đã từng nhiều cuộc cách mạng như cách mạng Tháng
Mười Nga, Cách mạng Tháng Tám,... Góp phần khích lệ tinh thần cũng như ý chí
đấu tranh của tầng lớp lao động.
2.4. Vai trò của đấu tranh giai cấp trong sự phát triển của xã hội có giai cấp
Trong xã hội có giai cấp, đấu tranh giai cấp vẫn luôn là động lực quan trọng và
trực tiếp trong lịch sử. Vai trò của đấu tranh giai cấp luôn được C.Mác
Ph.Ăngghen nhấn mạnh coi đó động lực trực tiếp của lịch sử: Trong gần 40
năm chúng ta đưa lên hàng đầu cuộc đấu tranh giai cấp, coi đó là động lực trực tiếp
của lịch sử đặc biệt cuộc đấu tranh giai cấp giữa giai cấp sản, giai cấp
vô sản với tính cách là đòn bẩy mạnh mẽ của cuộc cách mạng xã hội ngày nay”
8
Thông qua việc đấu tranh giai cấp, các quan hệ sản xuất được xoá bỏ, tạo
động lực để thúc đẩy sự phát triển của của lịch sử xã hội, chuyển từ hình thái kinh tế
- xã hội thấp lên hình thái kinh tế -hội cao hơn, tiến bộ hơn. Do đó, việc nói lịch
sử hội lịch sử của đấu tranh giai cấp hợp lý. Khi đấu tranh giai cấp đạt tới
đỉnh cao sẽ dẫn đến cách mạng xã hội, “ tạo địa bàn ” cho cách mạng xã hội nổ ra và
giành thắng lợi giúp hình thành các quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất được xác lập.
Tuy đấu tranh giai cấp động lực phát triển của hội, nhưng lại không
phải là động lực sâu xa duy nhất,vậy cần phải xác định hệ thống của động lực
của xã hội kèm theo sử dụng những động lực ấy một cách tài tình để giải phóng giai
cấp và thúc đẩy xã hội phát triển.
7
Giáo trình triết học Mác-Lênin (Dành cho bậc đại học hệ không chuyên lý luận chính trị), trang 344
8
C.Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđđ, t.34, trang 564
Trong những thời kì tiến hoá xã hội, đấu tranh giai cấp thường xuyên tác động
thúc đẩy sự phát triển về mọi mặt của đời giống hội. Theo như thực tiễn, sự
phát triển văn hoá, kinh tế cũng như hoạt động của chính trị, tưởng,.. đều mang
dấu ấn của đâu tranh giai cấp.
Bên cạnh việc cải tạo xã hội, đấu tranh giai cấp còn cải tạo giai cấp các mạng,
hướng các giai cấp ấy đến với sự trưởng thành về mọi mặt nhằm đáp ứng được yêu
cầu của lịch sử. Do vai trò quy rộng lớn đến thế nên đấu tranh giai cấp được
xem như là “đòn bẩy vĩ đại nhất” trong lịch sử xã hội có giai cấp.
CHƯƠNG 3: TRÁCH NHIỆM CỦA SINH VIÊN TRONG SỰ NGHIỆP XÂY
DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC
3.1. Nhận thức đúng đắn trong việc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Trước tình hình hội đang ngày càng phát triển, tiến bộ vượt bậc. Sinh
viên là lực lượng nòng cốt tiềm năng của đất nước trong công cuộc xây dựng
bảo vệ tổ quốc. Sinh viên cần nhận thức đúng đắn về vai trò, trách nhiệm
tình yêu quê hương, đất nước. Để m được điều đó, sinh viên cần vận dụng kiến
thức triết học vào thực tiễn để cái nhìn toàn diện, sâu sắc phản biện về c
vấn đề xã hội, lịch sử và văn hóa.
Sinh viên tầng lớp trí thức trẻ, nguồn lực quan trọng đ xây dựng
bảo vệ tổ quốc, nên cần được cũng cvững chắc kiến thức nhận thức đúng đắn,
ng về trách nhiệm nghĩa vụ của bản thân đối với đất nước trong hoàn cảnh
hiện nay.
Theoo cáo của Bộ Giáo dục Đào tạo, sốợng sinh viên tốt nghiệp đại
học và cao đẳng tăng nhanh (từ 162.000 năm 2010 lên 318.000 năm 2020). Tuy
nhiên, t lệ sinh viên việc làm sau khi tốt nghiệp lại thấp, chỉ khoảng 70%.
Những điều y đã chứng tỏ được rằng trong giai đoạn đất ớc đang phát triển
như hiện tại, bên cạnh những bề nổi thì vẫn còn đó những góc khuất của hội
chẳng hạn như tính cạnh tranh gay gắt của thị trường, áp lực của hội. Bên cạnh
đó, sinh viên cũng phải thích ng với s thay đổi nhanh chóng của hội, khoa
học công nghệ, để không b lạc hậu bỏ lỡ hội. Hơn nữa, sinh viên ng
phải nhận thức v các vấn đề hội, an ninh quốc tế, n biến đổi k hậu,
dịch bệnh, chủ nghĩa dân tộc, xung đột lãnh thổ, v.v. Những vấn đề này đều ảnh
hưởng đến sự phát triển và bảo vệ của đất nước, đòi hỏi sinh viên phải tinh thần
trách nhiệm và tình yêu quê hương, đất nước.
Triết học là một khoa học nghiên cứu v những vấn đề bản, chung
cuối cùng của thế giới, con người tư duy, có c dụng rất lớn trong việc hình
thành và phát triển nhận thức của sinh viên.
3.2. Tích cực trong học tập, rèn luyện thân thể
Sinh viên là đội ngũ tri thức chuẩn bị những kiến thức cho hành trình xây
dựng bảo vtổ quốc. Trách nhiệm của sinh viên trong việc xây dựng bảo vệ
tổ quốc rất lớn. Để hoàn thành tốt nhiệm vụ này, sinh viên cần phải tích cực học
tập. Học tập khả năng chuyênn để trang bị cho mình đẩy đủ kiến thức biến kiến
thức thành hành trang đem theo bên mình đến với chiến trường. Ngoài ra, sinh viên
còn cẩn phải rèn luyện thể chất để được một sức khotốt. Có sức khoẻ tốt ta
thể lúc nào cũng trong thế sẵn sàng chiến đấu, tham gia đóp góp công sức của
mình vào ng cuộc y dựng bảo vệ tổ quốc. n cạnh đó sinh viên còn cần
phải biết tự rèn luyện học thêm những kỹ ng mềm để đáp ứng đầy đủ tất cả
các nhu cầu cần thiết trong cuộc sống nói riêng công cuộc xây dựng tổ quốci
chung.
3.3. Toàn dân đoàn kết, tích cực xây dựng và phát triển nền văn hoá dân tộc
Để xây dựng được một đất nước vững mạnh, vai trò của toàn dân, toàn quân
rất quan trọng. Từ năm 2000, Đảng Nhà nước ta đã phát động phong trào
“Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá” với mục đích xây dựng một hội
lành mạnh, một môi trường sống sạch đẹp an toàn cùng đời sống văn hoá. Sinh
viên chúng ta cần c gắng phát huy phong trào ấy nhằm tạo chuyển biến tích cực
trong việc phát triển nền văn hoá Việt Nam, xây dựng bản sắc dân tộc đậm đà.
Bên cạnh đó còn phải tích cực trong việc giữ gìn truyền thống lâu đời của ông
cha ta, đồng thời lên án những hủ tục lạc hậu gây ảnh hưởng đến quyền công dân như
tảo hôn, tục bắt vợ...Mang nền văn hoá nước nhà sang thế giới để mọi người thể
hiểu rõ cũng như yêu thích những văn hoá truyền thống của Việt Nam.
3.4. Bảo vệ an ninh, tuyên truyền chống tệ nạn xã hội
An ninh khái niệm để diễn tả ranh giới của sự hòa bình, không xung đột
giữa nhà nước, nhân dân với các thế lực chống phá đến từ trong nước và ngoài nước.
và khi ranh giới đó trở nên mong manh thì việc bảo vệ an ninh được đặt lên hàng đầu.
Bảo vệ an ninh còn đi kèm với bảo vệ tổ quốc trong đó sẽ bao gồm:
- Bảo vệ an ninh chính trị nội bộ: là các hoạt động bảo vệ chế độ chính trị và
Nhà nước. Giữ gìn sự trong sạch, vững mạnh về mọi mặt của tổ chức Đảng,
Nhà nước.... Phòng ngừa, phát hiện ngăn chặn, đấu tranh làm thất bại mọi
âm mưu nh động chống phá hệ thống chính trị, gây chia rẽ mất đoàn
kết…
- Bảo vệ an ninh kinh tế: bảo vệ sự ổn định, phát triển vững mạnh của nền
kinh tế thị trường nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Bảo vệ an ninh văn hoá, tư tưởngbảo vệ sự đúng đắn vai trò chủ đạo của
chủ nghĩa Mac-Lenin, tưởng Hồ Chí Minh trong đời sống tinh thần
hội, bảo vệ những giá trị đạo đức truyền thống, giữ gìn bản sắc văn hoá dân
tộc, bảo vệ đội ngũ văn nghệ sĩ, những người làm công tác văn hoá, văn
nghệ. Đấu tranh chống lại sự công kích, bôi nhọ, nói xấu của các thế lực thù
địch đối với chủ nghĩa Mac-Lenin tưởng Hồ Chí Minh. Lên án, ngăn
chặn các hoạt động truyền văn hoá phẩm phản động, đồi trụỵ, thiếu lành
mạnh, không phù hợp với thuần phong mĩ tục của dân tộc Việt Nam.
- Bảo vệ an ninh dân tộc:
+ Đầu tiên ta phải hiểu dân tộc cộng đồng chính trị - hội, được hình
thành do sự tập hợp của nhiều tộc người trình độ phát triển kinh tế -
hội khác nhau cùng sống chung trên một lãnh thổ nhất định và được quản lí,
thống nhất bởi một nhà nước.
+ Vậy nên ta cần bảo vệ quyền bình đẳng giữa các dân tộc, đảm bảo cho tất
cả các dân tộc anh em trong đại gia đình cácn tộc Việt Nam cùng phát
triển theo đúng Hiến pháp, pháp luật của nhà nước.
- Bảo vệ an ninh tôn giáo là
+ Trước hết đảm bảo chính sách tự do tín ngưỡng tôn giáo của Đảng
Nhà nước đối với nhân dân
+ Cuối cùng, điều tiên quyết nhất là kiên quyết đấu tranh với các đối tượng,
thế lực lợi dụng tôn giáo để trục lợi, kích động, bạo loạn chống phá cách
mạng
- Bảo vệ an ninh biên giới bảo vệ an ninh, trật tự của Tổ quốc khu vực
biên giới cả trên đất liền biển, ngăn chặn các hành vi xâm phạm chủ
quyền biên giới từ phía nước ngoài
- Bảo vệ an ninh thông tin công tác bảo vệ an ninh quốc gia nhằm phòng
ngừa, đấu tranh có hiệu quả với âm mưu, hoạt động của các thế lực thù địch,
bọn tội phạm khác nhằm khai thác sử dụng hệ thống thông tin liên lạc gây
thiệt hại cho an ninh quốc gia của nước
Tệ nạn hội một trong những vấn đề nhức nhối, ảnh hưởng đến nhiều
nhân trong xã hội. Để đề phòng tệ nạn xã hội đang diễn ra hết sức phức tạp, việc làm
cấp thiết nhất cần tuyên truyền để nâng cao nhận thức cho người dân, đặc biệt
người dân vùng dân tộc thiểu số ít điều kiện được tiếp xúc với các phương tiện
truyền thông đại chúng.
3.5. Cảnh giác trước những âm mưu chia rẽ
Âm chia rẽ đại đoàn kết xuất phát từ hai yếu tố khách quan và chủ quan.
Để nói về yếu tố khách quan thì nguyên nhân cấp thiết nhất là mạng xã hội, nó
giống như một dao 2 lưỡi khi sự tiện ích mang lại về nhiều mặt nhưng đồng
thời cũng một không gian hợp để lan truyền các bài báo tính phản động.
Chính vì thế mỗi người dân đều cần cảnh giác trước mọi thông tin tràn lan, chưa
được xác thực.
Về mặt chủ quan thì yếu tố quan trọng nhất chính là ý thức của mỗi người trong
chúng ta. Mỗi người dân cần hiểu rằng nội dung ta vừa tìm hiểu phù hợp
hay không để có thể chọn lọc thông tin một cách sáng suốt.
PHẦN 3: KẾT LUẬN
Giai cấp đấu tranh giai cấp vẫn luôn vấn đề mang sức ảnh hưởng
lớn đối với thế giới nói riêng và Việt Nam nói chung. Mọi giai cấp dù có ý thức
được hay không thì địa vị kinh tế - xã hội của họ đã được “lắp đặt” sẵn, có thể
thấy rằng dưới sự bóc lột của giai cấp thống trị thì việc nổi dậy đấu tranh của
giai cấp bị trị là không vô lý. C.Mác cũng từng đặt ra câu hỏi: “Có thể thủ tiêu
chế độ hữu bằng biện pháp hoà bình được không?”, thể được, nhưng
cũng có thể không. Biện pháp hoà bình chỉ thể thực hiện khi và chỉ khi giai
cấp thống trị đồng ý ngừng việc đàn áp giai cấp bị trị.
Có thể khẳng định rằng việc nhận thức đúng về giai cấp và đấu tranh giai
cấp rất quan trọng, đó chính sở để chúng ta nâng cao tinh thần cảnh
giác cách mạng cũng như khẳng định lập trình của mình để làm thất bại
những âm mưu xâm lược của kẻ ttrên mọi mặt trận. C.Mác Ph.Ăngghen
đã nhấn mạnh rằng đấu tranh giai cấp chính động lực trực tiếp của lịch sử.
So với thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa hội thì cuộc đấu tranh giai cấp trong
ngày nay có những điểm mới về cơ cấu, tính chất cũng như là vị trí của các giai
cấp trong hội. Hiện nay, Đảng nhà nước ta đề cao mục tiêu độc lập dân
tộc, dân chủ, tiến bộ trên mọi lĩnh vực.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
| 1/17

Preview text:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP. HCM
TIỂU LUẬN CUỐI KỲ
MÔN: TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN ĐỀ TÀI
LÝ LUẬN C. MÁC VỀ GIAI CẤP VÀ ĐẤU TRANH GIAI CẤP. LIÊN HỆ
TRÁCH NHIỆM CỦA SINH VIÊN TRONG SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG VÀ BẢO
VỆ TỔ QUỐC Ở NƯỚC TA TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
MÃ MÔN HỌC & MÃ LỚP: 231LLCT130105
NHÓM THỰC HIỆN: 01. Thứ 7 - tiết: 10-12
GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN: TS. Nguyễn Văn Thiên
Tp. Hồ Chí Minh, tháng ... năm ...
DANH SÁCH NHÓM THAM GIA VIẾT TIỂU LUẬN
HỌC KỲ ..., NĂM HỌC: 20... – 20...
Nhóm 01. Thứ 7 tiết 10-12 Tên đề tài TỈ LỆ % MÃ SỐ STT
HỌ VÀ TÊN SINH VIÊN HOÀN SĐT SINH VIÊN THÀNH 1 Phạm Quốc An 23104001 2 Lê Đức Anh 23104002 3 Nguyễn Minh Anh 23163001 4 Ngô Văn Bảo 23104004 5 Trần Lê Gia Bảo 23104005 6 Nguyễn Đăng Bách 23104006 7 Trần Ngọc Bảo Châu 23163002 8 Nguyễn Viên Thành Công 23104007 Ghi chú: - Tỉ lệ % = 100%
- Trưởng nhóm: Trần Ngọc Bảo Châu Nhận xét của giáo viên Ngày...tháng...năm... Giáo viên chấm điểm MỤC LỤC
MỤC LỤC............................................................................................................3
PHẦN 1: MỞ ĐẦU..............................................................................................4
1. Lý do chọn đề tài..........................................................................................4
PHẦN 2: NỘI DUNG..........................................................................................7
1.1. Định nghĩa về giai cấp...............................................................................7
1.3. Kết cấu xã hội – giai cấp...........................................................................9
2.1. Định nghĩa về đấu tranh giai cấp...........................................................10
2.2. Nguồn gốc đấu tranh giai cấp................................................................10
2.3. Tính tất yếu và thực chất của đấu tranh giai cấp.................................11
2.4. Vai trò của đấu tranh giai cấp trong sự phát triển của xã hội có giai
cấp....................................................................................................................12
3.1. Nhận thức đúng đắn trong việc xây dựng và bảo vệ Tổ......................13
3.2. Tích cực trong học tập, rèn luyện thân thể...........................................14
3.3. Toàn dân đoàn kết, tích cực xây dựng và phát triển nền văn hoá dân
tộc.....................................................................................................................14
3.4. Bảo vệ an ninh, tuyên truyền chống tệ nạn xã hội...............................14
3.5. Cảnh giác trước những âm mưu chia rẽ...............................................16
PHẦN 3: KẾT LUẬN.......................................................................................17
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................18
PHẦN 1: MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong xã hội luôn tồn tại các tầng lớp, giai cấp khác nhau, khác biệt về chức
năng xã hội và mức sống, từ đó dẫn đến sự xung đột, đối lập và mâu thuẫn giữa các
giai cấp với nhau. Sự xung đột giữa các giai cấp sẽ dẫn đến việc đấu tranh giai cấp
trong xã hội. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến đấu tranh giữa các giai cấp, đầu tiên
và không thể không đề cập đến nguồn gốc của đấu tranh giai cấp. Đấu tranh giai cấp
xuất phát từ nghiên cứu của Mác- Lênin khi nghiên cứu về xã hội là “con người hiện
thực”, tức là không chung chung, không trừu tượng mà đó là người đang sống trong
một đất nước, một dân tộc, một thời đại nhất định nào đó. Những thuộc tính, tính chất
cơ bản của một cơ thể sống là muốn sống được, tồn tại được thì phải có thức ăn, nước
uống, quần áo, nhà ở… Đây là những nhu cầu đầu tiên và tối thiểu đối với một con
người để họ có thể sống, tồn tại và muốn có những thứ mà bắt buộc con người phải
lao động mới có được. Chính vì thế, trong xã hội nguyên thủy (còn được gọi là thời
kì đồ đá), khi có những người chưa tạo ra được những thiết bị, dụng cụ, sản phẩm để
có thể sống, tồn tại, thì cũng có tồn tại một số những con người có thể làm ra nhiều
dụng cụ, thiết bị, sản phẩm hơn vì có những thiết bị, dụng cụ hiện đại hơn như những
vật dụng làm từ sắt hay công cụ lao động mới, vì thế nên mới có hiện tượng phân
chia về giai cấp. Xã hội khi đó được chia thành hai giai cấp chính là chủ nô và nô lệ.
Tiếp theo đó là tính tất yếu của đấu tranh giai cấp. Theo C. Mác, trong xã hội
có giai cấp, giai cấp thống trị chiếm đoạt lao động của các giai cấp, tầng lớp bị trị.
Đặc biệt giai cấp và tầng lớp bị trị luôn bị áp bức, bóc lột rất nhiều. Giai cấp thống trị
bao giờ cũng dùng mọi cách để bảo vệ địa vị, vị thế của họ. Chính vì thế mới phát
sinh ra tính khách quan đó là lợi ích giai cấp không phải do ý thức của giai cấp quy
định mà là do địa vị kinh tế - xã hội quyết định. Để từ đó, giai cấp thống trị luôn duy
trì và củng cố chế độ kinh tế - xã hội bằng cách bóc lột sức lao động của các giai cấp,
tầng lớp bị trị. Đây cũng là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến sự đấu tranh giữa các giai
cấp. Đồng thời, khi nhìn sâu hơn nữa, ta có thể nhận thấy những nguyên nhân sâu xa
dẫn đến sự đấu tranh giữa các giai cấp. Theo C. Mác, đấu tranh giai cấp là các mâu
thuẫn giữa trình độ phát triển của các lực lượng sản xuất giữa các tầng lớp, giai cấp
khác nhau. Nếu đấu tranh giai cấp mà đỉnh cao nhất của nó chỉ là cách mạng xã hội
chỉ có thể nổ ra trên cơ sở là lực lượng sản xuất phát triển đến mức không thể giải
quyết với quan hệ sản xuất đã lỗi thời.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Thể hiện rõ được quan điểm của Mác – Lênin về vấn đề đấu tranh giai cấp và
làm rõ vấn đề về đấu tranh giai cấp ở Việt Nam hiện nay cùng với phương hướng
giải quyết đấu tranh giữa các giai cấp. Thêm vào đó, thời gian gần đây có những
hiện tượng xuyên tạc về vấn đề giai cấp và đấu tranh giữa các giai cấp giữa các
nước khác trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Khi nói đến Việt Nam, có
nhiều ý kiến cho rằng đấu tranh giai cấp của Việt Nam là lạc hậu, không phù hợp, đi
ngược lại xu thế của thời đại. Do vậy, có thể nói việc nâng cao nhận thức khoa học
của người dân về đấu tranh giai cấp là rất quan trọng, góp phần chống lại những thế
lực thù địch, quan điểm sai trái, bảo vệ chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh về nền tư tưởng là việc làm rất thiết thực và cần phải có trong xã hội hiện nay.
Đặc biệt là đối với thế hệ sinh viên trên mảnh đất Việt Nam tươi đẹp.
3. Phương pháp nghiên cứu
Để tìm hiểu và trình bày chủ đề này, chúng em đã kết hợp nhiều phương pháp
nghiên cứu để nâng cao hiệu quả như quan sát thực tiễn, tổng hợp và phân tích dữ
liệu, chọn lọc thông tin để có thể đưa ra một cái nhìn chính xác, một nhận xét, đánh
giá hợp lý. Kết hợp với việc nghiên cứu tài liệu từ những nguồn tài liệu chính thống
để có thể hiểu rõ hơn về vấn đề giai cấp và đấu tranh giai cấp, đồng thời nêu được
trách nhiệm của sinh viên ngày nay trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ tổ quốc.
PHẦN 2: NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN C.MÁC VỀ GIAI CẤP
1.1. Định nghĩa về giai cấp
Trong lịch sử giai cấp đã xuất hiện từ lâu trong quá trình hình thành và phát
triển của con người. Song, dù nhận được sự tồn tại của giai cấp nhưng do hạn chế về
nhiều khía cạnh đặc biệt là về mặt nhận thức của con người nên họ đã không thể nào
lý giải về “hiện tượng phức tạp này trước đây”. Những thứ mà họ dựng lên được gọi
là định nghĩa cho “giai cấp” về thức chất nó chỉ là cái cớ để họ tránh đụng đến các
vấn đề như về sở hữu tư liệu sản xuất, âm mưu xóa mờ sự khác biệt giữa giai cấp và
đối kháng giai cấp bảo vệ quyền lợi cho giai cấp thống trị.
Các Mác nghiên cứu về giai cấp và tiếp cận đến nó một cách khoa học khi ông
lấy hình thái kinh tế - xã hội làm cơ sở và nhận ra rằng nó là tất yếu trong quá trình
hình thành và phát triển kinh tế- xã hội. Kế thừa và phát triển ý tưởng của C.Mác và
Ph.Angghen, V.I.Lenin đã chỉ ra đặc trưng cơ bản của giai cấp :
Giai cấp được V.I.Lenin định nghĩa cơ bản như sau: “Giai cấp là những
tập đoàn người có địa vị kinh tế - xã hội nhất định trong lịch sử.” 1
Và trong tập đoàn người ấy, mỗi cá nhân nắm giữ một địa vị kinh tế khác nhau
và được quy định kể từ khi sinh ra. Địa vị kinh tế trong xã hội quy định mỗi cá nhân
thuộc giai cấp thống trị hay bị thống trị. Trong hệ thống sản xuất trong xã hội thường
tồn tại phương thức sản xuất thống trị, phương thức sản xuất tàn dư và phương thức sản xuất mầm mống.
“ Thực chất của quan hệ giai cấp là tập đoàn người này chiếm đoạt lao động
của tập đoàn người khác do đối lập về địa vị trong chế độ kinh tế - xã hội ”2
Trong xã hội, quan hệ sở hữu thường được nhà nước thể chế hóa thành luật
pháp, được bảo vệ bằng một hệ thống kiến trúc thượng tầng chính trị - pháp lý. Giai
cấp thống trị nắm quyền kinh tế lẫn các lĩnh khác trong xã hội. Từ những bất công ấy
hình thành nên các mâu thuẫn giai cấp gay gắt trải dài theo bề dày của lịch sử. Sự
1 Giáo trình triết học Mác-Lênin (Dành cho bậc đại học hệ không chuyên lý luận chính trị), trang 332
2 Giáo trình triết học Mác-Lênin (Dành cho bậc đại học hệ không chuyên lý luận chính trị), trang 335
mâu thuẫn giữa các giai cấp đã vì sự khác biệt về lợi ích đã hình thành và gắn liền
với xã hội loài người từ khi loài người hình thành và bắt đầu có nhận thức.
Định nghĩa giai cấp của Lenin cho thấy, giai cấp là một phạm trù kinh tế- xã
hội có tính lịch sử, sự tồn tại của nó gắn liền với hệ thống sản xuất xã hội dựa trên cơ
sở chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất.3
Định nghĩa giai cấp của Lenin mang bản chất cách mạng, khoa học, có giá trị
to lớn về lý luận thực tiễn, góp phần giải phóng cho giai cấp vô sản mang đến những
lý luận khoa học, đầy tính thuyết phục cho giai cấp vô sản, giúp cho giai cấp bị thống
trị thoát khỏi sự nô dịch từ giai cấp thống trị trong xã hội cũ.
1.2. Nguồn gốc giai cấp
Trong những thời kì đầu và thời kì giữa của xã hội nguyên thủy, sản xuất chưa
phát triển, các tộc người còn làm chung và hưởng chung, và lúc bấy giờ vẫn chưa
xuất hiện sự phân chia giai cấp nhưng đến cuối thời kì nguyên thủy, con người biết
sản xuất và sử dụng công cụ bằng kim loại để tạo ra của cải và hình thành của dư. Sự
xuất hiện “của dư” là nguyên nhân chính dẫn đến phân công lao động xã hội phát
triển. Bấy giờ sản xuất theo công động không còn phù hợp và đổi thành sản xuất theo
hộ gia đình. Các gia đình có tài sản riêng ngày một nhiều. Lúc bấy giờ các người có
chức, có quyền trong bộ lạc lợi dụng chiếm đoạt của cải của công xã làm của riêng.
Xã hội lúc bấy giờ đã từng bước đi sang thời kì mới, xã hội từng bước phân hóa
thành các tập đoàn người có sự đối lập về địa vị kinh tế- xã hội
Nguyên nhân sâu xa của sự xuất hiện giai cấp là: sự phát triển của lực
lượng sản xuất làm cho năng xuất lao động tăng lên, xuất hiện “của dư”, tạo khả năng
khách quan, tiền để cho tập đoàn của người này chiếm đoạt thành quả lao động của người khác.4
Nguyên nhân trực tiếp: do sự xuất hiện chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất dẫn
đến sự tồn tại của giai cấp. Giai cấp chỉ mất khi chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất bị xoá bỏ hoàn toàn.
3 Giáo trình triết học Mác-Lênin (Dành cho bậc đại học hệ không chuyên lý luận chính trị), trang 336
4 Giáo trình triết học Mác-Lênin (Dành cho bậc đại học hệ không chuyên lý luận chính trị), trang 339
+ Chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất là cơ sở trực tiếp của sự hình thành các
giai cấp. Và chừng nào, ở đâu còn tồn tại chế độ tự hữu về tư liệu sản xuất thì ở đó còn
có sự tồn tại của các giai cấp và đấu tranh giai cấp.
+ Giai cấp bị mất đi khi chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất hoàn toàn bị xoá bỏ
Theo các nhà kinh điển mácxit, con đường hình thành giai cấp rất phức tạp:
Những người có chức, có quyền lợi dụng quyền lực để chiếm đoạt tài sản công làm
của riêng; tù binh bắt được trong chiến tranh được sử dụng làm nô lệ để sản xuất; các
tầng lớp xã hội tự do trao đổi, bị phân hoá thành các giai cấp khác nhau...Từ xã hội
cộng sản nguyên thuỷ sang chế độ chiếm hữu nô lệ là cả một bước quá độ lâu dài từ
chế độ công hữu sang chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất; từ chưa có giai cấp sang có
giai cấp. Điều kiện góp phần đẩy nhanh quá trình phân hoá giai cấp là các cuộc chiến
tranh, những thủ đoạn cướp bóc, những hành vi bạo lực trong xã hội... Xã hội cộng
sản nguyên thuỷ tan rã, xã hội chiếm hữu nô lệ là xã hội có giai cấp đầu tiên trong
lịch sử ra đời, xuất hiện khoảng 3 - 5 nghìn năm trước.
1.3. Kết cấu xã hội – giai cấp
Kết cấu xã hội - giai cấp là tổng thể các giai cấp và mối quan hệ giữa các giai
cấp, tồn tại trong một giai đoạn lịch sử nhất định. Kết cấu xã hội - giai cấp trước hết
do trình độ phát triển của phương thức sản xuất xã hội quy định.5
Kết cấu xã hội – giai cấp gồm hai giai cấp cơ bản và những giai cấp không cơ
bản, bên cạnh đó còn các tầng lớp xã hội trung gian.
Trong xã hội chiếm hữu nô lệ, giai cấp cơ bản là giai cấp chủ nô và nô lệ,
trong xã hội phong kiến là địa chủ và nông dân, giai cấp tư sản và vô sản trong xã hội
tư bản chủ nghĩa. Đó là những giai cấp cơ bản gắn liền với phương thức sản xuất
thống trị, đồng thời là những sản phẩm của phương thức sản xuất thống trị. Những
giai cấp không cơ bản gắn liền với phương thức sản xuất tàn dư hoặc mầm mống trong xã hội.
Trong quá trình phát triển của lịch sử, các giai cấp cơ bản và không cơ bản có
thể chuyển hoá và thay thế nhau. Kết cấu xã hội – giai cấp luôn vận động và phát
triển không ngừng, sự phát triển của nó có ý nghĩa cực kì quan trọng trong lý luận và
thực tiễn đối với điều kiện như hiện nay. Giúp xác dịnh đúng mâu thuẫn cơ bản chủ
5 Giáo trình triết học Mác-Lênin (Dành cho bậc đại học hệ không chuyên lý luận chính trị), trang 340
yếu của xã hội, nhận thức đúng địa vị cũng như là vai trò của các cơ sở chính đảng.
Từ đó xác định đúng đối tượng, lực lượng cũng như là nhiệm vụ và giai cấp lãnh đạo cách mạng.
CHƯƠNG 2: LÝ LUẬN C.MÁC VỀ ĐẤU TRANH GIAI CẤP
2.1. Định nghĩa về đấu tranh giai cấp
Đấu tranh giai cấp là một khái niệm trong lý thuyết Marx về xã hội, phản
ánh mối quan hệ đối lập giữa hai giai cấp chính trong xã hội loài người: giai cấp tư
sản và giai cấp công nhân. Theo Karl Marx, mỗi một giai cấp đều có quyền
lợi và mục đích riêng biệt, do đó mối quan hệ giữa chúng tạo ra sự mâu thuẫn căn bản trong xã hội.
Giai cấp tư sản (Bourgeoisie): Là những người sử dụng các phương tiện sản xuất
như nhà máy, công xưởng, đất đai và vốn. Giai cấp tư bản hướng đến mục đích gia
tăng lợi nhuận và củng cố địa vị của họ trong xã hội.
Giai cấp công nhân (Proletariat): Là những người lao động trong các nhà
máy, phân xưởng, và cung ứng lao động. Giai cấp này phải bán lao động của
mình mới có thu nhập và tồn tại.
Đấu tranh giai cấp là sự mâu thuẫn giữa quyền lợi và mục tiêu của hai giai cấp
này. Theo Marx, giai cấp công nhân bị áp bức bởi giai cấp tư sản trong một loạt
các phương thức sản xuất không công bằng. Đấu tranh giai cấp không chỉ diễn ra ở
mức cá nhân giữa giai cấp tư sản và công nhân, mà còn ở mức xã hội với mục
tiêu biến đổi xã hội từ chế độ nô lệ sang xã hội chủ nghĩa. Trong quá trình đấu tranh,
Marx tin rằng giai cấp công nhân sẽ nhận thức được tình trạng của mình và cuối cùng
sẽ tự giải phóng, tạo ra một xã hội không còn sự phân biệt giai cấp. Điều này thường
được kỳ vọng xảy ra thông qua một cuộc cách mạng xã hội.
2.2. Nguồn gốc đấu tranh giai cấp
Nguồn gốc của đấu tranh giai cấp xuất phát từ triết học chính trị và kinh tế của
Karl Marx và Friedrich Engels, những nhà triết học và nhà khoa học xã hội người
Đức. Ông Marx và Engels đã phát triển học thuyết về đấu tranh giai cấp vào
khoảng cuối thế kỷ 19, chủ yếu thông qua các tác phẩm như "Chủ nghĩa Cộng sản"
(The Communist Manifesto) và "Ma-nơ-can thần duyên" (Das Kapital).
Ở thời kì này , thế kỷ 19, xã hội Châu Âu đang trải qua các biến động
lớn dẫn đến sự chuyển dịch từ nền nông nghiệp sang nền công nghiệp, tạo ra sự phân
hoá của giai cấp tư sản và giai cấp công nhân. Marx và Engels nghiên cứu sâu
sắc về sự biến động xã hội đã rút ra kết luận rằng lịch sử xã hội là lịch sử của sự đấu tranh.
Theo quan điểm của họ, đấu tranh giai cấp không chỉ là một hiện tượng tạm
thời mà là một lực động lịch sử ảnh hưởng đến sự thay đổi của xã hội. Họ nhấn mạnh
mối quan hệ giữa quyền sở hữu phương tiện sản xuất, và đảm bảo rằng đấu tranh
giữa giai cấp tư sản và giai cấp công nhân sẽ đưa đến sự thay đổi căn bản của xã hội.
Đấu tranh giai cấp được xem là một phần quan trọng của lịch sử xã hội và là
một trong những nền tảng quan trọng của lý thuyết Marx. Ý tưởng về đấu tranh giai
cấp đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến các phong trào xã hội và chính trị trên toàn thế giới,
đặc biệt là trong cuộc cách mạng công nghiệp và phong trào xã hội chủ nghĩa.
2.3. Tính tất yếu và thực chất của đấu tranh giai cấp
Đấu tranh giai cấp là tất yếu, do sự đối lập về lợi ích căn bản không thể điều
hoà được giữa các giai cấp. 6
Từ trước đến nay, khi bắt đầu tồn tại hình thái kinh tế xã hội chiếm hữu nô lệ
đến khi xuất những hình thái kinh tế xã hội hiện đại hơn như hình thái kinh tế xã hội
tư bản chủ nghĩa, giai cấp lao động là tầng lớp luôn chịu thiệt thòi và bị kìm hãm về
mọi mặt. Do đó, đấu tranh cũng như là xung đột về lợi ích giữa hai giai cấp là không thể nào tránh khỏi.
Tính tất yếu của giai cấp xuất hiện từ sự đối kháng về lợi ích cơ bản của những
kẻ áp bức và những người bị áp bức. Giai cấp thống trị chiếm thiểu số nhưng lại nắm
trong tay nhiều quyền lực, nhiều tư liệu sản xuất của xã hội. Ngược lại, giai cấp bị trị
tuy nhiều và đại diện cho lực lượng sản xuất tiên tiến, song lại không có quyền nắm
trong tay tư liệu sản xuất. Cả hai giai cấp ấy luôn đối kháng nhau tạo nên một mẫu
thuẫn tồn tại sâu sắc trong xã hội lúc bấy giờ.
6 Giáo trình triết học Mác-Lênin (Dành cho bậc đại học hệ không chuyên lý luận chính trị), trang 343
Thực chất của đấu tranh giai cấp là cuộc đấu tranh của quần chúng lao động bị
áp bức, bóc lột chống lại giai cấp áp bức, bóc lột nhằm lật đổ ách thống trị của chúng.7
Giai cấp thống trị nắm trong tay nhiều cơ sở hạ tầng, chi phối được quan hệ
thống trị lẫn quan hệ sở hữu, không chỉ vậy mà họ còn dùng những đặc quyền chính
trị của mình để đàn áp hoạt động, tinh thần của giai cấp bị trị. Từ đó dẫn đến việc
cách mạng xã hội ra đời, bắt đầu cho công cuộc lật đổ ách thống trị của những kẻ bóc
lột. Trong lịch sử cũng đã từng có nhiều cuộc cách mạng như cách mạng Tháng
Mười Nga, Cách mạng Tháng Tám,... Góp phần khích lệ tinh thần cũng như ý chí
đấu tranh của tầng lớp lao động.
2.4. Vai trò của đấu tranh giai cấp trong sự phát triển của xã hội có giai cấp
Trong xã hội có giai cấp, đấu tranh giai cấp vẫn luôn là động lực quan trọng và
trực tiếp trong lịch sử. Vai trò của đấu tranh giai cấp luôn được C.Mác và
Ph.Ăngghen nhấn mạnh và coi đó là động lực trực tiếp của lịch sử: “Trong gần 40
năm chúng ta đưa lên hàng đầu cuộc đấu tranh giai cấp, coi đó là động lực trực tiếp
của lịch sử và đặc biệt là cuộc đấu tranh giai cấp giữa giai cấp tư sản, và giai cấp
vô sản với tính cách là đòn bẩy mạnh mẽ của cuộc cách mạng xã hội ngày nay” 8
Thông qua việc đấu tranh giai cấp, các quan hệ sản xuất cũ được xoá bỏ, tạo
động lực để thúc đẩy sự phát triển của của lịch sử xã hội, chuyển từ hình thái kinh tế
- xã hội thấp lên hình thái kinh tế - xã hội cao hơn, tiến bộ hơn. Do đó, việc nói lịch
sử xã hội là lịch sử của đấu tranh giai cấp là hợp lý. Khi đấu tranh giai cấp đạt tới
đỉnh cao sẽ dẫn đến cách mạng xã hội, “ tạo địa bàn ” cho cách mạng xã hội nổ ra và
giành thắng lợi giúp hình thành các quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất được xác lập.
Tuy đấu tranh giai cấp là động lực phát triển của xã hội, nhưng nó lại không
phải là động lực sâu xa và duy nhất, vì vậy cần phải xác định hệ thống của động lực
của xã hội kèm theo sử dụng những động lực ấy một cách tài tình để giải phóng giai
cấp và thúc đẩy xã hội phát triển.
7 Giáo trình triết học Mác-Lênin (Dành cho bậc đại học hệ không chuyên lý luận chính trị), trang 344
8 C.Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđđ, t.34, trang 564
Trong những thời kì tiến hoá xã hội, đấu tranh giai cấp thường xuyên tác động
và thúc đẩy sự phát triển về mọi mặt của đời giống xã hội. Theo như thực tiễn, sự
phát triển văn hoá, kinh tế cũng như hoạt động của chính trị, tư tưởng,.. đều mang
dấu ấn của đâu tranh giai cấp.
Bên cạnh việc cải tạo xã hội, đấu tranh giai cấp còn cải tạo giai cấp các mạng,
hướng các giai cấp ấy đến với sự trưởng thành về mọi mặt nhằm đáp ứng được yêu
cầu của lịch sử. Do vai trò và quy mô rộng lớn đến thế nên đấu tranh giai cấp được
xem như là “đòn bẩy vĩ đại nhất” trong lịch sử xã hội có giai cấp.
CHƯƠNG 3: TRÁCH NHIỆM CỦA SINH VIÊN TRONG SỰ NGHIỆP XÂY
DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC
3.1. Nhận thức đúng đắn trong việc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Trước tình hình xã hội đang ngày càng phát triển, tiến bộ vượt bậc. Sinh
viên là lực lượng nòng cốt và là tiềm năng của đất nước trong công cuộc xây dựng
và bảo vệ tổ quốc. Sinh viên cần có nhận thức đúng đắn về vai trò, trách nhiệm và
tình yêu quê hương, đất nước. Để làm được điều đó, sinh viên cần vận dụng kiến
thức triết học vào thực tiễn để có cái nhìn toàn diện, sâu sắc và phản biện về các
vấn đề xã hội, lịch sử và văn hóa.
Sinh viên là tầng lớp trí thức trẻ, là nguồn lực quan trọng để xây dựng và
bảo vệ tổ quốc, nên cần được cũng cố vững chắc kiến thức và nhận thức đúng đắn,
rõ ràng về trách nhiệm và nghĩa vụ của bản thân đối với đất nước trong hoàn cảnh hiện nay.
Theo báo cáo của Bộ Giáo dục và Đào tạo, số lượng sinh viên tốt nghiệp đại
học và cao đẳng tăng nhanh (từ 162.000 năm 2010 lên 318.000 năm 2020). Tuy
nhiên, tỷ lệ sinh viên có việc làm sau khi tốt nghiệp lại thấp, chỉ khoảng 70%.
Những điều này đã chứng tỏ được rằng trong giai đoạn đất nước đang phát triển
như hiện tại, bên cạnh những bề nổi thì vẫn còn đó những góc khuất của xã hội
chẳng hạn như tính cạnh tranh gay gắt của thị trường, áp lực của xã hội. Bên cạnh
đó, sinh viên cũng phải thích ứng với sự thay đổi nhanh chóng của xã hội, khoa
học và công nghệ, để không bị lạc hậu và bỏ lỡ cơ hội. Hơn nữa, sinh viên cũng
phải có nhận thức về các vấn đề xã hội, an ninh và quốc tế, như biến đổi khí hậu,
dịch bệnh, chủ nghĩa dân tộc, xung đột lãnh thổ, v.v. Những vấn đề này đều ảnh
hưởng đến sự phát triển và bảo vệ của đất nước, đòi hỏi sinh viên phải có tinh thần
trách nhiệm và tình yêu quê hương, đất nước.
Triết học là một khoa học nghiên cứu về những vấn đề cơ bản, chung và
cuối cùng của thế giới, con người và tư duy, có tác dụng rất lớn trong việc hình
thành và phát triển nhận thức của sinh viên.
3.2. Tích cực trong học tập, rèn luyện thân thể
Sinh viên là đội ngũ tri thức chuẩn bị những kiến thức cho hành trình xây
dựng và bảo vệ tổ quốc. Trách nhiệm của sinh viên trong việc xây dựng và bảo vệ
tổ quốc rất lớn. Để hoàn thành tốt nhiệm vụ này, sinh viên cần phải tích cực học
tập. Học tập khả năng chuyên môn để trang bị cho mình đẩy đủ kiến thức biến kiến
thức thành hành trang đem theo bên mình đến với chiến trường. Ngoài ra, sinh viên
còn cẩn phải rèn luyện thể chất để có được một sức khoẻ tốt. Có sức khoẻ tốt ta có
thể lúc nào cũng trong tư thế sẵn sàng chiến đấu, tham gia đóp góp công sức của
mình vào công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Bên cạnh đó sinh viên còn cần
phải biết tự rèn luyện và học thêm những kỹ năng mềm để đáp ứng đầy đủ tất cả
các nhu cầu cần thiết trong cuộc sống nói riêng và công cuộc xây dựng tổ quốc nói chung.
3.3. Toàn dân đoàn kết, tích cực xây dựng và phát triển nền văn hoá dân tộc
Để xây dựng được một đất nước vững mạnh, vai trò của toàn dân, toàn quân
là rất quan trọng. Từ năm 2000, Đảng và Nhà nước ta đã phát động phong trào
“Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá” với mục đích xây dựng một xã hội
lành mạnh, một môi trường sống sạch – đẹp – an toàn cùng đời sống văn hoá. Sinh
viên chúng ta cần cố gắng phát huy phong trào ấy nhằm tạo chuyển biến tích cực
trong việc phát triển nền văn hoá Việt Nam, xây dựng bản sắc dân tộc đậm đà.
Bên cạnh đó còn phải tích cực trong việc giữ gìn truyền thống lâu đời của ông
cha ta, đồng thời lên án những hủ tục lạc hậu gây ảnh hưởng đến quyền công dân như
tảo hôn, tục bắt vợ...Mang nền văn hoá nước nhà sang thế giới để mọi người có thể
hiểu rõ cũng như yêu thích những văn hoá truyền thống của Việt Nam.
3.4. Bảo vệ an ninh, tuyên truyền chống tệ nạn xã hội
An ninh là khái niệm để diễn tả ranh giới của sự hòa bình, không xung đột
giữa nhà nước, nhân dân với các thế lực chống phá đến từ trong nước và ngoài nước.
và khi ranh giới đó trở nên mong manh thì việc bảo vệ an ninh được đặt lên hàng đầu.
Bảo vệ an ninh còn đi kèm với bảo vệ tổ quốc trong đó sẽ bao gồm: -
Bảo vệ an ninh chính trị nội bộ: là các hoạt động bảo vệ chế độ chính trị và
Nhà nước. Giữ gìn sự trong sạch, vững mạnh về mọi mặt của tổ chức Đảng,
Nhà nước.... Phòng ngừa, phát hiện ngăn chặn, đấu tranh làm thất bại mọi
âm mưu và hành động chống phá hệ thống chính trị, gây chia rẽ mất đoàn kết…
- Bảo vệ an ninh kinh tế: là bảo vệ sự ổn định, phát triển vững mạnh của nền
kinh tế thị trường nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Bảo vệ an ninh văn hoá, tư tưởng là bảo vệ sự đúng đắn vai trò chủ đạo của
chủ nghĩa Mac-Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong đời sống tinh thần xã
hội, bảo vệ những giá trị đạo đức truyền thống, giữ gìn bản sắc văn hoá dân
tộc, bảo vệ đội ngũ văn nghệ sĩ, những người làm công tác văn hoá, văn
nghệ. Đấu tranh chống lại sự công kích, bôi nhọ, nói xấu của các thế lực thù
địch đối với chủ nghĩa Mac-Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Lên án, ngăn
chặn các hoạt động truyền bá văn hoá phẩm phản động, đồi trụỵ, thiếu lành
mạnh, không phù hợp với thuần phong mĩ tục của dân tộc Việt Nam.
- Bảo vệ an ninh dân tộc:
+ Đầu tiên ta phải hiểu dân tộc là cộng đồng chính trị - xã hội, được hình
thành do sự tập hợp của nhiều tộc người có trình độ phát triển kinh tế - xã
hội khác nhau cùng sống chung trên một lãnh thổ nhất định và được quản lí,
thống nhất bởi một nhà nước.
+ Vậy nên ta cần bảo vệ quyền bình đẳng giữa các dân tộc, đảm bảo cho tất
cả các dân tộc anh em trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam cùng phát
triển theo đúng Hiến pháp, pháp luật của nhà nước.
- Bảo vệ an ninh tôn giáo là
+ Trước hết là đảm bảo chính sách tự do tín ngưỡng tôn giáo của Đảng và
Nhà nước đối với nhân dân
+ Cuối cùng, điều tiên quyết nhất là kiên quyết đấu tranh với các đối tượng,
thế lực lợi dụng tôn giáo để trục lợi, kích động, bạo loạn chống phá cách mạng
- Bảo vệ an ninh biên giới là bảo vệ an ninh, trật tự của Tổ quốc ở khu vực
biên giới cả trên đất liền và biển, ngăn chặn các hành vi xâm phạm chủ
quyền biên giới từ phía nước ngoài
- Bảo vệ an ninh thông tin công tác bảo vệ an ninh quốc gia nhằm phòng
ngừa, đấu tranh có hiệu quả với âm mưu, hoạt động của các thế lực thù địch,
bọn tội phạm khác nhằm khai thác sử dụng hệ thống thông tin liên lạc gây
thiệt hại cho an ninh quốc gia của nước
Tệ nạn xã hội là một trong những vấn đề nhức nhối, ảnh hưởng đến nhiều cá
nhân trong xã hội. Để đề phòng tệ nạn xã hội đang diễn ra hết sức phức tạp, việc làm
cấp thiết nhất là cần tuyên truyền để nâng cao nhận thức cho người dân, đặc biệt là
người dân vùng dân tộc thiểu số có ít điều kiện được tiếp xúc với các phương tiện
truyền thông đại chúng.
3.5. Cảnh giác trước những âm mưu chia rẽ
Âm chia rẽ đại đoàn kết xuất phát từ hai yếu tố khách quan và chủ quan.
Để nói về yếu tố khách quan thì nguyên nhân cấp thiết nhất là mạng xã hội, nó
giống như một dao 2 lưỡi khi sự tiện ích mà nó mang lại về nhiều mặt nhưng đồng
thời nó cũng là một không gian hợp lý để lan truyền các bài báo có tính phản động.
Chính vì thế mà mỗi người dân đều cần cảnh giác trước mọi thông tin tràn lan, chưa được xác thực.
Về mặt chủ quan thì yếu tố quan trọng nhất chính là ý thức của mỗi người trong
chúng ta. Mỗi người dân cần hiểu rõ rằng nội dung mà ta vừa tìm hiểu có phù hợp
hay không để có thể chọn lọc thông tin một cách sáng suốt. PHẦN 3: KẾT LUẬN
Giai cấp và đấu tranh giai cấp vẫn luôn là vấn đề mang sức ảnh hưởng
lớn đối với thế giới nói riêng và Việt Nam nói chung. Mọi giai cấp dù có ý thức
được hay không thì địa vị kinh tế - xã hội của họ đã được “lắp đặt” sẵn, có thể
thấy rằng dưới sự bóc lột của giai cấp thống trị thì việc nổi dậy đấu tranh của
giai cấp bị trị là không vô lý. C.Mác cũng từng đặt ra câu hỏi: “Có thể thủ tiêu
chế độ tư hữu bằng biện pháp hoà bình được không?”, có thể được, nhưng
cũng có thể không. Biện pháp hoà bình chỉ có thể thực hiện khi và chỉ khi giai
cấp thống trị đồng ý ngừng việc đàn áp giai cấp bị trị.
Có thể khẳng định rằng việc nhận thức đúng về giai cấp và đấu tranh giai
cấp là rất quan trọng, đó chính là cơ sở để chúng ta nâng cao tinh thần cảnh
giác cách mạng cũng như là khẳng định rõ lập trình của mình để làm thất bại
những âm mưu xâm lược của kẻ thù trên mọi mặt trận. C.Mác và Ph.Ăngghen
đã nhấn mạnh rằng đấu tranh giai cấp chính là động lực trực tiếp của lịch sử.
So với thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội thì cuộc đấu tranh giai cấp trong
ngày nay có những điểm mới về cơ cấu, tính chất cũng như là vị trí của các giai
cấp trong xã hội. Hiện nay, Đảng và nhà nước ta đề cao mục tiêu độc lập dân
tộc, dân chủ, tiến bộ trên mọi lĩnh vực. TÀI LIỆU THAM KHẢO