lOMoARcPSD| 61256830
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
BÀI TẬP LỚN
Học phần: Kinh tế chính trị Mác-Lênin
Đề tài: Lý luận của Các Mác về hàng hoá sức lao động.
Thực trạng và giải pháp để phát triển thị trường nước ta
hiện nay
Họ và tên: Dương Thị Hải Yến
Mã sinh viên: 11227055
Lớp học phần: Quản trị marketing 64A
Giáo viên hướng dẫn: Tiến sĩ Nguyễn Thị Hào
lOMoARcPSD| 61256830
MỤC LỤC
lOMoARcPSD| 61256830
LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Nguồn lao động là tài sản quý giá và to lớn đối với mộ t quốc gia, đó vừa là tiền đề,
vừa là động lực và là mục tiêu để thự chiện chiến lược phát triển kinh tế xã hội của
đất nước. Quan tâm đến nguồn lao động tức quan tâm đến mọi mặt vấn đề liên
quan đến người lao động, từ đó bộc lộ bản chất, tính ưu việt của chế độ. Trên cơ sở
của chủ nghĩa Mác – Lênin về hàng hóa sức lao động cùng với thực trạng thị trường
sức lao động của nước ta hiện nay thì việc hoàn thiện thị trường sức lao động không
chỉ mang tính kinh tế mà còn mang ý nghĩa chính trị, là một vấn đề cấp thiết. Trong
những năm vừa qua nền kinh tế nước ta đang dần dần chuyển từ nền kinh tế tập trung
sang nền kinh tế thị trường, nhiều thị trường khắp cả nước đã từng bước được hình
thành phát triển, nhưng trình độ phát triển còn thấp so với các nước sự phát
triển của các thị trường đó còn thiếu đồng bộ. Một trong số những thị trường được
hình thành đó là thị trường sức lao động (hay còn gọi là thị trường lao động).
Vậy hàng hóa sức lao động gì ? Chúng những đặc điểm, vai trò và giá trị ra sao
đối với nền kinh tế ? Thị trường hàng hóa sức lao động tại Việt Nam hiện nay diễn
ra như thế nào? Để hiểu rõ hơn vấn đề này, em lựa chọn nghiên cứu đề tài: “ Lí luận
của chủ nghĩa Mác -Lênin về hàng hóa sức lao động liên hệ với thực tế tại Việt
Nam.
NỘI DUNG
I. Lý luận chung
1. Sức lao động và điều kiện để sức lao động trở thành hoá
1.1 Sức lao động là gì?
Lý luận và thực tiễn đã chứng minh sản xuất chính là động lực phát triển của xã hội
loại người. Lao động sản xuất quá trình kết hợp của ba yếu tố: sức lao động, đối
tượng lao động và tư liệu lao động; trong đó, sức lao động là yếu tố quyết định. Nói
về sức lao động của con người, Các Mác đưa ra định nghĩa :”Sức lao động hay năng
lực lao động toàn bộ những năng lực thể chất tinh thần tồn tại trong thể,
trong một con người đang sống, được người đó đem ra vận dụng mỗi khi sản xuất
ra một giá trị sử dụng nào đó.”
Từ khái niệm của Các Mác về sức lao động, ta hiểu rằng sức lao động toàn bộ
năng lực về trí tuệ và thể chất được con người vận dụng trong quá trình lao động để
tạo ra giá trị nào đó.
1.2 Điều kiện để sức lao động trở thành hàng hoá
lOMoARcPSD| 61256830
Trong hội nào, sức lao động cũng điều kiện bản của quá trình sản xuất,
yếu tố đầu vào để tạo ra mọi hàng hoá và dịch vụ cho xã hội. Vậy liệu giá trị của mọi
sức lao động thể trực tiếp đo được như khi ta sử dụng tiền làm thước đo chung
cho giá trị của mọi loại hàng hoá hay không?. Nói cách khác, liệu mọi sức lao động
đều thể coi là hàng hoá để ta sử dụng thước đo chung kia không? Theo Các Mác,
sức lao động chỉ có thể trở thành hàng hoá khi thoả mãn đủ cả hai điều kiện sau
đây.
Một là, người lao động được tự do về thân thể, làm chủ được sức lao động ca mình
quyền bán sức lao động của mình như một loại hàng hoá đặc biệt. Hiểu đơn
giản là mọi loại hình thức mà bạn “làm công ăn lương” cho ông chủ, công ty, doanh
nghiệp,… của bạn chính việc bạn đang tdo bán hàng hoá thuộc quyền sở hữu
của bản thân trên thị trường, loại hàng hoá đó sức lao động bạn tạo ra. Điều
này khác với sức lao động của người nô lệ trong thời kì chế độ chiếm hữu lệ. Nô
lệ thuộc sở hữu của chủ nô nên họ không có quyền quyết định đối với sức lao động
họ tạo ra, do đó sức lao động của lkhông được coi hàng hoá. Sự khác biệt,
hay nói cách khác sự thay đổi tiến bộ này được do con người đã thủ tiêu
được chế độ chiếm hữu lệ những chế độ tương tự. Tuy nhiên, việc chúng ta
bán hàng hoá sức lao động của mình trên thị trường cũng bị ràng buộc bởi những
quy định nhất định dưới squản lí và bảo vệ của luật pháp để đảm bảo hàng hoá sức
lao động mà chúng ta bán ra được trả một cái giá tương xứng.
Hai là, người lao động không có tư liệu sản xuất và tư liệu sinh hoạt, hoặc có nhưng
không đầy đủ, họ buộc phải bán sức lao động để sống, để tồn tại. Quá trình sản xuất
có một vòng lặp cơ bản: sử dụng công cụ lao động, tác động vào tư liệu sản xuất để
tạo ra hàng hoá rồi mang ng hoá đó bán ra thị trường. Hàng hoá sức lao động được
sinh ra từ việc rút gọn bước nào đó trong chu trình trên, khi mà hàng hoá cuối cùng
mà người lao động sản xuất ra không phải là một dạng vật chất hay giá trị tinh thần
cụ thể là cả quá trình tiêu thụ thời gian vận động thể chất tinh thần. Một
người thợ làm giày dùng vốn của mình để nhập nguyên liệu về, sản xuất ra thành
phẩm và mang đi bán thì sức lao động của anh ta không được coi là hàng hoá.
1.3 Thuộc tính của hàng hoá sức lao động
Khi lao động trở thành hàng hoá, sức lao động cũng có hai thuộc tính: giá trị và giá
trị sử dụng.
1.3.1 Giá trị hàng hoá sức lao động
lOMoARcPSD| 61256830
Giá trị của hàng hoá sức lao động được đo bằng thời gian lao động hội cần thiết
để sản xuất tái sản xuất ra sức lao động. Các Mác chỉ rõ: “Giá trị của sức lao động
là giá trị của những tư liệu sinh hoạt cần thiết để duy trì cuộc sống ca con người có
sức lao động ấy”. Hiểu nôm na để sản xuất ra cái bánh cần một số nguyên liệu
như bột mì, trứng, sữa,… thì để sản xuất ra sức lao động, con người cũng cần ăn,
ngủ, nghỉ, giải trí,…; tức đã tiêu thụ một số lượng liệu sinh hoạt vật chất (lương
thực, thực phẩm, quần áo,..) liệu sinh hoạt tinh thần ( học tập, giải trí, đọc sách,
nghe nhạc,..). vậy giá trị của hàng hoá sức lao động đã bao hàm cả giá trị của
lượng liệu sinh hoạt cần thiết để người lao động duy trì cuộc sống trạng thái
bình thường.
liệu sinh hoạt tinh thần con người tiêu thụ trong quá trình lao động thể hiện
yếu tố tinh thần của giá trị hàng hoá sức lao động. Ngoài ra, giá trị sức lao động còn
khác với giá trị hàng hoá thông thường ở chỗ nó còn bao hàm cả yếu tố lịch sử. Dễ
thấy, số lượng và cơ cấu các tư liệu sinh hoạt có sự khác nhaucùng đa dạng giữa
những khu vực khác nhau, giữa những đất nước khác nhau, tuỳ thuộc vào hoàn cảnh
lịch scủa từng nước, từng thời kì, tuỳ thuộc vào điều kiện địa hay trình độ văn
minh đã đạt được,…
1.3.2 Giá trị sử dụng ca hàng hoá sức lao động
Giá trị sử dụng của hàng hsức lao động cũng chỉ thể hiện ra trong quá trình tiêu
dùng sức lao động, tức trong quá trình người lao động tiến hành sản xuất. Giá trị
sử dụng của hàng hoá sức lao động có tính chất đặc biệt. Một là, khi tiêu dùng hàng
hoá sức lao động sẽ tạo ra một giá trị mới lớn hơn gtrị của nó. Phần lớn hơn đó
chính là giá trị thặng dư. Hàng hoá sức lao động có thuộc tính là nguồn gốc sinh ra
giá trị. Nó là chìa khoá để giải quyết công thức chung của tư bản.
II. Liên hệ
THỊ TRƯỜNG HÀNG HOÁ SỨC LAO ĐỘNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1. Thực trạng thị trường hàng hoá sức lao động của Việt Nam hiện nay 1.1
Tình hình cung cầu của hàng hoá sức lao động trong thị trường lao động của
Việt Nam hiện nay
Sau gần 3 năm chịu ảnh hưởng nặng nề khi phải nhiều lần đóng quan tocảng nền
kinh tế bởi đại dịch Covid-19, cho đến nay, nhìn chung thị trường lao động Việt Nam
nói chung thị trường lao động nói riêng năm 2022 đang từng bước phục hồi. Theo
lOMoARcPSD| 61256830
thông cáo báo chí tình hình lao động việc làm Quý IV năm 2022 của Tổng cục thống
kê Việt Nam, lao động từ 15 tuổi trở lên việc làm trong quý IV năm 2022 51
triệu người, (chiếm 93% tổng số lao động trên 15 tuổi), tăng 239,4 nghìn người so
với quý trước và tăng gần 2,0 triệu người so với cùng kỳ năm trước.
Tính đến hết quý III năm nay, thị trường lao động tiếp tục duy trì đà phục hồi và
nhiều mặt khởi sắc. Với đà phục hồi đó, dự báo tình hình lao động việc làm quý IV
cả năm 2022 sẽ bức tranh nhiều mảng sáng. Tuy nhiên, thực tế cho thấy
trong bối cảnh kinh tế thế giới suy giảm, lạm phát cao…, nhiều đơn hàng bị cắt giảm,
đặc biệt các ngành dệt may, da giày, chế biến gỗ, điện tử vào thời điểm cuối năm
thì đà phục hồi của thị trường lao động đang có xu hướng chậm lại. Cụ thể, s người
thiếu việc làm trong độ tuổi quý IV năm 2022 khoảng 898,2 nghìn người, tăng
26,5 nghìn người so với quý trước giảm 566,0 nghìn người so với cùng kỳ năm
trước.
2. Những hn chế trong tình hình thị trường hàng hoá sức lao động của Việt Nam.
Trước tốc độ phát triển nhanh chóng của công nghệ hiện nay, nhiều nhà nghiên cứu
đã nhiều lần tỏ ra quan ngại về khả năng phá vỡ thị trường lao động của Cuộc cách
mạng công nghiệp lần thứ 4, khi tự động hoá có thể thay thế con người hầu hết các
lĩnh vực. Điều này buộc chúng ta phải nhanh chóng giải quyết vấn đvề nâng cao
chất lượng lao động của thị trường trong nước. Lực lượng lao động đã qua đào tạo
từ trình độ “Sơ cấp” trở lên năm 2022 ước tính 13,5 triệu người, chiếm 26,2%.
Trong khi đó, tỷ lệ lao động qua đào tạo bằng, chứng chỉ quý IV năm 2022
chiếm 26,4%, chỉ tăng 0,1 điểm phần trăm so với năm trước.
Song song với bài toán nâng cao chất lượng lao động, chúng ta cũng luôn phải gồng
mình đối mặt với bài toán chảy máu chất xám trong nhiều năm qua. Rõ ràng những
chính sách hiện tại chưa phát huy được hiệu quả rệt trong việc “giữ chân” lượng
hàng hoá sức lao động chất lượng. Nguyên do chủ yếu đó đất nước còn gặp
nhiều khó khăn về kinh tế sau một thời gian dài phải khắc phục hậu quả sau chiến
tranh, dẫn đến chế độ tiền công còn bất hợp lý.
Thị trường lao động Việt Nam khả năng cung ứng số lượng hàng hsức lao động
lớn nhưng chưa sự phân bổ phợp khả năng chuyển đổi cao sang khu vực
công nghiệp để xúc tiến kế hoạch công nghiệp hoá hiện đại hoá nền kinh tế đất nước.
Cụ thể, tính chung cả năm 2022, lao động trong khu vực công nghiệp xây dựng
17,0 triệu người (chiếm 33,6%), khu vực dịch vụ được ghi nhận sự tăng lên
mạnh và đạt 19,7 triệu người (chiếm 38,9%), lao đng làm việc trong khu vực nông,
lOMoARcPSD| 61256830
lâm nghiệp và thuỷ sản đạt mức 13,9 triệu người, (chiếm 27,5%). Với mục tiêu đặt
ra trong Nghị quyết số 01/NQ-CP của Chính phủ: Về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu
thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội và Dự toán ngân sách nhà nước năm
2022, trong đó đặt ra mục tiêu giảm tỷ trọng lao đng trong nông nghiệp trong tổng
số lao động xã hội 27,5% thì mục tiêu này đạt. (Theo Tổng cục thống Việt
Nam). Tuy nhiên, vấn đề cải thiện chất lượng lao động chưa hiệu quả sẽ hạn chế tốc
độ chuyển dịch lao động chất lượng sang khu vực nông nghiệp, khiến nền kinh tế
đất nước khó bắt kịp tiến độ với tốc độ phát triển của nền kinh tế thế giới.
2. Giải pháp phát triển thị trường hàng hoá sức lao động ở nước ta 2.1 Giải
pháp về phát triển nguồn cu lao động:
Thứ nhất, giải quyết vấn đề việc làm cho người lao động. Đây được xem vấn đề
cấp thiết, nóng bỏng đặt ra cho Đảng, Nhà nước ta.
Thứ hai, nhanh chóng sắp xếp lại các doanh nghiệp Nhà nước theo hướng cổ phần
hóa, tập trung đầu tư theo chiều sâu, hiện đại hóa thiết bị công nghệ, tạo môi trường
cạnh tranh lành mạnh để phát triển và thu hút lao đng.
Thứ ba, thực hiện các chính sách nhằm thúc đẩy sphát triển kinh tế. Chuyển dịch
mạnh cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo hướng sản xuất hàng hóa, phát
triển các ngành nghề phi nông nghiệp, đẩy mạnh dịch vụ. Đặc biệt,chú trọng phát
triển mạnh quan hệ kinh tế với nước ngoài bằng nhiều hình thức để tạo nguồn xuất
khẩu lao động tại chỗ, tăng đầu khai thác, mở rộng xuất khẩu lao động sang các
khu vực, thị trường truyền thống một số thị trường mới; khai thác, sdụng
hiệu quả các nguồn vốn tạo việc làm, ưu tiên vốn vay cho các doanh nghiệp thu hút,
sử dụng nhiều lao động.
2.2. Giải pháp về hoàn thiện chính sách tiền công, tiền lương:
Để đảm bảo cuộc sống cho người lao động, đáp ứng nhu cầu sinh hoạt, tạo điều kiện
để người lao động phát huy hết khả năng của mình, thị trường lao động Việt Nam
nên áp dụng những giải pháp sau: Tăng lương tối thiểu cho người lao động; cần thêm
những động thái tích cực nhằm kích cầu tiêu dùng; tăng khoảng cách giữa các bậc
liền kề trong bảng lương; hoàn thiện chính sách tiền lương, tiền công theo hướng thị
trường; cần chế độ, chính sách vtiền lương phụ cấp đối với cán bộ, công chức
cơ sở cho phù hợp sự phát triển kinh tế thị trường; cần quy định các nguyên tắc xây
dựng thang lương, bảng lương để người lao động người sử dụng lao động
sở xác định tiền lương, đồng thời tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra để đảm bảo
lOMoARcPSD| 61256830
quyền lợi của người lao động; tăng cường sự quản lý và giám sát của Nhà nước đối
với thị trường sức lao động; tạo cung lao động đáp ứng thị trường về số lượng, chất
lượng và cơ cấu ngành nghề, đặc biệt là tỷ lệ lao động đã qua đào tạo.
2.3. Giải pháp về xây dựng môi trường pháp lý, nâng cao năng lực cạnh tranh,
vai trò quản lý của Nhà nước:
Thứ nhất, hoàn thiện môi trường pháp lý, gắn cải cách tiền lương với cải cách kinh
tế, tạo sgắn kết đồng bộ giữa các loại thị trường để thúc đẩy nhau phát triển lành
mạnh
Thứ hai, đầu xây dựng một trung tâm giao dịch lao động đạt tiêu chuẩn khu vực
với trang thiết bị hiện đại. Đây sẽ là đầu mối cung cấp các thông tin đầy đủ nhất về
cung cầu lao động trên thị trường. Ngoài ra, một hệ thống thông tin bao gồm hướng
nghiệp dạy nghề; dịch vụ việc làm; thống thị trường lao động… cũng sẽ được
thiết lập từ thành phố đến từng quận, huyện và xã, phường nhằm cung cấp thông tin
về việc làm nhanh chóng và chuẩn xác nhất cho người lao động.
Thứ ba, thực hiện phân bố lại dân cư và lao động giữa các vùng bằng việc mở thêm
nhiều nmáy, nghiệp, khu chế xuất…tăng cường ở những vùng kinh tế kém phát
triển hơn nhằm cân đối lại thị trường lao động đkhai thác hết tiềm năng của đất
nước.
Thứ tư, tăng cường vai trò quản của Nhà nước trong thị trường sức lao động. Theo
đó, việc tuyên truyền, phổ biến rộng rãi chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật
của Nhà nước về việc làm, đào tạo nghề các vấn đề liên quan đến thị trường lao
động sẽ được phổ biến sâu rộng tới người lao động. Công tác thanh tra, kiểm tra,
giám sát việc thực hiện các chế độ, chính sách đối với người lao động cũng được đẩy
mạnh. Tăng cường công tác quản Nhà nước về tiền lương, tiền công trên thị trường
lao động nhằm thúc đẩy các giao dịch trên cơ sở đó hình thành giá cả thị trường sức
lao động, đồng thời điều tiết giám sát tiền lương, tiền công để hạn chế tính tự phát.
Công đoàn và các tổ chức đoàn thể cần có vai trò quan trọng trong việc điều tiết thị
trường lao đng và bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho người lao động…
lOMoARcPSD| 61256830
KẾT LUẬN
Qua bài tiểu luận trên, ta thấy được tầm quan trọng của hàng hoá sức
lao động. Sự kết hợp hài hòa giữa luận về hàng hóa sức lao động của
Mác với thực tiễn thị trường sức lao động Việt Nam vừa nhiệm vụ
hàng đầu của nền kinh tế lại vừa mục tiêu quan trọng nhằm phát triển
nguồn nhân lực, nâng cao dân trí, phát triển đội ngũ trí thức, đặc biệt trí
thức tinh hoa, đủ năng lực để thực hiện chiến lược ng nghiệp a,
hiện đại hóa đất nước, đóng góp tích cực nhằm hình thành phát
triển“nền kinh tế tri thức” của Việt Nam.
lOMoARcPSD| 61256830
TÀI LIỆU THAM KHẢO
C. Mác và Ph. Ăngghen (1993), Toàn tập, tập 23, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
C. Mác và Ph. Ăngghen (2000), Toàn tập, tập 26, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
Klaus Schwab, (2014), Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4, Nxb Chính trị
Quốc Gia sự thật, Hà Nội
Tổ chức lao động quốc tế ILO, Tổng cục thống kê 2022, Báo cáo lao động phi chính
thức

Preview text:

lOMoAR cPSD| 61256830
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN BÀI TẬP LỚN
Học phần: Kinh tế chính trị Mác-Lênin
Đề tài: Lý luận của Các Mác về hàng hoá sức lao động.
Thực trạng và giải pháp để phát triển thị trường nước ta hiện nay
Họ và tên: Dương Thị Hải Yến
Mã sinh viên: 11227055
Lớp học phần: Quản trị marketing 64A
Giáo viên hướng dẫn: Tiến sĩ Nguyễn Thị Hào lOMoAR cPSD| 61256830 MỤC LỤC lOMoAR cPSD| 61256830
LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Nguồn lao động là tài sản quý giá và to lớn đối với mộ t quốc gia, đó vừa là tiền đề,
vừa là động lực và là mục tiêu để thự chiện chiến lược phát triển kinh tế xã hội của
đất nước. Quan tâm đến nguồn lao động tức là quan tâm đến mọi mặt vấn đề liên
quan đến người lao động, từ đó bộc lộ bản chất, tính ưu việt của chế độ. Trên cơ sở
của chủ nghĩa Mác – Lênin về hàng hóa sức lao động cùng với thực trạng thị trường
sức lao động của nước ta hiện nay thì việc hoàn thiện thị trường sức lao động không
chỉ mang tính kinh tế mà còn mang ý nghĩa chính trị, là một vấn đề cấp thiết. Trong
những năm vừa qua nền kinh tế nước ta đang dần dần chuyển từ nền kinh tế tập trung
sang nền kinh tế thị trường, nhiều thị trường khắp cả nước đã từng bước được hình
thành và phát triển, nhưng trình độ phát triển còn thấp so với các nước và sự phát
triển của các thị trường đó còn thiếu đồng bộ. Một trong số những thị trường được
hình thành đó là thị trường sức lao động (hay còn gọi là thị trường lao động).
Vậy hàng hóa sức lao động là gì ? Chúng có những đặc điểm, vai trò và giá trị ra sao
đối với nền kinh tế ? Thị trường hàng hóa sức lao động tại Việt Nam hiện nay diễn
ra như thế nào? Để hiểu rõ hơn vấn đề này, em lựa chọn nghiên cứu đề tài: “ Lí luận
của chủ nghĩa Mác -Lênin về hàng hóa sức lao động và liên hệ với thực tế tại Việt Nam. NỘI DUNG I. Lý luận chung
1. Sức lao động và điều kiện để sức lao động trở thành hoá
1.1 Sức lao động là gì?
Lý luận và thực tiễn đã chứng minh sản xuất chính là động lực phát triển của xã hội
loại người. Lao động sản xuất là quá trình kết hợp của ba yếu tố: sức lao động, đối
tượng lao động và tư liệu lao động; trong đó, sức lao động là yếu tố quyết định. Nói
về sức lao động của con người, Các Mác đưa ra định nghĩa :”Sức lao động hay năng
lực lao động là toàn bộ những năng lực thể chất và tinh thần tồn tại trong cơ thể,
trong một con người đang sống, và được người đó đem ra vận dụng mỗi khi sản xuất
ra một giá trị sử dụng nào đó.”
Từ khái niệm của Các Mác về sức lao động, ta hiểu rằng sức lao động là toàn bộ
năng lực về trí tuệ và thể chất được con người vận dụng trong quá trình lao động để
tạo ra giá trị nào đó.
1.2 Điều kiện để sức lao động trở thành hàng hoá lOMoAR cPSD| 61256830
Trong xã hội nào, sức lao động cũng là điều kiện cơ bản của quá trình sản xuất, là
yếu tố đầu vào để tạo ra mọi hàng hoá và dịch vụ cho xã hội. Vậy liệu giá trị của mọi
sức lao động có thể trực tiếp đo được như khi ta sử dụng tiền làm thước đo chung
cho giá trị của mọi loại hàng hoá hay không?. Nói cách khác, liệu mọi sức lao động
đều có thể coi là hàng hoá để ta sử dụng thước đo chung kia không? Theo Các Mác,
sức lao động chỉ có thể trở thành hàng hoá khi nó thoả mãn đủ cả hai điều kiện sau đây.
Một là, người lao động được tự do về thân thể, làm chủ được sức lao động của mình
và có quyền bán sức lao động của mình như một loại hàng hoá đặc biệt. Hiểu đơn
giản là mọi loại hình thức mà bạn “làm công ăn lương” cho ông chủ, công ty, doanh
nghiệp,… của bạn chính là việc bạn đang tự do bán hàng hoá thuộc quyền sở hữu
của bản thân trên thị trường, mà loại hàng hoá đó là sức lao động mà bạn tạo ra. Điều
này khác với sức lao động của người nô lệ trong thời kì chế độ chiếm hữu nô lệ. Nô
lệ thuộc sở hữu của chủ nô nên họ không có quyền quyết định đối với sức lao động
mà họ tạo ra, do đó sức lao động của nô lệ không được coi là hàng hoá. Sự khác biệt,
hay nói cách khác là sự thay đổi tiến bộ này có được là do con người đã thủ tiêu
được chế độ chiếm hữu nô lệ và những chế độ tương tự. Tuy nhiên, việc chúng ta
bán hàng hoá sức lao động của mình trên thị trường cũng bị ràng buộc bởi những
quy định nhất định dưới sự quản lí và bảo vệ của luật pháp để đảm bảo hàng hoá sức
lao động mà chúng ta bán ra được trả một cái giá tương xứng.
Hai là, người lao động không có tư liệu sản xuất và tư liệu sinh hoạt, hoặc có nhưng
không đầy đủ, họ buộc phải bán sức lao động để sống, để tồn tại. Quá trình sản xuất
có một vòng lặp cơ bản: sử dụng công cụ lao động, tác động vào tư liệu sản xuất để
tạo ra hàng hoá rồi mang hàng hoá đó bán ra thị trường. Hàng hoá sức lao động được
sinh ra từ việc rút gọn bước nào đó trong chu trình trên, khi mà hàng hoá cuối cùng
mà người lao động sản xuất ra không phải là một dạng vật chất hay giá trị tinh thần
cụ thể mà là cả quá trình tiêu thụ thời gian và vận động thể chất và tinh thần. Một
người thợ làm giày dùng vốn của mình để nhập nguyên liệu về, sản xuất ra thành
phẩm và mang đi bán thì sức lao động của anh ta không được coi là hàng hoá.
1.3 Thuộc tính của hàng hoá sức lao động
Khi lao động trở thành hàng hoá, sức lao động cũng có hai thuộc tính: giá trị và giá trị sử dụng.
1.3.1 Giá trị hàng hoá sức lao động lOMoAR cPSD| 61256830
Giá trị của hàng hoá sức lao động được đo bằng thời gian lao động xã hội cần thiết
để sản xuất và tái sản xuất ra sức lao động. Các Mác chỉ rõ: “Giá trị của sức lao động
là giá trị của những tư liệu sinh hoạt cần thiết để duy trì cuộc sống của con người có
sức lao động ấy”. Hiểu nôm na là để sản xuất ra cái bánh cần một số nguyên liệu
như bột mì, trứng, sữa,… thì để sản xuất ra sức lao động, con người cũng cần ăn,
ngủ, nghỉ, giải trí,…; tức là đã tiêu thụ một số lượng tư liệu sinh hoạt vật chất (lương
thực, thực phẩm, quần áo,..) và tư liệu sinh hoạt tinh thần ( học tập, giải trí, đọc sách,
nghe nhạc,..). Vì vậy giá trị của hàng hoá sức lao động đã bao hàm cả giá trị của
lượng tư liệu sinh hoạt cần thiết để người lao động duy trì cuộc sống ở trạng thái bình thường.
Tư liệu sinh hoạt tinh thần mà con người tiêu thụ trong quá trình lao động thể hiện
yếu tố tinh thần của giá trị hàng hoá sức lao động. Ngoài ra, giá trị sức lao động còn
khác với giá trị hàng hoá thông thường ở chỗ nó còn bao hàm cả yếu tố lịch sử. Dễ
thấy, số lượng và cơ cấu các tư liệu sinh hoạt có sự khác nhau vô cùng đa dạng giữa
những khu vực khác nhau, giữa những đất nước khác nhau, tuỳ thuộc vào hoàn cảnh
lịch sử của từng nước, từng thời kì, tuỳ thuộc vào điều kiện địa lý hay trình độ văn minh đã đạt được,…
1.3.2 Giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động
Giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động cũng chỉ thể hiện ra trong quá trình tiêu
dùng sức lao động, tức là trong quá trình người lao động tiến hành sản xuất. Giá trị
sử dụng của hàng hoá sức lao động có tính chất đặc biệt. Một là, khi tiêu dùng hàng
hoá sức lao động sẽ tạo ra một giá trị mới lớn hơn giá trị của nó. Phần lớn hơn đó
chính là giá trị thặng dư. Hàng hoá sức lao động có thuộc tính là nguồn gốc sinh ra
giá trị. Nó là chìa khoá để giải quyết công thức chung của tư bản. II. Liên hệ
THỊ TRƯỜNG HÀNG HOÁ SỨC LAO ĐỘNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1. Thực trạng thị trường hàng hoá sức lao động của Việt Nam hiện nay 1.1
Tình hình cung và cầu của hàng hoá sức lao động trong thị trường lao động của Việt Nam hiện nay
Sau gần 3 năm chịu ảnh hưởng nặng nề khi phải nhiều lần đóng quan toả cảng nền
kinh tế bởi đại dịch Covid-19, cho đến nay, nhìn chung thị trường lao động Việt Nam
nói chung và thị trường lao động nói riêng năm 2022 đang từng bước phục hồi. Theo lOMoAR cPSD| 61256830
thông cáo báo chí tình hình lao động việc làm Quý IV năm 2022 của Tổng cục thống
kê Việt Nam, lao động từ 15 tuổi trở lên có việc làm trong quý IV năm 2022 là 51
triệu người, (chiếm 93% tổng số lao động trên 15 tuổi), tăng 239,4 nghìn người so
với quý trước và tăng gần 2,0 triệu người so với cùng kỳ năm trước.
Tính đến hết quý III năm nay, thị trường lao động tiếp tục duy trì đà phục hồi và có
nhiều mặt khởi sắc. Với đà phục hồi đó, dự báo tình hình lao động việc làm quý IV
và cả năm 2022 sẽ là bức tranh có nhiều mảng sáng. Tuy nhiên, thực tế cho thấy
trong bối cảnh kinh tế thế giới suy giảm, lạm phát cao…, nhiều đơn hàng bị cắt giảm,
đặc biệt là ở các ngành dệt may, da giày, chế biến gỗ, điện tử vào thời điểm cuối năm
thì đà phục hồi của thị trường lao động đang có xu hướng chậm lại. Cụ thể, số người
thiếu việc làm trong độ tuổi quý IV năm 2022 là khoảng 898,2 nghìn người, tăng
26,5 nghìn người so với quý trước và giảm 566,0 nghìn người so với cùng kỳ năm trước.
2. Những hạn chế trong tình hình thị trường hàng hoá sức lao động của Việt Nam.
Trước tốc độ phát triển nhanh chóng của công nghệ hiện nay, nhiều nhà nghiên cứu
đã nhiều lần tỏ ra quan ngại về khả năng phá vỡ thị trường lao động của Cuộc cách
mạng công nghiệp lần thứ 4, khi tự động hoá có thể thay thế con người ở hầu hết các
lĩnh vực. Điều này buộc chúng ta phải nhanh chóng giải quyết vấn đề về nâng cao
chất lượng lao động của thị trường trong nước. Lực lượng lao động đã qua đào tạo
từ trình độ “Sơ cấp” trở lên năm 2022 ước tính là 13,5 triệu người, chiếm 26,2%.
Trong khi đó, tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng, chứng chỉ quý IV năm 2022 là
chiếm 26,4%, chỉ tăng 0,1 điểm phần trăm so với năm trước.
Song song với bài toán nâng cao chất lượng lao động, chúng ta cũng luôn phải gồng
mình đối mặt với bài toán chảy máu chất xám trong nhiều năm qua. Rõ ràng những
chính sách hiện tại chưa phát huy được hiệu quả rõ rệt trong việc “giữ chân” lượng
hàng hoá sức lao động có chất lượng. Nguyên do chủ yếu đó là đất nước còn gặp
nhiều khó khăn về kinh tế sau một thời gian dài phải khắc phục hậu quả sau chiến
tranh, dẫn đến chế độ tiền công còn bất hợp lý.
Thị trường lao động Việt Nam có khả năng cung ứng số lượng hàng hoá sức lao động
lớn nhưng chưa có sự phân bổ phù hợp và khả năng chuyển đổi cao sang khu vực
công nghiệp để xúc tiến kế hoạch công nghiệp hoá hiện đại hoá nền kinh tế đất nước.
Cụ thể, tính chung cả năm 2022, lao động trong khu vực công nghiệp và xây dựng
là 17,0 triệu người (chiếm 33,6%), khu vực dịch vụ được ghi nhận có sự tăng lên
mạnh và đạt 19,7 triệu người (chiếm 38,9%), lao động làm việc trong khu vực nông, lOMoAR cPSD| 61256830
lâm nghiệp và thuỷ sản đạt mức 13,9 triệu người, (chiếm 27,5%). Với mục tiêu đặt
ra trong Nghị quyết số 01/NQ-CP của Chính phủ: Về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu
thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội và Dự toán ngân sách nhà nước năm
2022, trong đó đặt ra mục tiêu giảm tỷ trọng lao động trong nông nghiệp trong tổng
số lao động xã hội là 27,5% thì mục tiêu này đạt. (Theo Tổng cục thống kê Việt
Nam). Tuy nhiên, vấn đề cải thiện chất lượng lao động chưa hiệu quả sẽ hạn chế tốc
độ chuyển dịch lao động chất lượng sang khu vực nông nghiệp, khiến nền kinh tế
đất nước khó bắt kịp tiến độ với tốc độ phát triển của nền kinh tế thế giới. 2.
Giải pháp phát triển thị trường hàng hoá sức lao động ở nước ta 2.1 Giải
pháp về phát triển nguồn cầu lao động:
Thứ nhất, giải quyết vấn đề việc làm cho người lao động. Đây được xem là vấn đề
cấp thiết, nóng bỏng đặt ra cho Đảng, Nhà nước ta.
Thứ hai, nhanh chóng sắp xếp lại các doanh nghiệp Nhà nước theo hướng cổ phần
hóa, tập trung đầu tư theo chiều sâu, hiện đại hóa thiết bị công nghệ, tạo môi trường
cạnh tranh lành mạnh để phát triển và thu hút lao động.
Thứ ba, thực hiện các chính sách nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế. Chuyển dịch
mạnh cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo hướng sản xuất hàng hóa, phát
triển các ngành nghề phi nông nghiệp, đẩy mạnh dịch vụ. Đặc biệt,chú trọng phát
triển mạnh quan hệ kinh tế với nước ngoài bằng nhiều hình thức để tạo nguồn xuất
khẩu lao động tại chỗ, tăng đầu tư khai thác, mở rộng xuất khẩu lao động sang các
khu vực, thị trường truyền thống và một số thị trường mới; khai thác, sử dụng có
hiệu quả các nguồn vốn tạo việc làm, ưu tiên vốn vay cho các doanh nghiệp thu hút,
sử dụng nhiều lao động.
2.2. Giải pháp về hoàn thiện chính sách tiền công, tiền lương:
Để đảm bảo cuộc sống cho người lao động, đáp ứng nhu cầu sinh hoạt, tạo điều kiện
để người lao động phát huy hết khả năng của mình, thị trường lao động Việt Nam
nên áp dụng những giải pháp sau: Tăng lương tối thiểu cho người lao động; cần thêm
những động thái tích cực nhằm kích cầu tiêu dùng; tăng khoảng cách giữa các bậc
liền kề trong bảng lương; hoàn thiện chính sách tiền lương, tiền công theo hướng thị
trường; cần có chế độ, chính sách về tiền lương và phụ cấp đối với cán bộ, công chức
cơ sở cho phù hợp sự phát triển kinh tế thị trường; cần quy định các nguyên tắc xây
dựng thang lương, bảng lương để người lao động và người sử dụng lao động có cơ
sở xác định tiền lương, đồng thời tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra để đảm bảo lOMoAR cPSD| 61256830
quyền lợi của người lao động; tăng cường sự quản lý và giám sát của Nhà nước đối
với thị trường sức lao động; tạo cung lao động đáp ứng thị trường về số lượng, chất
lượng và cơ cấu ngành nghề, đặc biệt là tỷ lệ lao động đã qua đào tạo.
2.3. Giải pháp về xây dựng môi trường pháp lý, nâng cao năng lực cạnh tranh,
vai trò quản lý của Nhà nước:
Thứ nhất, hoàn thiện môi trường pháp lý, gắn cải cách tiền lương với cải cách kinh
tế, tạo sự gắn kết đồng bộ giữa các loại thị trường để thúc đẩy nhau phát triển lành mạnh
Thứ hai, đầu tư xây dựng một trung tâm giao dịch lao động đạt tiêu chuẩn khu vực
với trang thiết bị hiện đại. Đây sẽ là đầu mối cung cấp các thông tin đầy đủ nhất về
cung – cầu lao động trên thị trường. Ngoài ra, một hệ thống thông tin bao gồm hướng
nghiệp dạy nghề; dịch vụ việc làm; thống kê thị trường lao động… cũng sẽ được
thiết lập từ thành phố đến từng quận, huyện và xã, phường nhằm cung cấp thông tin
về việc làm nhanh chóng và chuẩn xác nhất cho người lao động.
Thứ ba, thực hiện phân bố lại dân cư và lao động giữa các vùng bằng việc mở thêm
nhiều nhà máy, xí nghiệp, khu chế xuất…tăng cường ở những vùng kinh tế kém phát
triển hơn nhằm cân đối lại thị trường lao động để khai thác hết tiềm năng của đất nước.
Thứ tư, tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước trong thị trường sức lao động. Theo
đó, việc tuyên truyền, phổ biến rộng rãi chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật
của Nhà nước về việc làm, đào tạo nghề và các vấn đề liên quan đến thị trường lao
động sẽ được phổ biến sâu rộng tới người lao động. Công tác thanh tra, kiểm tra,
giám sát việc thực hiện các chế độ, chính sách đối với người lao động cũng được đẩy
mạnh. Tăng cường công tác quản lý Nhà nước về tiền lương, tiền công trên thị trường
lao động nhằm thúc đẩy các giao dịch trên cơ sở đó hình thành giá cả thị trường sức
lao động, đồng thời điều tiết giám sát tiền lương, tiền công để hạn chế tính tự phát.
Công đoàn và các tổ chức đoàn thể cần có vai trò quan trọng trong việc điều tiết thị
trường lao động và bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho người lao động… lOMoAR cPSD| 61256830 KẾT LUẬN
Qua bài tiểu luận trên, ta có thấy được tầm quan trọng của hàng hoá sức
lao động. Sự kết hợp hài hòa giữa lý luận về hàng hóa sức lao động của
Mác với thực tiễn thị trường sức lao động ở Việt Nam vừa là nhiệm vụ
hàng đầu của nền kinh tế lại vừa là mục tiêu quan trọng nhằm phát triển
nguồn nhân lực, nâng cao dân trí, phát triển đội ngũ trí thức, đặc biệt là trí
thức tinh hoa, có đủ năng lực để thực hiện chiến lược công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước, đóng góp tích cực nhằm hình thành và phát
triển“nền kinh tế tri thức” của Việt Nam. lOMoAR cPSD| 61256830 TÀI LIỆU THAM KHẢO
C. Mác và Ph. Ăngghen (1993), Toàn tập, tập 23, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
C. Mác và Ph. Ăngghen (2000), Toàn tập, tập 26, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
Klaus Schwab, (2014), Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4, Nxb Chính trị
Quốc Gia sự thật, Hà Nội
Tổ chức lao động quốc tế ILO, Tổng cục thống kê 2022, Báo cáo lao động phi chính thức