-
Thông tin
-
Quiz
Lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức- Triết học Mác Lenin| Đại học Kinh Tế Quốc Dân
Đại học Kinh tế Quốc dân với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp các bạn định hướng và họp tập dễ dàng hơn. Mời bạn đọc đón xem. Chúc bạn ôn luyện thật tốt và đạt điểm cao trong kì thi sắp tới
Triết học Mác - Lenin( LLNL 1105) 512 tài liệu
Đại học Kinh Tế Quốc Dân 3 K tài liệu
Lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức- Triết học Mác Lenin| Đại học Kinh Tế Quốc Dân
Đại học Kinh tế Quốc dân với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp các bạn định hướng và họp tập dễ dàng hơn. Mời bạn đọc đón xem. Chúc bạn ôn luyện thật tốt và đạt điểm cao trong kì thi sắp tới
Môn: Triết học Mác - Lenin( LLNL 1105) 512 tài liệu
Trường: Đại học Kinh Tế Quốc Dân 3 K tài liệu
Thông tin:
Tác giả:

















Tài liệu khác của Đại học Kinh Tế Quốc Dân
Preview text:
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
Viện đào tạo Tiên tiến, Chất lượng cao và POHE BÀI TẬP LỚN
TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN Đề tài:
Lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức.
Sự vận dụng của Đảng ta trong quá trình xây dựng kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay
Họ và tên: Đỗ Thùy Linh Mã sinh viên: 11223395 Lớp học phần: 03
Lớp POHE Kinh doanh thương mại 64 – Khóa 64
Giảng viên hướng dẫn: TS. Nguyễn Văn Thuân HÀ NỘI, 2023 HÀ NỘI, 2023
Sinh viên: Đỗ Thùy Linh MỤC LỤC
A. PHẦN MỞ ĐẦU............................................................................................4
1. Lý do chọn đề tài........................................................................................4
2. Mục đích nghiên cứu.................................................................................4
3. Nhiệm vụ nghiên cứu.................................................................................4
4. Đối tượng nghiên cứu................................................................................5
5. Phương pháp nghiên cứu..........................................................................5
B. PHẦN NỘI DUNG........................................................................................6
1. Lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin về mối quan hệ giữa vật chất và ý
thức....................................................................................................................6
1.1. Phạm trù vật chất..................................................................................6
1.2. Phạm trù ý thức....................................................................................7
1.3. Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức................................9
2. Sự vận dụng của Đảng ta trong quá trình xây dựng kinh tế thị trường
ở Việt Nam hiện nay.......................................................................................11
2.1. Những đặc trưng mang tính quy luật, bản chất của kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa..........................................................11
2.2. Thành tựu đạt được trong quá trình xây dựng kinh tế thị trường ở
Việt Nam hiện nay........................................................................................13
2.3. Hạn chế còn tồn tại.............................................................................14
2.4. Giải pháp để hoàn thiện toàn diện, đồng bộ thể chế và phát triển
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa........................................14
C. PHẦN KẾT LUẬN......................................................................................16
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................17 3
Sinh viên: Đỗ Thùy Linh A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thời gian qua, những thành tựu trong công cuộc đổi mới đã và đang tạo ra
một lợi thế để đất nước ta bước vào một thời kỳ phát triển mới. Mối quan hệ hợp
tác song phương giữa nước ta và các quốc gia khác trên thế giới đang ngày càng
được mở rộng, nhiều tiền đề cần thiết về công nghiệp hóa và hiện đại hóa đã
được tạo ra để phục vụ cho nhu cầu phát triển nền kinh tế đất nước. Cách mạng
khoa học và công nghệ tiếp tục với những bước tiến lớn với trình độ ngày càng
cao, thúc đẩy chuyển dịch kinh tế và đời sống xã hội.
Các nước đều có cơ hội để phát triển, tuy nhiên do ưu thế công nghệ và
thị trường thuộc về các nước đang phát triển khiến cho các nước chậm phát triển
đang phải đối mặt với những thách thức hết sức to lớn. Là một đất nước có xuất
phát điểm thấp, phải đi lên từ môi trường cạnh tranh khốc liệt, chính vì vậy nguy
cơ tụt hậu của đất nước ta là vô cùng cao.
Trước tình hình đó, cùng với xu thế phát triển của thời đại, Đảng và nhà
nước ta cần tiếp tục tiến hành quá trình xây dựng kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa. Việc đó có mối quan hệ chặt chẽ giữa vật chất và ý thức sẽ cho
phép ta vận dụng mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị, giúp cho công cuộc đổi
mới ngày càng diễn ra mạnh mẽ, đưa đất nước phát triển ngày càng giàu mạnh,
khẳng định được vị thế của mình trên khắp các châu lục.
Với ý nghĩa trên, em đã lựa chọn đề tài “Lý luận của chủ nghĩa Mác
Lênin về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức. Sự vận dụng của Đảng ta
trong quá trình xây dựng kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay” Do kiến
thức bản thân còn hạn chế cho nên bài viết sẽ không thể tránh khỏi nhiều thiếu
sót. Vậy kính mong sự góp ý của thầy giáo cùng toàn thể bạn đọc.
2. Mục đích nghiên cứu
Qua nghiên cứu đề tài, tác giả muốn mọi người hiểu rõ định nghĩa vật
chất và ý thức, thấu hiểu được mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, giúp mọi
người có cái nhìn tổng quan và toàn diện hơn về quá trình xây dựng kinh tế thị
trường ở Việt Nam hiện nay.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ khái niệm, bản chất, nguồn gốc của ý thức và vật chất. 4
Sinh viên: Đỗ Thùy Linh
- Phân tích mối quan hệ giữa vật chất và ý thức.
- Khảo sát, trình bày thực trạng vận dụng của Đảng trong quá trình xây dựng
kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay.
4. Đối tượng nghiên cứu
Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, sự vận dụng của Đảng ta trong quá
trình xây dựng kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu tài liệu: tiến hành thu thập và nghiên cứu, phân
tích thông tin từ sách khoa học, giáo trình, website chính thống. Phương pháp
này giúp tác giả tìm hiểu về cơ sở lý luận, chỉ ra các khái niệm và mối quan hệ
giữa vật chất và ý thức, đồng thời cập nhật được thông tin mới nhất về quá trình
xây dựng kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay. 5
Sinh viên: Đỗ Thùy Linh B. PHẦN NỘI DUNG
1. Lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
1.1. Phạm trù vật chất Khái niệm vật chất
Xuất hiện cùng với sự xuất hiện của triết học trong lịch sử, vật chất là 1
phạm trù triết học có lịch sử khoảng 2500 năm. Ngay từ khi mới ra đời, xung
quanh phạm trù vật chất đã diễn ra nhiều cuộc đấu tranh gay gắt giữa chủ nghĩa
duy vật và chủ nghĩa duy tâm. Thực thể thế giới là vật chất tồn tại vĩnh cửu, tạo
nên mọi sự vật hiện tượng và các thuộc tính của chúng, theo chủ nghĩa duy vật.
Chủ nghĩa duy tâm lại cho rằng cơ sở tồn tại của thế giới là do ý Chúa, do ý
niệm tuyệt đối tạo nên. Vì vậy, họ cho rằng vật chất chỉ là một phạm trù trống
rỗng, phi hiện thực, một ý niệm tưởng tượng của các nhà duy vật. Phạm trù vật
chất có quá trình phát sinh phát triển gắn liền với hoạt động thực tiễn của con
người và sự hiểu biết của con người về thế giới tự nhiên. Việc tìm hiểu, khám
phá về bản chất, cấu trúc của thế giới xung quanh con người luôn luôn là một
vấn đề được quan tâm trong các trường phái triết học duy vật. Vào thời kỳ trước
khi của triết học Mác ra đời, người ta quan niệm, tìm mọi cách để tìm hiểu, để
giải thích nguyên thể cơ bản đầu tiên cấu tạo nên thế giới. Vì vậy, phạm trù vật
chất xuất hiện từ khá sớm và được đặc biệt quan tâm. Chủ nghĩa duy vật khẳng
định thực thể tạo nên thế giới khách quan và các vật thể nói riêng đó là vật chất
và nó tồn tại vĩnh cửu. Tuy nhiên, việc lập luận và lý giải về vật chất của các nhà
triết học ở thời kỳ trước Mác là không đồng nhất với nhau.
Trên cơ sở ra đời của các phát hiện khoa học cuối thế kỉ XIX như tia
phóng xạ, điện tử, hạt Quắc,..., Lênin khẳng định: “Vật chất là một phạm trù
triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm
giác, được cảm giác chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác.”
[CITATION Nhà1 \l 1033 ]. Đây là định nghĩa khoa học nhất, hoàn chỉnh nhất
của Lênin. Lênin chỉ rõ rằng, để định nghĩa vật chất, không thể làm theo cách
thông thường là quy một khái niệm cần định nghĩa sang một khái niệm khác
rộng hơn vì khái niệm vật chất là một khái niệm rộng nhất. Để định nghĩa vật
chất, Lênin đã đối lập vật chất với ý thức, hiểu vật chất là thực tại khách quan
được đem lại cho con người trong cảm giác, vật chất tồn tại độc lập đối với cảm
giác, với ý thức, còn cảm giác, ý thức phụ thuộc vào vật chất, phản ánh vật chất. 6
Sinh viên: Đỗ Thùy Linh
Lênin nhấn mạnh rằng, phạm trù triết học này dùng để chỉ cái “Đặc tính duy
nhất của vật chất mà chủ nghĩa duy vật triết học gắn liền với việc thừa nhận đặc
tính này - là cái đặc tính tồn tại với tư cách là hiện thực khách quan, tồn tại ở
ngoài ý thức chúng ta” [CITATION Nhà1 \l 1033 ].
Đặc tính của vật chất
Vận động là phương thức tồn tại, là thuộc tính cố hữu của vật chất.
Ph.Ăngghen viết: "Vận động, hiểu theo nghĩa chung nhất, tức được hiểu là
phương thức tồn tại của vật chất, là một thuộc tính cố hữu của vật chất thì bao
gồm tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay
đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy" [ CITATION PhĂ25 \l 1033 ]. Vận động là
phương thức tồn tại của vật chất nghĩa là vật chất tự tồn tại thông qua vận động
và nhờ vật chất vận động mà con người nhận biết được thế giới. Mỗi một sự vật
có thể gắn liền với nhiều hình thức vận động khác nhau trong sự tồn tại của nó.
Tuy nhiên bản thân sự tồn tại của sự vật ấy đặc trưng bằng một hình thức vận
động cơ bản. Đứng im có tính tương đối và tạm thời (còn vận động là tuyệt đối)
bởi vì đứng im chỉ diễn ra trong một hình thức vận động nhất định, trong một
quan hệ nhất định và trong một thời gian nhất định. Như vậy, đứng im chính là
một trạng thái đặc biệt của vận động của vật chất. Do đó, vận động bao hàm sự
đứng im. Ph.Ăngghen kết luận: "Mọi sự cân bằng chỉ là tương đối và tạm thời" [
CITATION PhĂ25 \l 1033 ]. Vật chất luôn vận động và phát triển, sự vận động
không đâu khác ngoài “không gian và thời gian”. Không gian, thời gian là thuộc
tính của vật chất tồn tại gắn liền với nhau và gắn liền với vật chất. Vật chất tồn
tại khách quan, do đó không gian và thời gian cũng tồn tại khách quan. Theo
Ph.Ăngghen, vật chất vĩnh cửu và vô tận trong không gian và trong thời gian.
Trong không gian tồn tại tính ba chiều, lần lượt là chiều dài, chiều rộng và chiều
cao. Tính một chiều của thời gian là chiều từ quá khứ đến tương lai. Như vậy,
không gian, thời gian và vận động là những hình thức, phương thức tồn tại tất
yếu, vốn có của vật chất. Con người nhận thức vật chất thông qua các hình thức
và phương thức tồn tại của nó.
1.2. Phạm trù ý thức Khái niệm ý thức
Vật chất và ý thức là hai hiện tượng chung nhất của thế giới hiện thực,
mặc dù khác nhau về bản chất, nhưng giữa chúng luôn có mối liên hệ không
tách rời. Do vậy, muốn hiểu đúng bản chất của ý thức cần xem xét nó trong mối 7
Sinh viên: Đỗ Thùy Linh
quan hệ qua lại với vật chất, mà chủ yếu là đời sống hiện thực có tính thực tiễn
của con người. Bản chất ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, là
quá trình phản ánh tích cực, sáng tạo hiện thực khách quan của óc người.
Như vậy, khi xem xét ý thức từ mặt bản thể luận, thì ý thức chỉ là "hình
ảnh" về hiện thực khách quan trong óc người. Đối với con người, cả ý thức và
vật chất đều là hiện thực, nghĩa là đều tồn tại thực. Nhưng cần phân biệt giữa
chúng có sự khác nhau, đối lập nhau về bản chất: vật chất là hiện thực khách
quan; còn ý thức là hiện thực chủ quan. Ý thức là cái phản ánh thế giới khách
quan, ý thức không phải là sự vật, mà chỉ là "hình ảnh" của sự vật ở trong óc
người. Ý thức tồn tại phi cảm tính, đối lập với các đối tượng vật chất mà nó
phản ánh luôn tồn tại cảm tính. Thế giới khách quan là nguyên bản, là tính thứ
nhất. Còn ý thức chỉ là bản sao, là "hình ảnh" về thế giới đó, là tính thứ hai…
Ý thức là hình ảnh chủ quan về thế giới khách quan. Nội dung mà ý thức
phản ánh là khách quan, còn hình thức mà nó phản ánh là chủ quan. Ý thức là
cái vật chất ở bên ngoài "di chuyển" vào trong đầu óc của con người và được cải
biến đi ở trong đó. Ph. Ăngghen đã từng chỉ rõ: "Trên thực tế, bất kỳ phản ánh
nào của hệ thống thế giới vào trong tư tưởng cũng đều bị hạn chế về mặt khách
quan bởi những điều kiện lịch sử, và về mặt chủ quan bởi đặc điểm về thể chất
và tinh thần của tác giả" [ CITATION CMá94 \l 1033 ] Nguồn gốc ý thức
Theo triết học duy vật biện chứng, ý thức của con người là sản phẩm của
quá trình phát triển của cả tự nhiên và xã hội. Các yếu tố tạo thành nguồn gốc tự
nhiên của ý thức là bộ óc con người và hoạt động của nó cùng mối quan hệ giữa
con người với thế giới khách quan. Như vậy, ý thức chính là sự phản ánh của
con người về thế giới khách quan. Bộ óc con người là cơ quan vật chất của ý
thức. Ý thức không thể tách rời khỏi hoạt động của bộ óc. Nguồn gốc tự nhiên là
yếu tố cần để cho ra đời ý thức. Song, như vậy vẫn là chưa đủ. Nhân tố cơ bản
nhất và trực tiếp nhất tạo thành nguồn gốc xã hội của ý thức chính là lao động và ngôn ngữ. Bản chất của ý thức
Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng ý thức là sự phản ánh thế giới
khách quan vào bộ não người thông qua hoạt động thực tiễn, nên bản chất của ý
thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, là sự phản ánh sáng tạo thế 8
Sinh viên: Đỗ Thùy Linh
giới vật chất. Ý thức ra đời trong quá trình con người lao động để cải tạo thế giới
nên sự phản ánh của ý thức không phải thụ động như sao chép, chụp ảnh mà có
tính năng động, sáng tạo. Theo CácMac và Ăngghen, ý thức “chẳng qua chỉ là
vật chất được đem chuyển vào trong óc con người và được cải biến đi trong đó”.
Nếu xét theo bình diện cắt ngang, ý thức bao gồm tri thức, tình cảm, niềm tin,
ước muốn... Trong đó, tri thức là hạt nhân của ý thức. Còn nếu xét theo chiều
sâu của ý thức, ý thức bao gồm tiềm thức, vô thức và tự ý thức. Trên cơ sở
những cái đã có, ý thức có thể tạo ra tri thức mới về sự vật, có thể tưởng tượng
ra cái không có trong thực tế. Nó có thể dự báo, tiên đoán tương lai một cách
tương đối chính xác, hoặc có thể tạo ra những ảo tưởng. Thậm chí, một số người
còn có khả năng tiên tri, ngoại cảm, thấu thị.
1.3. Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức
Vai trò của vật chất đối với ý thức
Chủ nghĩa duy vật biện chứng xuất phát từ con người hiện thực, con
người thực tiễn để xem xét mối quan hệ này. Từ đó khẳng định, vật chất có
trước, ý thức có sau, vật chất quyết định ý thức và ý thức tác động trở lại vật
chất thông qua hoạt động của con người.
Vật chất quyết định ý thức: Vật chất có trước, ý thức có sau. Vật chất
quyết định nguồn gốc, bản chất, nội dung, sự biến đổi của ý thức.
- Vật chất quyết định nguồn gốc ý thức: não người là dạng vật chất cao có
tính chất của vật chất là cơ quan phản ánh để hoàn thành ý thức. Phải có sự vận
động của vật chất trong tự nhiên (bộ óc người và thế giới khách quan) và vật
chất trong xã hội (lao động và ngôn ngữ) thì mới có sự ra đời ý thức.
- Vật chất quyết định bản chất ý thức: Bản chất của ý thức là phản ánh
tích cực, sáng tạo hiện thực khách quan, tức là thế giới vật chất được “dịch
chuyển” vào bộ óc con người và được cải biên trong đó. Vậy nên vật chất là cơ
sở để hình thành bản chất của ý thức.
- Vật chất quyết định nội dung ý thức: Dưới bất kỳ hình thức nào, ý thức
đều là phản ánh hiện thực khách quan. Nội dung của ý thức là kết quả của sự
phản ánh hiện thực khách quan trong đầu óc con người. Sự phát triển của hoạt
động thực tiễn là động lực mạnh mẽ quyết định tính phong phú và độ sâu sắc
của nội dung của ý thức con người qua các thế hệ. 9
Sinh viên: Đỗ Thùy Linh
- Vật chất quyết định sự biến đổi ý thức: Mọi sự tồn tại, phát triển của ý
thức đều gắn liền với sự biến đổi của vật chất. Vật chất thay đổi thì ý thức cũng
thay đổi theo. Vật chất luôn vận động và biến đổi nên con người cũng ngày càng
phát triển cả về thể chất lẫn tinh thần, từ đó ý thức cũng phát triển cả về nội
dung và hình thức phản ánh. Vật chất là tiền đề cho sự tồn tại và phát triển của ý
thức nên khi vật chất thay đổi thì ý thức cũng phải thay đổi theo.
Ví dụ: Ở Việt Nam, nhận thức của các học sinh cấp 1, 2, 3 về công nghệ
thông tin là rất yếu kém sở dĩ như vậy là do về máy móc cũng như đội ngũ giáo
viên giảng dạy còn thiếu. Nhưng nếu vấn đề về cơ sở vật chất được đáp ứng thì
trình độ công nghệ thông tin của các em sẽ tốt hơn nhiều.
Vai trò của ý thức đối với vật chất
Trong mối quan hệ với vật chất, ý thức có thể tác động trở lại vật chất
thông qua hoạt động thực tiễn của con người.
Bản thân ý thức tự nó không trực tiếp thay đổi được gì trong hiện thực.
Muốn thay đổi hiện thực, con người phải tiến hành những hoạt động vật chất.
Song, mọi hoạt động của con người đều do ý thức chỉ đạo, nên vai trò của ý thức
không phải trực tiếp tạo ra hay thay đổi thế giới vật chất mà là trang bị cho con
người tri thức về thực tại khách quan, trên cơ sở ấy con người xác định mục tiêu,
đề ra phương huớng, kế hoạch, lựa chọn phương pháp, biện pháp, công cụ,
phương tiện, v.v. để thực hiện mục tiêu của mình. Ở đây, ý thức đã thể hiện sự
tác động của mình đối với vật chất thông qua hoạt động thực tiền của con người.
Các yếu tố tinh thần trên đều tác động trở lại vật chất một cách mạnh mẽ.
Ví dụ, nếu tâm trạng của người công nhân mà không tốt thì làm giảm năng suất
của một dây chuyền sản xuất trong nhà máy; nếu không có đường lối cách mạng
đúng đắn của đảng ta thì dân tộc ta cũng không thể giành thắng lợi trong hai
cuộc kháng chiến chống Pháp và Mĩ. Cũng như Lê-nin đã nói “Không có lý luận
cách mạng thì cũng không thể có phong trào cách mạng” [ CITATION VIL02 \l 1033 ].
Ý thức phản ánh đúng hiện thực khách quan sẽ thúc đẩy hoạt động thực
tiễn của con người trong quá trình cải tạo vật chất. Khi phản ánh đúng hiện thực
khách quan thì chúng ta hiểu bản chất quy luật vận động của các sự vật hiện
tượng trong thế giới quan. 10
Sinh viên: Đỗ Thùy Linh
Ví dụ: Hiểu tính chất vật lý của thép là nóng chảy ở hơn 10,000 độ C, con
người tạo ra các nhà máy gang thép để sản xuất cách loại thép với đủ các kích
cỡ chủng loại, chứ không phải bằng phương pháp thủ công xa xưa.
Sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất diễn ra theo hai hướng: tích
cực hoặc tiêu cực. Nếu con người nhận thức đúng, có tri thức khoa học, có nghị
lực, có ý chí thì hành động của con người phù hợp với các quy luật khách quan,
con người có năng lực vượt qua những thách thức trong quá trình thực hiện mục
đích của mình - đó là sự tác động tích cực. Còn nếu ý thức của con người phản
ánh không đúng hiện thực khách quan, bản chất, quy luật khách quan thì hướng
hành động của con người đã đi ngược lại các quy luật khách quan ngay từ đầu,
hành động ấy sẽ có tác dụng tiêu cực đối với hiện thực khách quan.
Ý thức tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động của con người. Nó có
thể thúc đẩy hoặc kìm hãm ở một mức độ nhất định, các điều kiện vật chất góp
phần cải tạo hình thức khách quan. Nếu phản ánh đúng hiện thực khách quan –
nó thúc đẩy, ngược lại, nó cản trở. Xã hội càng phát triển thì vai trò của ý thức
ngày càng to lớn, nhất là khi mà tri thức khoa học đã trở thành lực lượng sản
xuất trực tiếp trong thời hiện đại.
Ví dụ: Chủ trương đổi mới cơ chế quan liêu bao cấp, cản trở phát triển
con người, gây khủng hoảng kinh tế xã hội
Nói ngắn gọn, quan hệ vật chất và ý thức là quan hệ hai chiều tác động
biện chứng, trong đó vật chất quyết định ý thức còn ý thức tác động trở lại vật
chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người.
2. Sự vận dụng của Đảng ta trong quá trình xây dựng kinh tế thị trường
ở Việt Nam hiện nay
2.1. Những đặc trưng mang tính quy luật, bản chất của kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Kinh tế thị trường là hình thức kinh tế phổ biến chi phối mọi nền sản xuất
xã hội. Các quy luật của kinh tế thị trường, như quy luật giá trị, quy luật cung -
cầu, quy luật cạnh tranh, quy luật lưu thông tiền tệ... biểu hiện qua sự biến động
của quan hệ hàng - tiền, quan hệ giá cả, các quan hệ cung - cầu, quan hệ cạnh
tranh... Nền kinh tế thị trường tồn tại nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần
kinh tế, nhiều loại hình doanh nghiệp... Theo sự phân công lao động xã hội ngày 11
Sinh viên: Đỗ Thùy Linh
càng phát triển; quan hệ giữa người sản xuất hàng hóa và người tiêu dùng tồn tại
khách quan, do quy luật khách quan chi phối.
Nhìn biểu hiện bề ngoài, kinh tế thị trường là cạnh tranh, là hình thành giá
một cách tự phát theo tương quan lực lượng giữa cung và cầu thông qua cơ chế
thỏa thuận, tự nguyện, là quyền tự do kinh doanh (tự do sản xuất, tự do mua và
bán). Nhưng, bản chất của kinh tế thị trường là quan hệ hàng - tiền - hàng, hình
thức được con người lựa chọn để kết nối các hoạt động mang tính tự do sản
xuất, kinh doanh, tự do sáng tạo nhằm duy trì sự tồn tại xã hội về mặt kinh tế.
Như vậy, kinh tế thị trường là hình thái kinh tế, trong đó lực lượng sản xuất
được tự do phát triển, áp dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất ngày càng nhanh
hơn nhờ con người được tự do phát triển những năng lực tiềm tàng của mình.
Phát triển nền kinh tế thị trường đòi hỏi dân chủ hóa nền kinh tế, tự do
hóa kinh tế để giải phóng và phát triển sản xuất xã hội, mở đường cho lực lượng
sản xuất xã hội phát triển ngày càng hiện đại. Lợi ích kinh tế là động lực phát
triển quan trọng nhất của nền kinh tế thị trường, mà trước hết là lợi ích của các
nhà đầu tư, người sản xuất, người lao động, người tiêu dùng, của tập thể, nhà
nước và toàn xã hội. Sự vận động của nền kinh tế thị trường hướng đến sự cân
bằng động về cơ cấu các ngành, các lĩnh vực sản xuất... theo hướng ngày càng hợp lý hơn.
Kinh tế thị trường vừa là điều kiện, vừa là biểu hiện trình độ xã hội hóa
của nền sản xuất xã hội. Kinh tế thị trường không phải là sản phẩm riêng có của
chủ nghĩa tư bản và cũng không mâu thuẫn với chủ nghĩa xã hội, ngược lại, phát
triển kinh tế thị trường là con đường, là phương thức, là điều kiện nền tảng để đi
tới chủ nghĩa xã hội đích thực trong tương lai. Kinh tế thị trường là môi trường
thuận lợi nhất hợp quy luật khách quan để lực lượng sản xuất phát triển, lực
lượng sản xuất càng phát triển, càng hiện đại, càng đòi hỏi phải có quan hệ sản
xuất tiến bộ, phù hợp với nó, mà quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp chính là quan
hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Do vậy, quá trình phát triển kinh tế thị trường cũng
là quá trình phát triển theo tự nhiên để xã hội loài người đi lên chủ nghĩa xã hội theo đúng nghĩa của nó.
"Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam có quan hệ
sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có
nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ 12
Sinh viên: Đỗ Thùy Linh
vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế; các
chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo
pháp luật; thị trường đóng vai trò chủ yếu trong huy động và phân bổ có hiệu
quả các nguồn lực phát triển, là động lực chủ yếu để giải phóng sức sản xuất;
các nguồn lực nhà nước được phân bổ theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch
phù hợp với cơ chế thị trường. Nhà nước đóng vai trò định hướng, xây dựng và
hoàn thiện thể chế kinh tế, tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch và
lành mạnh; sử dụng các công cụ, chính sách và các nguồn lực của Nhà nước để
định hướng và điều tiết nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất kinh doanh và bảo vệ môi
trường; thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách
phát triển. Phát huy vai trò làm chủ của nhân dân trong phát triển kinh tế - xã
hội” [CITATION Văn16 \l 1033 ]
2.2. Thành tựu đạt được trong quá trình xây dựng kinh tế thị trường ở
Việt Nam hiện nay
1- Từ khi đổi mới, nền kinh tế liên tục tăng trưởng, theo số liệu năm 2021
của Ngân hàng Thế giới, trong giai đoạn từ năm 1986 - 2020, tốc độ tăng trưởng
GDP của Việt Nam đạt bình quân 6,44%, cao hơn mức trung bình của thế giới
(2,92%) và của khu vực kinh tế năng động là Đông Á và Thái Bình Dương
(4,82%); quy mô nền kinh tế được mở rộng, năm 2020 đạt khoảng 271,1 tỷ
USD, tăng gấp 10 lần so với năm 1986; chất lượng tăng trưởng được cải thiện
với năng suất lao động tăng gấp 5 lần so với năm 2006. Từ nền kinh tế với tỷ
trọng chủ yếu là nông nghiệp vào những năm 1990, nền kinh tế hiện nay đã dựa
nhiều hơn vào công nghiệp, xây dựng và dịch vụ với tỷ trọng của các khu vực
này trong GDP chiếm trên 75%.
2- Thể chế kinh tế thị trường từng bước được hoàn thiện. Môi trường đầu
tư và kinh doanh ngày càng được cải thiện. Theo số liệu thống kê năm 2021 của
Ngân hàng Thế giới, năm 2020, Việt Nam xếp hạng 70/190 quốc gia trên thế
giới, xếp thứ 7/47 nước có thu nhập trung bình thấp và xếp thứ 8/25 nước Đông
Á và Thái Bình Dương; năng lực cạnh tranh quốc gia từng bước được nâng lên;
chỉ số sáng tạo liên tục tăng đã giúp cho nền kinh tế vươn lên nhóm nửa trên
bảng xếp hạng toàn cầu. Xếp hạng về phát triển bền vững cũng tăng từ thứ 88
năm 2016 lên thứ 49 năm 2020, cao hơn nhiều so với các nước có cùng trình độ phát triển kinh tế. 13
Sinh viên: Đỗ Thùy Linh
3- Từ một trong những quốc gia nghèo nhất thế giới, năm 2008, Việt Nam
đã trở thành nước có thu nhập trung bình với GDP bình quân đầu người đạt trên
1.000 USD. Đến năm 2020 đạt khoảng 3.000 USD. Chỉ trong hai thập kỷ, đã có
khoảng 30 triệu người Việt Nam thoát nghèo; tỷ lệ hộ nghèo trung bình mỗi năm
giảm khoảng 1,5%. Tỷ lệ thất nghiệp và thiếu việc làm được giữ ở mức thấp và
có xu hướng giảm dần. Tuổi thọ trung bình của dân cư tăng từ 62 tuổi năm 1990
lên 73,7 tuổi năm 2020. Tỷ lệ tốt nghiệp trung học phổ thông và chỉ số phát triển
con người có nhiều cải thiện.
4- Hệ thống các thị trường được hình thành và từng bước phát triển theo
hướng đồng bộ hơn và gắn kết hơn với thị trường quốc tế. Hầu hết các loại giá
hàng hóa, dịch vụ được xác lập theo nguyên tắc thị trường; giá một số loại hàng
hóa, dịch vụ thiết yếu (điện, nước sạch, xăng, dầu…) từng bước được điều chỉnh
phù hợp hơn theo cơ chế thị trường.
5- Việt Nam ngày càng hội nhập sâu và rộng vào nền kinh tế khu vực và
toàn cầu; đã ký kết 15 hiệp định thương mại tự do (tính đến tháng 12-2021), kết
nối nền kinh tế với phần lớn các thị trường trọng điểm trên thế giới, trong đó có
những hiệp định thương mại tự do thế hệ mới với tiêu chuẩn chất lượng rất cao.
2.3. Hạn chế còn tồn tại
Thứ nhất, quá trình đổi mới nhận thức về kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa diễn ra chậm, nên đã tạo ra sự thiếu đồng bộ, thiếu nhất quán và
những bất cập trong quá trình hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường; do vậy, chưa
huy động được tối đa tiềm lực để phát triển kinh tế. Mối quan hệ giữa Nhà nước,
thị trường và xã hội chưa được xử lý phù hợp, rõ ràng, minh bạch.
Thứ hai, tăng trưởng kinh tế còn chậm, chưa bền vững, vẫn ở dưới mức
tiềm năng, lực lượng sản xuất chưa được giải phóng triệt để, năng suất lao động
thấp, khả năng cạnh tranh quốc tế chưa cao.
Thứ ba, việc phân bổ các nguồn lực cho phát triển còn dàn trải, lãng phí,
chưa công bằng, chưa đem lại hiệu quả cao; vấn đề phân hóa giàu nghèo, bất
bình đẳng xã hội, tệ nạn xã hội có chiều hướng gia tăng; đời sống vật chất và
tinh thần của một bộ phân dân cư, nhất là nông dân ở nông thôn, vùng sâu, vùng
xa chậm được cải thiện, ít được hưởng lợi từ thành quả tăng trưởng chung của
nền kinh tế. Yếu tố vật chất được đề cao, yếu tố tinh thần, đạo đức có lúc, có nơi
bị xem nhẹ. Do vậy, đã xuất hiện những biểu hiện của chủ nghĩa vị kỷ, cá nhân, 14
Sinh viên: Đỗ Thùy Linh
coi trọng đồng tiền, xem thường truyền thống đạo lý, tác động xấu tới đời sống xã hội.
2.4. Giải pháp để hoàn thiện toàn diện, đồng bộ thể chế và phát triển
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Thống nhất và nâng cao nhận thức về phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, xác định “Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội” [ CITATION Văn21 \l 1033 ]. Đó là nền kinh tế thị trường hiện
đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị
trường, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng
Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu
“dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” phù hợp với từng giai
đoạn phát triển của đất nước. Kinh tế nhà nước là công cụ, lực lượng vật chất
quan trọng đế Nhà nước ổn định kinh tế vĩ mô, định hướng, điều tiết, dẫn dắt
thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội, khắc phục các khuyết tật của cơ chế thị
trường. Các nguồn lực kinh tế của Nhà nước được sử dụng phù hợp với chiến
lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển đất nước và được phân bổ theo cơ chế thị trường.
Tiếp tục hoàn thiện đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, tập trung tháo gỡ các điểm nghẽn. Xây dựng khung khổ pháp luật,
môi trường thuận lợi thúc đẩy phát triển, khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo, chuyển
đổi số, phát triển kinh tế số; hỗ trợ, khuyến khích sự ra đời, hoạt động của những
lĩnh vực mới, mô hình kinh doanh mới. Tập trung sửa đổi những quy định mâu
thuẫn, chồng chéo, cản trở phát triển kinh tế. 15
Sinh viên: Đỗ Thùy Linh C. PHẦN KẾT LUẬN
Tầm nhìn tổng thể về xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa là vấn đề hết sức cần thiết đối với nước ta. Những khó khăn, thách
thức mà sẽ phải đối mặt cũng rất lớn buộc chúng ta phải không ngừng phấn đấu
và nỗ lực hơn nữa để vượt qua. Hơn thế nữa chủ nghĩa xã hội lại là một hiện
tượng mới mẻ, đang vận động hình thành trong lịch sử loài người. Bởi vậy, bám
sát thực tiễn nghiên cứu và tổng kết thực tiễn để phát triển lý luận - đó là yêu
cầu to lớn mà thực tiễn đặt ra cho hoạt động lý luận của Đảng hiện nay.
Văn kiện Đại hội lần thứ XIII, Đảng nhiều lần nhấn mạnh: “Kinh tế thị ‘
trường định hướng xã hôi chủ nghĩa là mô hình phát triển tổng quát của nền kinh
tế Việt Nam”. Đây là đột phá lý luận rất cơ bản và sáng tạo của Đảng, thành quả
lý luận quan trọng qua hơn 35 năm thực hiện đường lối đổi mới, xuất phát từ
thực tiễn Việt Nam và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của thế giới; là kiểu
kinh tế thị trường mới trong lịch sử phát triển của kinh tế thị trường. Đây cũng là
cống hiến to lớn vào kho tàng lý luân của chủ nghĩa Mác - Lênin; một phát hiện
đầy tính sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã được thực tiễn chứng minh, xác nhận. 16
Sinh viên: Đỗ Thùy Linh
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Ăngghen, P. (1925). Biện chứng của tự nhiên.
C.Mác và Ph.Ăngghen toàn tập, tập 20. (1994). NXB Chính trị quốc gia.
Lênin, V. I. (1902). Làm gì?
Định, Đ. Q. (2021, 7 18). Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Retrieved from Tạp chí
Cộng sản: https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/kinh-
te/-/2018/823673/mot-so-van-de-ly-luan-va-thuc-tien-ve-nen-kinh-te-thi-
truong-dinh-huong-xa-hoi-chu-nghia-o-viet-nam.aspx
Sơn, N. H. (2022, 3 4). Xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa - Sự đột phá về lý luận và xây dựng chủ nghĩa xã hội của Đảng
Cộng sản Việt Nam. Retrieved from Tạp chí Cộng sản:
https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/media-
story/-/asset_publisher/V8hhp4dK31Gf/content/xay-dung-nen-kinh-te-thi-
truong-dinh-huong-xa-hoi-chu-nghia-su-dot-pha-ve-ly-luan-va-xay-dung-
chu-nghia-xa-hoi-cua-dang-cong-san-viet-nam
Phúc, V. V. (2017, 4 8). Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa là phù hợp quy luật khách quan trong sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở nước ta. Retrieved from Cổng thông tin điện tử Viện Chiến
lược và chính sách tài chính:
https://mof.gov.vn/webcenter/portal/vclvcstc/pages_r/l/chi-tiet-tin? dDocName=MOFUCM107947
Bộ Giáo dục và Đào tạo. (2022). Giáo trình Triết học Mác - Lênin (Dành cho
bậc đại học hệ không chuyên lý luận chính trị). Hà Nội: NXB Chính trị và sự thật.
V. I. Lê-nin toàn tập, tập 18. (1981). NXB Chính trị quốc gia.
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII. (2016). (pp. 102-103). Hà Nội:
Văn phòng Trung ương Đảng.
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. (2021). (pp. 53-54). Hà Nội:
Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật. 17