Lý luận cua chủ nghĩa Mác – Lênin về nhà nước xã hội chủ nghĩa . liên hệ thực tiễn | tiểu luận môn Triết học Mác – Lênin
Chủ nghĩa xã hội là một đề tài lý luận và thực tiễn, quan trọng, nội dung rất rộng lớn, phong phú và rất phức tạp, có nhiều cách tiếp cận khác nhau vì thế đòi hỏi phải có sự nghiên cứu một cách nghiêm túc. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Triết học Mác - Lenin (LLCT130105)
Trường: Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
BỘ MÔN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Tiểu luận cuối kỳ
LÍ LUẬN CUA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN
VỀ NHÀ NƯỚC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA .
LIÊN HỆ THỰC TIỄN MÃ SỐ LỚP HP: LLCT130105_21_1_20CLC GVHD: TRẦN VĂN CHUNG
THỰC HIỆN: NHÓM SAINT SIMON
HỌC KỲ: – NĂM HỌC: 2 2021 – 2022 1
DANH SÁCH THÀNH VIÊN THAM GIA VIẾT TIỂU LUẬN
HỌC KỲ II NĂM HỌC 2021 – 2022
Nhóm: Saint Simon (Lớp: LLCT130105_21_1_20CLC)
Tên đề tài: Lí luận chủ nghĩa Mac-Leenin về nhà nước xã
hội chủ nghĩa . Liên hệ thực tiễn . STT HỌ VÀ TÊN MSSV % HOÀN THÀNH 1 Mai Văn Thiện 21161364 100 % 2 Lâm Đức Quan 21116351 100 % 3 Nguyễn Vĩnh Hưng 21116056 100 % 4 Nguyễn Lê Ngọc Quyến 21161356 100 % 5 Võ Nguyễn Minh Tiến 21161086 100 % 6 Huỳnh Văn Tài 21161512 100 % 7 Lại Văn Tài 21161357 100 % 8 Ngô Ngọc Sơn 21146510 100 % 9 Lê Thái Quốc Thắng 21161362 100 % 10 Nguyễn Thiên Thức 21116368 100 % Ghi chú:
- Tỷ lệ % = 100%: Mức độ phần trăm của từng sinh viên tham gia.
- Trưởng nhóm: Mai Văn Thiện SĐT: 0867927383
Nhận xét của giáo viên:
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
TP. Thủ Đức, ngày…, tháng…, 2 năm 2021
Chữ ký xác nhận của giảng viên MỤC LỤC
A. PHẦN MỞ ĐẦU........................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài..............................................................................1
2. Mục tiêu nghiên cứu.......................................................................2
3. Đối tượng nghiên cứu.....................................................................2
B. PHẦN NỘI DUNG....................................................................................3
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ NHÀ NƯỚC XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA................................................................................................................3
1.1. Khái niệm nhà nước xã hội chủ nghĩa................................3
1.2. Nguyên nhânra đời của nhà nước chủ nghĩa xã hội chủ nghĩa ……...6
1.3. Bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa..........................7
1.4. Chức năng của nhà nước xã hội chủ
nghĩa……………………………..8
CHƯƠNG 2: LIÊN HỆ THỰC TIỄN XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA..........................................................................................11
2.1. Liên hệ thực tiễn xây dựng nhà nước xã hội chủ
nghĩa trên thế giới...............................................................................11
2.1.1. Xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa ở Lào.......12
2.2.2. Xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa ở Ấn Độ..13
2.2.3. Xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa ở Trung
Quốc.........................................................................................................14
2.2. Liên hệ thực tiễn xây dựng nhà nước xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam..................................................................................15
2.2.1. Quá trình hình thành của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam………..16
2.2.2. Thực tiễn công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam…...18
C. PHẦN KẾT LUẬN...................................................................................19 3
D. PHỤ LỤC HÌNH ẢNH.................................................................................20
E. PHỤ LỤC………………………………………………………………...…22
F. TÀI LIỆU THAM KHẢO ………………………………………………… 23 *HẾT* 4
A – PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chủ nghĩa xã hội là một đề tài lý luận và thực tiễn, quan trọng, nội dung rất rộng
lớn, phong phú và rất phức tạp, có nhiều cách tiếp cận khác nhau vì thế đòi hỏi
phải có sự nghiên cứu một cách nghiêm túc, công phu và tổng kết thực tiễn một
cách sâu sắc, khoa học. Chủ nghĩa xã hội thường được hiểu với ba tư cách: chủ
nghĩa xã hội là một học thuyết, chủ nghĩa xã hội là một phong trào, chủ nghĩa xã
hội là một chế độ. Mỗi tư cách ấy lại có nhiều biểu hiện khác nhau, tùy theo thế
giới quan và trình độ phát triển ở mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể. Chủ nghĩa xã hội
đề cập ở đây là chủ nghĩa xã hội khoa học dựa trên học thuyết Mác - Lênin trong
thời đại ngày nay. Trước những thay đổi lớn của nền chính trị thế giới, đó là sự
sụp đổ của các nước Đông Âu và Liên bang Xô Viết, đòi hỏi chúng ta phải có
nhận thức đúng đắn các quan điểm của triết học Mác – Lênin, trong đó là các
vấn đề nhận thức nhà nước và pháp luật. Ngày nay, sự tiến bộ của khoa học kỹ
thuật và những thành tựu đã làm cho sự phát triển các cá nhân một cách toàn
diện và tất yếu theo như dự đoán của Các Mác, từ đó Nhà nước hướng tới các
hoạt động vào các lĩnh vực đời sống xã hội, vì đó là sự phát triển của con người.
Do đó, vấn đề chức năng xã hội của nhà nước đang trở thành đối tượng nghiên
cứu của các lĩnh vực khoa học. Từ thực trạng đó, vấn đề nhà nước xã hội chủ
nghĩa là vấn đề cốt yếu và cần nghiên cứu một cách có hệ thống, góp phần bổ
sung lý luận khoa học cho công cuộc củng cố và hoàn thiện nhà nước trong giai
đoạn cách mạng hiện nay. Vì thế, chúng em chọn đề tài: “ Lý luận của chủ nghĩa
Mác – Lênin về nhà nước xã hội chủ nghĩa. Liên hê [ thực tiễn”
2.Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
Tìm hiểu về nhà nước xã hội chủ nghĩa, đồng thời liên hệ thực tế của nhà nước
xã hội chủ nghĩa ở Việt nam.
Để đạt được mục tiêu trên của bài tiểu luận cần tập trung giải quyết các vấn đề sau:
Trình bài nhà nước xã hội chủ nghĩa của chủ nghĩa Mác – Lênin.
Sau đó, liên hệ thực tiễn nhà nước xã hội chủ nghĩa trên thế giới và Việt Nam. 5
Đối tượng nghiên cứu: Khi nghiên cứu về đề tài này , chúng em đã tập chung
nghiên cứ về nhà nước xã hội chủ nghĩa . Làm rõ khái niệm và các đặc điểm ,
nguyên nhân và bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa . Để từ đó nhóm liên hệ
trực tiếp đến việc hình thành và xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam và các nước xã hội chủ nghĩa trên thế giới, tiêu biểu là Trung Quốc, Ấn Độ, Lào. 6 B – PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I : TỔNG QUAN VỀ NHÀ NƯỚC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
1.1 Khái niệm nhà nước xã hội chủ nghĩa
Nhà nước XHCN là tổ chức quyền lực của nhân dân, đại diện cho nhân dân
quản lý mọi mặt của đời sống xã hội trên tất cả các lĩnh vực. Để thực hiện nhiệm
vụ tổ chức và quản lý toàn diện cần lập ra một bộ máy nhà nước. Xuất phát từ
bản chất của nhà nước, bộ máy nhà nước XHCN có những đặc điểm sau:
- Bộ máy nhà nước XHCN được tổ chức theo nguyên tắc tập trung thống nhất
quyền lực. Tính thống nhất quyền lực xuất phát từ quan điểm: tất cả quyền lực
thuộc về nhân dân, nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước thông qua các cơ quan
đại diện, mà trước hết là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của đất nước.
- Bộ máy nhà nước XHCN được tổ chức theo nguyên tắc quyền lực nhà nước là
thống nhất, nhưng có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong
việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Việc phân công này
nhằm mục đích phân định rõ chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn giữa các cơ
quan nhà nước, khắc phục sự chồng chéo về quyền hạn của các bộ phận khác
nhau trong cơ cấu bộ máy nhà nước, nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước.
- Bộ máy nhà nước XHCN có chức năng thống nhất quản lý các lĩnh vực của đời
sống xã hội. Để thực hiện chức năng này, nhà nước thiết lập ra các cơ quan nhà
nước. Có thể phân chia các cơ quan trong bộ máy nhà nước theo nhiều cách khác nhau:
- Xét theo hình thức thực hiện ba quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp thì cơ
quan nhà nước được chia thành cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp.
- Xét theo trình tự thành lập thì cơ quan nhà nước XHCN được chia thành các cơ
quan do nhân dân trực tiếp bầu ra (Quốc hội, Hội đồng nhân dân) và các cơ quan
không do nhân dân trực tiếp bầu ra (như nguyên thủ quốc gia do cơ quan quyền lực nhà nước bầu ra).
- Xét theo tính chất thẩm quyền thì phân cơ quan nhà nước XHCN thành cơ
quan có thẩm quyền chung và cơ quan có thẩm quyền riêng. 7
- Xét theo cấp độ thẩm quyền của cơ quan nhà nước XHCN được chia thành cơ
quan nhà nước ở trung ương và cơ quan nhà nước ở địa phương.
-Tuy nhiên, thông thường thì các cơ quan nhà nước được phân chia theo tính
chất công việc được đảm nhiệm. Theo cách phân chia này, bộ máy nhà nước
gồm cơ quan quyền lực nhà nước; chủ tịch nước, cơ quan quản lý nhà nước, cơ
quan xét xử và cơ quan kiểm sát.
1.2 Nguyên nhân của sự ra đời của nhà nước xã hội chủ nghĩa
1.2.1. Tính tất yếu lịch sử
- Chủ nghĩa Mác Lênin khẳng định rằng, Cách mạng vô sản và sự ra đời của nhà
nước xã hội chủ nghĩa là tất yếu lịch sử. Tính tất yếu này được quy định bới
những mâu thuẫn nội tại phát sinh trong lòng xã hội tư bản chủ nghĩa. Chính
trong lòng xã hội tư bản đã chứa đựng các yếu rố làm tiền đề cho sự ra đời của
nhà nước xã hội chủ nghĩa: tiền đề về kinh tế, chính trị và xã hội.
a. Những tiền đề về kinh tế
- Chủ nghĩa tư bản độc quyền xuất hiện vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX đã
làm cho nền kinh tế tư bản chủ nghĩa rơi vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng,
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa tỏ ra bất lực trong việc giải quyết các vấn
đề kinh tế và cứu vãn nền kinh tế. Để bảo vệ sở hữu tư nhân của các nhà tư
sản và để thu được nhiều giá trị thặng dư giai cấp tư sản đã ra sức duy trì các
quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa theo kiểu truyền thống, chính vì thế nó càng
thúc đẩy mâu thuẫn giữa quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất. Với sự tập
trung tư bản đã làm cho lực lượng sản xuất phát triển đến một trình độ cao, công
nhân gia tăng về mặt số lượng với trình độ tay nghề cao. Lực lượng sản xuất ở
trình độ cao này đòi hỏi phải có sự cải biến về quan hệ sản xuất cho phù hợp, sự
cải biến này phải được thực hiện thông qua một cuộc cách mạng xã hội, cuộc
cách mạng này tất yếu dẫn đến sự thay thế kiểu nhà nước tư sản bằng kiểu nhà
nước mới Nhà nước xã hội chủ nghĩa. b. Tiền đề về xã hội
- Đặc điểm của quan hệ sản xuất là yếu tố quyết định đặc điểm của nhà nước.
Với đặc điểm quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa là chiếm hữu tư nhân về tư liệu
sản xuất và bóc lột giá trị thặng dư tối đa đã quy định bản chất của nhà nước tư
sản là nhà nước chuyên chính tư sản.
- Sự tích luỹ và tập trung tư bản đã đẩy phần đông giai cấp công nhân đi vào con
đường bần cùng hoá. Mâu thuẫn giữa lao động làm thuê và tư bản ngày càng trở
nên gay gắt, sự bất công trong xã hội cùng với những chính sách phản động,
phản dân chủ đã đưa xã hội tư bản tới sự phân chia sâu sắc.
Mặt khác, nền sản xuất tư bản chủ nghĩa với nền đại công nghiệp đã làm tăng
đội ngũ công nhân lên đông đảo. Đội ngũ này không chỉ đông về số lượng mà
còn phát triển cả về chất lượng và thêm vào đó là tính tổ chức kỷ luật cao do nền
sản xuất công nghiệp tạo thành. Chính điều này đã làm cho giai cấp công nhân
trở thành giai cấp tiên tiến trong xã hội và có vai trò lịch sử của mình là phải 8
đứng lên lãnh đạo cách mạng vô sản, thủ tiêu nhà nước tư sản, thiết lập nhà nước của mình.
c. Tiền đề tư tưởng chính trị
- Giai cấp công nhân có vũ khí tư tưởng và lý luận sắc bén là chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử để nhận thức đúng đắn các quy luật vận
động và phát triển của xã hội. Chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy
vật lịch sử là cơ sở lý luận để giai cấp công nhân tổ chức và tiến hành cách
mạng, xây dựng nhà nước và xã hội của mình.
- Trong cuộc đấu tranh này hạt nhân lãnh đạo thuộc về các đảng cộng sản là đội
quân tiên phong của giai cấp vô sản, lãnh đạo phong trào cách mạng của quần
chúng và trở thành nhân tố có ý nghĩa quyết định đối với thắng lợi của cách mạng vô sản.
- Ngoài những tiền đề về kinh tế xã hội, tư tưởng, chính trị chung của cả thế
giới, ở mỗi nước với đặc thù riêng của mình có những yếu tố ảnh hưởng đến
cách mạng vô sản. Vì thế, ở những quốc gia khác nhau, cách mạng vô sản diễn
ra ở những thời điểm khác nhau là không hoàn toàn giống nhau về hình thức.
Cách mạng vô sản diễn ra nhanh hay chậm là do nhiều yếu tố ảnh hưởng đến, đó
là những điều kiện về kinh tế, chính trị, xã hội, tư tưởng và yếu tố thời đại, yếu tố dân tộc…
1.2.2. Cách mạng vô sản và sự ra đời của nhà nước xã hội chủ nghĩa
- Những tiền đề về kinh tế, chính trị và tư tưởng mới là những nguyên nhân dẫn
đến cuộc cách mạng vô sản. Nhưng cách mạng vô sản nổ ra như thế nào hay nói
cách khác là giai cấp vô sản sẽ tiến hành cách mạng vô sản như thế nào để đưa
cách mạng đến thành công lại là một vấn đề khác.
- Về vấn đề này Lênin nhận định: “Vấn đề của mọi cuộc cách mạng là vấn đề
chính quyền”. Mục đích của giai cấp vô sản là sau khi làm cách mạng vô sản lật
đổ chính quyền của giai cấp tư sản thì thiết lập luôn nhà nước của mình, nhà
nước của giai cấp vô sản.
- Trên thực tế giai cấp thống trị không bao giờ tự nguyện dời bỏ địa vị thống trị
của mình cùng với những đặc quyền, đặc lợi mà mình đang chiếm giữ, vì vậy
giai cấp vô sản muốn lật đổ chính quyền tư sản, thiết lập chính quyền vô sản thì
buộc phải thông qua con đường bạo lực cách mạng. Bạo lực cách mạng có thể là
khởi nghĩa vũ trang, cũng có thể là khởi nghĩa vũ trang kết hợp với đấu tranh chính trị.
- Về bản chất, cách mạng vô sản phải khác hẳn với các cuộc cách mạng trước
đó. Nếu các cuộc cách mạng trước làm hoàn thiện bộ máy nhà nước của giai cấp
thống trị là thiểu số trong xã hội thì cách mạng vô sản phải đập tan bộ máy nhà
nước cũ, thiết lập bộ máy nhà nước mới của đông đảo nhân dân lao động trong
xã hội. Nhận thức về vấn đề này, Đảng ta ngay từ Hội nghị trung ương lần thứ
VIII (năm 1941) đã xác định: ”Cách mạng Việt Nam muốn dành được thắng lợi
thì nhất thiết phải vũ trang khởi nghĩa dành chính quyền và sau khi đánh đuổi
được đế quốc Pháp, Nhật sẽ thành lập một Chính phủ cách mạng của nước Việt
Nam dân chủ cộng hoà, chính phủ của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà do 9
quốc dân đại hội cử lên”.
Về vấn đề phá bỏ bộ máy nhà nước cũ sau khi giành chính quyền:
- Cần thiết phải thủ tiêu ngay bộ máy quân sự quan liêu bao gồm những công cụ
bạo lực của nhà nước tư sản cũ như quân đội, cảnh sát, nhà tù, toà án, viện kiểm
sát cùng với bộ máy nhà nước từ trung ương xuống đến địa phương và đồng thời
ngăn cấm hoạt động của các tổ chức phản động khác là chỗ dựa cho chính quyền tư sản cũ.
- Xoá bỏ những chế định pháp luật không còn phù hợp, bảo vệ lợi ích cho giai cấp tư sản.
- Cùng với việc xoá bỏ bộ máy nhà nước tư sản phải chú ý phân biệt bộ máy
hành chính quân sự quan liêu với những tổ chức và cơ sở thực hiện chức năng
xã hội như: ngân hàng, bưu điện, bệnh viện… và các chế định pháp luật xuất
phát từ bản chất xã hội hoặc do nhượng bộ giai cấp vô sản như: quyền bình đẳng
công dân trước pháp luật, chế định quyền bào chữa, chế định xét xử độc lập chỉ
tuân theo pháp luật của toà án.
- Song song với việc xoá bỏ bộ máy nhà nước và pháp luật tư sản thì giai cấp vô
sản phải nhanh chóng xây dựng và hoàn thiện bộ máy nhà nước và pháp luật của
giai cấp mình để bảo vệ thành quả mà giai cấp mình vừa dành được. Trấn áp sự
phản kháng của giai cấp thống tị vừa bị lật đổ cùng những phần tử phản cách mạng khác.
1.3 Bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa
So với các kiểu nhà nước khác trong lịch sử, nhà nước xã hội chủ nghĩa là kiểu
nhà nước mới, có bản chất khác với bản chất các kiểu nhà nước bóc lột trong
lịch sử.Tính ưu về về mặt bản chất của nhà xã hội chủ nghĩa được thể hiện trên các phương diện:
Về chính trị, nhà nước xã hội chủ nghĩa mang bản chất của giai cấp công nhân,
giai cấp có lợi ích phù hợp với lợi ích chung của quần chúng nhân dân lao
động.Trong xã hội xã hội chủ nghĩa, giai cấp vô sản là lực lượng giữ địa vị
thống trị về chính trị. Tuy nhiên, sự thống trị của giai cấp vô sản có sự khác biệt
về cất so với sự thống trị của giai cấp bóc lột trước đây. Sự thống trị giai cấp bóc
lột là sự thống trị của tiểu số đối với tất cả giai cấp, tầng lớp nhân dân lao động
trong xã hội nằm bảo vệ và duy trì địa vị của mình. Còn sự thống trị về chính trị
của giai cấp vô sản là sự thống trị của đa số đối với thiểu số giai cấp bóc lột
nhằm giải phóng giai cấp mình và giải phóng tất cả các tầng lớp nhân dân lao
động trong xã hội. Do đó, nà nước xã hội chủ nghĩa là đại biểu cho ý chí chung của nhân dân lao động.
Về kinh tế,bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa chịu sự quy định của cơ sở
kinh tế xã hội xã hội chủ nghĩa, đó là chế độ sở hữu xã hội về tư liệu sản xuất
chủ yếu. Do đó, không còn tồn tại quan hệ sản xuất bóc lột. Nếu như tất cả các
nhà nước bóc lột khác trong lịch sử đều là nhà nước theo đúng nghĩa của nó,
nghĩa là bộ máycủa thiểu số những kẻ bóc lột để trấn áp đa số nhân dân lao động 10
bị áp bức, bóc lột, thì nhà nước chủ nghĩa xã hội vừa là một bộ máy chính trị-
hành chính, một cơ quan cưỡng chế, vừa là một tổ chức quản lý kinh tế-xã hội
của nhân dân lao động, nó không cònlà nhà nước theo đúng nghĩa, mà chỉ là
“nửa nhà nước”.Việc chăm lo cho lợi ích của đại đa số nhân dân lao động trở
hành mục tiêu hàng đầu của nhà nước xã hội chủ nghĩa
Về văn hóa, xã hội, nhà nước xã hội chủ nghĩa được xây dựng trên nền tảng tinh
thần là lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và những giá trị văn hóa,tiên tiến, tiến
bộ của nhân loại, đồng thời mang những bản sắc riêng của dân tộc. Sự phân hóa
giữa các cấp, các tầng từng bước được thu hẹp, các giai cấp, các tầng lớp bình
đẳng trong việc tiếp cận các nguồn lực và cơ hội để phát triển.
1.4. Chức năng của nhà nước xã hội chủ nghĩa
Tùy chọn theo góc độ cận,chức năng của nhà nước xã hội chủ nghĩa được chia
thành các chức năng khác nhau.
Căn cứ vào phạm vi tác động của quyền lực nhà nước, chức năng của nhà nước
được chia thành chức năng đối nội và chức năng đối ngoại.
Căn cứ vào lĩnh vực tác động của quyền lực nhà nước, chức năng của nhà nước
xã hội chủ nghĩa được chia thành chức năng chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, ...
Căn cứ vào tính chất của quyền lực nhà nước, chức năng của nhà nước được
chia thành chức năng giai cấp (trấn áp) và chức năng xã hội (tổ chức và xây dựng).
Xuất phát từ bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa, nên thực hiện các chức
năng của nhà nước cũng có sự khác biệt so với các nhà nước trước đó. Đối với
các nhà nước bóc tách lột, nhà nước của thiểu số thống trị đối với đa số nhân
dân lao động, nên việc thực hiện chức năng trấn áp đóng vai trò quyết định trong
việc duy trì giai cấp nắm quyền chiếm hữu tư liệu sản xuất chủ yếu của xã
hội.Còn trong nhà nước xã hội chủ nghĩa, mặc dù vẫn còn chức năng trấn áp,
nhưng đó là bộ máy giai cấp công và nhân dân lao động tổ chức để trấn áp giai
cấp bóc lột đã bị lật đổ và các phần tử chống đối để bảo vệ thành quả cách
mạng, giữ vững an ninh chính trị, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển kinh
tế - xã hội. Mặc dù trong thời kỳ quá độ, sự trấn áp vẫn tồn tại như một tất yếu,
nhưng đó là sự thật trấn áp của đa số nhân dân lao động đối với thiếu số bóc lột.
V.I.Lênin khẳng định: “Bất cứ nhà nào nước nào cũng có nghĩa là dùng bạo
lực;nhưng toàn bộ sự khác nhau ở chỗ dùng bạo lực đối với những người bị bóc
lột hay đối với những kẻ đi bóc lột ". Theo V.I.Lênin, mặc dù trong giai đoạn
đầu của chủ nghĩa cộng sản," cơ quan đặc biệt,bộ máy đặc biệt là “nhà nước” 11
vẫn cần thiết, nhưng nó đã là nhà nước quá độ, mà không còn là nhà nước theo
đúng nghĩa của nó nữa ”..
V.I. Lenin cho rằng, giai đoạn vô sản sau khi được chính quyền, xác lập địa vị
thống trị cho đại đa số nhân dân lao động, thì vấn đề quan trọng không chỉ là
trấn áp lại phản kháng của giai cấp bóc lột, mà điều quan trọng hơn cả là chính
quyền mới được tạo ra được năng suất sản xuất cao hơn chế độ xã hội cũ, nhờ
đó mang lại cuộc sống tốt đẹp hơn cho đại đa số các cấp, tầng lớp nhân dân lao
động. Vì vậy, vấn đề quản lý và xây dựng kinh tế là then chốt, quyết định. Nhà
nước xã hội chủ nghĩa “không phải chỉ là bạo lực đối với bọn bóc lột, và cũng
không phải là chủ yếu là bạo lực.Cơ sở kinh tế của bạo lực cách mạng đó, cái
bảo đảm sức sống và thắng lợi của nó chính là công việc cấp vô sản đưa ra được
và thực hiện được kiểu tổ chức loại lao động cao hơn so với chủ nghĩa tư
bản.Đấy là thực chất của vấn đề.Đấy là nguồn sức mạnh,là điều kiện đảm bảo
thắng lợi hoàn toàn và tất nhiieen của chủ nghĩa cộng sản".
Cải tạo cũ xã hội, xây dựng thành công hội xã mới là nội dung chủ yếu và mục
đích cuối cùng của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Đó là một sự nghiệp vĩ đại,
nhưng đồng thời cũng là công việc cực kỳ khó khăn và phức tạp. Nó đòi hỏi
nhà nước xã hội chủ nghĩa phải là một bộ máy có đầy đủ sức mạnh để trấn áp kẻ
thù và những phần tử chống đối cách mạng, đồng thời nhà nước đó phải là một
tổ chức có đủ năng lực để quản lý và xây dựng xã hội chủ nghĩa, trong đó công
việc tổ chức quản lý kinh tế là quan trọng, khó khăn và phức tạp nhất. 12
CHƯƠNG II : LIÊN HỆ THỰC TIỄN XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
2.1 . Liên hệ thực tiễn xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa trên thế giới
2.1.1. Xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa ở Lào
Vào ngày 2 tháng 12 năm 1975, sau khi nắm quyền kiểm soát đất nước,
chính phủ Pathet dưới quyền Kaysone Phomvihane đổi tên nước thành Cộng hòa
Dân chủ Nhân dân Lào, đưa nhân dân Lào đi theo con đường xã hội chủ nghĩa.
1. Định hướng XHCN ở Lào
Đại hội IV (1986) của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào đã đánh giá lại tình hình
thực tiễn của đất nước và đề ra phương hướng nhiệm vụ nền tảng đối với việc
đổi mới để tiến lên CNXH trong tình hình mới của thế giới. Tại Trung ương 7
khóa IV (1989), Chủ tịch Cay xỏn Phôm vi hản đã nhấn mạnh: “Việc xây dựng
CNXH yêu cầu phải suy nghĩ một cách toàn diện, đầy đủ về tình hình thực tiễn
về kinh tế - xã hội và chính trị xuất hiện ở các nước nhất định và trong từng giai
đoạn phát triển nhất định của nó... việc xây dựng CNXH ở nước ta (nước Lào)
là một quá trình lâu dài thông qua việc xây dựng và phát triển chế độ dân chủ
nhân dân, xây dựng các yếu tố để tiến lên CNXH”.
Từ đó, các kỳ Đại hội của Đảng, đặc biệt là Đại hội X của Đảng năm 2016 đã
đánh giá một cách toàn diện quá trình đổi mới trong 30 năm qua (1986-2016) và
khẳng định sự quyết tâm tiếp tục đưa đất nước tiến lên mục tiêu CNXH với khẩu
hiệu “Nâng cao năng lực lãnh đạo và tính tiên phong của Đảng, tăng cường đại
đoàn kết toàn dân, kiên định đường lối đổi mới toàn diện, có nguyên tắc, giữ gìn
và phát triển đất nước theo hướng bền vững tiến tới mục tiêu xã hội chủ nghĩa”.
2. Một số thành tựu của quá trình xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa ở Lào trong thời gian qua
CHDCND Lào có những đặc điểm khác với các nước XHCN khác là nền kinh tế
phát triển thấp, dựa vào nền nông nghiệp làm nền tảng cho phát triển công
nghiệp, nhưng công nghiệp lại có cơ cấu non trẻ. Chính vì vậy, việc trực tiếp
xây dựng CNXH còn gặp nhiều khó khăn, nhưng Lào vẫn kiên định vững chắc
phát triển đất nước theo mục tiêu XHCN, đi theo tư tưởng lý luận Mác - Lênin,
tư tưởng Cay xỏn Phôm vi hản.
Với mục tiêu đưa đất nước thoát khỏi tình trạng nước kém phát triển, Lào đã và
đang tạo điều kiện để đảm bảo ổn định chính trị, đảm bảo an ninh và trật tự an
toàn xã hội; xây dựng xã hội đoàn kết, hòa thuận, dân chủ, công bằng văn minh;
tạo tăng trưởng kinh tế có chất lượng bằng hình thức cấu trúc kinh tế mới trong
từng bộ ngành và địa phương; giải quyết có hiệu quả các khó khăn về tài chính-
tiền tệ, nợ công, loại bỏ rủi ro dẫn đến tình trạng khủng hoảng kinh tế bằng việc 13
đảm bảo các yếu tố cần thiết cho việc phát triển kinh tế-xã hội một cách liên tục;
phấn đấu đạt tăng trưởng kinh tế ở mức từ 4%/năm trở lên.
Đồng thời, Lào cũng tập trung phát triển nguồn nhân lực đảm bảo chất lượng để
làm yếu tố thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội, phát triển nông thôn và giải quyết
khó khăn của người dân để có chất lượng cuộc sống tốt hơn; nâng cao chất
lượng dịch vụ y tế cho người dân, đảm bảo khả năng thực tế trong việc phòng
chống hoặc đối phó dịch bệnh và các tình huống y tế khẩn cấp; phát triển nền
kinh tế sạch và thân thiện với môi trường, gìn giữ và sử dụng tài nguyên thiên
nhiên hợp lý, vững bền, tiết kiệm và có hiệu quả cao; tăng cường hợp tác với các
nước bạn bè và đối tác phát triển với nhiều hình thức, theo nguyên tắc mỗi bên
cùng có lợi, chủ động tham gia quá trình kết nối hội nhập rộng rãi với khu vực và quốc tế…
3. Những tồn tại, thách thức đối với sự lãnh đạo của Đảng NDCM Lào
Một là, nhận thức và hiểu biết đối với đường lối đổi mới của Đảng chưa sâu sắc,
nhất là khâu đột phá theo tinh thần Đại hội IX của Đảng đã đề ra 4 khâu đột phá,
việc cụ thể hóa Nghị quyết thành kế hoạch, dự án phù hợp với năng lực và tiềm
năng nhằm mang lợi ích cho nhân dân còn chậm.
Hai là, nền kinh tế có sự tăng trưởng, nhưng cơ sở chưa vững chắc, nền kinh tế
vĩ mô chưa cân đối, còn dựa vào khai thác tài nguyên thiên nhiên và xuất khẩu
thô là chủ yếu, không thể tạo giá trị tăng thêm từ sản phẩm, trong nhiều trường
hợp còn chưa đi theo hướng bền vững và giữ gìn môi trường. Cơ cấu kinh tế tuy
có sự biến đổi, nhưng việc vận dụng khoa học, kỹ thuật - công nghệ vào sản xuất
còn hạn chế, làm cho năng suất thấp; việc tạo nền tảng cho việc công nghiệp
hóa, hiện đại hóa trong lĩnh vực nông nghiệp còn chậm.
Ba là, quản lý nhà nước, quản lý kinh tế - xã hội bằng pháp luật chưa nghiêm,
còn có tình trạng lợi dụng và vi phạm pháp luật cũng như tham nhũng với nhiều
hình thức và nhiều cấp độ khác nhau. Bên cạnh đó việc phối hợp giữa các ngành
cũng như địa phương để giải quyết vấn đề xảy ra, giải quyết những vụ án, các
tranh chấp còn chưa hài hòa và chưa dứt khoát, nghiêm ngặt.
Bốn là, việc tuyên truyền giáo dục và tổ chức thực hiện đường lối quốc phòng,
an ninh toàn diện của Đảng ở cơ sở chưa làm được tốt, làm cho công tác an ninh
ở một số vùng chưa vững chắc; sự phối hợp giữa Trung ương và địa phương
trong việc quản lý người nước ngoài cũng như các tổ chức quốc tế chưa làm được tốt...
4. Một số xu hướng phát triển trong tương lai của CHDCND Lào
Chúng ta biết, việc xây dựng CNXH trên thế giới đã có nhiều mô hình khác
nhau. Nhưng việc thực hiện mô hình nào đó là phụ thuộc đặc trưng và hoàn cảnh
của mỗi nước; phụ thuộc sự sáng tạo của việc vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin
và bài học của các nước. Để tiếp tục xây dựng và phát triển nhà nước dân chủ 14
theo định hướng XHCN ở Lào, Đảng CDCM Lào đưa ra một số phương hướng sau:
Một là, kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Cay xỏn Phôm vi hản; xây
dựng và chỉnh đốn Đảng làm cho Đảng trong sạch, vững mạnh và vững chắc,
nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng và nắm quyền của Đảng trong điều kiện
mới. Kiên định theo lời dạy của Hồ Chí Minh: “Chỉ có sự lãnh đạo của một
Đảng biết vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện thực tiễn của mình
một cách sáng tạo mới có thể lãnh đạo cách mạng giải phóng dân tộc đi tới
thắng lợi và cách mạng XHCN thành công”.
Hai là, tiếp tục xây dựng và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa với nhiều thành phần kinh tế, nhiều hình thức sở hữu, nhiều hình thức
phân phối và nhiều hình thức tổ chức sản xuất bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh
minh bạch trước pháp luật. Đồng thời, Nhà nước phải đóng vai trò định hướng,
chính sách, cơ chế, thể chế để trở thành công cụ điều tiết kinh tế, tạo môi trường
và điều kiện thuận lợi để làm cho nền kinh tế hoạt động theo quy luật khách
quan một cách đầy đủ, phù hợp với trình độ phát triển của đất nước trong từng
giai đoạn, vừa hội nhập với khu vực và quốc tế, đảm bảo cho quan hệ sản xuất
phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất.
Ba là, xây dựng nhà nước của dân, do dân và vì dân, quản lý nhà nước, quản lý
xã hội bằng pháp luật, phát huy dân chủ trong xã hội. Mọi công dân đều bình
đẳng trước pháp luật, sinh sống và hoạt động theo pháp luật một cách nghiêm
ngặt; điều tiết lợi ích của thành viên trong xã hội một cách hài hòa, xây dựng
nhà nước vững mạnh đảm bảo sự bình đẳng trong xã hội. Nhà nước và cán bộ
của nhà nước phải phấn đấu thực hiện quyền và nghĩa vụ đúng đắn và đầy đủ
đối với công dân và công dân cũng phải thực hiện quyền và nghĩa vụ đối với nhà
nước một cách đúng đắn và đầy đủ.
Bốn là, tăng cường đoàn kết hài hòa giữa các bộ tộc, giữa các tầng lớp và kiều
bào sinh sống ở nước ngoài có tinh thần yêu nước, đồng thuận với chế độ dân
chủ nhằm xây dựng cộng đồng dân tộc cho vững mạnh, có sức mạnh tổng hợp
để phát triển đất nước. Tôn trọng quyền tự do tin hoặc không tin tôn giáo cũng
như hoạt động xã hội khác theo pháp luật và các quy định, nhằm đảm bảo xây
dựng xã hội đoàn kết hài hòa, dân chủ, bình đẳng và văn minh. Xây dựng nền
văn hóa tiên tiến và đậm đà bản sắc dân tộc; không ngừng nâng cao đời sống vật
chất và tinh thần của nhân dân.
Năm là, kiên định xuyên suốt đường lối đối ngoại hòa bình, độc lập, hữu nghị và
hợp tác; thúc đẩy hợp tác với nước ngoài với hình thức đa phương hóa, đa dạng
hóa, nhiều cấp độ trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền lẫn nhau và đôi bên
cùng có lợi. Chính vì vậy, Chủ tịch Cay xỏn Phôm vi hản nhấn mạnh “làm bạn
với tất cả các nước, tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nước
ta, lập mối quan hệ toàn diện với các nước đó trên cơ sở nguyên tắc bình đẳng,
đôi bên cùng có lợi”. 15
2.1.2. Xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa ở Ấn Độ
Ấn Độ có nhiều giá trị xã hội chủ nghĩa đã tồn tại trong suốt chiều dài lịch sử và
vẫn tồn tại trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội. Lịch sử sơ khai và hiện đại
của Ấn Độ cũng tồn tại và nuôi dưỡng những yếu tố này của chủ nghĩa xã hội,
nhưng dường như theo những cách khác. Xã hội hóa kinh tế và dân chủ hóa
chính trị của Ấn Độ ngày nay có thể được coi là những nhân tố xã hội chủ nghĩa
thúc đẩy sự phát triển của đất nước đạt tiêu chuẩn nhanh, nhân văn và bền vững.
Con đường phát triển của Ấn Độ vẫn còn nhiều trở ngại, nhưng với những di sản
để lại, với những nỗ lực cải cách hiện nay, tin rằng những yếu tố tích cực này sẽ
ngày càng gia tăng. Quá trình phát triển được hình thành bởi các quá trình kinh
tế và xã hội, từ lịch sử và hiện tại của một quốc gia. gia đình; Nếu hiểu CNXH là
triển vọng về một xã hội đang trong quá trình phát triển bao gồm nhiều yếu tố và
xu hướng phát triển khác nhau và được hình thành từ các quá trình kinh tế, xã
hội, từ lịch sử và hiện tại của một quốc gia;
Nếu hiểu chủ nghĩa xã hội là công bằng, bình đẳng, dân chủ, tự do, độc lập, hòa
bình ... là những giá trị, quan niệm đã được định sẵn trong tâm trí, nguyện vọng
của nhân dân từ lâu trong lịch sử của một dân tộc;
Nếu chúng ta hiểu rằng những xu hướng và giá trị này vẫn tiếp tục đến ngày nay
và được hỗ trợ thêm bởi các yếu tố mới của phát triển hiện đại, chẳng hạn như
sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế ngày càng xã hội hóa, nền chính trị ngày
càng dân chủ hóa và nỗ lực tham gia vào toàn cầu hóa, thì ý thức trách nhiệm
của quốc gia đối với hòa bình Phát triển ổn định và chung với các nước trong
khu vực và trên thế giới;
Ấn Độ là một trường hợp điển hình về các nhân tố xã hội chủ nghĩa trong lịch sử
và hiện tại. Điều này cũng đã được đề xuất và truyền cảm hứng từ các nhà tư
tưởng lớn như Marx thông qua nghiên cứu về ảnh hưởng kép của chế độ thực
dân Anh trước đây đối với Ấn Độ; thông qua nghiên cứu sâu sắc và lòng nhiệt
thành của Hồ Chí Minh đối với chính phủ và nhân dân Ấn Độ ...
2.1.2.1. Những tiền đề lịch sử và đương đại của CNXH ở Ấn Độ 16
Thứ nhất, những tiền đề lịch sử
Phương thức sản xuất châu Á ở Ấn Độ
C.Mác đã cho thấy ngay tất yếu chủ nghĩa xã hội từ xuất phát điểm là con người
xã hội, Mác đã chứng minh sự cần thiết của việc tiến lên chủ nghĩa xã hội trong
nền sản xuất và quản lý xã hội ngày càng xã hội hóa của “phương thức sản xuất
châu Á” - Ấn Độ là một trường hợp điển hình của C.Mác. thời gian đó khái
niệm phát triển cộng đồng dựa trên hệ thống đất đai phi tư nhân hoặc công cộng
khá trì trệ. Trong phương thức sản xuất nhỏ lạc hậu, sở hữu công cộng về ruộng
đất có thể là nhân tố hạn chế chủ yếu, hạn chế sự phát triển của năng suất xã hội
nông nghiệp. Nhưng bản thân Mác đã nhìn thấy ở đây tiền đề kinh tế của việc
rút ngắn quá trình phát triển và đi lên xã hội cộng đồng, từ sở hữu truyền thống
sang quá trình phát triển mới dựa trên bản chất của xã hội cộng đồng.
Quyền sở hữu chung về đất đai trong các cộng đồng nông thôn ở Ấn Độ nên
được coi là một nhân tố tạo điều kiện cho việc hình thành và định vị chủ nghĩa
xã hội. Sau những tác động từ công nghiệp hóa của Anh, từ khi giành độc lập,
các cuộc “cách mạng xanh” trong trồng trọt, “cách mạng trắng” trong chăn nuôi
vào những năm 60 - 80 thế kỷ XX ở Ấn Độ có lẽ vừa tiếp nối vừa bổ sung, và
làm nảy nở thêm nhân tố xã hội hóa ấy. Nó đã bù đắp cho sự thiếu hụt của
phương thức cổ truyền là trình độ sản xuất lớn, bằng cách ứng dụng khoa học và
công nghệ trong nông nghiệp.
Công xã nông thôn và dân chủ kiểu phương Tây
Những manh nha của dân chủ ở Ấn Độ đã được hình thành lâu đời, từ các công
xã nông thôn vẫn tồn tại đến ngày nay. Chắc chắn là có không ít những giá trị
của thời cổ đại có thể đồng hành với nền dân chủ hiện đại.
Vào thời cận đại, dân chủ kiểu phương Tây đã sớm đến với xã hội Ấn Độ,
nhưng chính cuộc xâm lược của thực dân Anh đã vượt qua “vòng xoáy lịch sử”.
Người Anh đã mang vào một số yếu tố của nền văn minh, nhưng qua nền dân
chủ phương Tây, nền dân chủ đại diện, họ dần đánh mất cơ chế dân chủ trực tiếp
của công xã nông thôn ở Ấn Độ. Do đó, ý chí cá nhân hoặc "tiếng nói" của các
thành viên được trừu tượng hóa khỏi sự đại diện. Trong một xã hội mà giai cấp 17
và thứ bậc xã hội vẫn còn bị ảnh hưởng nặng nề, thì liệu giai cấp pariya có còn
tiếng nói và vị trí công bằng trong việc xây dựng nền dân chủ hay không? Chỉ
có thực tiễn của Ấn Độ mới có thể trả lời chính xác câu hỏi này.
Những giá trị nền tảng của Ấn Độ giáo, Phật giáo tương đồng với lý tưởng XHCN
Các giá trị về công bằng, bình đẳng, vị tha, hữu ái, khoan hồng với đồng loại và
hòa bình ở các tôn giáo tối cổ của Ấn Độ, có nhiều điểm tương đồng với lý
tưởng xã hội chủ nghĩa.
Cái đặc thù của tư tưởng cổ truyền Ấn Độ là tư tưởng vô ngã, vong ngã. Một tư
tưởng có nguồn gốc từ tôn giáo tối cổ của Ấn Độ - Upanisahd: “Sông đổ vào
biển và mất cả tên, cả hình thể, nhà hiền triết cũng vậy, bỏ được cái tên và hình
thể rồi nhập vào Thượng đế, vượt lên trên tất cả!”. Đây là khác biệt sâu sắc khi
so sánh tư tưởng Ấn Độ với tư tưởng phương Tây, như nhận xét của Will
Durant: “Người phương Tây, từ tôn giáo tới các chế độ chính trị kinh tế đều
thấm nhuần chủ nghĩa cá nhân”. Tư tưởng quên đi cái tôi, làm mất đi cái tôi, hòa
cùng vạn vật, không hẳn là tư tưởng XHCN, nhưng nó là sự khác biệt với xu thế
tôn thờ bản ngã của triết lý phổ biến ở phương Tây, nó đối lập với chủ nghĩa cá
nhân - kẻ thù tư tưởng của chủ nghĩa xã hội.
Khác với một số tôn giáo mang tính quốc tế mà sự xâm thực của nó tới các miền
đất mới thường đồng hành cùng bạo lực xâm lược. Phật giáo là tôn giáo của hòa
bình. Cách mà Phật giáo đến với nhiều quốc gia Đông Nam Á, trong đó có Việt
Nam, là thông qua bước chân truyền đạo của những vị chân sư một lòng “hoằng
dương Phật pháp” hay qua những chuyến tàu buôn hải hồ của thương lái khi
xưa... Đúng như nhận định của Will Durant: “Đạo Phật lan tràn khắp Ấn Độ và
bắt đầu xâm chiếm châu Á một cách hòa bình... từ Kady ở đảo Tích lan, tới
Kamacura ở Nhật Bản, nét mặt an tĩnh của Đức Thích ca còn gợi cho người ta
khoan hồng với đồng loại và yêu mến hòa bình”.
Thứ hai, những tiền đề hiện tại nảy sinh trong quá trình phát triển
Khát vọng độc lập dân tộc 18
Anh đã xâm lược và biến Ấn Độ thành thuộc địa trong quãng thời gian dài và
coi như một sở hữu của mình với cái tên “British India” (Ấn Độ thuộc Anh).
Người Anh bằng mọi cách để duy trì sự thống trị của mình. Hiển nhiên, nhân
dân Ấn Độ không chịu khuất phục. Rất nhiều cuộc đấu tranh vì độc lập đã nổ ra,
và hầu như không có vĩ nhân thời cận đại hay hiện đại của Ấn Độ mà không
phải là những con người xả thân vì lý tưởng giải phóng, độc lập. Mohandas
Karamchand Gandhi (1869 - 1848) là một ví dụ điển hình. Tận hiến cho sự
nghiệp độc lập và phát triển Ấn Độ, ông xứng đáng với sự suy tôn của nhân dân
là Thánh Găng đi (Mahatma Gandhi). R.Tagore từng ngợi ca về ông - con người
mà “Sự tôn xưng của nhân dân đã thành tên thực”.
Hai xung lực khác hướng: một là từ sự áp đặt của chủ nghĩa thực dân, một là từ
khát vọng giải phóng và độc lập của dân tộc Ấn Độ đã tạo ra tất yếu chính trị mà
sau này, nhà tư tưởng Hồ Chí Minh đã phát hiện: “Sự tàn bạo của chủ nghĩa đế
quốc đã chuẩn bị sẵn mảnh đất rồi. Chủ nghĩa xã hội chỉ còn phải làm cái việc là
gieo hạt giống của công cuộc giải phóng mà thôi”.
Với cái nhìn duy vật biện chứng về lịch sử, cũng cần thấy tác động thúc đẩy của
kiểu công nghiệp hóa thực dân mà người Anh mang vào Ấn Độ. Anh đã xây
dựng ở Ấn Độ hệ thống đường sắt rộng rãi, gần khắp cả nước và một vài ngành
công nghiệp, chủ yếu là bông vải, để Ấn Độ có thể xuất khẩu và chiếm vị thế
nhất định trên thị trường thế giới. Người Anh cũng xây dựng một hệ thống hành
chính và công chức với những thủ tục hành chính khá hiện đại. So với Trung
Quốc ở cùng thời điểm, Ấn Độ có trình độ công nghiệp hóa và quản lý xã hội
tiên tiến hơn nhiều. Đó là cơ sở kinh tế kỹ thuật cho Ấn Độ có khả năng phát
triển sau khi tuyên bố độc lập vào năm 1947.
Sự phát triển của Ấn Độ đương đại chứa đựng nhiều nhân tố tích cực
Về chính trị,Ấn Độ theo chế độ dân chủ đa đảng kiểu phương Tây, với những
sinh hoạt chính trị sống động gần như thành truyền thống và một thể chế nhà
nước tương đối vững chắc và ổn định. Từ khi Hiến pháp năm 1950 ra đời, Ấn
Độ trở thành một nước cộng hòa dân chủ đa nguyên, có Quốc hội lập hiến, tòa
án tối cao và một nền báo chí độc lập cao độ. Ngày nay, mọi vấn đề của bộ máy 19
công quyền hoặc những vấn đề chính trị - xã hội đều được báo chí Ấn Độ đưa ra
công luận. Chế độ dân chủ và liên bang phản ánh thực trạng có nhiều lực lượng
và quyền lợi khác nhau ở Ấn Độ, nó cũng là cơ chế thích hợp, đủ uyển chuyển
để hóa giải các mâu thuẫn trong sinh hoạt chính trị xã hội.
Đặc điểm của chính trị Ấn Độ là khá quan tâm đến người nghèo. Người nghèo
thường không có nhiều quyền chọn lựa ở nhiều quốc gia. Thế nhưng, tại Ấn Độ
- “nền dân chủ lớn nhất thế giới” (có lẽ trước tiên là vì số lượng người được
hưởng quyền dân chủ) thì người nghèo có thể bày tỏ ý kiến của mình trong bầu
cử thông qua lá phiếu của mình. Ngay từ những năm đầu tiên, khi đi bầu cử, do
đa số dân mù chữ nên các địa điểm bỏ phiếu phải dán ảnh các ứng cử viên để
dân xem ảnh để bầu. Cho dù nghèo đói, người dân ở đây nhận thức rõ ràng về
dân chủ. Họ biết bầu cho ai và bầu vì điều gì.
Khác với nhiều nước, coi cải cách là một đột biến trong đời sống chính trị, các
cải cách ở Ấn Độ đã “diễn ra như một thông lệ trong một định chế ổn định và
minh bạch, được mọi phe phái và nhân dân tôn trọng”. Dân chủ ở Ấn Độ nhờ
những thể chế và cơ chế thường xuyên điều chỉnh đó mà hoàn thiện dần. Lý
Quang Diệu coi đây như một lợi thế của Ấn Độ: “Hệ thống dân chủ và pháp trị
của Ấn Độ là một lợi thế lâu dài so với Trung Quốc, mặc dù ở những giai đoạn
đầu, Trung Quốc có lợi thế triển khai cải cách nhanh hơn”.
Về kinh tế, phần lớn giới lãnh đạo và trí thức Ấn Độ tin tưởng vào CNXH (đặc
biệt là ảnh hưởng từ quan niệm của Hội Fabian). Chính quyền và nhân dân đã có
nhiều nỗ lực cho cách tổ chức xã hội này.
Ấn Độ đã từng chịu ảnh hưởng của mô hình XHCN kiểu cũ: phát triển bằng kế
hoạch hóa kinh tế với các kế hoạch 5 năm, ưu tiên phát triển công nghiệp nặng
thông qua các doanh nghiệp quốc doanh và sản xuất thay thế hàng nhập khẩu.
Trong cơ cấu kinh tế thì dành công nghiệp nặng cho doanh nghiệp quốc doanh,
và khuyến khích, bảo trợ các cơ sở sản xuất gia đình hay cá thể trong nông
nghiệp và tiểu công nghệ nhằm sản xuất hàng tiêu dùng và cung cấp dịch vụ.
Chính phủ cũng bằng nhiều cách để kiềm chế sự phát triển của các doanh nghiệp
tư sản, cụ thể là giới hạn địa điểm hoạt động, lĩnh vực và mức đầu tư, áp dụng 20