Lý luận của chủ nghĩa Mac về vai trò của người lao động - Triết học Mác - Lênin | Đại học Tôn Đức Thắng
Tốc độ phát triển như vũ bão của khoa học – kỹ thuật – công nghệ của nền sản xuất hiện đại đã thúc đẩy kinh tế thế giới phat triển mạnh mẽ. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Triết học Mác -Lênin (THML01)
Trường: Đại học Tôn Đức Thắng
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
LÝ LUẬN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VỀ VAI TRÒ CỦA
NGƯỜI LAO ĐỘNG TRONG LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VỚI VẤN ĐỀ
PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề
Tốc độ phát triển như vũ bão của khoa học – kỹ thuật – công nghệ của nền
sản xuất hiện đại đã thúc đẩy kinh tế thế giới phat triển mạnh mẽ. Nhiều quốc gia
đang tiến vào làn sóng văn minh mới với sự phát triển vượt bậc nhờ có chiến lược
phù hợp, có những chính sách khôn ngoan, năng động. Trong đó, có nhiều quốc gia
vốn cũng nghèo về tài nguyên nhưng nhờ biết phát huy yếu tố con người, đặt con
người ở vị trí trung tâm trong chiến lược phát triển nền kinh tế - xã hội nên đã vươn
lên nhanh chóng trên tiến trình phát triển. Có thể nói, con người – người lao động
luôn là yếu tố quan trọng hàng đầu đối với sự phát triển của mỗi quốc gia, mỗi dân
tộc và toàn xã hội nói chung. Hiểu rõ vai trò của người lao động trong lực lượng
sản xuất và có một chiến lược để phát triển nguồn nhân lực là vấn đề rất cần thiết
trên con đường đưa đất nước trở thành giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Vì vậy, học viên chọn vấn đề: Lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin về vai trò của
người lao động trong lực lượng sản xuất và vấn đề phát triển nguồn nhân lực ở
Việt Nam hiện nay làm đề tài viết luận của mình.
2. Mục tiêu của đề tài
Mục tiêu của bài tiểu luận này là tìm hiểu lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin
về vai trò của người lao động trong lực lượng sản xuất và liên hệ với vấn đề phát
triển nguồn nhân lực ở Việt Nam hiện nay.
3. Nhiệm vụ của đề tài
Để đạt được mục tiêu này, tiểu luận tập trung vào các nhiệm vụ sau:
- Phân tích quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về vai trò của người lao
động trong lực lượng sản xuất.
- Trình bày khái quát vị trí của nguồn nhân lực; phân tích tầm quan trọng của
vấn đề phát triển nguồn nhân lực trong sự phát triển xã hội và đề xuất một số giải
pháp phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp thực hiện đề tài
Tiểu luận được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, kết hợp với một số phương pháp
cụ thể như: lịch sử - logic, phân tích - tổng hợp, quy nạp - diễn dịch…
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VỀ VAI TRÒ CỦA
NGƯỜI LAO ĐỘNG TRONG LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT
1.1. Lực lượng sản xuất và các yếu tố cấu thành
Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của chủ nghĩa Mác – Lênin đã khẳng
định rằng: cơ sở cho sự tồn tại và phát triển của xã hội chính là con người trong
hoạt động sản xuất vật chất của mình. Chính nhờ sự sản xuất ra của cải vật chất để
duy trì sự tồn tại và phát triển của mình, con người đồng thời sáng tạo ra toàn bộ
đời sống vật chất và tinh thần của xã hội với tất cả sự phong phú và phức tạp của
nó. C. Mác cho rằng: “Việc sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt vật chất trực tiếp …
tạo ra một cơ sở, từ đó mà người ta phát triển các thể chế nhà nước, các quan điểm pháp quyền, nghệ th ậ
u t và thậm chí cả những quan niệm tôn giáo của con người
ta”1. Điều này có nghĩa là, lịch sử của xã hội cũng là lịch sử phát triển của sản xuất
vật chất. Và sản xuất vật chất là hoạt động đặc trưng của con người. Hoạt động này
chỉ diễn ra khi con người sử dụng công cụ lao động tác động vào đối tượng để tạo
ra các của cải vật chất cho xã hội, vì vậy, nếu không có con người thì không có sự
tồn tại của xã hội. Nói cách khác, trong mọi xã hội, con người là yếu tố trung tâm
của sự phát triển và bất kỳ xã hội nào muốn phát triển cũng đều coi trọng yếu tố con người.
Lao động là hành động lịch sử vĩ đại mà con người có được để tạo nên sự
khác biệt bản chất giữa giữa con người với thế g ới
i loài vật, là động lực thúc đẩy sự
phát triển của xã hội. Trong tác phẩm Tư bản, Các Mác đã viết: lao động trước hết
là một quá trình diễn ra giữa con người và tự nhiên, một quá trình trong đó, bằng
hoạt động của chính mình, con người làm trung gian điều tiết và kiểm tra sự trao
đổi chất giữa họ với tự nhiên. Bản thân con người đối diện với thực thể của tự
1 C. Mác và Ph. Ăngghen: (1995), Toàn tậ , NXB. Chính trị p qu i
ốc gia, Hà Nộ , tập 19, tr. 500.
nhiên với tư cách là một lực lượng của tự nhiên … Trong khi tác động vào tự nhiên
ở bên ngoài thông qua sự vận động, và làm thay đổi tự nhiên con người cũng đồng
thời thay đổi bản tính của chính nó. Rõ ràng, lao động sản xuất ra của cải vật chất
là quá trình biểu hiện mang tính lịch sử của quan hệ biện chứng giữa con người với
tự nhiên và con người với xã hội. Lao động để sản xuất ra của cải vật chất luôn
được tiến hành bằng một phương thức sản xất nhất định. Phương thức sản xuất là
cách thức con người thực hiện quá trình sản xuất vật chất ở từng giai đoạn lịch sử
nhất định của xã hội loài người. Nói cách khác, mỗi xã hội được đặc trưng bằng
một phương thức sản xuất nhất định. Phương thức sản xuất quyết định tất cả các
mặt của đời sống xã hội, sự vận động phát triển, thay thế lẫn nhau của các phương
thức sản xuất quyết định sự phát triển của xã hội từ thấp đến cao. Phương thức sản
xuất lại là sự thống nhất biện chứng giữa lực lượng sản xuất ở một trình độ nhất
định và quan hệ sản xuất tương ứng, trong đó, lực lượng sản xuất là yếu tố quan
trọng nhất quyết định mọi trạng thái của lịch sử xã hội.
Trong quá trình sản xuất, sức lao động của con người kết hợp với tư liệu sản
xuất, trước hết là công cụ lao động tạo thành lực lượng sản xuất. Lực lượng sản
xuất là toàn bộ các lực lượng được con người sử dụng trong quá trình sản xuất ra
của cải vật chất. Nó bao gồm người lao động với thể lực, tri thức, kỹ năng nhất
định và tư liệu sản xuất mà trước hết là công cụ lao động. Lực lượng sản xuất thể
hiện năng lực hoạt động thực tiễn của con người trong quá trình sản xuất ra của cải
vật chất. Nói cách khác, lực lượng sản xuất là khái niệm biểu thị mối quan hệ giữa
con người với tự nhiên trong quá trình sản xuất. Nó thể hiện trình độ chinh phục tự
nhiên của con người, trình độ của các quá trình sản xuất vật chất khác nhau trong
xã hội. Theo nghĩa chung nhất, lực lượng sản xuất là mặt tự nhiên trong phương
thức sản xuất, là sức sản xuất vật chất của xã hội. Trong quá trình thực hiện sự sản
xuất của xã hội, con người chinh phục giới tự nhiên bằng tổng hợp các sức mạnh
hiện thực của mình. Sức mạnh đó được chủ nghĩa duy vật lịch sử khái quát trog
khái niệm lực lượng sản xuất.
Trong lý luận của chủ nghĩa duy vật lịch sử, lực lượng sản xuất chính là sự
tổng hợp của hai yếu tố: tư liệu sản xuất và người lao động. Tư liệu sản xuất bao
gồm đối tượng lao động và tư liệu lao động. Trong tư liệu lao động có công cụ lao
động và những phương tiện lao động cần thiết cho việc vận chuyển, bảo quản vật
dụng, sản phẩm … Tư liệu lao động là vật thể hay phức hợp vật thể mà con người
đặt giữa mình với đối tượng lao động. Chúng truyền dẫn tích cực sự tác động của
con người vào đối tượng tư liệu lao động. Trong tư liệu lao động, công cụ lao động là hệ t ố
h ng xương cốt và bắp thịt của sản xuất. Trong quá trình sản xuất, công cụ
lao động luôn luôn được cải tiến là yếu tố động nhất và cách mạng nhất trong lực
lượng sản xuất. Trình độ phát triển của tư liệu lao động mà chủ yếu là công cụ lao
động là thước đo trình độ chinh phục tự nhiên của loài người, là cơ sở xác định
trình độ phát triển của sản xuất, là tiêu chuẩn để phân biệt sự khác nhau giữa các
thời đại kinh tế. Các Mác viết: “Những thời đại kinh tế khác nhau không phải ở chỗ
chúng sản xuất ra cái gì mà là ở chỗ chúng sản xuất bằng cách nào, với những tư
liệu lao động nào”2. Bên cạnh công cụ lao động, trong sự phát triển của tư liệu sản
xuất còn có sự phát triển của khoa học. Khoa học ngày càng đóng vai trò to lớn
trong sản xuất và trở thành nguyên nhân trực tiếp của nhiều biến đổi to lớn trong
sản xuất và trong đời sống. Sự phát triển của khoa học gắn liền với sản xuất và là
động lực mạnh mẽ thúc đẩy sản xuất phát triển. “Ngày nay, khoa học đã thâm nhập
vào quá trình sản xuất và trở thành “lực lượng sản xuất trực tiếp”3. Những phát
minh khoa học trở thành điểm xuất phát ra đời những ngành sản xuất mới, những
máy móc, thiết bị mới, nguyên vật liệu mới, năng lượng mới; đội ngũ các nhà khoa
2 Các Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập qu , Nxb. Chính trị
ốc gia, Hà Nội, 1993, tập 23, tr. 269 3 Bộ o:
Giáo dục và đào tạ Giáo trình triết học, Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội, 2006, tr.329
học tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất ngày càng đông, tri thức khoa học trở
thành một yếu tố không thể thiếu được của người lao động. Sự thâm nhập ngày
càng sâu của khoa học vào sản xuất đã làm cho lực lượng sản xuất có bước nhảy
vọt tạo thành cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại. Tuy nhiên, tư liệu
lao động chỉ trở thành lực lượng tích cực cải biến đối tượng lao động khi chúng kết
hợp với lao động sống. Chính người lao động với thể lực, trí lực và kỹ năng lao
động của mình đã chế tạo ra tư liệu lao động và sử dụng nó tác động vào đối tượng
lao động để sản xuất ra của cải vật chất. Tư liệu lao động dù có ý nghĩa lớn lao đến
đâu, nhưng nếu tách khỏi người lao động thì cũng không thể phát huy được tác
dụng, không thể trở thành lực lượng sản xuất của xã hội. Lênin đã viết: “Lực lượng
sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại là công nhân, là người lao động”4.
Tóm lại, giữa các yếu tố của lực lượng sản xuất có sự tác động biện chứng.
Sự hoạt động của tư liệu lao động phụ thuộc vào trí thông minh, sự hiểu biết, kinh
nghiệm của con người. Đồng thời, bản thân những phẩm chất của con người, những
kinh nghiệm và thói quen của họ đều phụ thuộc vào tư liệu sản xuất hiện có, phụ
thuộc vào chỗ họ sử dụng những tư liệu lao động nào. Không có nền đại công
nghiệp cơ khí thì không có thể có người công nhân hiện đại và ngược lại, không có
người công nhân hiện đại thì nền sản xuất không thể trở nên hiện đại.
1.2. Vai trò của người lao động trong lực lượng sản xuất
Trong bất cứ xã hội nào và bất cứ nền sản xuất nào, người lao động cũng
đóng vai trò là yếu tố quan trọng nhất của lực lượng sản xuất. Do đặc trưng sinh
học – xã hội riêng có của mình, con người – trong nền sản xuất xã hội có sức mạnh
và kỹ năng lao động thần kinh – cơ bắp. Trong lao động, sức mạnh và kỹ năng đó
được nhân lên nhiều lần. Với sức mạnh và kỹ năng lao động của mình, con người
trở thành chủ thể của quá trình lao động sản xuất. Người lao động trực tiếp sử dụng
4 V.I.Lênin: Toàn tậ , N p xb. Tiến b p 38, t ộ, Mátxcơva, 1977, tậ r. 430 (Bản dịch)
công cụ lao động, tác động vào đối tượng lao động nhằm tạo ra sản phẩm phục vụ
cho nhu cầu tự nhiên và nhu cầu xã hội của chính họ. Nếu không có người lao động
sẽ không có sự tồn tại của công cụ lao động, đối tượng lao động… và quá trình lao
động không thể tự nó tiến hành. Năng suất lao động của xã hội phụ th ộ u c vào trình
độ phát triển lịch sử của lực lượng sản xuất, vào chất lượng của công cụ lao động
và đặc biệt là phụ th ộ
u c vào sức khỏe, thói quen, kinh nghiệm, kỹ năng, trình độ
lao động của con người. Nếu người lao động trong thời kỳ cổ đại không tạo ra được
búa và cung tên bằng đá thì xã hội nguyên thủy không tồn tại và phát triển được,
cũng như không có công nhân là lực lượng lao động chính của toàn xã hội thì chủ
nghĩa tư bản không tồn tại và phát triển được.
Người lao động là nguồn lực duy nhất biết tác động vào các nguồn lực khác,
khởi động chúng, đồng thời gắn kết chúng lại để tạo ra sức mạnh cho sự phát triển
của nền sản xuất xã hội. Mặt khác, các nguồn lực khác khi khai thác sẽ cạn kiệt
nhưng đối với người lao động, đặc biệt là trí tuệ của họ thì càng khai thác càng sản
sinh và không ngừng phát triển. Bộ não của con người chứa đựng hàng tỉ tế bào
thần kinh, do đó, con người càng lao động, càng hoạt động thực tiễn thì trí óc càng
phát triển. Trí tuệ con người là vô tận. Nó không phải là cái gì siêu tự nhiên mà là
sản phẩm của tự nhiên và của lao động. Trong quá trình lịch sử lâu dài của xã hội
loài người, trí tuệ con người hình thành và phát triển cùng với lao động và làm cho
lao động ngày càng có hàm lượng trí tuệ cao hơn. Trong quá trình phát triển của xã
hội, lao động của con người ngày càng trở thành lao động trí tuệ và lao động có trí
tuệ. Hàm lượng trí tuệ trong lao động, đặc biệt là trong điều kiện khoa học - công
nghệ ngày càng hiện đại đã làm cho con người trở thành một nguồn lực đặc biệt
của sản xuất. Do biết chế tạo các phương tiện, công cụ lao động và sử dụng chúng
vào quá trình sản xuất, con người đã làm cho một vật “do tự nhiên cung cấp” trở
thành một khí quan của sự hoạt động của con người. Do đó mà “nối dài thêm các
tầm thước tự nhiên của cơ thể đó”, làm tăng thêm sức mạnh các khí quan của con người lên gấp bội.
Con người không chỉ quyết định sự ra đời của công cụ, máy móc mà còn
quyết định sự vận hành, tính hữu ích của chúng. Một cái máy có thể bị phá bỏ, bị
đưa vào viện bảo tàng hay được duy trì hoạt động và sử dụng như thế nào là tùy
thuộc vào khả năng của con người và mục đích hoạt động của họ.
Con người cũng luôn luôn cải tạo đối tượng lao động. Trong buổi bình minh
của lịch sử nhân loại, lực lượng lao động sản xuất còn thấp kém, con người dựa chủ
yếu vào những đối tượng do tự nhiên cung cấp sẵn. Sản xuất càng phát triển, nhận
thức của con người ngày càng rộng hơn, sâu hơn thì công cụ, phương tiện lao động
càng tiến bộ và các đối tượng lao động nhân tạo càng chiếm tỷ lệ cao hơn những
đối tượng lao động có sẵn trong tự nhiên.
Như vậy, con người là chủ thể sáng tạo và là chủ thể sử dụng mọi yếu tố của
lực sản xuất. Người lao động là yếu tố năng động nhất, quyết định trong lực lượng
sản xuất, bởi vì, chỉ có yếu tố con người mới có trí tuệ, cũng chỉ có con người mới
có năng lực tự phát triển và tự hoàn thiện mình. Người lao động không chỉ sinh
con, duy trì nòi giống mà còn tái sản xuất ra sức lao động của chính họ và luôn
nâng cao chất lượng của lao động bằng con đường kế t ừ
h a các yếu tố xã hội và phát
triển chúng. Điều này thể hiện ở chỗ: mỗi thế hệ đi sau bao giờ cũng tiếp thu được
những lực lượng sản xuất tích lũy qua tất cả các thế hệ đi trước. Trong đó không
chỉ có những công cụ lao động, phương tiện vật chất mà còn là những kho tàng tri
thức khoa học kỹ thuật và kinh nghiệm sản xuất của các thế hệ đi trước. Đồng thời,
các thế hệ lao động đi trước bao giờ cũng chuẩn bị các điều kiện cho thế hệ kế tiếp
có những năng lực cần thiết để duy trì và phát triển sản xuất. Con người làm ra lực
lượng sản xuất đến đâu thì đồng thời cũng tự nâng cao năng lực sản xuất của mình
đến đó. Người lao động là chủ thể và là năng lực chủ đạo quyết định sự phát triển
của lực lượng sản xuất, không có người lao động thì không có quá trình sản xuất và
do đó không có lực lượng sản xuất. Sản xuất vật chất là nền tảng, cơ sở cho sự tồn
tại và phát triển của xã hội loài người; cơ sở, nền tảng ấy do con người quyết định.
Vì thế, chúng ta có thể suy rộng ra: con người vừa là sản phẩm vừa là chủ thể quyết
định mọi quá trình vận động và phát triển của lịch sử. Các Mác và Ph. Ăng ghen đã
nhấn mạnh vai trò quyết định của con người đối với quá trình phát triển thông qua
hoạt động lao động như sau: “có thể phân biệt con người với súc vật, bằng ý thức,
bằng tôn giáo, nói chung bằng bất cứ cái gì cũng được. Bản thân con người bắt đầu
bằng tự phân biệt với súc vật ngay khi con người bắt đầu sản xuất ra những tư liệu
sinh hoạt của mình – đó là một bước tiến do tổ chức cơ thể con người quy định.
Sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình, như thế con người đã gián tiếp sản
xuất ra chính đời sống vật chất của mình”5
Tóm lại, người lao động không chỉ có vị trí trung tâm trong lực lượng sản
xuất mà còn trong cả toàn bộ quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Bởi vì: thứ nhất,
các yếu tố khác như công cụ lao động, phương tiện lao động, tư liệu lao động có
giới hạn nhất định, chỉ có người lao động là có khả năng tái sinh đến vô hạn. Thứ
hai, tự bản thân mình các yếu tố khác trong lực lượng sản xuất như công cụ lao
động, phương tiện lao động, đối tượng lao động không thể trở thành động lực của
sự phát triển; muốn trở thành động lực, chúng phải nhờ sức lực, trí tuệ của con
người. Chính con người tạo ra mục tiêu, lập kế hoạch và lựa chọn phương pháp
khai thác, sử dụng đồng thời khôi phục lại các yếu tố khác trong lực lượng sản
xuất. Thứ ba, người lao động với tất cả các phẩm chất tích cực (thể lực, trí lực,
nhân cách) của mình, tự mình có thể trở thành động lực phát triển của quá trình sản
xuất và toàn bộ xã hội.
5 Các Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập qu , Nxb. Chính trị
ốc gia, Hà Nội, 1995, tập 3, tr.29
CHƯƠNG 2: VẤN ĐỀ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC Ở V Ệ I T NAM HIỆN NAY
2.1. Vị trí của nguồn nhân lực trong phát triển kinh tế - xã hội
Mọi quá trình phát triển của nền kinh tế xã hội đều cần phải dựa trên một
tổng thể các nguồn lực. “Nguồn lực” hiểu theo nghĩa chung nhất là tổng hợp toàn
bộ các yếu tố, các quá trình (vật chất và tinh thần) đã, đang và sẽ tạo ra năng lực,
sức mạnh thúc đẩy quá trình phát triển. Dưới dạng tổng quát, hiện nay chúng ta có
các nguồn lực tham gia thúc đẩy quá trình phát triển gồm: nguồn vốn, nguồn đất
đai, nguồn tài nguyên thiên nhiên, cơ sở vật chất - kỹ thuật, công nghệ, nguồn nhân
lực … Mỗi nguồn lực này có vị trí, vai trò và tác dụng riêng của mình đối với quá
trình phát triển kinh tế - xã hội.
Cho đến nay, khái niệm nguồn lực con người (hay nguồn nhân lực) đang
được hiểu theo nhiều cách khác nhau. Các cơ quan chuyên môn của Liên hợp quốc
cho rằng nguồn nhân lực bao hàm những người đang làm việc và những người
trong độ tuổi lao động có khả năng lao động. Một số nhà khoa học của Việt Nam
thì cho rằng nguồn nhân lực “được hiểu là số dân và chất lượng con người bao gồm
cả thể chất và tinh thần, sức khỏe và trí tuệ, năng lực, phẩm chất và đạo đức của
người lao động. Nó là tổng thể nguồn nhân lực hiện có thực tế và tiềm năng được
chuẩn bị sẵn sàng để tham gia phát triển kinh tế - xã hội của một quốc gia hay một địa phương nào đó”.
Ở đây, khái niệm “nguồn nhân lực” chỉ những thế hệ nối tiếp nhau của
những con người - chủ thể với những phẩm chất nhất định (thể lực, trí lực, nhân
cách) đã, đang và sẽ tham gia vào quá trình phát triển sản xuất của xã hội. Với tư
cách là nguồn lực, người lao động - chủ thể không tồn tại một cách biệt lập mà
chúng liên kết chặt chẽ với nhau thành một chỉnh thể thống nhất về tổ chức, tư
tưởng và hành động. Nghĩa là, nguồn nhân lực không đơn giản chỉ là số lượng
người mà nó thực sự là tổng hợp năng lực, sức mạnh chỉnh thể người. Năng lực,
sức mạnh này bắt nguồn trước hết từ những phẩm chất vốn có bên trong của mỗi người lao động - c ủ
h thể và nó được tăng lên gấp bội bởi cái chỉnh thể thống nhất
trong hành động. Nguồn nhân lực không chỉ bao gồm những con người - chủ thể đã
và đang tham gia vào quá trình sản xuất, phát triển xã hội mà còn cả những con người - c ủ
h thể sẽ tham gia vào quá trình này. Bởi vì, lịch sử tự nhiên của đời sống
xã hội là quá trình phát triển kế tiếp nhau của các hình thái kinh tế - xã hội trong đó
các giá trị vật chất và tinh thần do các thế hệ trước tạo ra là nền tảng để những thế
hệ sau kế thừa, phát triển và sáng tạo ra những giá trị mới. Có thể nói, nguồn nhân
lực là tổng thể những yếu tố thuộc về thể chất, tinh thần, đạo đức, phẩm chất, trình
độ tri thức, vị thế xã hội … tạo nên năng lực của người lao động, của cộng đồng
người có thể sử dụng, phát huy trong quá trình phát triển xã hội. Khi chúng ta nói
đến nguồn nhân lực là nói tới con người với tư cách là chủ thể hoạt động sáng tạo
tham gia cải tạo tự nhiên, làm biến đổi xã hội trong quá trình sản xuất. Hay nói một
cách cụ thể, nguồn nhân lực là tổng hòa của thể lực và trí lực tồn tại trong toàn bộ
lực lượng lao động xã hội của một quốc gia, trong đó kết tinh truyền thống và kinh
nghiệm lao động sáng tạo của một dân tộc trong lịch sử được vận dụng để sản xuất
ra của cải vật chất và tinh thần phục vụ cho nhu cầu hiện tại và tương lai của đất nước.
Nguồn nhân lực của một đất nước được đánh giá trên hai mặt là số lượng và
chất lượng. Số lượng nguồn nhân lực được xác định trên quy mô dân số, cơ cấu độ
tuổi, sự tiếp nối các thế hệ, giới tính và sự phân bố dân cư giữa các vùng miền, giữa
các ngành kinh tế, giữa các lĩnh vực của đời sống sống xã hội. Chất lượng nguồn
nhân lực là khái niệm tổng thể bao gồm những nét đặc trưng về thể lực, trí lực, tay
nghề, năng lực quản lý, mức độ thành thạo trong công việc, phẩm chất đạo đức, ý
thức giai cấp, ý thức về trách nhiệm cá nhân với công việc … và sự kết hợp giữa
các yếu tố đó. Trong các yếu tố này, trình độ chuyên môn và phẩm chất đạo đức là
quan trọng nhất quy định phương pháp tư duy, nhân cách, lối sống của mỗi người.
Số lượng và chất lượng nguồn nhân lực có quan hệ chặt chẽ với nhau. Nếu số
lượng nguồn nhân lực ít sẽ gây khó khăn cho phân công lao động xã hội., kéo theo
chất lượng nguồn nhân lực bị hạn chế. Chất lượng nguồn nhân lực được nâng cao
sẽ giảm bớt số lượng người trong đơn vị sản xuất hay kinh doanh nhất định, đồng
thời tạo điều kiện nâng cao hiệu quả h ạ
o t động trong lao động sản xuất.
Trong thời đại ngày nay, con người được coi là một “tài nguyên” đặc biệt, một
nguồn lực quan trọng của sự phát triển. Chính vì lẽ đó, việc phát triển con người,
phát triển nguồn nhân lực đang chiếm vị trí trung tâm trong hệ thống phát triển các
nguồn lực. Chăm lo đầy đủ đến con người là yếu tố đảm bảo chắc chắn nhất cho sự
phồn vinh, thịnh vượng của đất nước. Việc đầu tư để phát triển nguồn lực con
người là đầu tư chiến lược, là cơ sở chắc chắn nhất cho phát triển bền vững.
Như vậy, xã hội muốn phát triển nhanh và bền vững, phải quan tâm đến việc
phát triển nguồn nhân lực. Phát triển nguồn nhân lực là quá trình tạo ra sự tăng
trưởng về số lượng và chất lượng nguồn nhân lực; đồng thời nâng cao hiệu quả sử
dụng chúng để đáp ứng ngày càng tốt hơn sự phát triển bền vững của xã hội.
Nói cách khác, phát triển nguồn nhân lực là làm gia tăng giá trị con người, cả giá trị
vật chất và giá trị tinh thần, cả trí tuệ lẫn tâm hồn cũng như kỹ năng nghề nghiệp,
làm cho con người trở thành người lao động có những năng lực và phẩm chất mới,
cao hơn, đáp ứng yêu cầu to lớn và ngày càng tăng của phát triển kinh tế - xã hội.
Như vậy, chúng ta có thể hiểu rằng phát triển nguồn nhân lực của một đất
nước là sự biến đổi về số lượng và chất lượng nguồn nhân lực trên các mặt: thể lực,
trí lực, kỹ năng, tinh thần, tình cảm, cùng với quá trình tạo ra những biến đổi tiến
bộ về cơ cấu nguồn nhân lực. Nghĩa là, phát triển nguồn nhân lực chính là quá trình
tạo lập và sử dụng năng lực toàn diện của con người vì sự tiến bộ của kinh tế xã hội
và sự hoàn thiện bản thân mỗi con người. Phát triển con người không chỉ là sự tăng
lên của thu nhập quốc dân, mà còn tạo ra một môi trường mà trong đó mọi người
có thể phát triển mọi khả năng của mình và làm chủ một cuộc sống sáng tạo hữu
ích, phù hợp với lợi ích và nhu cầu của họ.
2.2. Vài nét về nguồn nhân lực ở Việt Nam hiện nay
Từ khi ra đời để thực hiện sứ mệnh lịch sử vẻ vang lãnh đạo cách mạng Việt
Nam đến nay, Đảng ta luôn nhận thức rõ vị trí của nguồn nhân lực trong quá trình
phát triển kinh tế - xã hội. Ở mỗi thời kỳ cách mạng khác nhau, quan điểm của
Đảng về con người được bổ sung, hoàn thiện dần cho phù hợp với yêu cầu phát huy
nhân tố con người trong điều kiện mới. Song quan điểm nhất quán và xuyên suốt
của Đảng Cộng sản Việt Nam về nguồn lực con người vẫn luôn là: “Nguồn lực con
người là quý báu nhất, có vai trò quyết định đặc biệt đối với nước ta khi nguồn lực
tài chính và nguồn lực vật chất còn hạn hẹp. Nguồn lực đó là người lao động có trí
tuệ cao, có tay nghề thành thạo, có phẩm chất tốt đẹp được đào tạo bồi dưỡng và
phát huy bởi một nền giáo dục tiên tiến gắn liền với một nền khoa học công nghệ
hiện đại”. Đối với Việt Nam hiện nay, nhiệm vụ chủ yếu của việc phát triển xã hội
là xây dựng công nghiệp hóa – h ệ
i n đại hóa, tạo ra lực lượng sản xuất phát triển ở
trình độ cao, thúc đẩy quá trình tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Việt Nam là một trong những nước đang phát triển, mới bước đầu tiến hàn công nghiệp hóa – h ệ
i n đại hóa đất nước. Về mặt thời gian, chúng ta đã tụt hậu khá
xa so với các nước trên thế giới và trong khu vực. Tuy nhiên, Việt Nam có lợi thế
là đúc kết được kinh nghiệm của các nước đi trước, có thể nắm bắt được những tri
thức, những thành tựu của thế giới để rút ngắn thời gian công nghiệp hóa – hie65n
đại hóa. Điều quan trọng hơn cả là trong cuộc bứt phá này, chúng ta đang gặp phải
hạn chế về nguồn nhân lực.
Lịch sử tồn tại và phát triển ngàn năm của dân tộc đã hình thành và phát triển
những truyền thống của con người Việt Nam. Trong kho tàng đó, nổi bật lên các
giá trị truyền thống thể hiện sức sống, bản lĩnh, bản sắc và phẩm giá của dân tộc.
Đó trước hết là tinh thần yêu nước, ý thức dân tộc, ý chí tự lực, tự cường, truyền
thống đoàn kết vì đại nghĩa dân tộc, truyền thống lao động cần cù, sáng tạo, nhạy
cảm với cái mới, biết đối phó linh hoạt, ứng xử mềm mỏng, biết thích nghi và hội
nhập để tồn tại và phát triển. Đó còn là tinh thần thực tế, coi trọng kinh nghiệm, tôn
trọng người giàu kinh nghiệm và có tư duy tổng hợp, truyền thống hiếu học, trọng
đạo… Tuy nhiên, cũng chính lịch sử ấy với nền kinh tế tiểu nông tồn tại hàng ngàn
năm đã tạo nên trong di sản truyền thống con người Việt Nam những hạn chế nhất
định. Trong đó, sức ỳ, thói quen và truyền thống lạc hậu, kém ý thức tổ chức kỷ
luật, tính tản mạn, tự do, tùy tiện, cục bộ thiếu khả năng hợp tác … đã và đang là
vật cản kiên cố trên con đường phát triển, đổi mới đất nước.
Hiện nay, ở Việt Nam đã phát triển được một hệ t ố
h ng đào tạo nguồn nhân
lực bao gồm các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề và
nhiều cơ sở đào tạo nhân lực khác. Các cơ sở đào tạo nhân lực phân bố trên cả
nước tương đối đồng đều và hoàn chỉnh bao gồm đủ các cấp đào tạo từ công nhân
bán lành nghệ cho đến sau đại học với nhiều hình thức chính quy và không chính
quy, các hệ ngắn hạn và dài hạn, các loại hình công lập và ngoài công lập… Nhờ
đó, trình độ học vấn và tay nghề của đội ngũ người lao động nước ta ngày càng
được nâng cao. Đội ngũ này có khả năng nắm bắt được những thành tựu mới nhất
về khoa học và công nghệ trên thế giới. Trong những năng gần đây, “mạng lưới
giáo dục, đào tạo được mở rộng, quy mô và chất lượng được nâng lên, đáp ứng tốt
hơn nhu cầu của xã hội. Nọi dung, phương pháp giáo dục, đào tạo, thi cử và kiểm
định chất lượng có đổi mới. Cơ cấu đào tạo hợp lý hơn. Tập trung đầu tư cơ sở vật
chất và đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong giáo dục, đào tạo. Chú trọng
giáo dục, đào tạo vùng khó khăn và đồng bào dân tộc thiểu số. Đội ngũ nhà giáo, cán bộ q ả
u n lý có bước phát triển. Xã hội hóa giáo dục, đào tạo được đẩy mạnh …
Tỉ lệ lao động qua đào tạo đạt khoảng 51,6% vào năm 2015. Dạy nghề cho lao
động nông thôn được quan tâm”.6
Tuy nhiên, nguồn nhân lực ở V ệ
i t Nam còn nhiều hạn chế về thể lực, kiến
thức, tay nghề; trình độ chuyên môn kỹ thuật của nguồn nhân lực còn thấp và chậm
tiến bộ; lao động phổ thông còn dư thừa lớn song lại thiếu hụt nghiêm trọng lao
động có trình độ chuyên môn cao, chuyên gia cao cấp nên vẫn còn hạn chế trong
việc tiếp thu và ứng dụng khoa học công nghệ trong sản xuất cũng như quản lý. Cơ
cấu đào tạo nhân lực về trình độ, ngành nghề và vùng miền chưa thật sự hợp lý,
chất lượng nguồn nhân lực chưa đáp ứng yêu cầu của thực tiễn. Các điều kiện đảm
bảo cho phát triển nguồn nhân lực còn nhiều yếu kém. Hệ thống cơ sở vật chất kỹ
thuật và kinh phí cho đào tạo nguồn nhân lực tuy có được đầu tư và tăng đáng kể
song nhìn chung vẫn còn lạc hậu, chậm được cải thiện, thiếu đồng bộ, chưa tương
xứng với quy mô của nguồn nhân lực và yêu cầu của thực tiễn. Lao động chưa qua
đào tạo và trình độ học vấn thấp vẫn còn chiếm một số lượng đáng kể trong tổng số
nguồn nhân lực. Số lao động được đào tạo thì phần đông đang làm việc trong các
cơ sở có công nghệ cũ, lạc hậu hoặc làm trái ngành nghề đào tạo. Cơ cấu lao động
được đào tạo còn mất cân bằng lớn. Lực lượng khoa học và công nghệ cao vừa
thiếu lại vừa không đồng bộ, phân bổ chưa hợp lý, lực lượng lao động có trình độ
cao phần lớn tập trung ở vùng đô thị. Việc phân công, sử dụng đội ngũ này còn
cứng nhắc, chưa phát huy được hết năng lực, sở trường của họ. Mặt khác, lực lượng
này đang có sự hụt hẫng giữa các thế hệ.
6 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính qu trị ốc gia, Hà Nội, 2016, tr.228.
Có thể thấy, thực trạng nguồn nhân lực ở Việt Nam hiện nay còn nhiều bất
cập. Dân số đông, lực lượng lao động khá dồi dào với cơ cấu khá trẻ về độ tuổi
nhưng nguồn nhân lực với tính cách là động lực phát triển của sản xuất, của công
nghiệp hóa – hiện đại hóa thì còn ít về số lượng, bất hợp lý về chuyên môn và cơ
cấu ngành nghề, yếu kém về chất lượng. Mặc dù trong những năm gần đây, nhà
nước đã có những chính sách thúc đẩy phát triển nguồn nhân lực và khoa học công
nghệ ở nước ta như: “đầu tư từ ngân sách nhà nước cho khoa học công nghệ tăng
16,5%/ năm, đạt khoảng 2% tổng chi ngân sách nhà nước. Đầu tư xã hội cho khoa
học công nghệ tăng nhanh, ước đạt 1,3% GDP vào năm 2015 … Các quỹ về khoa
học và công nghệ được thành lập, bước đầu đi vào hoạt động và phát huy hiệu
quả”7; nhưng “thị trường lao động chưa thật sự thông suốt, dịch chuyển lao động
còn khó khăn, thông tin về cung – cầu lao động còn hạn chế. Chuyển dịch sơ cấu
lao động chậm; tỉ trong lao động trong khu vực nông nghiệp còn lớn. Số người
thiếu việc làm và việc làm không ổn định còn nhiều, nhất là khu vực nông thôn;
một bộ phận sinh viên sau tốt nghiệp khó tìm được việc làm; chính sách tiền lương
chậm được cải cách; … tỉ lệ lao động khu vực phi chính thức còn cao (56%)”8. Vấn
đề đặt ra là chúng ta phải làm gì và làm như thế nào để có thể phát triển nguồn nhân
lực đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của nền sản xuất và sự phát triển của xã hội.
2.3. Một số giải pháp phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam hiện nay
Trong xu thế toàn cầu hóa và sự tác động của cuộc cách mạng công nghiệp
4.0 hiện nay, sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước không chỉ dựa trên một cơ
sở vật chất dồi dào mà còn cần đến một nguồn nhân lực hùng mạnh, có trình độ
chuyên môn cao, đảm nhận được vai trò là động lực thực hiện, biến tiến bộ khoa
học công nghệ thành tư tưởng, niềm tin và khát vọng cải tạo hiện thực của toàn xã
7 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016, tr. 255 8 Sách đã dẫn, tr.256
hội, đưa tri thức khoa học vào trong cuộc sống, thúc đẩy xã hội phát triển. Sự
nghiệp xây dựng và phát triển đất nước ở Việt Nam hiện nay chỉ có thể thành công
một khi chúng ta biết phát huy sức mạnh tổng hợp của các nguồn lực, trong đó,
“lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho quá trình phát triển nhanh và bền vững”.
Phát triển nguồn nhân lực không chỉ là trách nhiệm của Nhà nước, xã hội mà
còn là trách nhiệm của các doanh nghiệp, mỗi gia đình và mỗi cá nhân trong cộng
đồng. Phát triển nguồn nhân lực phải gắn với nhu cầu nhân lực lao động kỹ thuật
ngoài xã hội của thị trường lao động cả nước, quốc tế cũng như ở từng ngành, từng vùng miền.
Để xây dựng và phát triển nguồn nhân lực cần thiết phải được thực hiện đồng bộ các giải pháp:
Trong lĩnh vực kinh tế, cần tổ chức, bố trí lại lực lượng lao động trên phạm
vi cả nước, nâng cao vị thế cả người lao động trong quá trình sản xuất, nhanh
chóng khắc phục tình trạng tách người lao động ra khỏi tư liệu sản xuất, tạo điều
kiện cho mọi người dân làm chủ cụ thể những tư liệu sản xuất của toàn xã hội, phát
huy sáng kiến của người lao động, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của người
lao động, thực hiện phân phối công bằng, công khai, dân chủ.
Trong lĩnh vực chính trị, cần nâng cao trình độ của cán bộ, đảng viên và
nhân dân về nhận thức chính trị, nâng cao trách nhiệm và năng lực của người lao
động khi họ tham gia vào công việc của Đảng, Nhà nước, hệ thống chính trị; xây
dựng cơ chế quản lý xã hội, quản lý nhà nước, tạo điều kiện cho người lao động
tham gia vào công việc của nhà nước, công việc của xã hội, thực sự là người làm
chủ đất nước; giáo dục tinh thần yêu nước, nâng cao ý thức tự cường dân tộc, trách
nhiệm công dân, bản lĩnh chính trị của mỗi cá nhân, đặc biệt là đối với thế hệ trẻ.
Kiên quyết đấu tranh với những biểu hiện, hiện tượng tiêu cực, tham nhũng, tình
trạng vi phạm kỷ cương, phép nước và những âm mưu chống phá của kẻ thù, bảo
vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ thành quả cách ạng trong quá trình phát triển
của đất nước. Trên cơ sở thành quả cách mạng có được, người lao động mới có
điều kiện học tập, rèn luyện, phấn đấu về mọi mặt và công hiến ngày càng nhiều
cho nền sản xuất và toàn xã hội.
Trong lĩnh vực xã hội, cần thiết xây dựng quan hệ mới giữa người với người
trên tinh thần tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau trong sản xuất kinh doanh và trong dời
sống xã hội, xây dựng quan hệ bình đẳng hữu nghị giữa các dân tộc, các quốc gia;
thực hiện những biện pháp làm giảm dần khoảng cách chênh lệch giữa các tầng lớp
dân cư, giữa các vùng miền, xóa đói, giảm nghèo, tập trung giải quyết những vấn
đề cấp bách về lao động, việc làm; trên cơ sở đó, người lao động mới có điều kiện
nâng cao trình độ tri thức, trình độ tay nghề, có môi trường rèn luyện, phấn đấu,
cống hiến sức mình cho đất nước, cho xã hội.
Trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo, cần thiết tuyên truyền cho mọi người
thấy được trách nhiệm của mình đối với sự nghiệp chung của đất nước, tăng cường
hơn nữa sự phối hợp của gia đình, nhà trường, xã hội trong đào tạo thế hệ trẻ; đổi
mới nội dung, phương pháp giảng dạy. Nội dung giáo dục phải phản ánh được
những tri thức quan trọng nhất của thời đại, những thành tựu của khoa học công
nghệ, góp phần giáo dục long yêu nước, ý thức tự cường dân tộc, hình thành nhân
cách mới của người lao động. Phương pháp giảng dạy phải kích thích được tính
sáng tạo, sự hăng say tìm tòi, nghiên cứu của người học; phương pháp học tập phải
độc lập, tự chủ, biết vận dụng những kiến thức đã học vào giải thích và giải quyết những vấn đề t ự
h c tiễn cuộc sống đang đặt ra. Xây dựng đội ngũ lãnh đạo, quản lý
giáo dục – đào tạo và giáo viên tốt về đạo đức, giỏi về chuyên môn nghiệp vụ và có
trách nhiệm công dân cao, đẩy mạnh phát triển khoa học – công nghệ, phát triển
các hình thức đào tạo, kết hợp giữa các trường chuyên nghiệp với các cơ sở sản
xuất; tạo điều kiện thúc đẩy phong trào “khởi nghiệp” trong học sinh sinh viên;
giáo dục chuyên nghiệp cần tiếp tục phát triển cả về quy mô và chất lượng đào tạo; cơ cấu lại hệ t ố
h ng đào tạo nhân lực theo hướng đa dạng hóa phát triển các loại
hình đào tạo nhân lực chất lượng cao … PHẦN KẾT LUẬN
Tóm lại, theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử, vai trò của người lao
động trong lực lượng sản xuất là vô cùng quuan trọng. Người lao động luôn luôn ở
vào vị trí trung tâm của lực lượng sản xuất và toàn bộ nền sản xuất nói chung. Để
lực lượng sản xuất phát triển thì người lao động phải không ngừng rèn luyện, phát
triển toàn diện cả về thể lực, trí lực và đạo đức nhân cách. Để có được một nguồn
nhân lực phát triển cần có một chiến lược cụ thể, đảm bảo cho sự phát triển toàn
diện của con người, nâng cao năng lực làm việc của họ. Phát triển nguồn nhân lực
bằng nhiều con đường khác nhau, trong đó, giáo dục – đào tạo là yếu tố cần thiết và
được đặt lên hàng đầu trên cơ sở đảm bảo tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ
và công bằng xã hội ngay trong từng bước và trong suốt quá trình phát triển.