Lý luận của CN Mác Lênin về mối quan hệ giữa VC và YT. Sự vận dụng cảu Đảng ta trong quá trình xây dựng KTTT ở VN hiện nay | Tiểu luận môn triết học mác - lênin

Lý luận của CN Mác Lênin về mối quan hệ giữa VC và YT. Sự vận dụng cảu Đảng ta trong quá trình xây dựng KTTT ở VN hiện nay | Tiểu luận môn triết học mác - lênin được siêu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuận bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đón xem!

Thông tin:
16 trang 4 tháng trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Lý luận của CN Mác Lênin về mối quan hệ giữa VC và YT. Sự vận dụng cảu Đảng ta trong quá trình xây dựng KTTT ở VN hiện nay | Tiểu luận môn triết học mác - lênin

Lý luận của CN Mác Lênin về mối quan hệ giữa VC và YT. Sự vận dụng cảu Đảng ta trong quá trình xây dựng KTTT ở VN hiện nay | Tiểu luận môn triết học mác - lênin được siêu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuận bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đón xem!

75 38 lượt tải Tải xuống
lOMoARcPSD| 23022540
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
Viện đào tạo Tiên tiến, CLC và POHE
TIỂU LUẬN Học phần: Triết học
Chủ đề: Lý luận của CN Mác Lênin về mối quan hệ giữa VC
YT. Sự vận dụng cảu Đảng ta trong quá trình xây dựng
KTTT ở VN hiện nay
Hà Nội, 31 tháng 1, năm 2023
LỜI NÓI ĐẦU
Trong suốt thời kì đổi mới sau chiến tranh, Đảng và Nhà nước ta đã vận
dụng thành công tư tưởng Hồ Chí Minh vào việc phát triển kinh tế, xã hội.
lOMoARcPSD| 23022540
1
Quan hệ giữa nước ta và các nước trên thế giới ngày càng được mở rộng.
Cách mạng khoa học và công nghệ tiếp tục phát triển với trình độ ngày càng
cao, thúc đẩy quá trình chuyển dịch kinh tế và đời sống xã hội các nước đều
có cơ hội phát triển.
Tuy nhiên, do ưu thế công nghệ và thị trường thuộc về các nước phát triển
khiến cho các nuớc chậm phát triển như Việt Nam đứng trước một thách
thức to lớn. Nguy cơ tụt hậu ngày càng cao, mà điểm xuất phát của nước ta
vừa thấp, vừa phải đi lên từ môi trường cạnh tranh quyết liệt.
Trước tình hình đó, cũng với xu thế phát triển của thời đại, Đảng và Nhà
nước cần tiếp tục tiến hành đẩy mạnh công cuộc đổi mới toàn diện đất nước,
trong đó đổi mới kinh tế đóng vai trò then chốt, giữ vai trò chủ đạo. Đổi mới
kinh tế là một vấn đề cần phải được ưu tiên. Thêm vào đó, theo lý luận của
CN Mác – Lênin, có một sự tương quan chặt chẽ giữa Kiến trúc thượng tầng
của xã hội và mối quan hệ giữa VC và YT. Bởi giữa đổi mới kinh tế và đổi
mới chính trị có mối quan hệ giữa vật chất và ý thức. Theo đó cho phép
chúng ta vận dụng vào mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị ,giúp cho công
cuộc đổi mới của đất nước ngày càng giàu mạnh.
Với ý nghĩa đó, em đã chọn đề tài: " Lý luận của CN Mác Lênin về mối
quan hệ giữa VC và YT. Sự vận dụng cảu Đảng ta trong quá trình xây dựng
KTTT ở VN hiện nay. ”
Mục lục
1. Lý lu n c a CN Mác Lênin vêề mốối quan h gi a VC và YT……………………………ậ
ệ ữ 3
1.1. V t chấất……………………………………………………..ậ
………………………………………………………….3
1.1.1. Ph m trù v t
chấất……………………………………………………………………………….….
3
lOMoARcPSD| 23022540
1.1.2. Phương th c và hình th c tồồn t i c a v t
chấất………………………………………4ứ
1.1.3. Tính thồấng nhấất v t chấất c a thếấ gi
i…………………………………………………….ậ 5
1.2. Ý th
c……………………………………………………………………………………………………….
5
1.2.1. Nguồồn gồấc c a ý th
c…………………………………………………………………………….ủ
5
1.2.2. B n chấất và kếất cấấu c a ý th
c……………………………………………………………….ả 6
1.3. Mồấi quan h gi a v t chấất và ý th
c…………………………………………………………ệ 7
1.3.1. Vai trò c a v t chấất đồấi v i ý th
c…………………………………………………….……ủ
7
1.3.2. Vai trò c a ý th c đồấi v i v t
chấất………………………………………………………….ủ
8
2. V n d ng c a nậ ụ ủ ước Vi t Nam vào cống cu c đ i m i hi n
nay……………...…9ệ ộ ổ ớ ệ
2.1. V n d ng mồấi quan h gi a v t chấất và ý th c vào mồấi quan hậ
ệ bi n ch ng ứ gi a kinh tếấ và chính tr
……………………………………………………………………………….…..9ữ
2.2. V n d ng mồấi quan h gi a v t hấất và ý th c trong vi c xấy d ng kiếấn
trúc ậ ự thượng tấồng m i
nớ ở ước ta hi n ệ
nay………………………………………………………………………………………………………….……….9
lOMoARcPSD| 23022540
3
Kếất lu
n…………………………………………………………………………………………………….……13ậ
Tài li u tham kh o…………………………………………………………………………………….……13ệ
NỘI DUNG
1. Quan điểm duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa vật chất và
ý thức
1.1 Vật chất
1.1.1 . Phạm trù vật chất
Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, sự phát triển của khoa học tự nhiên đặc
biệt là những phát minh của Rơnghen, Béccơren, Tômxơn, v.v… đã bác bỏ
quan điểm của các nhà duy vật về những chất được coi là “giới hạn tột
cùng”, từ đó dẫn tới cuộc khủng hoảng về thế giới quan trong lĩnh vực
nghiên cứu vật lí học. Trong bối cảnh lịch sử đó, V.I.Lênin đã tiến hành tổng
kết những thành tựu khoa học tự nhiên của thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX và từ
nhu cầu của cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm, người đã vạch rõ ý đồ
xuyên tạc những thành tựu khoa học tự nhiên của những nhà triết học duy
tâm, khẳng định bản chất vật chất của thế giới và đưa ra định nghĩa kinh
điển về vật chất:
“Vật chất là phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem
lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp
lại, phản ánh và tồn tại không phụ thuộc vào cảm giác.”
Theo định nghĩa của V.I.Lênin về vật chất:
Thứ nhất, cần phân biệt khái niệm “vật chất” với tư cách là phạm trù triết
học (tức phạm trù khái quát thuộc tính cơ bản nhất, phổ biến nhất của mọi
tồn tại vật chất và được xác định từ góc độ giải quyết vấn đề cơ bản của triết
lOMoARcPSD| 23022540
học) với khái niệm “vật chất” được sử dụng trong các khoa học chuyên
ngành (tức khái niệm dùng để chỉ những dạng vật chất cụ thể, cảm tính;
những biểu hiện cụ thể của thế giới vật chất tự nhiên hay xã hội)
Thứ hai, thuộc tính cơ bản nhất, phổ biến nhất của mọi dạng vật chất
được khái quát trong phạm trù vật chất của chủ nghĩa duy vật biện chứng là
thuộc tính tồn tại khách quan, tức tồn tại ngoài ý thức, độc lập, không phụ
thuộc vào ý thức con người, cho dù con người có nhận thức được hay không
nhận thức được nó.
Thứ ba, vật chất, dưới hình thức cụ thể của nó là cái có thể gây nên cảm
giác ở con người khi nó trực tiếp hay gián tiếp tác động lên giác quan của
con người; ý thức của con người là sự phản ánh đối với vật chất, vật chất là
cái được ý thức phản ánh.
1.1.2 Phương thức và hình thức tồn tại của vật chất
Theo quan điểm duy vật biện chứng, vận động là phương thức tồn tại của
vật chất; không gian, thời gian là những hình thức tồn tại của vật chất.
- Vận động là phương thức tồn tại của vật chất
Ph.Ăngghen định nghĩa: “Vận động, hiểu theo nghĩa chung nhất, tức được
hiểu là một phương thức tồn tại của vật chất, là một thuộc tính cố hữu của
vật chất, thì bao gồm tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ
trụ, kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy.
- Không gian, thời gian là những hình thức tồn tại của vật chất
Mọi dạng cụ thể của vật chất đều tồn tại ở một vị trí nhất định, có một
quảng tính (chiều cao, chiều rộng, chiều dài) nhất định và tồn tại trong các
mối tương quan nhất định (trước hay sau, trên hay dưới, bên phải hay bên
trái, v.v…) với những dạng vật chất khác. Những hình thức tồn tại như vậy
được gọi là không gian. Mặt khác, sự tồn tại của sự vật còn được thể hiện ở
lOMoARcPSD| 23022540
5
quá trình biến đổi: nhanh hay chậm, kế tiếp và chuyển hóa,… Những hình
thức tồn tại như vậy được gọi là thời gian.
1.1.3 . Tính thống nhất vật chất của thế giới
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định: bản chất của thế giới là vật
chất, thế giới thống nhất ở tính vật chất của nó. Theo quan điểm đó:
Chỉ có một thế giới duy nhất là thế giới vật chất; thế giới vật chất là
cái có trước, tồn tại khách quan, độc lập với ý thức con người.
Thế giới vật chất tồn tại vĩnh viễn, vô tận, vô hạn, không được sinh ra
và không bị mất đi.
Mọi tồn tại của thế giới vật chất đều có mối liên hệ khách quan, thống
nhất với nhau, biểu hiện ở chỗ chúng đều là những dạng cụ thể của vật
chất, là những kết cấu vật chất, có nguồn gốc vật chất, do vật chất sinh
ra và cũng chịu sự chi phối của những quy luật khách quan phổ biến
của thế giới vật chất. Trong thế giới vật chất không có gì khác ngoài
những quá trình vật chất đang biến đổi và chuyển hóa lẫn nhau; là
nguồn gốc, nguyên nhân và kết quả của nhau.
1.2 Ý thức
1.2.1 . Nguồn gốc của ý thức
Theo quan điểm duy vật biện chứng, ý thức có nguồn gốc tự nhiên và
nguồn gốc xã hội.
- Nguồn gốc tự nhiên của ý thức: Nhân tố tạo thành nguồn gốc tự
nhiên của ý thức là bộ óc con người và hoạt động của nó cùng mối quan hệ
giữa con người với thế giới khách quan; trong đó thế giới khách quan tác
động đến bộ óc con người, từ đó tạo thành ý thức của con người về thế giới
khách quan.
lOMoARcPSD| 23022540
- Nguồn gốc xã hội của ý thức: có nhiều yếu tố cấu thành nguồn gốc
xã hội của ý thức nhưng trong đó cơ bản nhất và trực tiếp nhất là nhân tố lao
động và ngôn ngữ.
1.2.2 . Bản chất và kết cấu của ý thức
- Bản chất của ý thức
Ý thức là sự phản ánh có tính chất năng động, sáng tạo của bộ óc con
người về thế giới khách quan; là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.
Ý thức là một hiện tượng xã hội và mang bản chất xã hội. Sự ra đời và tồn
tại của ý thức gắn liền với hoạt động thực tiễn, chịu sự chi phối không chỉ
của các quy luật tự nhiên mà còn của các quy luật xã hội; được quy định bởi
nhu cầu giao tiếp xã hội và các điều kiện sinh hoạt hiện thực của đời sống xã
hội. Với tính năng động, ý thức đã sáng tạo lại hiện thực theo nhu cầu của
thực tiễn xã hội.
- Kết cấu của ý thức
Có ba yếu tố cơ bản hợp thành ý thức: tri thức, tình cảm và lí chí, trong
đó tri thức là yếu tố quan trọng nhất. Ngoài ra, ý thức có thể bao gồm yếu tố
khác. Căn cứ vào trình độ phát triển của nhận thức, tri thức có thể chia
thành: tri thức đời thường và tri thức khoa học, tri thức kinh nghiệm và tri
thức lý luận, tri thức cảm tính và tri thức lý tính,…
Tất cả các yếu tố tạo thành ý thức có mối quan hệ biện chứng với nhau,
song tri thức là yếu tố quan trọng nhất; là phương thức tồn tại của ý thức,
đồng thời là nhân tố định hướng đối với sự phát triển và quyết định mức độ
biểu hiện của các yếu tố khác.
lOMoARcPSD| 23022540
7
1.3 Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
1.3.1 . Vai trò của vật chất đối với ý thức
Trong mối quan hệ với ý thức, vật chất là cái có trước, ý thức là cái có
sau; vật chất là nguồn gốc của ý thức; vật chất quyết định ý thức; ý thức là
sự phản ánh đối với vật chất.
Ý thức là sản phẩm của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc con
người nên chỉ khi có con người mới có ý thức. Trong mối quan hệ giữa con
người với thế giới vật chất thì con người là kết quả của quá trình phát triển
lâu dài của thế giới vật chất, là sản phẩm của thế giới vật chất. Kết luận này
đã được chứng minh bởi sự phát triển hết sức lâu dài của khoa học về giới tự
nhiên; nó là một bằng chứng khoa học chứng minh quan điểm: vật chất có
trước, ý thức có sau.
Các yếu tố tạo thành nguồn gốc tự nhiên, nguồn gốc xã hội của ý thức (bộ
óc người, thế giới khách quan tác động đến bộ óc gây ra các hiện tượng
phản ánh, lao động, ngôn ngữ), hoặc là chính bản thân thế giới vật chất (thế
giới khách quan), hoặc là những dạng tồn tại của vật chất (bộ óc người, hiện
tượng phản ánh, lao động, ngôn ngữ) nên vật chất là nguồn gốc của ý thức.
Ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất, là hình ảnh chủ quan về thế giới
vật chất nên nội dung của ý thức được quyết định bởi vật chất. Sự vận động
và phát triển của ý thức, hình thức biểu hiện của ý thức bị các quy luật sinh
học, các quy luật xã hội và sự tác động của môi trường sống quyết định.
Những yếu tố này thuộc lĩnh vực vật chất nên vật chất không chỉ quyết định
nội dung mà còn quyết định cả hình thức biểu hiện cũng như sự biểu hiện
của ý thức.
1.3.2 . Vai trò của ý thức đối với vật chất
Trong mối quan hệ đối với vật chất, ý thức có thể tác động trở lại vật chất
thông qua hoạt động thức tiễn của con người.
lOMoARcPSD| 23022540
Vì ý thức là ý thức của con người nên nói đến vai trò của ý thức là nói
đến vai trò của con người. Bản thân ý thức tự nó không trực tiếp thay đổi
được gì trong hiện thực. Muốn thay đổi hiện thực con người phải tiến hành
những hoạt động vật chất. Song, mọi hoạt động của con người đều do ý thức
chỉ đạo, nên vai trò của ý thức không phải trức tiếp tạo ra hay thay đổi thế
giới vật chất mà nó trang bị cho con người tri thức về thực tại khách quan,
trên cơ sở ấy con người xác định mục tiêu, đề ra phương hướng, xây dựng
kế hoạch, lựa chọn phương pháp, biện pháp, công cụ phương tiện, v.v… để
thực hiện mục tiêu của mình. Ở đây, ý thức đã thể hiện sự tác động của mình
đối với vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người.
Sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất diễn ra theo hai hướng: tích
cực hoặc tiêu cực. Nếu con người nhận thức đúng, có tri thức khoa học, có
tình cảm cách mạng, có nghị lực, có ý chí thì hành động của con người phù
hợp với các quy luật khách quan, con người có năng lực vượt qua những
thách thức trong quá trình thực hiện mục đích của mình, thế giới được cải
tạo – đó là sự tác động tích cực của ý thức. Còn nếu ý thức của còn người
phản ánh không đúng hiện thực khách quan, bản chất, quy luật khách quan
thì ngay từ đầu, hướng hành động của con người đã đi ngược các quy luật
khách quan, hành động ấy sẽ có tác động tiêu cực đối với hoạt động thực
tiễn, đối với hiện thực khách quan.
Như vậy, bằng việc định hướng cho hành động của con người, ý thức có
thể quyết định hành động của con người, hoạt động thực tiễn của con người
đúng hay sai, thành công hay thất bại, hiệu quả hay không hiệu quả.
Tìm hiểu về vật chất, về nguồn gốc, bản chất của ý thức, về vai trò của
vật chất, của ý thức có thể thấy: không bao giờ và không ở đâu ý thức lại
quyết định vật chất. Trái lại, vật chất là nguồn gốc của ý thức, quyết định nội
dung và khả năng sáng tạo của ý thức; là điều kiện tiên quyết để thực hiện ý
lOMoARcPSD| 23022540
9
thức; ý thức chỉ có khả năng tác động trở lại vật chất; sự tác động ấy không
phải tự thân mà phải thông qua hoạt động thực tiễn (hoạt động vật chất của
con người. Sức mạnh của ý thức trong sự tác động này phụ thuộc vào trình
độ phản ánh của ý thức, mức độ thâm nhập của ý thức vào những người
hành động, trình độ tổ chức của con người và những điều kiện vật chất, hoàn
cảnh vật chất, trong đó con người hành động theo định hướng của ý thức.
2. Sự vận dụng của Đảng ta trong quá trình xây dựng KTTT ở
VN hiện nay.
2.1 Vận dụng mối quan hệ giữa vật chất và ý thức vào mối quan hệ
biện chứng giữa kinh tế và chính trị:
Như chúng ta đã biết, giữa vật chất và ý thức có mối quan hệ biện chứng
lẫn nhau .Nhân tố vật chất giữ vai trò quyết định còn nhân tố ý thức có tác
động trở lại nhân tố ý thức. Nhân tố vật chất trong nhiều trường hợp ý thức
có tác dụng quyết định đến sự thành bại của con người. Điều này thể hiện rõ
trong các đường lối chủ trương, chính sách đổi mới kinh tế của Đảng. Vai
trò tích cực của ý thức chỉ được trong một thời gian nhất định và điều kiện
cụ thể vì thế giới vẫn tồn tại khách quan và vận động, theo đó ý thức phải
biến đổi phù hợp với nó, nếu tiêu cực thì sớm muộn cũng bị đào thải ,nhưng
xét đến cùng thì ý thức vẫn là nhân tố thứ hai quyết định .Và ta thấy nếu
kinh tế của một nước giàu, xã hội phát triển cao nhưng chính trị mất ổn định
,luôn đấu tranh giai cấp …thì đất nước đó không thể yên ấm hoà bình được
và cuộc sống người dân tuy đầy đủ ,sung túc nhưng sẽ luôn lo âu .Do đó nếu
chính trị ổn định thì dân mới yên tâm làm ăn và xây dựng một xã hội phát
triển ,đất nước giàu mạnh.
Mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị thay đổi theo từng hình thái kinh tế
CXNT-CHNL-PK-TBCN-CNXH. Trình độ tổ tổ chức quản lý và tính chất
hiện đại của nền sản xuất sẽ là nhân tố quy định trình độ và mức sống của xã
hội ,bởi sản xuất vật chất là nền tảng hình thành tất cả các quan hệ xã hội
lOMoARcPSD| 23022540
đời sống tinh thần của xã hội. Hiện thực lịch sử đã chỉ ra rằng mọi quan hệ
của đời sống xã hội bao gồm quan hệ chính trị ,nhà nước pháp quyền,đạo
đức, khoa học, tôn giáo… đều hình thành biến đổi gắn liền với kinh tế và
sản xuất nhất định .Trong đó theo Mác quan hệ sản xuất giữa người với
người là cơ bản quyết định tất cả các quan hệ khác.
2.2 Vận dụng mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong việc xây dựng
nền kinh tế mới ở nước ta hiện nay.
Như chúng ta đã biết sau khi giải phóng miền nam thống nhất đất nước
,nền kinh tế miến bắc bị suy giảm nghiêm trọng.Cơ sở vật chất kĩ thuật yếu
kém,cơ cấu kinh tế mất cân đối ,năng suất lao động thấp…sản xuất nông
nghiệp chưa cung cấp đủ lương thực cho dân ,nguyên liệu cho công nghiệp
,hàng hoá cho xuất khẩu ,ngoài ra còn bị tàn phá nặng nề bởi đế quốc Mĩ .ở
miền nam sau 20 năm chiến tranh nền kinh tế bị đảo lộn ,nông nghiệp bị
hoang hoá ở nhiều vùng…
Trước tình hình đó đại hội Đảng ta lần thứ IV đã đề ra chỉ tiêu và kế
hoạch 5 năm 1976-1980 về xây dựng và phát triển vượt quá khả năng kinh
tế 1975 phấn đấu dạt 21tr tấn lương thực 1tr tấn cá biển ,1tr ha khai hoang ,
1tr200ha rừng mới 10tr tấn than sạch …ngoài ra còn đề xuất xây dựng thêm
các cơ sở mới về công nghiệp như cơ khí và đặc biệt là phải cải tạo XHCN ở
miền nam .Những chủ trương chính sách sai lầm đó đã gây tổn hại đến nền
kinh tế cuộc sóng nhân dân…đến hết 1980 ,nhiều chỉ tiêu đề ra chỉ đạt được
50-60%, nền kinh tế tăng trưởng chậm ,tổng sản phẩm xã hội bình quân là
1,5% công nghiệp tăng 2,6% nông nghiêp giảm 0,15%.
Đại hội Đảng lần V vẫn chưa tìm ra nguyên nhân dẫn tới sự trì trệ ,đồng
thời cũng chưa đề ra các chính sách mới cho nền kinh tế 1981-1985 . Chúng
ta chưa khắc phục chủ quan trì trệ trong bố trí cơ cấu kinh tế ,cải tạo XHCN
lOMoARcPSD| 23022540
11
và quản lý kinh tế lại phạm những sai lầm mới trong lĩnh vực phân phối lưu
thông .Nhìn chung vẫn chưa đạt được mục tiêu đại hội V đề ra .
Tất nhiên ngoài những yếu tố chủ quan còn có yếu tố khách quan dẫn đến sự
trì trệ của nền kinh tế do chiến tranh ,bối cảnh quốc tế … song chúng ta vẫn
mắc sai lầm chủ quan trong việc quản lý cán bộ ,phát triển LLSX.
Đổi mới là sự nghiệp khó khăn chưa có tiền lệ nhưng thực tiễn những
năm qua đã chứng tỏ đường lối đổi mới, chủ trương chính sách lớn về đổi
mới, chủ trương chính sách lớn về đổi mới là rất đúng đắn, bước đi là thích
hợp. Xây dựng chủ nghĩa xã hội còn là sự nghiệp rất mới mẻ, khó khăn,
phức tạp, đòi hỏi phải phát huy cao độ vai trò của nhân tố chủ quan, của tính
năng động chủ quan, đòi hỏi nhiều công phu nghiên cứu để khám phá, tìm
tòi ra mô hình thích hợp với thực tiễn Việt nam. Những diễn biến phức tạp
của tình hình thế giới, những biến động nhiều mặt của đất nước ta trong quá
trình đổi mới toàn diện xã hội càng đòi hỏi chúng ta phải kiên trì, giữ vững
lòng tự tin, quyết tâm khắc phục khó khăn đồng thời phải tỉnh táo, thông
minh, nhậy bén để thích ứng kịp thời với tình hình thực tế biến đổi từng
ngày, từng giờ. Để phát huy tính năng động chủ quan phải kết hợp chặt chẽ
giữa nhiệt tình cách mạng và tri thức khoa học. Rõ ràng việc đảm bảo sự
thống nhất giữa nhiệt tình, ý thức cách mạng và tri thức khoa học là hết sức
cấp bách và cần thiết. Bởi vì, tri thức khoa học có được hay không cũng nhờ
lòng hiểu biết, trí thông minh, ý trí quyết tâm học tập và nhận thức khoa
học; ngược lại nếu trí thức khoa học phát huy được tác dụng trong thực tế
thì nó lại trở thành động lực tăng thêm ý trí và nhiệt tình cách mạng. Người
cán bộ kinh tế phải quán triệt sâu sắc và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác -
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, trước hết là phương pháp luận toàn diện và
phép biện chứng duy vật vào việc nghiên cứu, đề xuất và áp dụng các chủ
trương chính sách về kinh tế, các phương pháp, cơ chế quản lý kinh tế tài
chính theo tinh thần đổi mới để thúc đẩy nền kinh tế của nước ta vượt qua
lOMoARcPSD| 23022540
tình trạng nước nghèo và kém phát triển, tránh khỏi nguy cơ tụt hậu xa hơn
về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và nguy cơ chệch hướng xã hội
chủ nghĩa. Trong điều kiện xoá bỏ cơ chế quan liêu, bao cấp cũng có nghĩa
lã đòi hỏi người làm công tác quản ký kinh tế, tài chính phải năng động sáng
tạo, nhạy bén, nắm bắt được thực tế và quy luật vận động và phát triển của
nó. Kinh nghiệm cho thấy rằng, đôi khi chỉ cần một nhận định không đúng,
một thông tin xuyên tạc, một từ ngữ không được chú ý đầy đủ trong bản hợp
đồng kinh tế... hoặc chỉ cần hành động chậm hoặc hành động quá vội vã là
đã có thể dẫn đến thiệt hại lớn về kinh tế; ngược lại, có khi chỉ cần nhanh
một chút, chỉ cần biết cách quảng cáo kịp thời và đúng đắn, chỉ cần một
thông tin kịp thời, chính xác cũng có thể đạt tới thắng lợi không nhỏ. Sự kết
hợp giữa xuất phát từ thực tế khách quan và phát huy nỗ lực chủ quan, kết
hợp giữa tình cảm, ý chỉ với trí tuệ, trí tuệ ở đây phải đạt đến độ thành thực
và nhuần nhuyễn, phải đạt đến nghệ thuật. Với các cán bộ thực hiện nghiệp
vụ cụ thể, ngoài yêu cầu phản ánh trung thực, chính xác kịp thời, đầy đủ các
số liệu, các chỉ tiêu phản ánh hoạt động kinh doanh thực tế của xí nghiệp,
còn cần chủ động phân tích các số liệu, nắm bắt mọi tình hình, đề xuất
những biện pháp hành động cho lãnh đạo. Muốn vậy, trước hết cần xuất phát
từ thực tế khách quan, đồng thời phát huy nỗ lực chủ quan, đảm bảo sự
thống nhất giữa nhiệt tình, ý trí cách mạng và tri thức khoa học trong công
tác nghiên cứu, lập kế hoạch, dự báo về kinh tế cũng như trong việc thực
hiện các nghiệp vụ cụ thể. Cần đấu tranh chống chủ nghĩa chủ quan, duy ý
chí, tư tưởng nóng vội, phiêu lưu, mạo hiểm, bất chấp quy luật khách quan,
cần rèn luyện tính kiên nhẫn, chăm chỉ, cẩn thận, tinh thần thực sự cầu thị,
tinh thần ham học hỏi, tính chủ động, nhạy bén, dám nghĩ, dám làm, chủ
động sáng tạo ra thời cơ, giành lấy thời cơ. Rèn luyện được những phẩm
chất ấy, người cán bộ khoa học kinh tế không những sẽ đứng vững trên vị trí
lOMoARcPSD| 23022540
13
của mình mà còn có thể vượt lên để có thể trở thành những nhà kinh doanh,
những cán bộ quản lý giỏi.
Nhắc lại thấy rõ tác động tiêu cực của ý thức đối với vật chất, thấy rõ tác
động qua lại giữa kinh tế và chính trị trước khi có công cuộc đổi mới. Phép
BCDV khẳng định rằng nếu ý thức là tiêu cực thì sớm muộn sẽ bị đào thải.
KẾT LUẬN
Xây dựng CNXH ở Việt Nam là một sự nghiệp rất khó khăn, phức tạp, nó
như cuộc chiến đấu kháng chiến trường kì của Đảng và nhà nước.
Với những bién động trước tình hình kinh tế của nhiều nước trên thế giới
đòi hỏi Đảng và nhà nước phải kiên trì, giữ vững lòng tin, quyết tâm khắc
phục khó khăn, đồng thời phải tỉnh táo, nhạy bén thích ứng kịp thời với thực
tế biến đổi từng ngày từng giờ.
Quán triệt phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh, vận dụng thành thạo phép BCDV vào việc nghiên cứu và quản lý
kinh tế, phát huy mạnh mẽ quan hệ giữa kinh tế và chính trị trong công cuộc
đổi mới nhằm tăng trưởng nền kinh tế quốc dân, nhất định chúng ta sẽ trở
thành những nhà quản lý giỏi góp phần xứng đáng vào công cuộc đổi mới
của đất nước, tạo điều kiện để nền kinh tế Việt Nam phát triển cao, từ đó
nâng cao vị trí Việt Nam trên chính trường quốc tế, góp phần củng cố sự ổn
định về chính trị của đất nước. Đó là lương tâm của những người làm công
tác quản lý kinh tế chính trị.
Trên đây là bài tiểu luận của em về vấn đề vận dụng mối quan hệ biện
chứng giữa vật chất và ý thức vào công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay. Bài
viết còn chưa chuyên sâu do thời gian nghiên cứu có hạn nên rất cần được
nghiên cứu chuyên sâu hơn và tìm tòi mở rộng thêm về phương thức để phát
triển nền kinh tế ở nước ta trong thời kì hội nhập sâu như hiện nay.
lOMoARcPSD| 23022540
Tài liệu tham khảo
1. Giáo trình những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin, NXB chính trị
quốc gia, tháng 9 năm 2012 2. Văn kiện đại hội toàn quốc lần VI
3. Văn kiện đại hội toàn quốc lần VII
4. Văn kiện đại hội toàn quốc lần VIII
5. Kinh tế 1998 -1999 Việt Nam và thế giới (thời báo kinh tế Việt Nam)
6. Thời báo kinh tế Việt Nam
7. Tạp chí nghiên cứu kinh tế.
lOMoARcPSD| 23022540
15
| 1/16

Preview text:

lOMoAR cPSD| 23022540
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
Viện đào tạo Tiên tiến, CLC và POHE
TIỂU LUẬN Học phần: Triết học
Chủ đề: Lý luận của CN Mác Lênin về mối quan hệ giữa VC
và YT. Sự vận dụng cảu Đảng ta trong quá trình xây dựng KTTT ở VN hiện nay
Hà Nội, 31 tháng 1, năm 2023 LỜI NÓI ĐẦU
Trong suốt thời kì đổi mới sau chiến tranh, Đảng và Nhà nước ta đã vận
dụng thành công tư tưởng Hồ Chí Minh vào việc phát triển kinh tế, xã hội. lOMoAR cPSD| 23022540
Quan hệ giữa nước ta và các nước trên thế giới ngày càng được mở rộng.
Cách mạng khoa học và công nghệ tiếp tục phát triển với trình độ ngày càng
cao, thúc đẩy quá trình chuyển dịch kinh tế và đời sống xã hội các nước đều có cơ hội phát triển.
Tuy nhiên, do ưu thế công nghệ và thị trường thuộc về các nước phát triển
khiến cho các nuớc chậm phát triển như Việt Nam đứng trước một thách
thức to lớn. Nguy cơ tụt hậu ngày càng cao, mà điểm xuất phát của nước ta
vừa thấp, vừa phải đi lên từ môi trường cạnh tranh quyết liệt.
Trước tình hình đó, cũng với xu thế phát triển của thời đại, Đảng và Nhà
nước cần tiếp tục tiến hành đẩy mạnh công cuộc đổi mới toàn diện đất nước,
trong đó đổi mới kinh tế đóng vai trò then chốt, giữ vai trò chủ đạo. Đổi mới
kinh tế là một vấn đề cần phải được ưu tiên. Thêm vào đó, theo lý luận của
CN Mác – Lênin, có một sự tương quan chặt chẽ giữa Kiến trúc thượng tầng
của xã hội và mối quan hệ giữa VC và YT. Bởi giữa đổi mới kinh tế và đổi
mới chính trị có mối quan hệ giữa vật chất và ý thức. Theo đó cho phép
chúng ta vận dụng vào mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị ,giúp cho công
cuộc đổi mới của đất nước ngày càng giàu mạnh.
Với ý nghĩa đó, em đã chọn đề tài: " Lý luận của CN Mác Lênin về mối
quan hệ giữa VC và YT. Sự vận dụng cảu Đảng ta trong quá trình xây dựng KTTT ở VN hiện nay. ” Mục lục
1. Lý lu n c a CN Mác Lênin vêề mốối quan h gi a VC và YT……………………………ậ ủ ệ ữ 3
1.1. V t chấất……………………………………………………..ậ
………………………………………………………….3 1.1.1. Ph m trù v t
chấất……………………………………………………………………………….…. ạ ậ 3 1 lOMoAR cPSD| 23022540
1.1.2. Phương th c và hình th c tồồn t i c a v t
chấất………………………………………4ứ ứ ạ ủ ậ
1.1.3. Tính thồấng nhấất v t chấất c a thếấ gi
i…………………………………………………….ậ ủ ớ 5 1.2. Ý th
c………………………………………………………………………………………………………. ứ 5
1.2.1. Nguồồn gồấc c a ý th
c…………………………………………………………………………….ủ ứ 5
1.2.2. B n chấất và kếất cấấu c a ý th
c……………………………………………………………….ả ủ ứ 6
1.3. Mồấi quan h gi a v t chấất và ý th
c…………………………………………………………ệ ữ ậ ứ 7
1.3.1. Vai trò c a v t chấất đồấi v i ý th
c…………………………………………………….……ủ ậ ớ ứ 7
1.3.2. Vai trò c a ý th c đồấi v i v t
chấất………………………………………………………….ủ ứ ớ ậ 8
2. V n d ng c a nậ ụ
ủ ước Vi t Nam vào cống cu c đ i m i hi n
nay……………...…9ệ ộ ổ ớ ệ
2.1. V n d ng mồấi quan h gi a v t chấất và ý th c vào mồấi quan hậ ụ ệ ữ ậ ứ
ệ bi n ch ngệ ứ gi a kinh tếấ và chính tr
……………………………………………………………………………….…..9ữ ị
2.2. V n d ng mồấi quan h gi a v t hấất và ý th c trong vi c xấy d ng kiếấn trúc ậ ụ ệ ữ ậ ứ ệ ự thượng tấồng m i nớ ở ước ta hi n ệ
nay………………………………………………………………………………………………………….……….9 lOMoAR cPSD| 23022540 Kếất lu
n…………………………………………………………………………………………………….……13ậ
Tài li u tham kh o…………………………………………………………………………………….……13ệ ả NỘI DUNG
1. Quan điểm duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức 1.1 Vật chất 1.1.1
. Phạm trù vật chất
Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, sự phát triển của khoa học tự nhiên đặc
biệt là những phát minh của Rơnghen, Béccơren, Tômxơn, v.v… đã bác bỏ
quan điểm của các nhà duy vật về những chất được coi là “giới hạn tột
cùng”, từ đó dẫn tới cuộc khủng hoảng về thế giới quan trong lĩnh vực
nghiên cứu vật lí học. Trong bối cảnh lịch sử đó, V.I.Lênin đã tiến hành tổng
kết những thành tựu khoa học tự nhiên của thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX và từ
nhu cầu của cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm, người đã vạch rõ ý đồ
xuyên tạc những thành tựu khoa học tự nhiên của những nhà triết học duy
tâm, khẳng định bản chất vật chất của thế giới và đưa ra định nghĩa kinh điển về vật chất:
“Vật chất là phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem
lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp
lại, phản ánh và tồn tại không phụ thuộc vào cảm giác.”
Theo định nghĩa của V.I.Lênin về vật chất:
Thứ nhất, cần phân biệt khái niệm “vật chất” với tư cách là phạm trù triết
học (tức phạm trù khái quát thuộc tính cơ bản nhất, phổ biến nhất của mọi
tồn tại vật chất và được xác định từ góc độ giải quyết vấn đề cơ bản của triết 3 lOMoAR cPSD| 23022540
học) với khái niệm “vật chất” được sử dụng trong các khoa học chuyên
ngành (tức khái niệm dùng để chỉ những dạng vật chất cụ thể, cảm tính;
những biểu hiện cụ thể của thế giới vật chất tự nhiên hay xã hội)
Thứ hai, thuộc tính cơ bản nhất, phổ biến nhất của mọi dạng vật chất
được khái quát trong phạm trù vật chất của chủ nghĩa duy vật biện chứng là
thuộc tính tồn tại khách quan, tức tồn tại ngoài ý thức, độc lập, không phụ
thuộc vào ý thức con người, cho dù con người có nhận thức được hay không nhận thức được nó.
Thứ ba, vật chất, dưới hình thức cụ thể của nó là cái có thể gây nên cảm
giác ở con người khi nó trực tiếp hay gián tiếp tác động lên giác quan của
con người; ý thức của con người là sự phản ánh đối với vật chất, vật chất là
cái được ý thức phản ánh.
1.1.2 Phương thức và hình thức tồn tại của vật chất
Theo quan điểm duy vật biện chứng, vận động là phương thức tồn tại của
vật chất; không gian, thời gian là những hình thức tồn tại của vật chất.
- Vận động là phương thức tồn tại của vật chất
Ph.Ăngghen định nghĩa: “Vận động, hiểu theo nghĩa chung nhất, tức được
hiểu là một phương thức tồn tại của vật chất, là một thuộc tính cố hữu của
vật chất, thì bao gồm tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ
trụ, kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy.
- Không gian, thời gian là những hình thức tồn tại của vật chất
Mọi dạng cụ thể của vật chất đều tồn tại ở một vị trí nhất định, có một
quảng tính (chiều cao, chiều rộng, chiều dài) nhất định và tồn tại trong các
mối tương quan nhất định (trước hay sau, trên hay dưới, bên phải hay bên
trái, v.v…) với những dạng vật chất khác. Những hình thức tồn tại như vậy
được gọi là không gian. Mặt khác, sự tồn tại của sự vật còn được thể hiện ở lOMoAR cPSD| 23022540
quá trình biến đổi: nhanh hay chậm, kế tiếp và chuyển hóa,… Những hình
thức tồn tại như vậy được gọi là thời gian.
1.1.3 . Tính thống nhất vật chất của thế giới
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định: bản chất của thế giới là vật
chất, thế giới thống nhất ở tính vật chất của nó. Theo quan điểm đó:
• Chỉ có một thế giới duy nhất là thế giới vật chất; thế giới vật chất là
cái có trước, tồn tại khách quan, độc lập với ý thức con người.
• Thế giới vật chất tồn tại vĩnh viễn, vô tận, vô hạn, không được sinh ra và không bị mất đi.
• Mọi tồn tại của thế giới vật chất đều có mối liên hệ khách quan, thống
nhất với nhau, biểu hiện ở chỗ chúng đều là những dạng cụ thể của vật
chất, là những kết cấu vật chất, có nguồn gốc vật chất, do vật chất sinh
ra và cũng chịu sự chi phối của những quy luật khách quan phổ biến
của thế giới vật chất. Trong thế giới vật chất không có gì khác ngoài
những quá trình vật chất đang biến đổi và chuyển hóa lẫn nhau; là
nguồn gốc, nguyên nhân và kết quả của nhau. 1.2 Ý thức
1.2.1 . Nguồn gốc của ý thức
Theo quan điểm duy vật biện chứng, ý thức có nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội.
- Nguồn gốc tự nhiên của ý thức: Nhân tố tạo thành nguồn gốc tự
nhiên của ý thức là bộ óc con người và hoạt động của nó cùng mối quan hệ
giữa con người với thế giới khách quan; trong đó thế giới khách quan tác
động đến bộ óc con người, từ đó tạo thành ý thức của con người về thế giới khách quan. 5 lOMoAR cPSD| 23022540
- Nguồn gốc xã hội của ý thức: có nhiều yếu tố cấu thành nguồn gốc
xã hội của ý thức nhưng trong đó cơ bản nhất và trực tiếp nhất là nhân tố lao động và ngôn ngữ.
1.2.2 . Bản chất và kết cấu của ý thức
- Bản chất của ý thức
Ý thức là sự phản ánh có tính chất năng động, sáng tạo của bộ óc con
người về thế giới khách quan; là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.
Ý thức là một hiện tượng xã hội và mang bản chất xã hội. Sự ra đời và tồn
tại của ý thức gắn liền với hoạt động thực tiễn, chịu sự chi phối không chỉ
của các quy luật tự nhiên mà còn của các quy luật xã hội; được quy định bởi
nhu cầu giao tiếp xã hội và các điều kiện sinh hoạt hiện thực của đời sống xã
hội. Với tính năng động, ý thức đã sáng tạo lại hiện thực theo nhu cầu của thực tiễn xã hội. - Kết cấu của ý thức
Có ba yếu tố cơ bản hợp thành ý thức: tri thức, tình cảm và lí chí, trong
đó tri thức là yếu tố quan trọng nhất. Ngoài ra, ý thức có thể bao gồm yếu tố
khác. Căn cứ vào trình độ phát triển của nhận thức, tri thức có thể chia
thành: tri thức đời thường và tri thức khoa học, tri thức kinh nghiệm và tri
thức lý luận, tri thức cảm tính và tri thức lý tính,…
Tất cả các yếu tố tạo thành ý thức có mối quan hệ biện chứng với nhau,
song tri thức là yếu tố quan trọng nhất; là phương thức tồn tại của ý thức,
đồng thời là nhân tố định hướng đối với sự phát triển và quyết định mức độ
biểu hiện của các yếu tố khác. lOMoAR cPSD| 23022540
1.3 Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
1.3.1 . Vai trò của vật chất đối với ý thức
Trong mối quan hệ với ý thức, vật chất là cái có trước, ý thức là cái có
sau; vật chất là nguồn gốc của ý thức; vật chất quyết định ý thức; ý thức là
sự phản ánh đối với vật chất.
Ý thức là sản phẩm của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc con
người nên chỉ khi có con người mới có ý thức. Trong mối quan hệ giữa con
người với thế giới vật chất thì con người là kết quả của quá trình phát triển
lâu dài của thế giới vật chất, là sản phẩm của thế giới vật chất. Kết luận này
đã được chứng minh bởi sự phát triển hết sức lâu dài của khoa học về giới tự
nhiên; nó là một bằng chứng khoa học chứng minh quan điểm: vật chất có trước, ý thức có sau.
Các yếu tố tạo thành nguồn gốc tự nhiên, nguồn gốc xã hội của ý thức (bộ
óc người, thế giới khách quan tác động đến bộ óc gây ra các hiện tượng
phản ánh, lao động, ngôn ngữ), hoặc là chính bản thân thế giới vật chất (thế
giới khách quan), hoặc là những dạng tồn tại của vật chất (bộ óc người, hiện
tượng phản ánh, lao động, ngôn ngữ) nên vật chất là nguồn gốc của ý thức.
Ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất, là hình ảnh chủ quan về thế giới
vật chất nên nội dung của ý thức được quyết định bởi vật chất. Sự vận động
và phát triển của ý thức, hình thức biểu hiện của ý thức bị các quy luật sinh
học, các quy luật xã hội và sự tác động của môi trường sống quyết định.
Những yếu tố này thuộc lĩnh vực vật chất nên vật chất không chỉ quyết định
nội dung mà còn quyết định cả hình thức biểu hiện cũng như sự biểu hiện của ý thức.
1.3.2 . Vai trò của ý thức đối với vật chất
Trong mối quan hệ đối với vật chất, ý thức có thể tác động trở lại vật chất
thông qua hoạt động thức tiễn của con người. 7 lOMoAR cPSD| 23022540
Vì ý thức là ý thức của con người nên nói đến vai trò của ý thức là nói
đến vai trò của con người. Bản thân ý thức tự nó không trực tiếp thay đổi
được gì trong hiện thực. Muốn thay đổi hiện thực con người phải tiến hành
những hoạt động vật chất. Song, mọi hoạt động của con người đều do ý thức
chỉ đạo, nên vai trò của ý thức không phải trức tiếp tạo ra hay thay đổi thế
giới vật chất mà nó trang bị cho con người tri thức về thực tại khách quan,
trên cơ sở ấy con người xác định mục tiêu, đề ra phương hướng, xây dựng
kế hoạch, lựa chọn phương pháp, biện pháp, công cụ phương tiện, v.v… để
thực hiện mục tiêu của mình. Ở đây, ý thức đã thể hiện sự tác động của mình
đối với vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người.
Sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất diễn ra theo hai hướng: tích
cực hoặc tiêu cực. Nếu con người nhận thức đúng, có tri thức khoa học, có
tình cảm cách mạng, có nghị lực, có ý chí thì hành động của con người phù
hợp với các quy luật khách quan, con người có năng lực vượt qua những
thách thức trong quá trình thực hiện mục đích của mình, thế giới được cải
tạo – đó là sự tác động tích cực của ý thức. Còn nếu ý thức của còn người
phản ánh không đúng hiện thực khách quan, bản chất, quy luật khách quan
thì ngay từ đầu, hướng hành động của con người đã đi ngược các quy luật
khách quan, hành động ấy sẽ có tác động tiêu cực đối với hoạt động thực
tiễn, đối với hiện thực khách quan.
Như vậy, bằng việc định hướng cho hành động của con người, ý thức có
thể quyết định hành động của con người, hoạt động thực tiễn của con người
đúng hay sai, thành công hay thất bại, hiệu quả hay không hiệu quả.
Tìm hiểu về vật chất, về nguồn gốc, bản chất của ý thức, về vai trò của
vật chất, của ý thức có thể thấy: không bao giờ và không ở đâu ý thức lại
quyết định vật chất. Trái lại, vật chất là nguồn gốc của ý thức, quyết định nội
dung và khả năng sáng tạo của ý thức; là điều kiện tiên quyết để thực hiện ý lOMoAR cPSD| 23022540
thức; ý thức chỉ có khả năng tác động trở lại vật chất; sự tác động ấy không
phải tự thân mà phải thông qua hoạt động thực tiễn (hoạt động vật chất của
con người. Sức mạnh của ý thức trong sự tác động này phụ thuộc vào trình
độ phản ánh của ý thức, mức độ thâm nhập của ý thức vào những người
hành động, trình độ tổ chức của con người và những điều kiện vật chất, hoàn
cảnh vật chất, trong đó con người hành động theo định hướng của ý thức.
2. Sự vận dụng của Đảng ta trong quá trình xây dựng KTTT ở VN hiện nay.
2.1 Vận dụng mối quan hệ giữa vật chất và ý thức vào mối quan hệ
biện chứng giữa kinh tế và chính trị:
Như chúng ta đã biết, giữa vật chất và ý thức có mối quan hệ biện chứng
lẫn nhau .Nhân tố vật chất giữ vai trò quyết định còn nhân tố ý thức có tác
động trở lại nhân tố ý thức. Nhân tố vật chất trong nhiều trường hợp ý thức
có tác dụng quyết định đến sự thành bại của con người. Điều này thể hiện rõ
trong các đường lối chủ trương, chính sách đổi mới kinh tế của Đảng. Vai
trò tích cực của ý thức chỉ được trong một thời gian nhất định và điều kiện
cụ thể vì thế giới vẫn tồn tại khách quan và vận động, theo đó ý thức phải
biến đổi phù hợp với nó, nếu tiêu cực thì sớm muộn cũng bị đào thải ,nhưng
xét đến cùng thì ý thức vẫn là nhân tố thứ hai quyết định .Và ta thấy nếu
kinh tế của một nước giàu, xã hội phát triển cao nhưng chính trị mất ổn định
,luôn đấu tranh giai cấp …thì đất nước đó không thể yên ấm hoà bình được
và cuộc sống người dân tuy đầy đủ ,sung túc nhưng sẽ luôn lo âu .Do đó nếu
chính trị ổn định thì dân mới yên tâm làm ăn và xây dựng một xã hội phát
triển ,đất nước giàu mạnh.
Mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị thay đổi theo từng hình thái kinh tế
CXNT-CHNL-PK-TBCN-CNXH. Trình độ tổ tổ chức quản lý và tính chất
hiện đại của nền sản xuất sẽ là nhân tố quy định trình độ và mức sống của xã
hội ,bởi sản xuất vật chất là nền tảng hình thành tất cả các quan hệ xã hội 9 lOMoAR cPSD| 23022540
đời sống tinh thần của xã hội. Hiện thực lịch sử đã chỉ ra rằng mọi quan hệ
của đời sống xã hội bao gồm quan hệ chính trị ,nhà nước pháp quyền,đạo
đức, khoa học, tôn giáo… đều hình thành biến đổi gắn liền với kinh tế và
sản xuất nhất định .Trong đó theo Mác quan hệ sản xuất giữa người với
người là cơ bản quyết định tất cả các quan hệ khác.
2.2 Vận dụng mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong việc xây dựng
nền kinh tế mới ở nước ta hiện nay.
Như chúng ta đã biết sau khi giải phóng miền nam thống nhất đất nước
,nền kinh tế miến bắc bị suy giảm nghiêm trọng.Cơ sở vật chất kĩ thuật yếu
kém,cơ cấu kinh tế mất cân đối ,năng suất lao động thấp…sản xuất nông
nghiệp chưa cung cấp đủ lương thực cho dân ,nguyên liệu cho công nghiệp
,hàng hoá cho xuất khẩu ,ngoài ra còn bị tàn phá nặng nề bởi đế quốc Mĩ .ở
miền nam sau 20 năm chiến tranh nền kinh tế bị đảo lộn ,nông nghiệp bị
hoang hoá ở nhiều vùng…
Trước tình hình đó đại hội Đảng ta lần thứ IV đã đề ra chỉ tiêu và kế
hoạch 5 năm 1976-1980 về xây dựng và phát triển vượt quá khả năng kinh
tế 1975 phấn đấu dạt 21tr tấn lương thực 1tr tấn cá biển ,1tr ha khai hoang ,
1tr200ha rừng mới 10tr tấn than sạch …ngoài ra còn đề xuất xây dựng thêm
các cơ sở mới về công nghiệp như cơ khí và đặc biệt là phải cải tạo XHCN ở
miền nam .Những chủ trương chính sách sai lầm đó đã gây tổn hại đến nền
kinh tế cuộc sóng nhân dân…đến hết 1980 ,nhiều chỉ tiêu đề ra chỉ đạt được
50-60%, nền kinh tế tăng trưởng chậm ,tổng sản phẩm xã hội bình quân là
1,5% công nghiệp tăng 2,6% nông nghiêp giảm 0,15%.
Đại hội Đảng lần V vẫn chưa tìm ra nguyên nhân dẫn tới sự trì trệ ,đồng
thời cũng chưa đề ra các chính sách mới cho nền kinh tế 1981-1985 . Chúng
ta chưa khắc phục chủ quan trì trệ trong bố trí cơ cấu kinh tế ,cải tạo XHCN lOMoAR cPSD| 23022540
và quản lý kinh tế lại phạm những sai lầm mới trong lĩnh vực phân phối lưu
thông .Nhìn chung vẫn chưa đạt được mục tiêu đại hội V đề ra .
Tất nhiên ngoài những yếu tố chủ quan còn có yếu tố khách quan dẫn đến sự
trì trệ của nền kinh tế do chiến tranh ,bối cảnh quốc tế … song chúng ta vẫn
mắc sai lầm chủ quan trong việc quản lý cán bộ ,phát triển LLSX.
Đổi mới là sự nghiệp khó khăn chưa có tiền lệ nhưng thực tiễn những
năm qua đã chứng tỏ đường lối đổi mới, chủ trương chính sách lớn về đổi
mới, chủ trương chính sách lớn về đổi mới là rất đúng đắn, bước đi là thích
hợp. Xây dựng chủ nghĩa xã hội còn là sự nghiệp rất mới mẻ, khó khăn,
phức tạp, đòi hỏi phải phát huy cao độ vai trò của nhân tố chủ quan, của tính
năng động chủ quan, đòi hỏi nhiều công phu nghiên cứu để khám phá, tìm
tòi ra mô hình thích hợp với thực tiễn Việt nam. Những diễn biến phức tạp
của tình hình thế giới, những biến động nhiều mặt của đất nước ta trong quá
trình đổi mới toàn diện xã hội càng đòi hỏi chúng ta phải kiên trì, giữ vững
lòng tự tin, quyết tâm khắc phục khó khăn đồng thời phải tỉnh táo, thông
minh, nhậy bén để thích ứng kịp thời với tình hình thực tế biến đổi từng
ngày, từng giờ. Để phát huy tính năng động chủ quan phải kết hợp chặt chẽ
giữa nhiệt tình cách mạng và tri thức khoa học. Rõ ràng việc đảm bảo sự
thống nhất giữa nhiệt tình, ý thức cách mạng và tri thức khoa học là hết sức
cấp bách và cần thiết. Bởi vì, tri thức khoa học có được hay không cũng nhờ
lòng hiểu biết, trí thông minh, ý trí quyết tâm học tập và nhận thức khoa
học; ngược lại nếu trí thức khoa học phát huy được tác dụng trong thực tế
thì nó lại trở thành động lực tăng thêm ý trí và nhiệt tình cách mạng. Người
cán bộ kinh tế phải quán triệt sâu sắc và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác -
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, trước hết là phương pháp luận toàn diện và
phép biện chứng duy vật vào việc nghiên cứu, đề xuất và áp dụng các chủ
trương chính sách về kinh tế, các phương pháp, cơ chế quản lý kinh tế tài
chính theo tinh thần đổi mới để thúc đẩy nền kinh tế của nước ta vượt qua 11 lOMoAR cPSD| 23022540
tình trạng nước nghèo và kém phát triển, tránh khỏi nguy cơ tụt hậu xa hơn
về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và nguy cơ chệch hướng xã hội
chủ nghĩa. Trong điều kiện xoá bỏ cơ chế quan liêu, bao cấp cũng có nghĩa
lã đòi hỏi người làm công tác quản ký kinh tế, tài chính phải năng động sáng
tạo, nhạy bén, nắm bắt được thực tế và quy luật vận động và phát triển của
nó. Kinh nghiệm cho thấy rằng, đôi khi chỉ cần một nhận định không đúng,
một thông tin xuyên tạc, một từ ngữ không được chú ý đầy đủ trong bản hợp
đồng kinh tế... hoặc chỉ cần hành động chậm hoặc hành động quá vội vã là
đã có thể dẫn đến thiệt hại lớn về kinh tế; ngược lại, có khi chỉ cần nhanh
một chút, chỉ cần biết cách quảng cáo kịp thời và đúng đắn, chỉ cần một
thông tin kịp thời, chính xác cũng có thể đạt tới thắng lợi không nhỏ. Sự kết
hợp giữa xuất phát từ thực tế khách quan và phát huy nỗ lực chủ quan, kết
hợp giữa tình cảm, ý chỉ với trí tuệ, trí tuệ ở đây phải đạt đến độ thành thực
và nhuần nhuyễn, phải đạt đến nghệ thuật. Với các cán bộ thực hiện nghiệp
vụ cụ thể, ngoài yêu cầu phản ánh trung thực, chính xác kịp thời, đầy đủ các
số liệu, các chỉ tiêu phản ánh hoạt động kinh doanh thực tế của xí nghiệp,
còn cần chủ động phân tích các số liệu, nắm bắt mọi tình hình, đề xuất
những biện pháp hành động cho lãnh đạo. Muốn vậy, trước hết cần xuất phát
từ thực tế khách quan, đồng thời phát huy nỗ lực chủ quan, đảm bảo sự
thống nhất giữa nhiệt tình, ý trí cách mạng và tri thức khoa học trong công
tác nghiên cứu, lập kế hoạch, dự báo về kinh tế cũng như trong việc thực
hiện các nghiệp vụ cụ thể. Cần đấu tranh chống chủ nghĩa chủ quan, duy ý
chí, tư tưởng nóng vội, phiêu lưu, mạo hiểm, bất chấp quy luật khách quan,
cần rèn luyện tính kiên nhẫn, chăm chỉ, cẩn thận, tinh thần thực sự cầu thị,
tinh thần ham học hỏi, tính chủ động, nhạy bén, dám nghĩ, dám làm, chủ
động sáng tạo ra thời cơ, giành lấy thời cơ. Rèn luyện được những phẩm
chất ấy, người cán bộ khoa học kinh tế không những sẽ đứng vững trên vị trí lOMoAR cPSD| 23022540
của mình mà còn có thể vượt lên để có thể trở thành những nhà kinh doanh,
những cán bộ quản lý giỏi.
Nhắc lại thấy rõ tác động tiêu cực của ý thức đối với vật chất, thấy rõ tác
động qua lại giữa kinh tế và chính trị trước khi có công cuộc đổi mới. Phép
BCDV khẳng định rằng nếu ý thức là tiêu cực thì sớm muộn sẽ bị đào thải. KẾT LUẬN
Xây dựng CNXH ở Việt Nam là một sự nghiệp rất khó khăn, phức tạp, nó
như cuộc chiến đấu kháng chiến trường kì của Đảng và nhà nước.
Với những bién động trước tình hình kinh tế của nhiều nước trên thế giới
đòi hỏi Đảng và nhà nước phải kiên trì, giữ vững lòng tin, quyết tâm khắc
phục khó khăn, đồng thời phải tỉnh táo, nhạy bén thích ứng kịp thời với thực
tế biến đổi từng ngày từng giờ.
Quán triệt phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh, vận dụng thành thạo phép BCDV vào việc nghiên cứu và quản lý
kinh tế, phát huy mạnh mẽ quan hệ giữa kinh tế và chính trị trong công cuộc
đổi mới nhằm tăng trưởng nền kinh tế quốc dân, nhất định chúng ta sẽ trở
thành những nhà quản lý giỏi góp phần xứng đáng vào công cuộc đổi mới
của đất nước, tạo điều kiện để nền kinh tế Việt Nam phát triển cao, từ đó
nâng cao vị trí Việt Nam trên chính trường quốc tế, góp phần củng cố sự ổn
định về chính trị của đất nước. Đó là lương tâm của những người làm công
tác quản lý kinh tế chính trị.
Trên đây là bài tiểu luận của em về vấn đề vận dụng mối quan hệ biện
chứng giữa vật chất và ý thức vào công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay. Bài
viết còn chưa chuyên sâu do thời gian nghiên cứu có hạn nên rất cần được
nghiên cứu chuyên sâu hơn và tìm tòi mở rộng thêm về phương thức để phát
triển nền kinh tế ở nước ta trong thời kì hội nhập sâu như hiện nay. 13 lOMoAR cPSD| 23022540
Tài liệu tham khảo
1. Giáo trình những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin, NXB chính trị
quốc gia, tháng 9 năm 2012 2. Văn kiện đại hội toàn quốc lần VI
3. Văn kiện đại hội toàn quốc lần VII
4. Văn kiện đại hội toàn quốc lần VIII
5. Kinh tế 1998 -1999 Việt Nam và thế giới (thời báo kinh tế Việt Nam)
6. Thời báo kinh tế Việt Nam
7. Tạp chí nghiên cứu kinh tế. lOMoAR cPSD| 23022540 15