



















Preview text:
lOMoAR cPSD| 61432759
Đề tài: Lý luận của Mác - Lênin về tri thức, vai trò của tri thức trong
cuộc sống và sự vận dụng của sinh viên
Họ tên sinh viên: Trần Thị Kim Chi MSV: 11232587 Lớp: 65A KTPT Năm học: 2023 - 2024
Giáo viên hướng dẫn: Thầy Lê Ngọc Thông lOMoAR cPSD| 61432759 MỤC LỤC
PHẦN 1: TỔNG LUẬN ........................................................................................... 2
PHẦN 2: NỘI DUNG .............................................................................................. 3
I. Quan niệm của Mác - Lênin về tri thức .......................................................... 3
1.1. Khái niệm về tri thức .................................................................................... 3
1.2. Phân tích lý luận của triết học Mác - Lênin về tri thức ............................... 4
II. Vai trò của tri thức trong cuộc sống ............................................................... 5
2.1. Vai trò của tri thức được vận dụng trong thực tiễn đời sống ....................... 5
2.2. Vai trò của trí thức ........................................................................................ 7
III. Sự vận dụng của sinh viên ............................................................................. 9
3.1. Thực tế vận dụng vai trò của tri thức đối với sinh viên ............................... 9
3.2. Định hướng vận dụng ................................................................................. 15
PHẦN 3. KẾT LUẬN ............................................................................................ 19
TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................................... 20
PHẦN 1: TỔNG LUẬN
Không thể phủ nhận tầm quan trọng của tri thức trong cuộc sống của con người
từ thuở sơ khai đến thời điểm hiện tại. Tri thức là hệ thống những thông tin, kiến
thức, dữ kiện, kĩ năng, kinh nghiệm có được qua việc trải nghiệm, đúc rút từ thực tế
cuộc sống hay thông qua sự dạy bảo, hướng dẫn, giáo dục. Trong quá trình sống và
trải nghiệm, con người bắt đầu có những tích lũy về tri thức. Ban đầu có thể là những
tri thức cụ thể, riêng lẻ, cảm tính, song hành cùng với sự phát triển và tiến bộ của
sản xuất, đời sống, nhận thức và tri thức của con người cũng dần được hoàn thiện,
có tính hệ thống và logic hơn. Nhà văn Francis Bacon từng khẳng định “Tri thức là
sức mạnh”, vì thế có thể nói con người coi tri thức là “thanh gươm thần”, là vũ khí
có sức thay chuyển thế giới và nhân loại. Xã hội loài người càng phát triển, tri thức
càng được coi trọng và đó là dấu hiệu cho một nền tri thức tiến bộ, có nhiều rộng mở.
Trải qua hai nền văn minh, ngày nay chúng ta đang tiến đến ngưỡng cửa của
nền văn minh thứ ba – văn minh trí tuệ, và đặc biệt là với cuộc cách mạng số, cách
mạng 4.0 càng đòi hỏi con người phải biết chuyển hóa những kiến thức rộng lớn
thành tri thức của riêng mình. Là lớp người tiếp nối, đóng góp vào sự phát triển của lOMoAR cPSD| 61432759
đất nước, sinh viên cũng cần phải biết vận dụng tri thức và trong các hoạt động
nghiên cứu và học tập của mình. Để đạt được hiệu quả trong việc học tập và nghiên
cứu cũng như tích lũy kiến thức cho đời sống sau này, sinh viên cần biết tiếp thu và
vận dụng một cách đúng đắn. Đặc biệt với sinh viên, những thế hệ trẻ có sự năng
động, có sức sáng tạo tiềm ẩn cũng như có cơ hội trải nghiệm những điều mới, ở họ
có sự dám dấn thân vì vậy khi có tri thức, họ sẽ vận dụng tri thức vào cuộc sống học
tập và xã hội một cách có hiệu quả, từ đó tạo nên những thành tựu có ý nghĩa, tạo
nên những giá trị không chỉ cho bản thân họ mà còn cho xã hội.
Vì vậy, em chọn đề tài “Lý luận của Mác - Lênin về tri thức, vai trò của tri
thức trong cuộc sống và sự vận dụng của sinh viên” để có được cái nhìn toàn cảnh
và chi tiết nhất về tri thức, vai trò của tri thức cũng như sự vận dụng cá nhân. Nhưng
cũng vì vốn kiến thức còn hạn hẹp nên trong quá trình làm bài tiểu luận sẽ khó tránh
khỏi những thiếu sót, em rất mong nhận được những sự góp ý, sửa đổi từ thầy để bài
tiểu luận của em được hoàn chỉnh hơn.
Em xin chân thành cảm ơn ạ! PHẦN 2: NỘI DUNG
I. Quan niệm của Mác - Lênin về tri thức
1.1. Khái niệm về tri thức
Theo Giáo trình Triết học Mác - Lênin (dành cho bậc đại học hệ không chuyên
lý luận chính trị), “tri thức” được định nghĩa là sự hiểu biết và nhận thức về một lĩnh
vực, một vấn đề hoặc một khía cạnh của thế giới xung quanh chúng ta. Nó bao gồm
kiến thức, thông tin, kỹ năng và nhận thức được học và tích lũy thông qua quá trình
nghiên cứu, trải nghiệm và giáo dục. Như vậy, có thể nói tri thức là những kiến thức,
kinh nghiệm của con người được đúc kết trong một thời gian dài, trải qua hàng triệu
năm để hình thành nên hệ thống những hiểu biết, kiến thức về những vấn đề, lĩnh
vực như khoa học, lịch sử, đời sống xã hội. Vì vậy tri thức có thể được chia thành
nhiều lĩnh vực khác nhau như tri thức khoa học, tri thức xã hội, tri thức văn hóa, tri
thức kỹ năng và nhiều hơn nữa. Trong triết học Mác – Lênin, tri thức đóng một vai
trò vô cùng quan trọng trong suốt quá trình cách mạng xã hội. Theo họ, tri thức
không chỉ là một phản ánh của thế giới mà còn có tác động tích cực lên thế giới.
Triết học Mác - Lênin coi tri thức là một yếu tố quan trọng trong việc hiểu biết và chuyển đổi thế giới.
Tri thức không phản ánh thực tại mà nó sáng tạo ra thực tại, nó là sự phản ánh
trung thực của thực tiễn đối với tư duy của con người, tính đúng đắn của nó được
thể hiện bằng sự kiểm nghiệm của thực tế, bên cạnh đó còn cần có sự phù hợp với
các nguyên lý của lý luận về nhận thức dựa trên cơ sở của phương pháp duy vật biện lOMoAR cPSD| 61432759
chứng. Tri thức góp phần mở ra những không gian hành động, định ra chuẩn mực
cho thực tiễn và lối sống đồng thời cũng tạo ra “tính chủ thể.”
Tương tự, triết học Mác - Lênin cũng có những khái niệm về trí thức – một
tầng lớp quan trọng với những đóng góp tích cực vào sự thay đổi của thế giới.
V.I.Lênin cho rằng “trí thức bao hầm không chỉ các nhà trước tác mà thôi, mà còn
bao hàm tất cả mọi người có học thức, các đại biểu của những người tự do nói chung,
các đại biểu của lao động trí óc”. Quan niệm của V.I.Lênin về người trí thức cũng rất
rõ ràng “Người trí thức đấu tranh, tuyệt nhiên không phải là bằng cách dùng thực
lực theo lối này hay lối khác, mà là bằng cách dùng những lý lẽ. Vũ khí của họ chính
là sự hiểu biết của cá nhân họ, những năng lực của cá nhân họ, lòng tin của cá nhân
họ. Họ chỉ nhờ vào những phẩm chất cá nhân của họ, cho nên mới có thể đóng được một vai trò nào đó”.
1.2. Phân tích lý luận của triết học Mác - Lênin về tri thức
Tri thức có nhiều lĩnh vực khác nhau như: tri thức về tự nhiên, tri thức
về xã hội, tri thức về con người; và cũng có nhiều cấp độ khác nhau như: tri thức
cảm tính, tri thức lý tính, tri thức kinh nghiệm, tri thức lý luận,…Tích cực tìm hiểu,
tích lũy những tri thức xung quanh chính là một trong những yêu cầu, điều kiện cần
thiết trong cuộc sống con người. Trong triết học Mác – Lênin, tri thức hay kiến thức
đóng một vai trò quan trọng trong quá trình cách mạng xã hội. Tri thức không chỉ là
một yếu tố quan trọng trong việc hiểu biết và chuyển đổi thế giới mà khi tích hợp
với hành động, đó còn là chìa khóa để thay đổi xã hội và tạo ra một xã hội mới, công
bằng và bền vững. Tri thức không phản ánh thực tại mà nó sáng tạo ra thực tại, mở
ra những không gian hành động, định ra chuẩn mực cho thực tiễn và lối sống, nói
như Michel Foucault chính là tri thức cũng tạo ra “tính chủ thể.”
Theo quan điểm của Mác - Lênin, trong suốt quá trình cách mạng xã hội, tri
thức và đặc biệt là tầng lớp trí thức đóng một vai trò to lớn với đời sống tinh thần và
đời sống chính trị, thu hút được sự quan tâm của các nhà kinh điển. C.Mác đã từng
phát biểu: “người tri thức là người sáng tạo tinh thần, sản xuất tinh thần” Người tri
thức không chỉ là người lao động chân tay mà còn có thể sử dụng trí óc, truyền bá
những kiến thức mà mình am hiểu, có được đến cộng đồng hoặc vận dụng kĩ năng,
chuyên môn đó để áp dụng, góp phần phát triển nền kinh tế, xã hội”. Điều quan trọng
là chúng ta cần sử dụng tri thức đó một cách hợp lí. Như Lê-nin đã nói: “Tri thức là
sức mạnh, ai có tri thức, người đó có sức mạnh.” Tri thức là nguồn sức mạnh to lớn,
đóng góp cho sự phát triển, tiến bộ trong cả đời sống xã hội và nền kinh tế. Như vậy
có thể thấy tri thức, trí tuệ có vai trò quan trọng đối với tiến trình phát triển và nhất
là với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. lOMoAR cPSD| 61432759
II. Vai trò của tri thức trong cuộc sống
2.1. Vai trò của tri thức được vận dụng trong thực tiễn đời sống
Tri thức giúp con người hiểu biết và phát triển bản thân. Có tri thức con người
sẽ hiểu biết về thế giới xung quanh, có cơ hội trải nghiệm và tìm hiểu cuộc sống, từ
đó có cho mình những ý nghĩa, những tích lũy, kinh nghiệm để phát triển phát triển.
Tri thức là biển rộng mênh mông, con người không ngừng đi tìm hiểu, khám phá
biển tri thức ấy, kích thích sự tìm tòi của con người để mở rộng khả năng hiểu biết,
vốn kiến thức cũng như để nâng cấp, hoàn thiện bản thân. Có thể nói, tri thức không
chỉ cung cấp cho con người những hiểu biết mà từ đó còn bồi đắp, nuôi dưỡng con
người trưởng thành về tâm hồn, nhân cách, phát triển được tư duy và tính cách đúng đắn.
Tri thức giúp con người xác định được đúng đắn mục tiêu. Tri thức có thể dự
kiến được sự thay đổi, phát triển cũng như sự vận động của sự vật trong tương lai,
qua đó cũng dự báo được những đường lối, phương thức mới cho sự phát triển của
thực tiễn. Tri thức qua đó cũng làm cho các hoạt động của con người trở nên chủ
động hơn, hạn chế được sự tự phát, không đường lối, mất phương hướng trong sự
tìm hiểu, phát triển, kiến thiết những bước đường mới. Nhờ vậy, con người trở nên
tự giác, chủ động hơn với những gì mình cần thực hiện và tìm ra được đường hướng cho chúng.
Tri thức giúp con người có những phương hướng, hành động phù hợp. Lấy ví
dụ với tri thức lý luận có thể dự kiến được những sự phát triển và vận động của sự
vật trong tương lai, sự báo được những phương hướng mới cho sự phát triển của
thực tiễn. Như Lê-nin đã chỉ ra tầm quan trọng của tri thức lý luận trong cách mạng:
“Không có lý luận cách mạng thì không thể có phong trào cách mạng”. Như vậy, chỉ
khi có tri thức, con người nhận thức được những quy luật khách quan, về bản chất
hiện tượng, chúng là tiền đề cho việc xác định được chính xác những mục tiêu và
phương hướng hoạt động sao cho phù hợp với những điều kiện khách quan và chủ động.
Tri thức cũng đóng góp một phần quan trọng vào trong vấn đề chính trị. Người
có tri thức có khả năng phân tích và lý luận một cách đúng đắn. Hơn thế nữa, những
người có tri thức sẽ có tư duy phản biện, có khả năng nghiên cứu và giải quyết vấn
đề thực tiễn một cách đúng đắn, khoa học. Có tri thức, con người sẽ xác định được
đúng đắn tư tưởng, không bị lôi kéo, dụ dỗ bởi những thế lực thù địch, những tư
tưởng, lý luận chính trị lệch lạc, sai lầm. Đó là điều kiện tiên quyết để một bộ máy
nhà nước vững vàng, không bị lung lay bởi những thế lực có tư tưởng, quan điểm
chính trị sai lệch, có tư tưởng chống phá Nhà nước. Có thể thấy có tri thức, nhận lOMoAR cPSD| 61432759
thức về chính trị của con người sẽ trở nên đúng đắn, hành động của con người cũng
từ đó mà trở nên đúng đắn, không lệch lạc về tư tưởng và hành động.
Với mỗi quốc gia, dân tộc nền kinh tế vững mạnh chính là nền tàng cho một
quốc gia cường thịnh, là tấm gương soi chiếu đời sống của nhân dân, sự phát triển
của một quốc gia. Và tri thức là một nhân tố không thể thiếu, đóng góp vào sự phát
triển của một nền kinh tế là tri thức. Sử dụng hiệu quả tri thức là then chốt, là chìa
khóa để thúc đẩy sự phát triển kinh tế, tạo ra nhiều phát minh, sản phẩm có giá trị.
Hơn hết, tri thức còn là lực lượng sản xuất trực tiếp, là nguồn vốn cơ bản có vai trò
quyết định trong sản xuất. Đặc biệt trong nền kinh tế số, nền văn minh trí tuệ, tri
thức là yếu tố quyết định của sản xuất, tăng trưởng kinh tế, thúc đẩy sự phát triển
của đất nước. Tri thức chính là động lực để thúc đẩy kinh tế phát triển, là lực lượng
sản xuất trực tiếp, là nguồn vốn cơ bản có vai trò quyết định sản xuất, là nguồn vốn
vô hình khổng lồ để các quốc gia tận dụng và phát triển nền kinh tế. Theo Alvin
Toffler, tri thức có thể thay thế vật chất, giao thông vận tải, nguồn năng lượng và tiết
kiệm thời gian. Sở hữu trí tuệ là yếu tố quyết định tạo nên sự tăng trưởng mạnh mẽ
cho một nền kinh tế, song song với đó là những cơ hội mang đến cho con người để
tạo ra những thành quả giá trị cho đất nước. Có thể thấy một dẫn chứng điển hình là
Apple đã phát minh ra rất nhiều sản phẩm có giá trị, và lợi nhuận thu được không
chỉ từ việc bán các sản phẩm của mình mà còn đến từ việc bán bản quyền các sản
phẩm. Thực tế đã chỉ ra rằng, những công ty tập trung đầu tư, phát triển về nguồn trí
lực thường đạt được lợi nhuận lớn cũng như có nhiều thành công trong công việc.
Tri thức còn đóng góp vào sự phát triển về xã hội, văn hóa của một đất nước,
đặc biệt trong lĩnh vực giáo dục. Một đất nước có nền tảng giáo dục tốt sẽ tạo ra
những con người có năng lực cũng như phẩm chất đạo đức tốt, phục vụ cho sự tồn
tại và phát triển của đất nước. Đó là lí do ngày nay, các quốc gia luôn đặt sự ưu tiên
cho giáo dục với các chính sách hỗ trợ học sinh, sinh viên, có thể kể đến như Đức,
Áo, Thụy Điển, Việt Nam… Việc phổ cập tri thức đến toàn dân, không để ai bị bỏ
lại phía sau là một biện pháp vô cùng nhân văn của mỗi quốc gia, dân tộc để đất
nước có thể phát triển đồng đều và toàn diện với nguồn tri thức được phổ cập rộng
rãi. Giữa bối cảnh hội nhập và phát triển với thế giới, việc có tri thức – đặc biệt là tri
thức về văn hóa dân tộc sẽ giúp con người không bị hòa tan với những nền văn minh,
văn hóa khác, làm mất đi bản sắc dân tộc. Hơn thế nữa, có văn hóa, con người sẽ có
thể mang văn hóa, truyền thống của dân tộc mình giữ gìn, bảo tồn và mang đến với
bạn bè quốc tế. Đó là một cách mà tri thức đóng góp vào sự phát triển về văn hóa
của một quốc gia, dân tộc. Thêm vào đó, phát triển tri thức còn làm giàu có thêm
thông tin cũng như trau dồi các phẩm chất đạo đức từ đó giúp cho đất nước ta có thể
vươn lên, làm chủ tri thức, làm chủ xã hội với những đổi thay, biến chuyển liên tục.
Có thể nói, tri thức là sức mạnh, nó đem lại nguồn sức mạnh vô hình nhưng cực kì lOMoAR cPSD| 61432759
lớn đến cho một quốc gia, dân tộc. Khi con người có tri thức, họ sẽ làm chủ được
bản thân cũng nwh chủ động được trong cuộc sống của mình, họ biết được con đường
bản thân cần đi, vạch rõ lộ trình trong cuộc sống, thích ứng với sự thay đổi và phát
triển không ngừng của cuộc sống xã hội. Khi tri thức được vận dụng và phục vụ
những yêu cầu của xã hội cũng góp phần thể hiện khả ăng của chính con người, vai
trò đối với xã hội để một quốc gia, dân tộc không ngừng phát triển lớn mạnh.
Có thể nói, tri thức đóng vai trò trong mọi mặt của cuộc sống con người. Tri
thức mang đến những hiểu biết, những cơ hội cũng như giúp con người tìm được
bản ngã, tìm được hướng đi rõ ràng cho bản thân, cho đất nước, cho dân tộc. Khi trở
thành người có tri thức, sống theo chuẩn mực đạo đức tốt, giữ gìn được văn hóa,
truyền thống tốt đẹp của cha ông, sống theo luật pháp, từ đó xã hội sẽ bình ổn và đi
vào phát triể. Tri thức được hình thành nhờ sự tìm tòi tiếp thu không ngừng, một xã
hội sẽ lạc hậu, không có sự phát triển là xã hội không còn xuất hiện những con người
tri thức. “Tri thức là sức mạnh”, là sức mạnh để con người có thể xây dựng bản thân
cũng như xây dựng mọi lĩnh vực trong đời sống xã hội.
2.2. Vai trò của trí thức
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đã sớm nhận thấy trí thức là vấn
đề lớn, phức tạp và cần có sự nghiên cứu sâu sắc. Chính vì vậy, để tìm hiểu vai trò
của trí thức, trước hết ta cần tìm hiểu định nghĩa về trí thức. Theo V.I.Lênin cho rằng,
“Tri thức bao hàm không những chỉ các nhà trước tác mà thôi, mà còn bao hàm tất
cả mọi người có học thức, các đại biểu của những người tự do nói chung, các đại
biểu của lao động trí óc”. Như vậy, Lê-nin đã nêu ra quan niệm của ông về trí thức
– một lớp người đóng vai trò quan trọng trong xã hội, lớp người được coi là tinh hoa,
tinh túy của thời đại trước. Còn theo C.Mác và Ph.Ăng-ghen lại khẳng định sự ra đời
của trí thức chính lòa hệ quả tất yếu của lịch sử phân công xã hội. Trí thức xuất hiện
khi có sự phân công lao động sâu sắc giữa lao động chân tay và lao động trí óc.
C.Mác nhận định: “Phân công lao động chỉ trở thành sự phân công lao động thật sự
từ khi xuất hiện sự phân chia thành lao động vật chất và lao động tinh thần”. Tầng
lớp trí thức họ đưa những tri thức “trên giấy” không phải vô hồn, lí thuyết mà họ còn
biết vận dụng tri thức vào thực tiễn, tử đó tri thức mới thực sự phát huy giá trị của mình.
Nói đến đặc điểm của lao động tri thức, V.I.Lênin đã chỉ ra rằng phương thức
lao động của tri thức là lao động trí tuệ mang tính cá nhân, và sản phẩm lao động
của họ là những tri thức khoa học sáng tạo, những giá trị tinh thần cũng như là những
công trình khoa học sáng tạo, những giá trị tinh thần, đó là những công trình khoa
học và công nghệ được tạo ra trong quá trình nghiên cứu, phát minh, giảng dạy, quản
lí trên tất cả các lĩnh vực như khoa học xã hội, khoa học tự nhiên, khoa học kĩ thuật, lOMoAR cPSD| 61432759
văn học hay các lĩnh vực như văn học nghệ thuật hay quốc phòng an ninh. Trên
những lĩnh vực đó, Lê-nin yêu cầu phải đảm bảo phạm vi hết sức rộng rãi cho sáng
kiến của cá nhân, cho tư tưởng và sức tưởng tượng có hình thức và nội dung. Mặt
khác, không phải tất cả những người lao động trí óc đều là tri thức nếu như người đó
chỉ có bằng cấp mà không sáng tạo, chính vì vậy đòi hỏi người tri thức phải có một
tinh thần cách mạng, đó là sáng tạo. Yêu cầu đặt ra đối với người ti thức đó chính là
sự sáng tạo, tìm tòi, tổng kết thực tiễn, từ đó có thể tiếp cận được với chân lý.
Quan điểm của Lê-nin về tri thức luôn là một trong những trọng tâm mà các
học giả tư sản, các phần tử phản động thường xuyên bôi nhọ, xuyên tạc hòng làm lu
mờ đi sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, họ thường lấy lí do từ những điều
kiện khách quan mới vào thời đại mới, từ đó cường điệu hóa vai trò của giai cấp tri
thức, phủ nhận đi sự lãnh đạo của giai cấp công nhân, chúng vay mượn hoặc xào xáo
lại những lý lẽ của chủ nghĩa kỹ trị của gai cấp tư sản. Từ đó dẫn đến những vội vã
khi kết luận sự phát triển của xã hội trên thế giới ngày nay không phải là kết quả của
cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội mà do mở rộng cuộc cách
mạng khoa học – công nghệ quyết định. Do đó dẫn đến sai lầm trong nhận thức đó
là coi sự tiến bộ xã hội chỉ gắn với sự phát triển của lực lượng sản xuất, xem thường
vai trò của cách mạng quan hệ sản xuất, của đấu tranh giai cấp, phủ nhận tính tất yếu
của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Họ cho rằng số lượng và vai trò của giới tri thức
ngày một tăng lên trong cuộc cách mạng khoa học công nghệ đã làm cho tầng lớp trí
thức có vai trò chủ đạo trong phát triển xã hội và trở thành lực lượng quyết định cải
tạo thế giới. Lê-nin khẳng định rằng không khi nào và ở trong bất cứ xã hội tri thức
là một giai cấp, ranh giới của tri thức với giai cấp công nhân được xác định rõ ràng
từ những đặc điểm, chức năng, đặc biệt là vị trí trong phân công lao động xã hội,
trong điều kiện hiện nay khi xã hội còn phân chia giai cấp, để xác định được rõ ràng
ranh giới giữa tri thức và giai cấp công nhân, ta dựa vào những đặc điểm, chức năng,
đặc biệt là vị trí trong phân công lao động xã hội. Trong điều kiện hiện nay, khi xã
hội còn phân chia giai cấp và đối kháng giai cấp dưới chủ nghĩa tư bản và sự khác
biệt về giai cấp trong thời kì quá độ xây dựng chủ nghĩa xã hội, người ta cho rằng
tầng lớp trí thức vẫn còn cho đến khi đạt đến trình độ giai đoạn phát triển cao của
chủ nghĩa cộng sản. Từ trong di sản của V.I.Lênin về tri thức, giúp chúng ta rút ra
được nhiều bài học kinh nghiệm thiết thực và bổ ích, từ đó góp phần xây dựng đội
ngũ tri thức ngày càng lớn mạnh phục vũ công cuộc đổi mới và xây dựng, phát triển
đất nước và nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc trong giai đoạn mới.
Đội ngũ trí thức đã và đang đóng góp những thành tựu rất quan trọng vào sự
phát triển của một quốc gia cũng như của thế giới. Ví dụ như Nhật Bản, một quốc
gia không được thiên nhiên ưu ái về tài nguyên khoáng sản, cũng như khí hậu địa
hình khó khăn, khắc nghiệt tưởng chừng như những giới hạn ngăn cản sự phát triển lOMoAR cPSD| 61432759
về kinh tế của đất nước mặt trời mọc. Thế nhưng với nguồn trí lực dồi dào, được bồi
dưỡng liên tục và chất lượng, Nhật Bản đã vươn lên thành cường quốc thứ 2 thế giới
về công nghiệp trong đầu những năm 70 của thế kỉ trước. Và đến tận ngày nay, Nhật
Bản vẫn đang là một trong những quốc gia dẫn đầu trong số những quốc gia phát
triển, và phần lớn các sản phẩm của quốc gia này là những công nghệ hiện đại, có
tính khoa học cao và tiên tiến nhất. Những phát minh đó là nhờ đến những con người
trí thức cố gắng và không ngừng nỗ lực, phát triển để đưa đất nước đi lên dù các yếu
tố khách quan có khó khăn cản trở họ như thế nào. Có thể nói những thành tựu khoa
học – kỹ thuật và nền sản xuất công nghiệp đã và đang tạo ra những điều kiện và
những thuận lợi về vật chất để mọi người phát huy, bộc lộ và khai phá hết những
kahr năng trí tuệ của mình. Khi đội ngũ trí thức vận dụng những tri thức của mình
vào trong các vấn đề kinh tế, họ thiết lập nên một nền kinh tế tri thức, tạo nên xu thế
phát triển chung của thế giới, và được ứng dụng bởi rất nhiều các quốc gia, các cường
quốc về kinh tế trên thế giới. Điển hình như các quốc gia Mỹ, Canada, Tây Âu, Nhật
Bản, Singapore… - nơi mà các yếu của của nền tri thức ở mức khá cao, trong đó các
ngành công nghiệp dựa trên tri thức đã đóng góp trên 40% GDP. Kể cả các quốc gia
đang phát triển như Trung Quốc, Ấn Độ… vẫn đang áp dụng những quyết sách để
phát triển nền kinh tế tri thức nhằm tạo ra những bước đột phá.
III. Sự vận dụng của sinh viên
3.1. Thực tế vận dụng vai trò của tri thức đối với sinh viên
a) Những điểm mạnh của sinh viên trong việc vận dụng tri thức vào học tập và cuộc sống.
Nói đến sinh viên, chúng ta nghĩ đến những con người không bao giờ ngừng
học hỏi, tìm tòi, sáng tạo; họ là những con người luôn tràn đầy sức trẻ, năng động và
luôn có cho mình cái “gan” không ngại ngần trải nghiệm những điều mới. Chính họ
là những người dẫn đầu, đi trước, tiên phong trong mọi công cuộc cải cách, đổi mới,
những cuộc cách mạng mới. Trong đầu họ luôn đầy ắp các ý tưởng độc đáo và thú
vị, họ tận dụng thời gian và sức trẻ của mình cùng với các cơ hội để biến các ý tưởng
thành thực tế. Họ không chờ đợi cơ hội đến mà họ chủ động mang đến cơ hội cho
chính bản thân mình. Trong học tajajp, sinh viên không ngừng tìm ra những phương
pháp học tập mới, hiệu quả hơn để lượng kiến thức của họ có thể nhận được đạt tối
đa và có thể phát huy tác dụng triệt để. Phần lớn sinh viên đều có khả năng thích ứng
tốt với môi trường sinh sống và học tập của mình, họ là những người dễ thích nghi,
dễ thay đổi để phù hợp với ngoại cảnh. Không chỉ gói gọn bản thân ở trường lớp, ở
các kiến thức sách vở mà sinh viên còn họ tập ở mọi lúc, mọi nơi, họ học tập từ thực
tế cuộc sống, họ tiếp thu những kiến thức, những điều hay lẽ phải ở mọi lĩnh vực đời
sống, xã hội, văn hóa, nghệ thuật… Sự năng động, chủ động tiếp cận với những cái
mới, tích cực tham gia các hoạt động xã hội, những hoạt động tình nguyện ngoài giờ lOMoAR cPSD| 61432759
học cũng một phần chứng tỏ sự năng động, tích cực hội nhập của sinh viên. Họ luôn
chủ động với tri thức của mình, họ chủ động tìm kiếm những nguồn kiến thức mới,
những nguồn thông tin mới, làm mới mình để thích nghi, phù hợp với đời sống, với
sự phát triển của xã hội luôn biến chuyển không ngừng. Như vậy, không thể phủ
nhận khả năng sáng tạo và sự năng động, tích cực, chủ động chính là những ưu điểm
nổi bật của sinh viên Việt Nam thời đại mới.
Với nguồn tri thức dồi dào, học tập từ những kiến thức trong sách vở cũng
như khát khao được mang những tri thức mình đã tích lũy áp dụng vào thực tiễn,
sinh viên Việt Nam hện nay năng động với những hoạt động nghiên cứu khoa học,
những hoạt động sáng chế, chế tạo các phát minh, các ý tưởng góp ích cho cuộc sống
và xã hội. Nghiên cứu khoa học là một hoạt động đóng vai trò quan trọng trong đời
sống của con người, đặc biệt là đối với sinh viên và trong các hoạt động trong môi
trường giáo dục. Vai trò của hoạt động nghiên cứu giúp cho các sinh viên có thể vận
dụng tri thức của mình tích lũy được để áp dụng vào thực tế thực hành, qua đó đem
đến cho sinh viên những mặt tích cực như kiến thức, kinh nghiệm đồng thời cũng
khơi gợi khả năng sáng tạo của sinh viên. Khi tham gia vào các hoạt động nghiên
cứu khoa học, sinh viên không chỉ áp dụng được những kiến thức, lý thuyết sách vở
mà mình học được từ ghế nhà trường mà còn học hỏi được từ những vấn đề trong
đời sống xã hội, những kỹ năng cần thiết trong công việc, cuộc sống cũng như phục
vụ ngược lại công việc học tập như những kỹ năng thu thập số liệu, tư duy phản biện
hay khả năng sử dụng tin học, kỹ năng teamwork… Ngoài ra, sinh viên còn được
thỏa sức vận dụng khả năng sáng tạo cũng như sự linh hoạt vào giải quyết các vấn
đề phát sinh trong suốt quá trình nghiên cứu khoa học. Bên cạnh đó những thành tựu
mà sinh viên đạt được cũng là điểm sáng để mở rộng cơ hội nghề nghiệp sau này
cho sinh viên. Nghiên cứu khoa học chính là một trong những hoạt động có vai trò
rất quan trọng trong việc rèn luyện khả năng tư duy, tính sáng tạo cũng như rèn luyện
cho sinh viên khả năng nghiên cứu, phân tích các số liệu cũng như tạo dựng cho sinh
viên phong cách làm việc khoa học cho người nghiên cứu. Từ đó sẽ nâng cao khả
năng giải quyết vấn đề, làm sáng tỏ một số những vấn đề khoa học và giải quyết
được những vấn đề thực tiễn phát sinh ra trong suốt quá trình nghiên cứu cũng như
giảng dạy. Hằng năm ở các trường đại học vẫn diễn ra những cuộc thi về nghiên cứu
khoa học, các cuộc thi về sáng tạo kỹ thuật nhằm khuyến khích sinh viên tham gia,
trau dồi cũng như phát triển bản thân, phát huy hết năng lực cũng như tri thức của
mình trong các dự án nghiên cứu khoa học cấp trường, cấp quốc gia, các cuộc thi
khoa học kỹ thuật cấp quốc gia và quốc tế. Có thể kể đến như cuộc thi ERC –
Economic Research Champion 2023 được tổ chức thành công do CLB Sinh viên
nghiên cứu khoa học NEU tổ chức đã tìm ra những đội thi có ý tưởng xuất sắc cũng
như có hoạt động nghiên cứu khoa học diễn ra thành công. Từ đó đã mang hình ảnh lOMoAR cPSD| 61432759
của sinh viên cũng như của nhà trường trở nên đẹp hơn bởi những cuộc thi có ý nghĩa
được tổ chức và tìm ra những dự án khoa học và những đội thi xứng đáng, tạo một
sân chơi lành mạnh, tích cực để sinh viên có thể giao lưu và học hỏi, tích lũy thêm
nhiều tri thức bên cạnh việc áp dụng những kiên sthwcs mà mình đã có vào hoạt
động nghiên cứu khao học, cũng như học hỏi thêm nhiều các kỹ năng, giao lưu thêm
với nhiều bạn mới và học hỏi từ các thầy cô cũng như các thí sinh cùng tham gia.
Trong cuộc sống, sự giáo dục luôn luôn là quan trọng, không chỉ là sự học hỏi
những kiến thức từ sách vở mà còn học tập những tri thức, tích lũy những kiến thức
từ trong cuộc sống, từ xã hội từ đó vận dụng vào giải quyết những vấn đề trong cuộc
sống cũng như những vấn đề học tập. Tri thức ví như chiếc chìa khóa vạn năng mở
ra những chiều sâu cơ hội, thúc đẩy sự phát triển của xã hội đồng thời cũng mở ra
cơ hội học tập cho mọi người đặc biệt là đối với sinh viên. Các kiến thức đã được
sinh viên đúc kết lại, vận dụng vào trong thực tế xã hội, và ở họ có sự dám nghĩ, dám
làm, dám chịu thử thách. Với tri thức, họ có thể thực tế hóa những ý tưởng của mình,
để các kiến thức đó không chỉ còn là lý thuyết suông. Có thể thành công hoặc thất
bại song họ không hề chùn bước trước những thử thách. Ở họ có sự dám nghĩ, dám
làm, dám thử nghiệm tri thức của mình vào những điều mới, họ táo bạo nhưng không
liều lĩnh. Họ thận trọng có cho mình mọi điều kiện cần thiết trước khi sẵn sàng bắt
đầu làm một điều gì. Và quan trọng hơn hết, một khi gặp rủi ro, thất bại, họ sẽ chấp
nhận đó như một điều tất yếu. Họ sẵn sàng đối diện với những thất bại, và sẵn sàng
vượt qua những thất bại đó. Thời gian chính là kho báu hữu hạn mà tạo hóa ban tặng
cho con người, và sinh viên họ có tuổi trẻ, có thời gian để từ từ học hỏi từ những sai
lầm của mình, họ sẵn sàng dấn thân, đánh đổi thất bại để tiến gần hơn đến thành
công, đến cái đích của họ.
Có tri thức, sinh viên độc lập, tự tin hơn trong cuộc sống hàng ngày. Có thể
thấy tri thức đem lại cho họ sự hiểu biết, ham học hỏi tìm tòi những điều mới. Không
như sinh viên các thế hệ trước họ vẫn còn những rào cản ngăn họ khám phá những
điều mới, sinh viên ngày nay độc lập với cuộc sống và sẵn sàng học hỏi. Bởi lẽ có
tri thức bên mình, họ phân biệt được những điều đúng đắn cũng như dùng chính
những tri thức mà mình tích lũy được để độc lập hơn trong tài chính.
Thực tế ngày nay, số sinh viên đi làm thêm khi còn học năm nhất, năm hai rất nhiều.
Và đa số họ làm những công việc yêu cầu có khả năng, trình độ học vấn cũng như
sự tích lũy về tri twhcs đủ nhiều như trợ giảng, gia sư… Điều đó cũng thể hiện sự
vận dụng tích cực tri thức vào trong cuộc sống của sinh viên khi họ có thể độc lập
một phần về tài chính hay giúp đỡ gia đình trong vấn đề tài chính, đó cũng là một
trong những điểm sáng của sinh viên Việt Nam trong thời đại mới. lOMoAR cPSD| 61432759
Hơn thế nữa, ở họ còn có sự hiếu học – một truyền thống ngàn đời của ông
cha từ xưa đến nay. Có cho mình tri thức nhưng họ vẫn sẵn sàng học hỏi những điều
mới, họ khát khao tìm tòi, khám phá những điều mới. ham học hỏi, ham tìm tòi khám
phá chính là động lực thúc đẩy họ lĩnh hội thêm tri thức mới. Không chỉ những tri
thức, kiến thức học hỏi từ trên ghế nha trường mà học cũng học hỏi thêm những kiến
thức, những kinh nghiệm thực tế, họ học hỏi qua sách báo, qua những con người mà
họ tiếp xúc, làm việc cùng hàng ngày. Điều đó cũng chính là điểm mạnh của sinh
viên khi có tri thức, họ vẫn ý thức được đại dương kiến thức vô hạn vẫn đang chờ
đợi họ khám phá, tìm tòi học hỏi. NSND Chu Thúy Quỳnh đã từng trả lời phỏng vấn
trên báo Hoa Học Trò: “Số đông đều có kiến thức sâu rộng về nhiều mặt, ham hiểu
tìm tòi, chiếm lĩnh những lĩnh vực mới lạ.” Có thể thấy đây là điểm mạnh của tầng
lớp sinh viên – những trí thức trẻ ngày nay mà rất đáng được nhìn nhận và phát huy
không chỉ ở tầng lớp sinh viên mà còn ở những học sinh hay kể cả những người đã
bước chân đến với thị trường lao động cũng cần có đức tính ham tìm tòi, học hỏi để
mở rộng vốn kiến thức của mình.
Nếu như trước đây, tri thức chỉ là tài sản tích lũy trong tầng lớp trí thức và
những người có học vấn trong xã hội thì đến thời đại bùng nổ của Internet, của các
phương tiện tuyền thông đại chúng cũng như thời đại thông tin được tuyên truyền,
phủ sóng đến khắp mọi nơi, con người mới có thể thực hiện mục đích nhân văn cao
cả của mình, đó à chia sẻ tri thức cho mọi người để cùng phát triển. Khi ấy sẽ hình
thành nên một xã hội tri thức đích thực, một xã hội mà không một ai bị bỏ lại phái sau.
Có thể nói, tri thức chính là khả năng để đóng góp cho sự trau dồi, phát triển
bản thân của sinh viên nói riêng và của nền kinh tế - xã hội nói chung. Tri thức xuất
hiện ở mọi nơi, trong mọi hoàn cảnh, điều đó cung cấp cho sinh viên những điều
kiện thuận lợi nhất để nâng cao hiểu biết cũng như giá trị của bản thân. Hơn thế nữa,
tri thức cũng chính là kim chỉ nam, là ngon đèn soi đường cho sinh viên thuận lợi
nâng cao hiểu biết cũng như giá trị của bản thân mỗi người. Từ đó họ có thể trở thành
những người tốt, có ích cho xã hội, trở thành những công dân toàn cầu, có cho mình
những lập trường vững vàng, không bị dụ dỗ lôi kéo trước những điều xấu. Học tập
luôn phải song hành với tri thức, chính vì vậy tri thức chính là một trong những yếu
tố quan trọng nhất đóng góp cho sự phát triển của sinh viên.
b) Những vấn đề còn tồn đọng của sinh viên khi vận dụng tri thức vào trong cuộc
sống hàng ngày cũng như trong cuộc sống học tập.
Điều đầu tiên có thể kể đến, bên cạnh những sinh viên thực sự có niềm đam
mê tích lũy tri thức, có khát khao say mê khám phá thêm mảnh đất tri thức màu mỡ,
vẫn còn tồn tại một bộ phận sinh viên bàng quan với thế giới tri thức, họ vẫn tiếp thu lOMoAR cPSD| 61432759
tri thức nhưng với một thái độ không mấy tích cực, thụ động đôi khi là lười biếng,
đối phó. Ví dụ như việc lên lớp không chuẩn bị trước bài, không đọc trước giáo trình
cũng như tìm hiểu những gì mình sẽ học mà chỉ lên giảng đường nghe các thầy cô
truyền đạt kiến thức một cách thụ động, không có sự chủ động với kiến thức mà
mình sẽ được học. Điều đó lâu dần sẽ tạo nên tâm lí chai lì, chán ghét với sự học
cũng như không còn cảm xúc tích cực mỗi khi được tiếp nhận một nguồn kiến thức
mới. Hơn thế nữa, có thể thấy rõ ở một số bộ phận sinh viên ngày nay, ngay cả khi
ở trên lớp cũng không tích cực lắng nghe, xây dựng bài, chỉ tiếp thu kiến thức một
cách hời hợt theo kiểu “hớt váng” chứ không thực sự hiểu bản chất, cốt lõi của vấn đề.
Bên cạnh đó, sinh viên ngày nay vẫn còn thiếu chủ động trong việc tìm kiếm
các tri thức mới. Họ có tinh thần tiếp thu tri thức, nhưng chỉ dừng lại ở việc học hỏi
những kiến thức đã có. Ở họ không có sự cầu tiến trong việc khám phá, tìm tòi thêm
các chân trời kiến thức mới, khám phá thêm các kiến thức khác nằm ngoài kiến thức
sách vở. Như vậy, tri thức sẽ chỉ dừng lại ở một mức độ nhất định, sẽ không có thêm
chân lí, định lí mới nào được phát hiện ra, từ đó sự phát triển của xã hội đến một lúc
nào đó sẽ chững lại. Hơn hết, nếu không có sự chủ động nắm bắt những kiến thức
thực tế, họ rất dễ trở thành những “mọt sách”, những người thiếu những kiến thức
thực tế, thiếu sự trải nghiệm trong xã hội, dễ bị dụ dỗ, dẫn dắt bởi những tư tưởng
lệch lạc, bởi những thế lực xấu. Hơn thế nữa, ngày nay vẫn còn một số bộ phận sinh
viên vận dụng những kiến thức, tri thức mà mình học được từ sách vở vào đời sống
một cách máy móc, lý thuyết mà không có sự linh hoạt, thiếu đi sự trải nghiệm để
biến tri thức mình học được trở nên hữu ích với cuộc sống của bản thân và của xã hội.
Một trong những điểm yếu nữa của sinh viên trong thời đại ngày nay đó là sự
lười biếng trong thực nghiệm. Họ ngại áp dụng những gì mình học được từ sách vở
và cuộc sống hàng ngày, họ không biến những tri thức thụ động học được thành của
mình. Ví dụ như các cuộc thi nghiên cứu khoa học, các cuộc thi liên quan đến khoa
học ngày nay chưa thu hút được sự chú ý cũng như chưa có sức ảnh hưởng mạnh mẽ
đến nhiều sinh viên. Chính vì vậy những kiến thức họ học được vẫn chưa có nhiều
ứng dụng đối với cuộc sống của họ, vẫn chỉ là những kiến thức của nhân loại mà họ
chưa thể biến thành của mình, chưa vận dụng để hiểu sâu hơn, hiểu kĩ hơn, hiểu được
bản chất của kiến thức mà mình nắm bắt. Từ đó khó có thể tìm ra những chân lí mới
nếu không thực hành vào thực tiễn, cũng như khó có sự linh hoạt trong cách xử lí
những vấn đề mới phát sinh trong suốt quá trình áp dụng vào thực tiễn. Hơn thế nữa,
nếu không có sự tiếp xúc, va chạm khi còn là sinh viên, người học sẽ có thể thiếu
nhwgx kỹ năng như làm việc nhóm, kỹ năng tìm kiếm và phân tích dữ liệu…, đó
đều là những kỹ năng quan trọng cần thiết trong môi trường lao động sau này. Nếu lOMoAR cPSD| 61432759
không cải thiện những kỹ năng đó, người học sẽ rất dễ bị đào thải trong môi trường
lao động với nhiều nhân sự nhưng các vị trí không đủ cho tất cả mọi người.
Như vậy, có thể thấy dù có rất nhiều những điểm mạnh khi áp dụng tri thức
vào thực tiễn cuộc sống, một số bộ phận sinh viên vẫn còn chưa chủ động với tri
thức của mình, vẫn chưa chủ động nắm bắt và làm chủ những kiến thức mà mình có
được trong suốt quá trình học tập. Họ vẫn học thụ động, chưa áp dụng được những
tri thức mà mình tích lũy vào trong cuộc sống, vẫn chưa thực sự tìm tòi khám phá
thêm những kiến thức mới nằm ngoài sách vở cũng như những kiến thức trong thực
tế. Việc áp dụng tri thức vào cuộc sống còn hạn chế, đặc biệt là trong công việc khi
một số bộ phận sinh viên chỉ quan niệm môn chuyên ngành mới quan trọng, mưới là
hành trang cho họ trong con đường sự nghiệp sau này. Thế nhưng các tri thức đại
cương về tính toán, xã hội, lịch sử cũng mở rộng vốn tri thức cho sinh viên, cung
cấp cho họ các góc nhìn mới cũng như các kỹ năng cần thiết cho cuộc sống xã hội
sau này, đồng thời giúp cho sinh viên có thêm nhiều tri thức hơn về xã hội cũng như
rèn luyện tư duy, khả năng sáng tạo cũng như một số kỹ năng mềm cần thiết cho cuộc sống.
c) Vai trò của tri thức đối với sinh viên kinh tế
Với vai trò là một sinh viên kinh tế, việc vận dụng tri thức tích lũy được vào
chuyên ngành mình theo học là một điều quan trọng. Với đặc thù về ngành kinh tế
luôn biến chuyển không ngừng, các nhà kinh tế luôn phải thay đổi cũng như tích lũy
thêm tri thức, bắt kịp thời đại cũng như phân tích các dữ liệu, các con số, khiến cho
những con số biết nói cũng như có sự nhạy bén trong tư duy, vì vậy việc vận dụng
tri thức là vô cùng cần thiết.
Không thể phủ nhận việc vận dụng các môn học chuyên ngành như phân tích
kinh doanh, quản trị tiên liệu hay dự báo kinh tế vào thực tiễn kinh tế là điều vô cùng
cần thiết bởi trước thị trường kinh tế đầy biến động, mỗi cá nhân cần biết phân tích
cũng như nắm bắt thị trường để không bị bỏ lại phía sau, bị động trước nền kinh tế
cần rất nhiều sự tiến tới và chủ động. Có tri thức, sinh viên sẽ tự tin hơn khi bước
vào thị trường lao động với đầy đủ những kiến thức mà mình tích lũy được đem vào
vận dụng trong thực tiễn cũng như các kỹ năng phân tích, khả năng tư duy logic rèn
luyện được qua suốt quá trình tích lũy tri thức. Hơn hết, với những tri thức tích lũy
được, sinh viên kinh tế có thể áp dụng vào phân tích các tình huống thực tế xảy ra
trong cuộc sống, với những hoạt động kinh tế, mua bán trao đổi hàng ngày.
Với những kiến thức về khoa học sáng tạo, sinh viên có thể vận dụng vào quá
trình nghiên cứu và phát triển, tạo ra những thành tựu, những sản phẩm mới. Như
Vinbus đã ứng dụng công nghệ vào việc phát triển hệ thống giao thông công cộng
thanh toán bằng ví điện tử MOMO giúp người sử dụng phương tiện có thể dễ dàng lOMoAR cPSD| 61432759
thanh toán, mà không cần sử dụng tiền mặt, bắt kịp với xu thế số hóa ngày nay. Có
cho mình tri thức, sinh viên kinh tế có thể vận dụng vào các chương trình sản xuất
của đị phương hay của hộ gia đình. Bởi lẽ tri thức khoa học có thể giúp con người
quản lý thông tin và dữ liệu một cách khoa học, thông minh từ đó đưa ra các quyết
định, các quyết sách cũng như các chiến lược quản lí hiệu quả.
Cuối cùng, có tri thức, sinh viên kinh tế có thể tìm kiếm những cơ hội việc
làm ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường. Không chỉ các công việc mang tính
phổ biến như gia sư hay làm nhân viên bán hàng bán thời gian mà các hoạt động
kinh doanh, khởi nghiệp hay làm cho các công ty liên quan đến lĩnh vực kinh tế cũng
là một trong những cơ hội để sinh viên kinh tế có thể vận dụng kiến thức mà mình
lĩnh hội được để có cho mình những cọ xát, những công việc làm liên quan đến đúng
ngành học ngay từ khi chưa tốt nghiệp. Hơn thế, có rất nhiều sinh viên đã vận dụng
được những kiến thức mà mình tích lũy trên ghế nhà trường để tham gia vào các hoạt
động kinh doanh, gây quỹ cho các câu lạc bộ, tổ, đội, nhóm mà họ tham gia, từ đó
mang đến những thành công cũng như hiệu quả kinh tế nhất định cho các hoạt động
kinh doanh mà họ theo đuổi. Đó cũng là cách họ ghi nhớ sâu sắc và rõ nét hơn về
những kiến thức lý thuyết khô khan, mang tính học thuật cao cũng như có cho mình
những kinh nghiệm thực tế để áp dụng vào thực tiễn đời sống.
3.2. Định hướng vận dụng
a) Đối với Nhà nước
Mục tiêu hàng đầu của một đất nước là giữ gìn nền độc lập, tự do cho quốc
gia, dân tộc mình. Chính vì vậy, với việc đào tạo những con người đủ đức đủ tài, có
lập trường chính trị vững chắc, không bị lung lay trong bất kì hoàn cảnh nào chĩnh
là một trong những mục tiêu quan trọng mà Nhà nước hướng tới để giữ gìn, bảo vệ
được nền độc lập, tự do dân tộc. Bên cạnh đó, việc đưa kinh tế phát triển cũng là một
trong những nhiệm vụ hàng đầu để mỗi quốc gia có thể phát triển và hội nhập vào
với thị trường thế giới. Bởi lẽ một nền kinh tế vững mạnh, ổn định mới có thể đưa
đất nước cùng người dân của nước đó có một cuộc sống đầy đủ, ổn định và từ đó
phát triển được về mức sống, về xã hội và về kinh tế. Cuối cùng, mục tiêu hội nhập
với các quốc gia trên thế giới, hòa nhập nhưng không hòa tan, vẫn giữ gìn được bản
sắc dân tộc mình cũng như đưa văn hóa dân tộc đến gần hơn với bạn bè thế giới. Và
để đạt được những thành tựu đó rất cần đến một đội ngũ tri thức vững mạnh cũng
như cần phổ cập tri thức đến người dân, để một xã hội ai cũng có cơ hội tiếp cận với
tri thức, có cơ hội phát triển và đạt được những thành tựu cho riêng bản thân mình
và thành tựu cho quốc gia, xã hội.
Tri thức là nguồn vốn quý giá của con người, và đội ngũ trí thức chính là
những kho báu quý giá mà Nhà nước cần phát huy tối đa năng lực của họ. Một trong lOMoAR cPSD| 61432759
những biện pháp để nâng cao khả năng của đội ngũ trí thức đó chính là xây dựng
nên các bộ quy chuẩn, các tiêu chí và điều kiện để có thể có một hàng ngũ trí thức
có tâm và có tầm, có cả đức và tài cũng như trình độ chuyên môn cao, phù hợp vưới
các vị trí tuyển dụng. Sử dụng, phân bố hợp lý hàng ngũ trí thức, đặc biệt những
người tri thức có tư duy đổi mới cũng như khả năng sáng tạo, có đạo đức tốt. Bên
cạnh đó có những chương trình đào tạo, phát triển những nhân tố có nhiều cống hiến
cho các hoạt động thực tiễn cũng như những trí thức có nhiều thành tích cao trong
các hoạt động học tập cũng như các hoạt động thực tế xã hội.
Nhà nước cần có những đãi ngộ, những chế độ, chính sách đối với đội ngũ trí
thức. Đặc biệt là các học bổng, học bổng du học hay trao đổi sinh viên để nâng cao
chất lượng của đội ngũ trí thức trong nước cũng như giao lưu, kết nối, học hỏi từ các
nước trên thế giới. Tạo môi trường và điều kiện thuận lợi để họ có thể học tập và làm
việc đạt được hiệu quả cao nhất. Quan tâm, đầu tư nguồn lực tài chính trong việc
xây dựng các cơ sở vật chất, trang thiết bị kỹ thuật để đáp ứng nhu cầu học tập và
nghiên cứu đang ngày càng tăng lên của đội ngũ trí thức, đặc biệt là sinh viên, những
sinh viên có hoàn cảnh khó khăn. Bởi lẽ với sự giúp đỡ từ Nhà nước, họ sẽ có thêm
động lực để tiếp tục theo đuổi con đường tri tức, tiếp tục cống hiên svaf đóng góp
sức mình vào sự phát triển không phải chỉ của riêng quốc gia mà còn là sự phát triển
của nền văn minh, sự phát triển của thế giới.
Tổ chức thêm nhiều các chương trình, các cuộc thi nhằm tạo ra những môi
trường cạnh tranh lành mạnh cũng như giao lưu, học hỏi giữa các cá nhân, tập thể.
Các cuộc thi liên quan đến học thuật được tổ chức ở mọi lĩnh vực, ở mọi cấp bậc
cũng chính là một trong những cơ hội để phát hiện và bồi dưỡng hiền tài cho đất
nước, cũng là cơ hội để đội ngũ tri thức có thể giao lưu, học hỏi và có cho mình
những kinh nghiệm thực tiễn, áp dụng vào cuộc sống cũng như lĩnh vực của họ. Nhà
nước cũng cần quan tâm hơn đến việc bồi dưỡng các thế hệ sinh viên – những chủ
nhân tương lai của đất nước, những người sẽ đưa đất nước phát triển cùng với khả
năng và vốn tri thức mà họ ấp ủ. Chính vì thế, quan tâm đến những hạt giống trẻ
chính là một trong các biện pháp cần thiết để nâng cao “chất xám” của quốc gia, dân tộc mình.
b) Định hướng vận dụng của sinh viên
Đối với mỗi sinh viên, mục tiêu hàng đầu được đặt ra đó chính là mang tri
thức mà mình tích lũy, học tập được áp dụng được vào thực tế cuộc sống, vào công
việc sau này. Tri thức vốn là vũ khí, là kho báu để mỗi người có thể có được những
định hướng đúng đắn cũng như xác định được những mục tiêu, những hoạt động mà
mình đã, đang và sẽ theo đuổi. Vì vậy, với vốn tri thức mà sinh viên tích lũy được,
mục tiêu hàng đầu của họ luôn là bến những tri thức ấy trở nên có ý nghĩa đối với lOMoAR cPSD| 61432759
bản thân và đối với công việc, đối với cuộc sống. Bên cạnh đó, việc tích lũy tri thức
cũng có nhiệm vụ, mục tiêu là tạo ra được những thành tựu mới cho xã hội, tạo ra
những sản phẩm đóng góp cho sự phát triển của xã hội cũng như của đất nước mình,
quốc gia mình, dân tộc mình. Bởi lẽ, sau cùng việc tích lũy và vận dụng tri thức cũng
để phục vụ cho cuộc sống của bản thân và nếu cuộc sống của một các nahan có vững
mạnh và phát triển thì từ đó đất nước mới có thể đi lên, lớn mạnh và cường thịnh
hơn. Mục tiêu cuối cùng của mỗi sinh viên là có thể đạt được những thành tích cao
trong môi trường đại học cũng như trong các cuộc thi lớn nhỏ, trong và ngoài trường
tổ chức. Chính những cuộc thi là những thước đo, những con số biết nói, là minh
chứng cũng như là những thành tựu rõ ràng nhất cho quá trình tích lũy và vận dụng
tri thức của họ. Như vậy, có thể thấy mục tiêu của sinh viên trong việc vận dụng tri
thức là vô cùng lớn và để đạt được những mục tiêu mà bản thân mình đề ra, mỗi sinh
viên cần có cho mình những con đường, những hướng đi cũng như những cách thức
khác nhau sao cho phù hợp với mục tiêu, năng lực, cũng như hoàn cảnh của bản thân mình.
Để có thể đạt được những mục tiêu mà mình đã đề ra và hướng tới, mỗi sinh
viên cần có những hướng đi cũng như lộ trình rõ ràng cho con đường mà mình lựa
chọn. Đầu tiên sinh viên cần tích cực tham gia học tập, rèn luyện các môn học liên
quan đến tư tưởng, nâng cao trình độ chính trị, bồi đắp lý tưởng cách mạng trong
sáng. Bởi lẽ có cho mình tư tưởng đúng đắn mới có thể có được hướng đi chính xác,
không bị xô lệch, dụ dỗ bởi những tư tưởng phản động, bảo thủ, những đối tượng có
mục đích phá hoại cũng như làm ảnh hưởng xấu đến hình ảnh của dân tộc, đến quyền
và lợi ích hợp của quốc gia. Tích cực tham gia vào các cuộc đấu tranh, tuyên truyền
bảo vệ Đảng, bảo vệ Nhà nước, chống lại những âm mưu phản động cũng như các
âm mưu “Diễn biến hòa bình” của các thế lực mang tư tưởng thù địch, ra sức phá
hoại sự bình yên của đất nước. Bên cạnh đó còn cần tu rèn đạo đức, phẩm chất tốt.
Tránh xa các tệ nạn, vận dụng tri thức của mình để làm ánh sao soi đường, dẫn dắt
con người đi đúng mà không bị lôi kéo, không bị lung lay bởi những tư tưởng phản động.
Bên cạnh đó cần tích cực học tập, trao dồi các kiến thức cũng như kỹ năng cần
thiết để nâng cao trình độ văn hóa, chuyên môn. Đặc biệt trong thời kỳ hội nhập quốc
tế, mỗi sinh viên cần nâng cao hông chỉ trình độ học vấn mà còn là các kỹ năng xã
hội, các kiến thức xã hội để áp dụng trong thực tế cũng như tích cực tham gia cọ xát,
trải nghiệm để ngày càng nâng cao vốn kiến thức cho bản thân cũng như nâng cao
trình độ, hiểu biết. Không chỉ là các kiến thức trên sách vở mà sinh viên còn cần học
tập từ những người bạn, những người cộng sự cũng như học tập từ thực tiễn đời sống
hàng ngày bởi lẽ ở đâu cũng sẽ luôn chứa đầy những điều mới mà chúng ta cần học
hỏi, những kiến thức nằm ở khắp mọi nơi, luôn đòi hỏi cũng như khơi gợi trong mỗi lOMoAR cPSD| 61432759
chúng ta sức tìm tòi, khám phá. Sinh viên nếu muốn phát huy được tính sáng tạo
cũng như khả năng tìm tòi, phát hiện những điều mới thì luôn luôn phải tự tìm tòi,
tự học, tự khám phá. Thông qua quá trình tự học, sinh viên sẽ tự đúc kết cho mình
những kinh nghiệm cũng như có cho mình những trải nghiệm mới, có được sự hứng
thú trong suốt quá trình tìm tòi, khám phá cũng như có cho mình được những kinh
nghiệm rút ra sau suốt quá trình khám phá, từ đó kiến thức cũng được khắc sâu hơn.
Và việc tự học cần được thực hiện một cách có ý thức, có trách nhiệm chứ không
phải chạy theo thành tích, bảng điểm hay những con số. Những tri thức mà họ tích
lũy được không phải chỉ ở những thành tích, danh hiệu mà là sự trau dồi về phẩm
chất đạo đức cũng những gì họ đóng góp, đem đến những ảnh hưởng tích cực cho xã hội.
Tích cực tham gia vào các hoạt động nghiên cứu khoa học, các cuộc thi cũng
là một trong những cách để phát triển năng lực học tập, nghiên cứu, nâng cao tri thức
của bản thân sinh viên. Các cuộc thi tổ chức cho sinh viên có thể vận dụng khả năng
sáng tạo đi cùng với những tri thức tích lũy được đều được tổ chức hàng năm, thu
hút rất nhiều sinh viên tham dự, đem đến những dự án đầy kỳ công cũng như mang
đậm tính sáng tạo và khả năng ứng dụng cao. Như “Cuộc thi sáng tạo khởi nghiệp
công nghệ Hust” được tổ chức vào hồi giữa năm 2023 đã thu hút sự tham gia góp
mặt và tranh tài của hơn 70 dự án trên toàn quốc. Điều đó cho thấy sinh viên ngày
nay đã ý thức hơn việc tham gia vào các dự án khởi nghiệp, các cuộc thi dành cho
sinh viên liên quan đến sáng tạo, công nghệ, khởi nghiệp – những chủ đề rất quan
trọng trong cuộc sống. Có thể thấy các hoạt động nghiên cứu khoa học, các cuộc thi,
các dự án khoa học đang ngày một đến gần hơn với các bạn sinh viên, để họ có thể
vận dụng tri thức vào xử lí các vấn đề, các tình huống diễn ra trong suốt quá trình thực nghiệm.
Ngày nay trong thời đại công nghệ 4.0 với hội nhập về kinh tế thế giới cũng
như sự giao lưu văn hóa diễn ra mạnh mẽ trên toàn cầu đòi hỏi sinh viên năng động
cũng như hội nhập được với thế giới. Để làm được điều đó, sinh viên cần tích cực
tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế, tham gia giải quyết các vấn đề toàn cầu
cũng như tham gia vào công tác ngoại giao nhân dân, từ đó có thể nâng tầm ảnh
hưởng của Việt Nam trên trường quốc tế. Thêm vào đó, sinh viên cũng cần chủ động
và tham gia có hiệu quả vào công tác giải quyết các vấn đề toàn cầu như giữ gìn hòa
bình, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, chống khủng bố, bảo vệ môi trường và ứng phó
với biến đổi khí hậu toàn cầu, hạn chế sự bùng nổ dân số, đẩy lùi cũng như phòng
ngừa các căn bệnh hiểm nghèo. Như vậy để có thể vận dụng tri thức một cách có
hiệu quả vào cuộc sống thức tế, sinh viên có thể tìm đến, tham gia các chương trình
của các tổ chức phi chính phủ để góp một phần công sức của mình vào công cuộc
phát triển chung của nhân loại. lOMoAR cPSD| 61432759
Cần có tư tưởng đúng đắn với tri thức, với sự học và giáo dục để tránh tình
trạng thờ ơ, hời hợt, bàng quan với những kiến thức mà mình may mắn được thừa
hưởng từ thế hệ đi trước. Bởi lẽ, tất cả những kiến thức chúng ta được thừa hưởng
ngày nay đã phải trải qua hàng nghìn năm “kiểm nghiệm” bởi thời gian, được chắt
lọc để có thể mang đến cho sinh viên những kiến thức tinh túy nhất. Chính vì vậy
thái độ của sinh viên đối với kiến thức cần thay đổi, trước hết là thay đổi ở cách họ
chuẩn bị bài trước khi lên giảng đường cũng như tinh thần cầu thị, cầu tiến trong học
tập. Hơn thế nữa họ còn có thể mang kiến thức mà mình tích lũy, thu nhận được lan
tỏa đến mọi người xung quanh, để ngọn lửa tri thức có thể lan tỏa và không bị vụt
tắt trước bất kì trở ngại nào. Để làm được điều đó, sinh viên cần hiểu rõ bản chất của
kiến thức mà mình đang được tiếp thu, đồng thời có những áp dụng thực nghiệm để
hiểu rõ hơn về bản chất của vấn đề.
Tóm lại, để vận dụng tri thức một cách có hiệu quả, mỗi cá nhân sinh viên cần
nhìn ra được những điểm mạnh của mình hiện tại đồng thời nhận thức rõ điểm yếu
của bản thân, những khuyết điểm còn mắc phải trong suốt quá trình tìm tòi, lĩnh hội
tri thức, từ đó có cho mình những kế hoạch để tiếp tục phát huy những điểm mạnh
đồng thời đề ra những giải pháp phù hợp với vấn đề thực tiến của bản thân, qua đó
có thể dần cải thiện và vận dụng được tri thức vào trong học tập cũng như cuộc sống
một cách tối ưu nhất. Sinh viên ngày nay có đủ những cơ hội, những yếu tố khách
quan cũng như chủ quan để có cho mình bàn đạp vững chắc để tiến tới và mở ra
những chân trời tri thức mới. PHẦN 3. KẾT LUẬN
Trong bất kì xã hội hay thời đại nào, vai trò của tri thức luôn được đề cao và
không thể phủ nhận. Là sinh viên thời đại mới, mang trong mình những trách nhiệm
và sứ mệnh cao cả của việc phát huy và duy trì truyền thống hiếu học của cha ông,
cũng như khả năng thích ứng với sự phát triển, thay đổi của thế giới. Tri thức vân
xluoon là chiếc chìa khóa vạn năng mang con người đến gần hơn với những thành
tựu của thế giới, của thời đại mới cũng như mang đến cho con người sự hiểu biết sâu
rộng hơn về cuộc sống, xã hội, con người. Quan niệm cũng như những quan điểm
của Mác - Lênin cho đến tận ngày nay vẫn mang nhiều giá trị. Đó không chỉ là chân
lí, mà còn là kim chỉ nam dẫn đường cho các lí luận sau này cũng đồng thời là một
điều tất yếu, là ngọn hải đăng để mọi thế hệ sinh viên soi chiếu vào đó, có cho mình
những con đường, những lựa chọn đúng đắn. Dù ở trong bất kì xã hội hay bất kì thời
đại nào, tri thức của loài người vẫn luôn là một nguồn lực đóng góp cho sự phát triển
không ngừng của xã hội. “Tri thức là vốn hiểu biết không bao giờ cạn kiệt.” Yếu tố
tri thức chính là cốt lõi, là nền tảng mà nhà trường xây dựng, bồi đắp cho sinh viên lOMoAR cPSD| 61432759
giúp cho quá trình học tập của sinh viên trở nên có hiệu quả hơn cũng như chuẩn bị
cho môi trường lao động sau này. “Tri thức là sức mạnh”, vì thế mỗi sinh viên cần
chiếm lĩnh tri thức, chiếm lĩnh lấy sức mạnh cho bản thân từ đó có thể mang tri thức,
mang sức mạnh của mình đóng góp cho xã hội, cho đất nước phát triển hơn, biến
sức mạnh đó thành lợi thế cho quốc gia, dân tộc mình cũng như lan tỏa sức mạnh
của mình đến nhiều cá nhân hơn nữa.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. “Giáo trình Triết học Mác – Lênin”, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật 2.
Nguyễn Văn Tài (Chủ biên) (2018) “Giáo trình Triết học Mác -Lênin - Lý
luận và vận dụng”, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội 3.
Nguyễn Năng Nam, Trịnh Vương Cường “Quan điểm của V.I.Lênin về trí
thứcvà vấn đề xây dựng đội ngũ trí thức ở Việt Nam trong điều kiện hiện nay”, “Tạp
chí Khoa học trường Đại học Mở TP.HCM” – Số 10 (1) 2015 4.
PGS.TS Đức Vượng “Tư tưởng Hồ Chí Minh về tri thức”, Tạp chí VUSTA(15/01/2015)