Lý luận của Triết học Mác – Lênin về dân tộc vấn đề dân tộc ở Việt Nam | Tiểu luận môn Triết học Mác – Lênin
Trong chương “Chủ nghĩa duy vật lịch sử”, ta đã được tìm hiểu những quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về các vấn đề như học thuyết hình thái kinh tế, giai cấp, nhà nước, cách mạng xã hôi, ý thức xã hội và triết học về con người. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Triết học Mác - Lenin (LLCT130105)
Trường: Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP.HCM
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN
LÝ LUẬN CỦA TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN VỀ DÂN TỘC
VẤN ĐỀ DÂN TỘC Ở VIỆT NAM
MÃ LỚP HỌC: LLCT130105_22_1_16CLC
GVHD: TH.S TRẦN NGỌC CHUNG
THỰC HIỆN: NHÓM DELTA
LỚP: THỨ 4 TIẾT 3-6
HỌC KỲ 1 – NĂM HỌC 2022-2023
Thành phố Hồ Chí Minh, Tháng 12 năm 2022
DANH SÁCH THÀNH VIÊN THAM GIA VIẾT TIỂU LUẬN
HỌC KỲ 1 - NĂM HỌC 2022-2023
Nhóm Delta (Lớp thứ 4 - Tiết 3-6)
Tên đề tài: Lý luận của triết học Mác-Lênin về dân tộc. Vấn đề dân tộc ở Việt Nam. STT Họ và tên Mã số sinh viên
Tỉ lệ % hoàn thành 1 Lê Huy Hiệp 22119074 100% 2 Phan Gia Huy 22119081 100% 3 Nguyễn Đức Trọng 22119141 100% 4 Nguyễn Anh Tuấn 22119148 100% 5 Hà Minh Hoàng 22119075 100% Ghi chú: - Tỷ lệ % = 100%
- Trưởng nhóm: Lê Huy Hiệp
- Thư ký: Nguyễn Đức Trọng
Nhận xét của giáo viên:
….......................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
Tp. Hồ Chí Minh, Tháng 12 năm
2022 Giáo viên chấm điểm MỤC LỤC M Ở Đ
ẦU . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .1
1. Lý do chọn đề tài...................................................................................................1 2. M
ục tiêu n ghiên c ứu . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .1 N ỘI D
UNG . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .2 CHƯƠNG 1. LÝ LUẬN CỦA TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN VỀ VẤN ĐỀ DÂN TỘC
.....................................................................................................................................2 1.1 Quan điểm của tri
ết học Mác – Lênin về dân tộc ....... ...... ....... ...... ...... ... .. .. .. ... . 2
1.1.1 Quan điểm của triết họ
c Mác – Lênin về các cộng đồng người trước khi
h ình thành d ân t ộc . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .2
1.1.2 Khái niệm và đặc trưng củ a dân tộc ....... ...... ....... ...... ........... .. .. ... .. .. .. ... .. .. . 2
1.2 Hai xu hướng khách quan của
sự phát triển quan hệ dân tộc .. .. .. ... .. .. ... .. .. ... . . . .3
1.3 Cương lĩnh dân tộc của t riết học Mác – Lênin ....... ...... ....... ...... ..... .. .. .. ... .. .. ... .. 5 CHƯƠNG 2. VẤ N ĐỀ DÂN TỘC Ở VIỆT NAM ....... ...... ....... ...... ....... ...... ... .. .. ... .. . 7 2.1 Đ ặc điểm dân tộc ở V iệt N
am . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .7
2.2 Thực trạng về vấn đ
ề quan hệ dân tộc ở Việt Nam hiện nay ..... .. .. . .. .. .. ... .. .. .. . .. 9
2.3 Quan điểm và chính sách
dân tộc của Đảng và Nhà nước V iệt Nam .. . . . . . . . . . . .10
2.3.1 Quan điểm của Đảng, Nhà nước Việt Nam về dân tộc ........ . .. .. .. ... .. .. .. . .. . 10
2.3.2 Chính sách dân tộc của Đảng , Nhà nước V iệt Nam ....... ...... ....... ...... ..... ..12 K ẾT L
UẬN . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .1 4 P HỤ LỤC H ÌNH Ả
NH . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .1 5 P HỤ L
ỤC . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .1 6 T ÀI LIỆU T HAM K
HẢO . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .. . . . . . . . . . . . . . . . .. . . . .. .1 7 MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong chương “Chủ nghĩa duy vật lịch sử”, ta đã
được tìm hiểu những quan điểm của chủ nghĩa
Mác – Lênin về các vấn đề như học thuyết hình
thái kinh tế, giai cấp, nhà nước, cách mạng xã
hôi, ý thức xã hội và triết học về con người. Vấn
đề dân tộc là một trong những điểm quan trọng
trong chương này. Loài người cùng với chiều dài
lịch sử phát triển của nhân loại hình thành các
loại hình cộng đồng dân cư từ thấp đến cao. Dân
tộc được xem là bậc cao nhất trong quá trình phát
triển cộng đồng xã hội của loài người. Trên thế
giới có rất nhiều dân tộc cùng sinh sống, tồn tại.
Qua hàng nghìn năm vận động, mối quan hệ giữa
các dân tộc được xây dựng trong nhiều điều kiện
khác nhau và mang những nét đặc trưng cơ bản.
Vì vậy, việc nghiên cứu về vấn đề dân tộc trong
xã hội là một điều vô cùng cần thiết. Chủ nghĩa
Mác – Lênin đã nghiên cứu vấn đề dân tộc một
cách có hệ thống cơ sở khoa học, lý luận sắc bén,
đầy đủ nhằm làm rõ vấn đề dân tộc và được ứng
dụng vào học tập để học sinh, sinh viên có thể
tiếp cận lý luận xã hội một cách chính xác. Với
tất cả những lý do trên, em đã chọn đề tài “Quan
điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về dân tộc và
vấn đề dân tộc ở Việt Nam hiện nay” để làm vấn đề nghiên cứu.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu của bài tiểu luận này là tìm hiểu lý luận
của chủ nghĩa Mác – Lênin về vấn đề dân tộc và 1 liên hệ thực
– Lênin với một số đặc điểm của dân tộc Việt tiễn: Nam hiện nay. – Phân tích dân tộc và xu hướng phát triển khách quan của dân tộc theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin. – Trình bày khái quát về dân tộc và đặc trưng của nó. – Những nguyên tắc cơ bản trong giải quyết vấn đề dân tộc theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin. Dân tộc là một cộng đồng người mang tính thống nhất và bền vững. – Đối chiếu quan điểm của chủ nghĩa Mác 2 NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. LÝ LUẬN CỦA TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN VỀ VẤN ĐỀ DÂN TỘC
1.1 Quan điểm của triết học Mác – Lênin về dân tộc
1.1.1 Quan điểm của triết học Mác – Lênin về các cộng đồng người trước khi
hình thành dân tộc
Để tồn tại và phát triển, con người phải gắn kết với nhau thành những cộng đồng.
Trong quá trình phát triển của xã hội, trước khi dân tộc ra đời, các hình thức cộng đồng
người cũng biến đổi từ thị tộc đến bộ lạc, bộ tộc:
– Thị tộc là hình thức cộng đồng xã hội đầu tiên trong lịch sử loài người, bao gồm tập
hợp một số người cùng chung huyết thống và có ràng buộc về kinh tế (quan hệ sản
xuất). Các quan hệ sản xuất bao gồm quyền sở hữu công cộng về các tư liệu sản xuất
(như đất đai, đồng cỏ, rừng núi, sông ngòi, công cụ sản xuất...). Các thành viên trong
thị tộc cùng lao động chung, sử dụng các công cụ lao động chung và hưởng thụ sản
phẩm làm ra theo lối bình quân.
– Bộ lạc là một hình thức tổ chức xã hội theo kiểu nhóm xã hội tronglịch sử phát triển
của loài người. Bộ lạc nguyên thủy là tập hợp dân cư được tạo thành từ nhiều thị tộc
do có quan hệ huyết thống hoặc quan hệ hôn nhân liên kết với nhau, trong đó có một
thị tộc gốc tạo thành bộ lạc gọi là bào tộc.
– Bộ tộc là một cộng đồng dân cư được hình thành từ sự liên kết của nhiều bộ lạc và
liên minh các bộ lạc trên cùng một vùng lãnh thổ nhất định và thường có quan hệ máu
mủ nhất định (huyết tộc). Đứng đầu một bộ tộc thường là một tộc trưởng hay tộc chủ.
1.1.2 Khái niệm và đặc trưng của dân tộc
Khái niệm dân tộc được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau, trong đó có hai nghĩa được dùng phổ biến nhất:
– Một là, dân tộc hay quốc gia dân tộc là cộng đồng người ổn định, bền vững hợp
thành nhân dân của một quốc gia, là cộng đồng chính trị – xã hội có những đặc trưng cơ bản sau đây:
+ Có chung một vùng lãnh thổ ổn định. Lãnh thổ bao gồm vùng đất, vùng biển, hải
đảo, vùng trời thuộc chủ quyền của quốc gia.
+ Có chung một phương thức sinh hoạt kinh tế. Đây là đặc trưng quan trọng nhất của
dân tộc, là cơ sở để gắn kết các bộ phận, các thành viên trong dân tộc, tạo nên tính
thống nhất, ổn định, bền vững của dân tộc.
+ Có chung một ngôn ngữ riêng làm công cụ giao tiếp.
+ Có chung nền văn hóa và tâm lý dân tộc và tạo nên bản sắc riêng của nền văn hóa
dân tộc. Văn hóa là một yếu tố đặc biệt quan trọng của sự liên kết cộng đồng.
+ Có chung một nhà nước (nhà nước dân tộc). Đây là yếu tố phân biệt giữa dân tộc –
quốc gia và dân tộc – tộc người. Nhà nước là đặc trưng cho thể chế chính trị của dân
tộc, là đại diện cho dân tộc trong quan hệ với các quốc gia dân tộc khác trên thế giới.
– Hai là, dân tộc là một tộc người, là cộng đồng người cụ thể có những mối liên hệ
chặt chẽ, bền vững, được hình thành lâu dài trong lịch sử và có ba đặc trưng cơ bản như sau:
+ Cộng đồng về ngôn ngữ (gồm ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết): Ngôn ngữ chính là
một đặc trưng cơ bản để phân biệt tộc người này với tộc người kia. Tuy nhiên, vì nhiều
nguyên nhân khác nhau, có những tộc người không còn ngôn ngữ mẹ đẻ mà sử dụng
ngôn ngữ khác làm công cụ giao tiếp.
+ Cộng đồng về văn hóa: văn hóa bao gồm văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể.
Điều này phản ánh truyền thống, phong tục, tập quán, tín ngưỡng,… của mỗi tộc
người. Ngày nay, song song với xu thế giao lưu văn hóa vẫn tồn tại xu thế bảo tồn và
phát huy bản sắc văn hóa của mỗi tộc người.
+ Ý thức tự giác tộc người: tiêu chí quan trọng nhất quyết định sự tồn tại và phát triển
của mỗi tộc người. Sự hình thành và phát triển của ý thức tự giác tộc người liên quan
trực tiếp đến các yếu tố: ý thức về nguồn gốc, tộc danh hay tình cảm, tâm lý tộc người.
Như vậy, khái niệm dân tộc cần phải được hiểu theo hai nghĩa khác nhau. Hai vấn
đề này tuy khác nhau nhưng lại gắn bó rất mật thiết với nhau và không thể tách rời.
1.2 Hai xu hướng khách quan của sự phát triển quan hệ dân tộc
– Xu hướng thứ nhất: do sự thức tỉnh, sự trưởng thành của ý thức dân tộc mà các cộng
đồng dân cư muốn tách ra để xác lập các cộng đồng dân cư độc lập. Trong thực tế, xu
hướng này đã biểu hiện thành phong trào đấu tranh chống áp bức dân tộc, thành lập
các quốc gia dân tộc độc lập. Xu hướng này phát huy tác động nổi bật trong giai đoạn
đầu của chủ nghĩa tư bản và vẫn còn tác động trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa.
– Xu hướng thứ hai: các dân tộc trong cùng quốc gia, thậm chí các dân tộc ở nhiều
quốc gia muốn liên hiệp lại với nhau. Xu hướng này phát huy tác động trong giai đoạn
đế quốc chủ nghĩa. Chính sự phát triển của lực lượng sản xuất, của khoa học và công
nghệ, của giao lưu kinh tế và văn hóa trong xã hội tư bản đã xuất hiện nhu cầu xóa bỏ
hàng rào ngăn cách giữa các dân tộc, tạo nên mối liên hệ quốc gia và quốc tế rộng lớn
giữa các dân tộc, thúc đẩy các dân tộc xích lại gần nhau.
Những biểu hiện của hai xu hướng khách quan:
– Trong phạm vi quốc gia:
+ Xu hướng thứ nhất: thể hiện trong sự nỗ lực của từng dân tộc để đi tới sự tự do, bình
đẳng và phồn vinh của dân tộc mình.
Ví dụ: Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là cuộc cách mạng vĩ đại của lịch sử nước
nhà dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân cả nước đã đoàn kết, anh dũng đứng lên đấu
tranh đánh đổ hoàn toàn chế độ đô hộ, áp bức, bóc lột hàng trăm năm của bọn thực
dân, phát xít, phong kiến đế lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mang lại nền
độc lập tự do nước nhà, xây dựng đất nước vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.
+ Xu hướng thứ hai: thể hiện ở sự xuất hiện những động lực thúc đẩy các dân tộc
trong một cộng đồng quốc gia xích lại gần nhau hơn, hòa hợp với nhau ở mức độ cao
hơn trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Ví dụ: Do những yếu tố đặc thù của nền kinh tế trồng lúa nước, một kết cấu nông dân
bền chặt sớm xuất hiện để tạo ra một nền nông nghiệp, từ đó cũng nhau thúc đẩy và
phát triển kinh tế và đến nay được xem là nền kinh tế chủ yếu của Việt Nam.
Ở các nước xã hội chủ nghĩa, hai xu hướng phát huy, tác động cùng chiều, bổ sung,
hỗ trợ cho nhau và diễn ra ở từng dân tộc, trong cả cộng đồng quốc gia và đến tất cả
các quan hệ dân tộc. Sự xích lại gần nhau trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng giữa các dân
tộc nhanh đi đến sự tự chủ và phồn vinh.
– Trong phạm vi quốc tế:
+ Xu hướng thứ nhất: thể hiện trong phong trào giải phóng dân tộc nhằm chống lại
chủ nghĩa đế quốc và chính sách thực dân đô hộ dưới mọi hình thức, phá bỏ mọi áp
bức bóc lột của chủ nghĩa đế quốc. Độc lập tự chủ của mỗi dân tộc là xu hướng khách
quan, chân lý thời đại, sức mạnh hiện thực tạo nên quá trình phát triển của mỗi dân tộc.
Ví dụ: Ta có thể thấy rõ xu hướng này được thể hiện trong các cuộc đấu tranh của các
dân tộc nhỏ bé đang là nạn nhân của sự kì thị, phân biệt chủng tộc đang bị coi là đối
tượng của chính sách đồng hóa cưỡng bức ở nhiều nước tư bản.
+ Xu hướng thứ hai: thể hiện xu thế ở các dân tộc muốn xích lại gần nhau, hợp tác với
nhau đề hình thành liên minh dân tộc ở phạm vi khu vực hoặc toàn cầu. Tạo điều kiện
để các dân tộc tận dụng tối đa những cơ hội, thuận lợi từ bên ngoài để phát triển phồn
vinh dân tộc mình. Đồng thời, tạo sức hút các dân tộc và các liên minh được hình
thành trên những cơ sở lợi ích chung nhất định, hợp tác cùng phát triển.
Ví dụ: Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) được thành lập với mục tiêu đảm
bảo hòa bình, ổn định, an ninh khu vực và tăng cường hợp tác kinh tế đã được nhiều
thành tựu to lớn, khẳng định vị thế của một tổ chức vững mạnh, liên kết sâu rộng và là
đối tác quan trọng trong các mối quan hệ quốc tế.
Hai xu hướng có sự thống nhất biện chứng với nhau trong sự phát triển của mỗi
quốc gia và toàn nhân loại. Đồng thời, luôn có sự tác động qua lại, hỗ trợ cho nhau
nhưng sẽ để lại hậu quả tiêu cực, khó lường nếu vi phạm mối quan hệ biện chứng này.
1.3 Cương lĩnh dân tộc của triết học Mác – Lênin
Dựa trên cơ sở tư tưởng của C. Mác – Ph.Ăngghen về vấn đề dân tộc, dựa vào sự tổng
kết kinh nghiệm đấu tranh của phong trào cách mạng thế giới và cách mạng Nga, đồng
thời phân tích hai xu hướng khách quan của phong trào dân tộc, V.I.Lênin đã khái quát
được Cương lĩnh dân tộc của Đảng Cộng sản với 3 vấn đề sau:
– Thứ nhất, các dân tộc hoàn toàn bình đẳng.
Đây là quyền thiêng liêng của các dân tộc trong mối quan hệ giữa các dân tộc. Các dân
tộc hoàn toàn bình đẳng, không phân biệt dân tộc lớn hay nhỏ, trình độ cao hay thấp,
đều có nghĩa vụ và quyền lợi ngang nhau, không một dân tộc nào được giữ đặc quyền
đặc lợi và đi áp bức bóc lột dân tộc khác.
Trong một quốc gia có nhiều dân tộc, quyền bình đẳng giữa các dân tộc phải được
pháp luật bảo vệ như nhau, khắc phục sự chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế –
văn hóa giữa các dân tộc do lịch sử để lại.
Trên phạm vi giữa các quốc gia – dân tộc, đấu tranh cho sự bình đẳng giữa các dân tộc
gắn liền với cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, gắn với cuộc đấu tranh
xây dựng một trật tự kinh tế thế giới mới, chống sự áp bức bóc lột của các nước tư bản
phát triển đối với các nước chậm phát triển về kinh tế.
Thực hiện quyền bình đẳng giữa các dân tộc là cơ sở để thực hiện quyền dân tộc tự
quyết và xây dựng mối quan hệ hợp tác, hữu nghị giữa các dân tộc.
– Thứ hai, các dân tộc được quyền tự quyết.
Quyền dân tộc tự quyết là quyền làm chủ của mỗi dân tộc đối với vận mệnh của dân
tộc mình: quyền tự quyết định chế độ chính trị – xã hội và con đường phát triển của
dân tộc mình; quyền tự do độc lập về chính trị tách ra thành một quốc gia dân tộc độc
lập vì lợi ích của các dân tộc; quyền tự nguyện liên hiệp với các dân tộc khác trên cơ
sở bình đẳng cùng có lợi để có sức mạnh chống nguy cơ xâm lược từ bên ngoài, giữ
vững độc lập chủ quyền và có thêm những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển quốc gia – dân tộc.
Các dân tộc cần đứng vững trên lập trường của giai cấp công nhân, ủng hộ các phong
trào đấu tranh tiến bộ, phù hợp với lợi ích chính đáng của nhân dân lao động. Kiên
quyết đấu tranh chống những âm mưu thủ đoạn của các thế lực đế quốc, lợi dụng chiêu
bài “dân tộc tự quyết” để can thiệp vào công việc nội bộ của các nước.
– Thứ ba, liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc.
Tư tưởng trên phản ánh bản chất quốc tế của phong trào công nhân, đồng thời, phản
ánh sự thống nhất giữa sự nghiệp giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp. Nó đảm
bảo cho phong trào dân tộc có đủ sức mạnh để giành thắng lợi.
Nó quy định mục tiêu hướng tới, đường lối, phương pháp xem xét, cách giải quyết
quyền dân tộc tự quyết, quyền bình đẳng dân tộc. Bên cạnh đó, nó cũng là yếu tố sức
mạnh bảo đảm cho giai cấp công nhân và các dân tộc bị áp bức chiến thắng kẻ thù của
mình. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc,
không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”.
Đây là cơ sở vững chắc để đoàn kết các tầng lớp nhân dân lao động đấu tranh chống
chủ nghĩa đế quốc vì độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội. Vì vậy, nội dung liên hiệp công
nhân các dân tộc đóng vai trò liên kết cả 3 nội dung của cương lĩnh thành một chỉnh thể.
Cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác – Lênin (của Đảng Cộng sản) là một bộ
phận trong cương lĩnh cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trong
sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp; là cơ sở lý luận của đường
lối, chính sách dân tộc của Đảng Cộng sản và Nhà nước xã hội chủ nghĩa.
CHƯƠNG 2. VẤN ĐỀ DÂN TỘC Ở VIỆT NAM
2.1 Đặc điểm dân tộc ở Việt Nam
Việt Nam là một quốc gia đa tộc người, được xem như một đại gia đình gồm 54 dân
tộc anh em, có những đặc điểm nổi bật sau đây:
– Thứ nhất: Có sự chênh lệch về số dân giữa các tộc người.
Việt Nam có 54 dân tộc, trong đó, dân tộc người Kinh có 73.594.341 người chiếm
85,7% dân số cả nước; 53 dân tộc thiểu số có 12.252.656 người, chiếm 14,3% dân số.
Tỷ lệ số dân giữa các dân tộc cũng không đồng đều, có dân tộc với số dân lớn hơn 1
triệu người (Tày, Thái, Mường, Khơ me, Mông...), nhưng có dân tộc với số dân chỉ vài
ba trăm (Si la, Pu péo, Rơ măm, Brâu, Ơ đu). Thực tế cho thấy nếu một dân tộc mà số
dân chỉ có hàng trăm sẽ gặp rất nhiều khó khăn cho việc tổ chức cuộc sống, bảo tồn
tiếng nói và văn hoá dân tộc, duy trì và phát triển giống nòi. Do vậy, việc phát triển số
dân hợp lý cho các dân tộc thiểu số, đặc biệt đối với những dân tộc thiểu số rất ít người
đang được Đảng và Nhà nước Việt Nam có những chính sách quan tâm đặc biệt.
– Thứ hai: Các dân tộc cư trú xen kẽ nhau.
Việt Nam vốn là nơi chuyển cư của nhiều dân tộc ở khu vực Đông Nam Á. Tính chất
chuyển cư như vậy đã tạo nên bản đồ cư trú của các dân tộc trở nên phân tán, xen kẽ
và làm cho các dân tộc ở Việt Nam không có lãnh thổ tộc người riêng. Vì vậy, không
có một dân tộc nào ở Việt Nam cư trú tập trung và duy nhất trên một địa bàn.
Đặc điểm này một mặt tạo điều kiện thuận lợi để các dân tộc tăng cường hiểu biết lẫn
nhau, mở rộng giao lưu giúp đỡ nhau cùng phát triển và tạo nên một nền văn hóa thống
nhất trong đa dạng. Mặt khác, do có nhiều tộc người sống xen kẽ nên trong quá trình
sinh sống cũng dễ nảy sinh mâu thuẫn, xung đột, tạo kẽ hở để các thế lực thù địch lợi
dụng vấn đề dân tộc phá hoại an ninh chính trị và sự thống nhất của đất nước.
– Thứ ba: Các dân tộc thiểu số ở Việt Nam phân bố chủ yếu ở địa bàn có vị trí chiến lược quan trọng.
Mặc dù chỉ chiếm 14,3% dân số, nhưng 53 dân tộc thiểu số Việt Nam lại cư trú trên ¾
diện tích lãnh thổ và ở những vị trí trọng yếu của quốc gia cả về kinh tế, an ninh, quốc
phòng, môi trường sinh thái – đó là vùng biên giới, hải đảo, vùng sâu vùng xa của đất
nước. Một số dân tộc có quan hệ dòng tộc với các dân tộc ở các nước láng giềng và khu
vực. Ví dụ: dân tộc Thái, dân tộc Mông, dân tộc Khơme, dân tộc Hoa… do vậy, các
thế lực phản động thường lợi dụng vấn đề dân tộc để chống phá cách mạng Việt Nam.
– Thứ tư: Các dân tộc ở Việt Nam có trình độ phát triển không đều.
Các dân tộc ở nước ta còn có sự chênh lệch khá lớn về trình độ phát triển kinh tế, văn
hoá, xã hội. Về phương diện xã hội, trình độ tổ chức đời sống, quan hệ xã hội của các
dân tộc thiểu số khác nhau. Về phương diện kinh tế, có thể phân loại các dân tộc thiểu
số Việt Nam ở những trình độ phát triển rất khác nhau: Một số ít các dân tộc còn duy
trì kinh tế chiếm đoạt, dựa vào khai thác tự nhiên; tuy nhiên, đại bộ phận các dân tộc ở
Việt Nam đã chuyển sang phương thức sản xuất tiến bộ, tiến hành công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước. Về văn hóa, trình độ dân trí, trình độ chuyên môn kỹ thuật của
nhiều dân tộc thiểu số còn thấp.
Muốn thực hiện bình đẳng dân tộc, phải từng bước giảm, tiến tới xoá bỏ khoảng cách
phát triển giữa các dân tộc về kinh tế, văn hóa, xã hội. Đây là nội dung quan trọng
trong đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam để các dân tộc thiểu số
phát triển nhanh và bền vững.
– Thứ năm: Các dân tộc Việt Nam có truyền thống đoàn kết gắn bó lâu đời trong cộng
đồng dân tộc – quốc gia thống nhất.
Đặc trưng này được hình thành do yêu cầu của quá trình cải biến tự nhiên và nhu cầu
phải hợp sức, hợp quần để cùng đấu tranh chống ngoại xâm nên dân tộc Việt Nam đã
hình thành từ rất sớm và tạo ra độ kết dính cao giữa các dân tộc.
Đoàn kết dân tộc trở thành truyền thống quý báu của các dân tộc ở Việt Nam, là một
trong những nguyên nhân và động lực quyết định mọi thắng lợi của dân tộc trong các
giai đoạn lịch sử; đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược để giành độc lập thống nhất Tổ
quốc. Ngày nay, để thực hiện thắng lợi chiến lược xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ
quốc Việt Nam, các dân tộc thiểu số cũng như đa số phải ra sức phát huy nội lực, giữ
gìn và phát huy truyền thống đoàn kết dân tộc, nâng cao cảnh giác, kịp thời đập tan
mọi âm mưu và hành động chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc.
– Thứ sáu: Mỗi dân tộc có bản sắc văn hóa riêng, góp phần tạo nên sự phong phú, đa
dạng của nền văn hóa Việt Nam thống nhất.
Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc. Trong văn hóa của mỗi dân tộc đều có những sắc
thái độc đáo riêng góp phần làm cho nền văn hóa Việt Nam thống nhất trong đa dạng.
Sự thống nhất đó, suy cho cùng là bởi, các dân tộc đều có chung một lịch sử dựng
nước và giữ nước, đều sớm hình thành ý thức về một quốc gia độc lập, thống nhất.
Xuất phát từ đặc điểm cơ bản của dân tộc Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta luôn luôn
quan tâm đến chính sách dân tộc, xem đó là vấn đề chính trị – xã hội rộng lớn và toàn
diện gắn liền với các mục tiêu trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
2.2 Thực trạng về vấn đề quan hệ dân tộc ở Việt Nam hiện nay
Cộng Nước Việt Nam là một quốc gia có 54 dân tộc anh em cùng sinh sống trên một
lãnh thổ. Cộng đồng các dân tộc Việt Nam đã đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau cùng nhau
tạo nên một truyền thống đấu tranh anh dũng dựng nước và giữ nước, cùng nhau xây
dựng nên một nền văn hóa đa dân tộc trong một quốc gia.
Dân tộc Kinh chiếm 86% dân số có hơn 84 triệu người, là dân tộc đông nhất nước ta.
Các dân tộc còn lại (53 dân tộc) hiện nay có khoảng 11 triệu người, chiếm khoảng 14%
dân số, phân bố rải rác trên khắp cả nước. Năm dân tộc là Tày, Thái, Khơme, Mường,
Hoa, mỗi dân tộc có hơn 1 triệu người. Ba dân tộc là Nùng, Mông, Dao có số dân từ
trên 50 vạn đến 1 triệu người. Chín dân tộc là Gia Rai, Ê Đê, Ba Na, Xán Chay, Chăm,
Xơ Đăng, Sán Dìu, H’rê, Cơ Ho có số dân từ 10 vạn đến 50 vạn người. Mười bảy dân
tộc có từ 1 vạn đến dưới 10 vạn người. Mười bốn dân tộc có từ 1000 đến dưới 10 vạn
người. Năm dân tộc có từ 194 đến dưới 1000 người. Thành phần dân tộc và số dân của
các dân tộc thiểu số ở Việt Nam như trên cho thấy chiến lược đại đoàn kết dân tộc ở
nước ta có ý nghĩa quan trọng xuyên suốt quá trình xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Do lịch sử của đất nước ta và sự phát triển của mỗi dân tộc, cộng với điều kiện tự
nhiên và địa bàn cư trú, nói chung trình độ phát triển của các dân tộc thiểu số so với
dân tộc đa số càng thấp, giữa các dân tộc, phát triển cũng không đồng đều:
Có dân tộc, có vùng đã định canh định cư như Tày, Nùng, Thái, Mường, Khơme,
Chăm… nhưng có dân tộc còn mang nặng tính chất du canh du cư như Mông, Dao, Cơ
Ho, Ba Na, M’Nông… đó là khoảng cách lớn giữa một xã hội còn thời kỳ du canh, du
cư nay đây mai đó, dựa vào thiên nhiên và lệ thuộc vào thiên nhiên là chính, với một
xã hội phát triển cao hơn, với một trình độ sản xuất là thâm canh và có cuộc sống định
cư. Đời sống vật chất và tinh thần giữa các dân tộc, bên cạnh một số trung tâm văn hóa
lớn có tính chất tiêu biểu như Tày, Nùng ở Đông Bắc, Thái ở Tây Bắc…Nhưng nói
chung sự phát triển của các dân tộc thiểu số còn thấp so với dân tộc đa số, giữa các dân tộc và
các vùng cũng có sự chênh lệch với nhau, đặc biệt là số đồng bào dân tộc ở vùng cao,
biên giới, vùng sâu, vùng xa…còn rất nhiều khó khăn và kém phát triển về mọi mặt.
Tuy nhiên cũng có dân tộc đã phát triển tương đối như Khơ Me, Hoa, Chăm…
Các dân tộc thiểu số ở nước ta cư trú ở vùng miền núi, chiếm 3/4 diện tích cả nước,
một số sinh sống ở đồng bằng, hải đảo và đô thị, cư trên tuyến biên giới và vùng cao,
cư trú phân tán và xen kẽ với nhau, không hình thành một vùng lãnh thổ riêng biệt.
Những đặc điểm cư trú đó có ý nghĩa cực kì quan trọng đối với sự phát triển kinh tế và
an ninh quốc phòng ở nước ta:
– Về phát triển kinh tế, tiềm năng đất đai, rừng, tài nguyên khoáng sản và nguồn thủy
năng phần lớn tập trung ở miền núi. Địa bàn đó vừa là mái nhà, là môi trường cho cả
nước, vừa có ý nghĩa quan trọng đối với sự nghiệp phát triển kinh tế của đất nước mà
tiềm năng phát triển cây công nghiệp, chăn nuôi gia súc lớn.
– Về an ninh quốc phòng, địa bàn cư trú của các dân tộc thiểu số có vị trí, ý nghĩa bảo
vệ toàn vẹn lãnh thổ trong thời bình cũng như có chiến tranh.
– Các dân tộc sống xen kẽ là phổ biến, yếu tố này nói lên sự hòa hợp của cộng đồng
dân cư, mặt tốt là tạo điều kiện học hỏi, giúp nhau cùng tiến bộ, nhưng cũng dễ va
chạm dẫn đến mất đoàn kết dân tộc phải được luôn luôn chú ý ngay từ cộng đồng dân
cư ở cơ sở: làng, xóm, ấp, bản đến xã, huyện, tỉnh và trên phạm vi cả nước.
– Một nước có nhiều dân tộc như nước ta, truyền thống đoàn kết là chủ yếu, nhưng
cũng còn những mặc cảm, bọn phản động thường lợi dụng vấn đề dân tộc nđể phục vụ
âm mưu, thủ đoạn của chúng. Do đó cần phải cảnh giác cao, có chính sách dân tộc
đúng và thực hiện nghiêm túc, không để cho kẽ hở cho bọn phản động và phần tử.
2.3 Quan điểm và chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước Việt Nam
2.3.1 Quan điểm của Đảng, Nhà nước Việt Nam về dân tộc
Đảng cộng sản Việt Nam ngay từ khi mới sinh ra đã triển khai đồng nhất những
nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin về dân tộc. Căn cứ vào thực tiễn lịch sử
vẻ vang đấu tranh cách mạng để kiến thiết xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam cũng
như dựa vào tình hình quốc tế trong tiến trình lúc bấy giờ, Đảng và Nhà nước ta luôn
luôn coi trọng yếu tố dân tộc và kiến thiết xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc có
tầm quan trọng đặc biệt quan trọng. Trong mỗi thời kỳ cách mạng, Đảng và Nhà nước
ta coi việc xử lý đúng đắn yếu tố dân tộc là trách nhiệm có tính kế hoạch nhằm mục đích phát huy
sức mạnh tổng hợp, cũng như tiềm năng của từng dân tộc và đưa quốc gia quá độ lên
chủ nghĩa xã hội. Đại hội XII khẳng định chắc chắn: “Đoàn kết những dân tộc có vị trí
kế hoạch trong sự nghiệp cách mạng của nước ta. Tiếp tục hoàn thành xong chính sách
chính sách, bảo vệ những dân tộc bình đẳng, tôn trọng, đoàn kết xử lý hài hòa quan hệ
giữa những dân tộc, giúp nhau cùng tăng trưởng, tạo chuyển biến rõ ràng trong tăng
trưởng kinh tế tài chính, văn hóa truyền thống, xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu
số… Tăng cường kiểm tra, giám sát, nhìn nhận hiệu quả triển khai những chủ trương,
chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ở những cấp. Chống kỳ thị dân tộc, nghiêm
trị những thủ đoạn hành vi chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc. Tựu trung lại,
quan điểm cơ bản của Đảng ta về vấn đề dân tộc thể hiện ở các nội dung sau:
– Vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc là yếu tố kế hoạch cơ bản, lâu dài hơn, đồng thời
cũng là yếu tố cấp bách lúc bấy giờ của cách mạng Việt Nam.
– Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương hỗ, giúp nhau
cùng tăng trưởng, cùng nhau phấn đấu triển khai thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa,
tân tiến hóa quốc gia, kiến thiết xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa. Kiên quyết đấu tranh với mọi thủ đoạn chia rẽ dân tộc.
– Phát triển tổng lực chính trị, kinh tế tài chính, văn hóa truyền thống, xã hội và bảo
mật an ninh – quốc phòng trên địa phận vùng dân tộc và miền núi; gắn tăng trưởng
kinh tế tài chính với xử lý những yếu tố xã hội, triển khai tốt chính sách dân tộc; chăm
sóc tăng trưởng, tu dưỡng nguồn nhân lực; chăm sóc thiết kế xây dựng đội ngũ cán bộ
dân tộc thiểu số; giữ gìn và phát huy những giá trị, truyền thống văn hóa truyền thống
truyền thống cội nguồn những dân tộc thiểu số trong sự nghiệp tăng trưởng chung của
hội đồng dân tộc Việt Nam thống nhất.
– Ưu tiên góp vốn đầu tư tăng trưởng kinh tế tài chính – xã hội những vùng dân tộc và
miền núi, trước hết, tập trung chuyên sâu vào tăng trưởng giao thông vận tải và hạ
tầng, xóa đói, giảm nghèo; khai thác có hiệu suất cao tiềm năng, thế mạnh của từng
vùng, song song với bảo vệ vững chắc môi trường sinh thái; phát huy nội lực, ý thức tự
lực, tự cường của đồng bào những dân tộc, đồng thời tăng cường sự chăm sóc tương
hỗ của Trung ương và sự giúp sức của những địa phương trong cả nước.
– Công tác dân tộc và thực thi chính sách dân tộc là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn
dân, toàn quân, của những cấp, những ngành và hàng loạt mạng lưới hệ thống chính trị.
2.3.2 Chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước Việt Nam
Về chính trị, triển khai bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp nhau cùng tăng trưởng giữa
những dân tộc. Chính sách dân tộc góp thêm phần nâng cao tính tích cực chính trị của
công dân; nâng cao nhận thức của đồng bào những dân tộc thiểu số về tầm quan trọng
của yếu tố dân tộc, đoàn kết những dân tộc, thống nhất tiềm năng chung là độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công minh, văn minh.
Về kinh tế tài chính, nội dung, trách nhiệm kinh tế tài chính trong chính sách dân tộc là
những chủ trương, chính sách tăng trưởng kinh tế tài chính – xã hội miền núi, vùng
đồng bào những dân tộc thiểu số nhằm mục đích phát huy tiềm năng tăng trưởng, từng
bước khắc phục khoảng cách chênh lệch giữa những vùng, giữa những dân tộc. Thực
hiện những nội dung kinh tế tài chính trải qua những chương trình, dự án Bất Động
Sản tăng trưởng kinh tế tài chính ở những vùng dân tộc thiểu số, thôi thúc quy trình
tăng trưởng kinh tế thị trường khuynh hướng xã hội chủ nghĩa. Thực hiện tốt kế hoạch
tăng trưởng kinh tế tài chính – xã hội ở miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới,
vùng căn cứ địa cách mạng. Về văn hóa truyền thống: thiết kế xây dựng nền văn hóa
truyền thống Việt Nam tiên tiến và phát triển đậm đà truyền thống dân tộc. Giữ gìn và
phát huy giá trị văn hóa truyền thống truyền thống lịch sử của những tộc người, tăng
trưởng ngôn từ, thiết kế xây dựng đời sống văn hóa truyền thống ở cơ sở, nâng cao
trình độ văn hóa truyền thống cho nhân dân những dân tộc. Đào tạo cán bộ văn hóa
truyền thống, thiết kế xây dựng thiên nhiên và môi trường, thiết chế văn hóa truyền
thống tương thích với điều kiện kèm theo của những tộc người trong vương quốc đa
dân tộc. Đồng thời, lan rộng ra giao lưu văn hóa truyền thống với những vương quốc,
những khu vực và trên quốc tế. Đấu tranh chống tệ nạn xã hội, chống diễn biến tự do
trên mặt trận tư tưởng – văn hóa truyền thống ở nước ta lúc bấy giờ.
Về xã hội, triển khai chính sách xã hội, bảo vệ phúc lợi xã hội trong vùng đồng bào
dân tộc thiểu số. Từng bước triển khai bình đẳng xã hội, công minh trải qua việc thực
thi chính sách tăng trưởng kinh tế tài chính – xã hội, xóa đói giảm nghèo, dân số, y tế,
giáo dục trên cơ sở quan tâm đến tính đặc trưng mỗi vùng, mỗi dân tộc. Phát huy vai
trò của mạng lưới hệ thống chính trị cơ sở và những tổ chức triển khai chính trị – xã
hội ở miền núi, vùng dân tộc thiểu số.