Lý luận của Triết học Mác – Lênin về mối quan hệ biện chứng giữa nhận thức và thực tiễn và sự vận dụng quan điểm thực tiễn trong quá trình tự học của sinh viên hiện nay | Tiểu luận môn Triết học Mác – Lênin
Trong quá trình học tập và nghiên cứu, chúng ta đã được tiếp xúc với nhiều lý thuyết và quan điểm của Triết học Mác-Lênin, trong đó có mối quan hệ biện chứng giữa nhận thức và thực tiễn. Đây là một khái niệm trung tâm trong triết học Mác-Lênin, nó không chỉ giúp chúng ta hiểu rõ hơn về thế giới xung quanh mà còn hướng dẫn chúng ta cách tiếp cận và giải quyết các vấn đề trong thực tế. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Triết học Mác - Lenin (LLCT130105)
Trường: Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP. HCM
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ MÔN HỌC:
TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN TIỂU LUẬN
LÝ LUẬN CỦA TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN VỀ MỐI QUAN HỆ BIỆN
CHỨNG GIỮA NHẬN THỨC VÀ THỰC TIỄN VÀ SỰ VẬN DỤNG QUAN
ĐIỂM THỰC TIỄN TRONG QUÁ TRÌNH TỰ HỌC CỦA SINH VIÊN HIỆN NAY
GVHD: ThS. Chu Thị Hiền SVTH: 1.Cao Nhật Hải 23149204 2.Lê Hoàng An 23149168
3.Võ Trần Thành An 23149170 4.Phạm Vũ Mai Hân 23124186
5.Nguyễn Đặng Mỹ Tiên 23124234
Mã lớp học: LLCT150105_16LC
Thành phố Hồ Chí Minh, Tháng 05 năm 2024
DANH SÁCH THÀNH VIÊN THAM GIA VIẾT TIỂU LUẬN
HỌC KÌ II, NĂM HỌC 2023 - 2024 NHÓM 4
Tên đề tài: LÝ LUẬN CỦA TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN VỀ MỐI QUAN HỆ BIỆN
CHỨNG GIỮA NHẬN THỨC VÀ THỰC TIỄN VÀ SỰ VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM
THỰC TIỄN TRONG QUÁ TRÌNH TỰ HỌC CỦA SINH VIÊN HIỆN NAY STT NỘI DUNG HỌ VÀ TÊN SINH VIÊN MSSV PHÂN CÔNG 1 Cao Nhật Hải 23149204 100% 2 Lê Hoàng An 23149168 100% 3 Võ Trần Thành An 23149170 100% 4 Nguyễn Đặng Mỹ Tiên 23124234 100% 5 Phạm Vũ Mai Hân 23124186 100% Ghi chú: Tỷ lệ % = 100% Trưởng nhóm:
NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN
........................................................................................................................................
........................................................................................................................................
........................................................................................................................................
........................................................................................................................................
........................................................................................................................................
........................................................................................................................................
........................................................................................................................................
........................................................................................................................................
........................................................................................................................................
........................................................................................................................................
........................................................................................................................................
Điểm: …………………………….. GIẢNG VIÊN Chu Thị Hiền LỜI CẢM ƠN
Đầu tiên, chúng em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Trường Đại Học Sư
Phạm Kỹ Thuật TP HCM, đã đưa môn học Triết học Mác- Lênin vào chương
trình giảng dạy. Để hoàn thành tốt bài tiểu luận này, nhóm em đã họp bàn và
tổ chức phân chia nhiệm vụ, tìm kiếm các nguồn tài liệu tham khảo và để
nghiên cứu, hình ảnh, thống kê số liệu để có kết quả tốt nhất dành cho sản phẩm
tiểu luận lần này. Đặc biệt, chúng em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến giảng
viên bộ môn- ThS. Chu Thị Hiền đã dạy dỗ, truyền đạt những kiến thức quý báu
cho chúng em trong suốt thời gian học tập vừa qua. Trong quá trình học tập
bộ môn Triết học Mác- Lênin, cô đã giúp đỡ và hướng dẫn tận tình cho chúng
em về những kiến thức về môn học. Cô đã giúp đỡ chúng em có cái nhìn sâu
rộng hơn về kiến thức của môn học cùng với những kiến thức quý báu khác
mà cô đã truyền tải đã giúp cho nhóm chúng em có thể hoàn thành tốt cho bài
tiểu luận lần này. Trong thời gian tham gia lớp học của cô, chúng em đã có thêm
cho mình nhiều kiến thức bổ ích, tinh thần học tập hiệu quả, nghiêm túc. Đây
chắc chắn sẽ là những kiến thức quý báu, là hành trang để chúng em có thể vững bước sau này. MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài
Trong quá trình học tập và nghiên cứu, chúng ta đã được tiếp xúc với
nhiều lý thuyết và quan điểm của Triết học Mác-Lênin, trong đó có mối quan hệ
biện chứng giữa nhận thức và thực tiễn. Đây là một khái niệm trung tâm trong
triết học Mác-Lênin, nó không chỉ giúp chúng ta hiểu rõ hơn về thế giới xung
quanh mà còn hướng dẫn chúng ta cách tiếp cận và giải quyết các vấn đề trong
thực tế. Thực tiễn là nguồn gốc của nhận thức và đồng thời là mục tiêu cuối
cùng mà nhận thức hướng tới. Quan điểm này đã được Mác và Lênin khẳng định
và giải thích một cách chi tiết trong các tác phẩm của họ. Tuy nhiên, việc hiểu
và vận dụng đúng đắn quan điểm này vào thực tế không phải lúc nào cũng đơn
giản, đặc biệt là trong quá trình tự học của sinh viên hiện nay. Sinh viên là một
phần quan trọng của xã hội, là những người sẽ tiếp quản và phát triển đất nước
trong tương lai. Do đó, việc sinh viên hiểu rõ và vận dụng đúng đắn quan điểm
về mối quan hệ biện chứng giữa nhận thức và thực tiễn là vô cùng quan trọng.
Nó không chỉ giúp sinh viên nắm bắt được kiến thức một cách chính xác mà còn
giúp họ phát triển kỹ năng tư duy, phân tích và giải quyết vấn đề, từ đó nâng cao
chất lượng học tập và công tác tự học của mình. Vì những lý do trên, chúng tôi
đã quyết định chọn "Lý luận của Triết học Mác – Lênin về mối quan hệ biện
chứng giữa nhận thức và thực tiễn và sự vận dụng quan điểm thực tiễn trong quá
trình tự học của sinh viên hiện nay" làm đề tài nghiên cứu. Chúng tôi hy vọng
rằng, thông qua việc nghiên cứu đề tài này, chúng tôi không chỉ nắm vững kiến
thức mà còn có thể đóng góp một phần nhỏ vào sự phát triển của giáo dục và
đào tạo ở Việt Nam. Đồng thời, việc nghiên cứu và viết về chủ đề này cũng là
một cơ hội để chúng tôi phát triển khả năng phân tích, suy luận và vận dụng kiến
thức vào thực tiễn. Đây không chỉ là một cơ hội để chúng tôi mở rộng kiến thức
và hiểu biết về triết học Mác-Lênin, mà còn là một cơ hội để chúng tôi rèn luyện
và phát triển những kỹ năng cần thiết cho sự nghiệp học thuật và nghiên cứu của
mình. Chúng tôi tin rằng, thông qua việc nghiên cứu và viết về chủ đề này,
chúng tôi sẽ có thể đóng góp vào sự phát triển của lý thuyết và thực tiễn, giúp
cải thiện chất lượng giáo dục và đào tạo, và đồng thời, góp phần vào sự phát
triển của xã hội. Chúng tôi rất mong muốn được chia sẻ những kiến thức và kinh
nghiệm mà chúng tôi đã tích lũy được thông qua quá trình nghiên cứu và học tập
này với cộng đồng học thuật và xã hội rộng lớn. Chúng tôi tin tưởng rằng, với sự
nỗ lực và quyết tâm, chúng tôi sẽ có thể đạt được mục tiêu của mình và đóng
góp vào sự phát triển của giáo dục và đào tạo ở Việt Nam. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu của chúng tôi là khám phá mối quan hệ biện chứng
giữa nhận thức và thực tiễn theo triết học Mác - Lênin. Chúng tôi sẽ tìm hiểu về
vai trò của nhận thức trong quá trình tiếp nhận và tương tác với thực tiễn, và tác
động của thực tiễn đối với quá trình hình thành nhận thức. Chúng tôi cũng sẽ
nghiên cứu cách sinh viên áp dụng triết lý Mác - Lênin vào quá trình học tập của
họ, giúp họ hiểu sâu hơn về kiến thức và cách áp dụng chúng vào thực tế. Ngoài
ra, chúng tôi sẽ tìm hiểu về các phương pháp và chiến lược mà triết học Mác -
Lênin đề xuất để giải quyết vấn đề nhận thức và thực tiễn, và cách áp dụng
chúng vào quá trình tự học của sinh viên.
Cuối cùng, chúng tôi sẽ đề xuất một số nguyên tắc cơ bản về nhận thức và
thực tiễn, dựa trên các lý luận và quan điểm của Marx và Lenin, nhằm xây dựng
hướng dẫn chi tiết cho việc xử lý các vấn đề liên quan đến nhận thức và thực
tiễn trong xã hội chủ nghĩa. . Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp nghiên cứu bao gồm: phân tích lý luận, phân tích tài liệu,
khảo sát thực tế, phân tích số liệu, và đánh giá và so sánh. Bố cục
+ Phần 1: Cơ sỡ lý luận về mối quan hệ biện chứng giữa nhận thức và thực tiễn.
+ Phần 2: Sự vận dụng quan điểm thực tiễn trong quá tình tự học của sinh viên hiện nay. NỘI DUNG
CHƯƠNG I: CƠ SỠ LÝ LUẬN VỀ MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA
NHẬN THỨC VÀ THỰC TIỄN
1.1. Khái quát chung về quan điểm của Triết học Mác - Leenin về nhận thức
1.1.1. Khái niệm, các giai đoạn, bản chất của nhận thức 1.1.1.1. Khái niệm
Nhận thức là quá trình phản ánh thế giới khách quan một cách biện
chứng, tích cực, sáng tạo thông qua hoạt động thực tiễn của con người. Triết học
Mác - Lênin cho rằng nhận thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc
người: “Tri giác và biểu tượng của chúng ta là hình ảnh của các vật đó”; “Cảm
giác của chúng ta, ý thức của chúng ta chỉ là hình ảnh của thế giới bên ngoài; và
dĩ nhiên là nếu không có cái bị phản ánh thì không thể có cái phản ánh, những
cái bị phản ánh tồn tại một cách độc lập với cái phản ánh”.
Trong hoạt động nhận thức của con người, giai đoạn cảm tính và lý tính
có quan hệ chặt chẽ và tác động tương hỗ lẫn nhau. Do đó, Lênin đã đưa ra nhân
định về quy luật hoạt động nhận thức như sau: “Từ trực quan sinh động đến tư
duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn – Đó là con đường biện
chứng của sự nhận thức chân lý, của sự nhận thức hiện thực khách quan”.
1.1.1.2. Các giai đoạn của nhận thức
Lênin đã khái quát con đường biện chứng của quá trình nhận thức như
sau: “Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng đến
thực tiễn - đó là con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý, của sự nhân
thức thực tại khách quan”. Do đó, có thể hiểu nhận thức bao gồm hai giai đoạn
đó là: nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính.
Thứ nhất, về nhận thức cảm tính.
Đây là giai đoạn đầu tiên của quá trình nhận thức, nó gắn liền với thực
tiễn và được phản ánh thông qua cảm giác và tri giác. Con người sẽ sử dụng các
giác quan của mình để tác động lên sự vật, hiện tượng nhằm nắm bắt được sự
vật, hiện tượng đó. Nhận thức cảm tính diễn ra dưới ba hình thức: cảm giác, tri giác và biểu tượng.
+ Cảm giác là hình thức đầu tiên, đơn giản nhất, được nảy sinh do sự tác
động trực tiếp của khách thể lên các giác quan của con người. Nó là nguồn gốc
của mọi sự hiểu biết và cũng là kết quả của sự chuyển hóa những thứ kích thích
từ bên ngoài thành ý thức.
+ Tri giác là một hình thức nhận thức của giai đoạn trực quan sinh động,
là kết quả của sự tác động trực tiếp của sự vật đồng thời lên nhiều giác quan của
con người. Do đó có thể nói tri giác là sự tổng hợp nhiều cảm giác. + Biểu
tượng là hình thức cao nhất và phức tạp nhất của nhận thức cảm
tính. Khác với cảm giác và tri giác, biểu tượng là hình ảnh sự vật được tái hiện
lại trong đầu. Là khâu trung gian chuyển từ nhận thức cảm tính lên nhận thức lý tính.
Thứ hai, về nhận thức lý tính.
Đây là giai đoạn bắt nguồn từ trực quan sinh động, phản ảnh bản chất bên
trong sự vật. Thông qua tư duy trừu tượng, con người phản ánh sự vật một cách
gián tiếp, khái quát và đầy đủ hơn dưới các hình thức: khái niệm, phán đoán và suy luận.
+ Khái niệm là hình thức cơ bản của tư duy trừu tượng, phản ánh những
đặc tính bản chất của sự vật. Đây cũng là kết quả của sự tổng hợp, khái quát biện
chứng những tài liệu thu nhận được trong thực tiễn..
+ Phán đoán là hình thức tư duy trừu tượng, bằng cách liên kết các khái
niệm với nhau để khẳng định hay phủ định một thuộc tính nào đó của sự vật.
+ Suy luận (hay còn gọi là suy lý) là hình thức tư duy trừu tượng liên kết
các phán đoán lại với nhau để rút ra một phán đoán có tính chất kết luận tìm ra tri thức mới.
1.1.1.3. Bản chất của nhận thức
Theo lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, bản chất của nhận thức đã được
làm sáng tỏ dựa trên những nguyên tắc cơ bản sau đây:
Thứ nhất, nhận thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc con người.
Điều này đã phần nào thừa nhận sự tồn tại của thế giới vật chất ở bên
ngoài và độc lập với ý thức. Từ đó, có thể kết luận nhận thức là sự phản ánh thế
giới khách quan vào bộ óc người một cách chủ động và sáng tạo, nghĩa là hoạt
động tìm hiểu khách thể của chủ thể.
Theo trích dẫn của tác phẩm “Bút ký triết học”, Lênin đã từng viết:
“Nhận thức là sự tiến gần mãi mãi và vô tận của tư duy đến khách thể.
Phản ánh của giới tự nhiên trong tư tưởng con người phải được hiểu không phải
một cách “chết cứng”, “trừu tượng”, không phải không vận động, không mâu
thuẫn, mà là trong quá trình vĩnh viễn của vận động, của sự nảy sinh mâu thuẫn
và sự giải quyết tnhững mâu thuẫn đó”.
Nhằm củng cố niềm tin cho nhận định của mình, triết học Mác – Lênin đã phát biểu:
“Tri giác và biểu tượng của chúng ta là hình ảnh của các sự vật đó”;
“Cảm giác của chúng ta, ý thức của chúng ta chỉ là hình ảnh của thế giới bên
ngoài và dĩ nhiên là nếu không có cái bị phản ánh thì không thể có cái phản
ánh, nhưng cái bị phản ánh tồn tại độc lập với cái phản ánh”.
Đúng thật là như vậy, nhận thức là một quá trình phức tạp, nảy sinh và
giải quyết những mâu thuẫn chứ không phải là quá trình máy móc giản đơn, thụ
động và nhất thời. Điều này thể hiện quan niệm duy vật về nhận thức, chống lại
quan niệm duy tâm về nhận thức. Đồng thời, khẳng định nhận thức là quá trình
phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc người, là quá trình tạo thành tri thức
về thế giới khách quan trong bộ óc người.
Thứ hai, nhận thức là một quá trình biện chứng có sự vận động và phát triển.
Đây được coi là điểm tiến bộ trong quan điểm nhận thức của chủ nghĩa
duy vật biện chứng so với các quan điểm triết học khác. Bởi lẽ, không phải cứ
nhận thức một lần trong đời là xong, mà chúng ta phải luôn luôn nhận thức bổ
sung và hoàn thiện để phát triển trong xã hội không ngừng biến động như hiện nay.
Theo câu nói của Mác và Ăng-ghen: “Trong lý luận nhận thức, cũng như
trong tất cả các lĩnh vực khác của khoa học, cần suy luận một cách biện chứng,
nghĩa là đừng giả định rằng nhận thức của chúng ta là bất di bất dịch và cá sẵn,
mà phải phân tích xem sự hiểu biết nảy sinh ra từ sự không hiểu biết như thế
nào, sự hiểu biết không đầy đủ và không chính xác trở thành đầy đủ hơn và
chính xác hơn như thế nào.”
Vậy quá trình nhận thức là mãi mãi trường tồn vô tận với thời gian, là quá
trình giải quyết mâu thuẫn này đến mâu thuẫn khác. Dẫn chứng trên là minh
chứng tiêu biểu thể hiện tính vận động và phát triển của nhận thức. Đồng thời,
khẳng định sự phản ánh đó là một quá trình biện chứng, tích cực, tự giác và sáng
tạo. Quá trình phản ánh ấy diễn ra theo trình tự từ chưa biết đến biết, từ biết ít
đến biết nhiều, đi từ hiện tượng đến bản chất, từ bản chất kém sâu sắc đến bản
chất sâu sắc hơn, là quá trình không ngừng nảy sinh và giải quyết mâu thuẫn.
Như thực tế hiện nay, các sinh viên muốn hiểu rõ hơn về bản chất của các
hiện tượng và quy luật khoa học thì đều phải học tập thông qua thực nghiệm.
Việc học mỗi lý thuyết suông theo sách giáo khoa sẽ khiến các bạn gặp nhiều
khó khăn trong việc tiếp thu kiến thức và vận dụng vào thực tế. Chỉ khi trực tiếp
quan sát và trải nghiệm các hiện tượng khoa học thì lúc đó sinh viên chúng ta
mới có cơ sở để đưa ra kết luận.
Thứ ba, nhận thức là quá trình tác động biện chứng giữa chủ thể và khách
thể thông qua hoạt động thực tiễn của con người.
Nếu đi vào phân tích, chủ thể nhận thức không chỉ là những cá nhân con
người (với tư cách là thành viên của xã hội) mà còn là những tập đoàn người cụ
thể, một dân tộc cụ thể, là loài người nói chung. Còn khách thể nhận thức được
hiểu là một bộ phận nào đó của hiện thực mà nhận thức phản ánh nó trong phạm
vi tác động của hoạt động nhận thức. Trong đó, cả chủ thể cũng như khách thể
nhận thức đều bị giới hạn và chịu ảnh hưởng bởi điều kiện lịch sử - xã hội.
Trong hoạt động nhận thức cũng như trong hoạt động thực tiễn, chủ thể
nhận thức và khách thể nhận thức có quan hệ gắn bó mật thiết với nhau, ở đó
khách thể đóng vai trò quyết định chủ thể. Chính sự tác động của khách thể lên
chủ thể đã tạo nên hình ảnh nhận thức về khách thể. Song chủ thể phản ánh
khách thể như một quá trình sáng tạo, trong đó chủ thể ngày càng nắm bắt được
bản chất, quy luật của khách thể.
Hoạt động thực tiễn của con người chính là cơ sở của mối quan hệ giữa
chủ thể nhận thức và khách thể nhận thức. Do đó, hoạt động thực tiễn cũng là cơ
sở, động lực, mục đích của nhận thức và là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý. Từ đó
thấy được nhận thức chính là quá trình phản ánh hiện thực khách quan một cách
tích cực, chủ động, sáng tạo bởi con người trên cơ sở thực tiễn mang tính lịch sử cụ thể.
Như trong chiến tranh thời xưa, con người thường tập trung vào việc bảo
vệ và gìn giữ dân tộc trước kẻ thù xâm lược. Mọi suy nghĩ và hành động của con
người trong giai đoạn này đều hướng đến mục tiêu là giành chiến thắng và giành
lại độc lập, tự do cho đất nước. Tuy nhiên, khi cách mạng thành công, nhiệm vụ
của dân tộc không chỉ dừng lại ở việc bảo vệ chủ quyền đất nước mà còn phải
phát triển trên mọi lĩnh vực (từ kinh tế - chính trị đến đời sống xã hội). Nhận
thức được điều này, con người bắt đầu chuyển hướng sang phát triển đất nước
ngày càng giàu mạnh, văn minh và hiện đại.
Chính vì vậy, chủ nghĩa duy vật biện chứng đã đưa ra khẳng định dựa trên
những nguyên tắc cơ bản:
“Nhận thức là một quá trình phản ánh hiện thực khách quan trên cơ sở
thực tiễn vào trong bộ óc con người, nhưng không phải là sự phản ánh giản
đơn, thụ động mà là một quá trình phản ánh mang tính tích cực năng động và sáng tạo.”
1.1.2. Vai trò của nhận thức
Nhận thức đóng vai trò quan trọng dối với đời sống của con người. Giúp
con người hiểu được cái riêng, cái chung và hiện tượng cũng như bản chất của
sự vật, sự việc. Nhờ đó mà con người biết được đúng đắn, đầy đủ và chính xác
về bản chất của sự vật, sự việc.
Nhận thức cung cấp cho con người một lượng lớn tri thức cũng như
những kinh nghiệm trong đời sống sinh hoạt hằng ngày. Giúp con người hiểu
được các nguyên lý, định nghĩa và khái niệm trong thế giới quan của mình.
Nhằm phát triển khả năng tư duy logic và phân tích từ đó đưa ra những
phương pháp giải quyết cho mọi vấn đề gặp phải.
Nhờ có nhận thức, con người có thể thu thập thông tin từ môi trường
thông qua các giác quan và xử lý thông tin đó bằng những kinh nghiệm mà
con người học được. Vì vậy, ta có thể biết sự vật tồn tại như nào, vận động của
nó cũng như các mối quan hệ với nhau.
Nhận thức là nền tảng cho sự giao tiếp và hợp tác giữa con người với con
người. Nhìn nhận và hiểu được cảm xúc của nhau là tiền đề tạo nên các mối
quan hệ xã hội. Từ đó, có thể giao tiếp một cách hiệu quả và phối hợp với
hành động để đạt được mục đích chung.
Tăng khả năng sáng tạo và tưởng tượng để tạo ra những cái mới. Nhờ đó
mà con người có thể phát minh ra những tác phẩm độc đáo có ích cho đời sống sinh hoạt hằng ngày.
1. 2. Khái quát chung về thực tiễn
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm của thực tiễn Khái niệm
Theo từng giai đoạn, thực tiễn được đề cập, nghiêm cứu và đánh giá khác
nhau. Theo Hy Lạp cổ, thực tiễn là “Practica”, là một phạm trù nền tảng, cơ bản
của triết học Mac-Leenin.
Theo chủ nghĩa duy tâm: hoạt động nhận thức, hoạt động ý thức, hoạt
động tích cực tinh thần nói chung là hoạt động thực tiễn.
Ngược lại, chủ nghĩa duy vật lại cho rằng: “thực tiễn không phải là toàn
bộ hoạt động của con người mà chỉ là những hoạt động vật chất”, “là những
hoạt động mang tính lịch sử - xã hội của con người”, “là hoạt động có mục đích
nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội phục vụ con người với thế giới.”
Khác với hai quan điểm trên, do kế thừa và phát triển sáng tạo nhứng yếu
tố hợp lí của những quan điểm về thực tiễn của các nhà triết học trước đó,C.Mác
và Ph.Ănghen đã đưa ra quan niệm đúng đắn về thực tiễn: “Thực tiễn là toàn bộ
những hoạt động vật chất-cảm tính, có tính lịch sử-xã hội của con người nhằm
cải tạo tự nhiên và xã hội phục vụ nhân loại tiến bộ.
Ví dụ : Như hoạt động gặt lúa của nông dân, họ sử dụng liềm, máy gặt để
thu hoạt; hoạt động lao động của công nhân ở các nhà máy tác động vào máy
móc trên các loại vải, da,… để tạo ra sản phẩm như quân áo, giày, dép,… để
phục vụ đời sống con ngời…. Đặc điểm
Thực tiễn là hoạt động có mục đích của con người
Con người hoạt động có mục đích rõ ràng nhằm cải tạo thế giới, thõa mãn
nhu cầu của mình, con người tạo ra của cải vật chất để nuôi sống mình. Không
có hoạt động thực tiễn con người và xã hội không thể tồn tại và phát triển được.
Thực tiễn là hoạt động mang tính lịch sử-xã hội
Thực tiễn luôn là hoạt động cơ bản và phổ biến của xã hội loài người.
Thực tiễn có quá trình vận động và phát triển của nó.
Hoạt động thực tiễn ở mỗi thời đại là khác nhau, tùy thuộc tình hình đất
nước mà biểu hiện khác nhau.
Thực tiễn có ba hình thức cơ bản : hoạt động sản xuất vật chất, hoạt động
chính trị-xã hội, hoạt động thực nghiệm khoa học.
Hoạt động sản xuất vật chất
Là hình thức thực nghiệm có sớm nhất, cơ bản nhất, quan trọng nhất.
Đây là hoạt động mà con người sử dụng những công cụ lao động tác động
vào thế giới tự nhiên để tạo ra của cải vật chất nhằm duy trì sự tồn tại và phát triển của mình
Sản xuất vật chất còn là cơ sở cho sự tồn tại của các hình thức thực tiễn
khác cũng như tất cả các hoạt động sống khác của con người
Ví dụ: người ngư dân dùng lưới để đánh bắt cả,…
Hoạt động chính trị-xã hội
Là hoạt động thực tiễn thể hiện tính tự giác cao nhằm biến đổi, cải tạo xã
hội, phát triển các thiết chế xã hội, các quan hệ xã hội.
Ví dụ: nhân dân đấu tranh đánh đuổi chế độ thực dân để dành độc lập dân
tộc; đi bỏ phiếu bầu cử đại biểu Quốc hội; thanh niên tham gia tình nguyện giúp
đồng bào vùng sâu vùng xa;…
Hoạt động thực nghiệm khoa học
Là hình thức đặc biệt của hoạt động thực tiễn, con người tạo ra những
điều kiện không có sẵn trong tự nhiên để tiến hành thực nghiệm khoa học.
Hoạt động này có vai trò trong sự phát triển của xã hội, đặc biệt là trong
thời kì cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại như hiện nay.
Ví dụ: con người nghiên cứu để điều chế ra vaccine ngừa Covid-19 tiêm chủng cho con người
1.2.2. Vai trò của thực tiễn
Thực tiễn là cơ sở, động lực của nhận thức
Bằng và thông qua hoạt động thực tiễn, con người tác động vào thế giới
khách quan, buộc chúng phải bộc lộ những thuộc tính, những quy luật để con
người nhận thức. Chính thực tiễn cung cấp những tài liệu, vật liệu cho nhận thức của con người.
Thực tiễn luôn đề ra nhu cầu, nhiệm vụ và phương hướng phát triển của
nhận thức, vì thế nó luôn thúc đẩy cho sự ra đời của các ngành khoa học.
Thực tiễn có tác dụng rèn luyện các giác quan của con người, làm cho
chúng phát triển tinh tế hơn, hoàn thiện hơn, trên cơ sở đó giúp quá trình nhận
thức của con người hiệu quả hơn, đúng đắn hơn.
Hoạt động thực tiễn còn là cơ sở chế tạo ra các công cụ, phương tiện, máy
móc mới hỗ trợ con người trong quá trình nhận thức, chẳng hạn như kính hiển
vi, kính thiên văn, hàn thử biểu, máy vi tính, v.v.
Thực tiễn là mục đích của nhận thức
Nhận thức của con người ngay từ khi con người mới xuất hiện trên trái
đất với tư cách là người đã bị quy định bởi những nhu cầu thực tiễn. Bởi lẽ,
muốn sống, muốn tồn tại, con người phải sản xuất và cải tạo tự nhiên và xã hội.
Chính nhu cầu sản xuất vật chất và cải tạo tự nhiên, xã hội buộc con
người phải nhận thức thế giới xung quanh. Nhận thức của con người là nhằm
phục vụ thực tiễn, soi đường, dẫn dắt, chỉ đạo thực tiễn. Nếu không vì thực tiễn,
nhận thức sẽ mất phương hướng, bế tắc.
Mọi tri thức khoa học - kết quả của nhân thức chỉ có ý nghĩa khi nó được
áp dụng vào đời sống thực tiễn một cách trực tiếp hay gián tiếp để phục vụ con người.
Thực tiễn là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý
Tri thức của con người là kết quả của quá trình nhận thức, tri thức đó có
thể phản ánh đúng hoặc không đúng hiện thực khách quan.
Theo triết học Mác - Lênin, thực tiễn là tiêu chuẩn khách quan duy nhất
để kiểm tra chân lý, bác bỏ sai lầm. Dựa vào thực tiễn, người ta có thể chứng
minh, kiểm nghiệm chân lý. Bởi lẽ, chỉ có thực tiễn mới có thể vật chất hoá
được tri thức, hiện thực hoá được tư tưởng, qua đó mới khẳng định được chân lý
hoặc phủ định một sai lầm nào đó.
Có nhiều hình thức thực tiễn khác nhau, do vậy cũng có nhiều hình thức
kiểm tra chân lý khác nhau, có thể bằng thực nghiệm khoa học, có thể áp dụng
lý luận xã hội vào quá trình cải biến xã hội, v.v..
Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý vừa có tính chất tuyệt đối, vừa có tính chất tương đối.
CHƯƠNG II: SỰ VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM THỰC TIỄN TRONG QUÁ
TRÌNH TỰ HỌC CỦA SINH VIÊN HIỆN NAY
2.1. Khái quát về quá trình tự học và vai trò của việc tự học đối với sinh viên
a/ khái quát quá trình tự học Khái niệm
Quá trình tự học là quá trình mà một người học tự tìm hiểu và học hỏi một
kỹ năng, một kiến thức hoặc một chủ đề mà không có sự hướng dẫn trực tiếp từ
một giáo viên hay người hướng dẫn.
Quá trình tự học có thể được thực hiện thông qua nhiều phương pháp
khác nhau, bao gồm đọc sách, tài liệu tham khảo, xem video và tham gia các
khóa học trực tuyến, thực hành, …
Tự học giúp người học hiểu sâu, mở rộng, củng cố và ghi nhớ bài học một
cách vững chắc nhờ vào khả năng tự phân tích, tổng hợp tài liệu, có khả năng
vận dụng các tri thức đã học vào việc giải quyết những nhiệm vụ học tập mới.
Đồng thời, tự học giúp người học hình thành được tính tích cực, độc lập tự giác
trong học tập cũng như nề nếp làm việc khoa học.Từ đó quyết định sự phát triển
các phẩm chất nhân cách và quyết định chất lượng học tập.
Đặc điểm của tự học
Thứ nhất, tự học là hoạt động mang tính tự giác, độc lập, diễn ra với nhịp
độ căng thẳng đòi hỏi sự nỗ lực trí tuệ cao thể hiện ở nhu cầu khao khát tìm tòi,
khám phá sự vật hiện tượng, kiến thức và kĩ năng nghề. Hoạt động này vừa gắn
kết chặt chẽ với nghiên cứu khoa học, vừa không tách rời hoạt động nghề nghiệp của chuyên gia
Thứ hai, tự học diễn ra trong điều kiện có kế hoạch, vì nó phụ thuộc vào
nội dung, chương trình, mục tiêu, phương thức và thời hạn đào tạo nhưng không
quá khép kín mà có tính chất mở rộng khả năng theo năng lực, sở trường để
người học có thể phát huy tối đa năng lực nhận thức của mình trong nhiều lĩnh vực.
Thứ ba, tự học diễn ra trong quá trình dạy học, liên quan chặt chẽ với quá
trình dạy học. Sinh viên tiến hành việc tự học thông qua các hoạt động thực tế,
thực tập, kiểm tra, đánh giá… dưới sự hướng dẫn, điều khiển và điều chỉnh của giảng viên.
Các yếu tố ảnh hưởng quá trình tự học Chủ quan
Tự ý thức : phụ thuộc vào sự hiểu biết về mục đích ý nghĩa và vai trò tự học của mỗi người
Thái độ tự học: thái độ tự học được thể hiện ở nhu cầu tự học,động lực
học tập, sự say mê, tinh thần quyết tâm,…
Khả năng tự học: khả năng tự học được thể hiện thông qua việc thực hiện
kế hoạch tự học, cách tổ chức tự học, đặc biệt dựa vào kết quả học tập để quyết tâm phấn đấu
Phương pháp học tập : đây là một yếu tố vô cùng quan trọng, có phương
pháp học tập phù hợp sẽ đem lại kết quả cao. Mỗi người sẽ có một phương pháp
học tập phù hợp cho riêng mình. Khách quan
Môi trường tự học : sự phát triển xã hội, yêu cầu của thời đại, mối quan hệ
bạn bè, môi trường tập thể...
Thời gian tự học : không chỉ phải sắp xếp thời gian hợp lý vào thời điểm
trong ngày mà còn phù hợp với đặc điểm tâm lý cá nhân
Điều kiện sống, điều kiện sinh hoạt, các phương tiện học tập, tài liệu tham
khảo; Nhân tố gia đình, bạn bè người thân…
b/ vai trò của việc tự học đối với sinh viên
Việc tự học đóng vai trò rất quan trọng trong quá trình học tập của một
sinh viên. Dưới đây là một số vai trò của việc tự học:
Tự chủ và tự quản: Việc tự học giúp sinh viên trở nên tự chủ và tự quản
trong quá trình học tập. Họ sẽ tự quyết định mục tiêu học tập của mình, lập kế
hoạch và tự đưa ra các quyết định liên quan đến việc học tập.
Phát triển kỹ năng tự học: Việc tự học giúp sinh viên phát triển kỹ năng tự
học, bao gồm khả năng tìm kiếm thông tin, phân tích và đánh giá thông tin, và tổ
chức thông tin một cách hiệu quả.
Tăng cường kiến thức và kỹ năng: Việc tự học giúp sinh viên tăng cường
kiến thức và kỹ năng của mình một cách đáng kể. Họ có thể tìm kiếm các tài
liệu học tập phù hợp với mục tiêu học tập của mình và tự học và thực hành để
đạt được mục tiêu đó.
Phát triển sự sáng tạo và khả năng giải quyết vấn đề: Việc tự học giúp
sinh viên phát triển sự sáng tạo và khả năng giải quyết vấn đề. Họ sẽ học cách
tìm kiếm các giải pháp mới và sáng tạo để giải quyết các vấn đề trong quá trình học tập.
Tự tin và độc lập: Việc tự học giúp sinh viên trở nên tự tin và độc lập
trong quá trình học tập. Họ sẽ tự tin hơn khi đạt được mục tiêu học tập của mình
và có khả năng đối mặt với các thử thách trong quá trình học tập.
2.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả của việc tự học đối với sinh viên hiện nay
2.2.1. Xác định mục tiêu rõ ràng
Kỹ năng xác định mục tiêu là khả năng nhận biết, xác định và thiết lập
mục tiêu cụ thể, có thể đạt được, phù hợp với bản thân và có thời hạn. Kỹ năng
này đóng vai trò quan trọng, giúp mỗi cá nhân tập trung, tăng cường động lực và
hiệu suất làm việc để đạt được những thành tựu đáng kể và hổ trợ chúng ta phát
triển bản thân về nhiều mặt. Khi nỗ lực để đạt được mục tiêu, chúng ta sẽ học
hỏi được những điều mới, phát triển những kỹ năng mới và trở thành phiên bản tốt hơn của chính mình.
Thế nhưng vẫn có rất nhiều người xác định sai mục tiêu của bản thân vì
nhiều lý do khác nhau. Vì vậy, khi xác định mục tiêu, ta cần đảm bảo rằng
chúng mang tính tích cực, hướng đến sự phát triển cá nhân, phù hợp và tương
thích với những giá trị, đam mê và mục tiêu lớn hơn của bản thân. Đồng thời, ta
cũng phải có khả năng linh hoạt để có thể điều chỉnh và thay đổi mục tiêu khi
cần thiết, cần linh hoạt và sẵn sàng thay đổi để đạt được thành công.
Để có thể rèn luyện được kỹ năng xác định mục tiêu, chúng ta cần phải
thành thật với bản thân về những gì mình có thể và không thể làm được. Đồng
thời, nhìn nhận những thành công và thất bại một cách khách quan, nhận ra
những thay đổi cần thiết và sẵn lòng điều chỉnh chiến lược khi cần.
Bên cạnh đó, chúng ta nên có một hệ thống ghi chú, lịch biểu hoặc ứng
dụng quản lý thời gian có thể giúp mỗi người dễ dàng theo dõi và đánh giá tiến
trình của mình, việc ghi chú mục tiêu và theo dõi tiến trình cũng giúp chúng ta
có thể nhìn thấy những tiến bộ mà bản thân đã đạt được. Hãy coi những trở ngại
và thất bại là cơ hội học hỏi và cải thiện, sử dụng chúng để điều chỉnh và đi tiếp
đến những mục tiêu mới.
2.2.2. Có kế hoạch cụ thể, nhất quán
Việc học là cả một quá trình dài cho bạn không ngừng trau dồi, nghiên
cứu, nỗ lực. Chúng ta cần phải kiên nhẫn và tạo thói quan tự học, sắp xếp thời
gian, lịch học, tần suất học một cách nhất quán để có thể tiếp thu kết quả tự học
một cách có hiệu quả nhất.
Để việc tự học đạt hiệu quả cao, chúng ta cần sắp xếp thời gian học tập
hợp lý và lên kế hoạch học tập cụ thể Chia nhỏ thời gian . học tập thành từng giai
đoạn ngắn, kết hợp giữa học tập và nghỉ ngơi để đảm bảo hiệu quả tiếp thu kiến
thức. Do tần suất học tập cũng đóng vai trò quan trọng nên cần học tập thường
xuyên, đều đặn mỗi ngày để củng cố kiến thức và ghi nhớ lâu dài.
Đồng thời, xác định các hoạt động cụ thể mà bản thân sẽ thực hiện để đạt
được mục tiêu của mình. Điều này có thể bao gồm việc đặt lịch học, chọn tài
liệu tham khảo, tìm kiếm nguồn tư liệu, thực hành và kiểm tra kiến thức. Tạo ra
một lịch trình linh hoạt và phù hợp với những việc cá nhân của bản thân, nhưng
hãy đảm bảo rằng bản thân dành ít nhất một khung thời gian cố định mỗi ngày
hoặc mỗi tuần để tập trung vào việc học.
2.2.3. Chọn lọc tài liệu học tập khoa học