Lý luận của Triết học Mac - Lênin về quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất và ngược, vận dụng quy luật vào thực tiễn | Tiểu luận cuối kì môn Triết học Mác – Lênin
Trong cuộc sống hằng ngày, đằng sau các hiện tượng muôn màu muôn vẻ, con người dần dần nhận thức được tính trật tự và mối liên hệ có tính lặp lại của sự vật hiện tượng, từ đó hình thành khái niệm “quy luật”. Với tư cách là phạm trù của lý luận nhận thức, khái niệm “quy luật” là sản phẩm của tư duy khoa học. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Triết học Mác - Lenin (LLCT130105)
Trường: Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP. HCM
MÔN HỌC: TRIẾT HỌC MÁC LÊNIN
TIỂU LUẬN CUỐI KỲ
PHÂN TÍCH NỘI DUNG QUY LUẬT CHUYỂN HÓA
TỪ NHỮNG THAY ĐỔI VỀ LƯỢNG DẪN ĐẾN SỰ THAY ĐỔI
VỀ CHẤT VÀ NGƯỢC LẠI VÀ VẬN DỤNG QUY LUẬT VÀO THỰC TIỄN
GVHD: TS. Nguyễn Thị Quyết SVTH: 1. Nguyễn Diệu Linh 22126031
2. Sơn Thị Cẩm Ly 22126037
3. Phạm Nguyễn Tiểu My 22126040 4. Chu Huyền Trang 22126063
5. Phan Thị Thanh Diễm 22126022
Mã lớp học: LLCT130105_22_1_09CLC Nhóm: 1
Thành phố Hồ Chí Minh, Tháng 12 năm 2022
NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
ĐIỂM:…………………………….. Ký tên TS. Nguyễn Thị Quyết MỤC LỤC
A. PHẦN MỞ ĐẦU………………………………………………………………….1
1. Lý do chọn đề tài…………………………………………………………………… 1 2. Mục tiêu và đối tượng nghiên
cứu…………………………………………………..1
3. Phạm vi nghiên cứu………………………………………………………………… 2
4. Phương tiện nghiên cứu…………………………………………………………….2 B. PHẦN NỘI
DUNG………………………………………………………………...3
CHƯƠNG 1: QUY LUẬT CHUYỂN HÓA TỪ SỰ THAY ĐỔI VỀ LƯỢNG
THÀNH NHỮNG SỰ THAY ĐỔI VỀ CHẤT VÀ LƯỢNG VÀ NGƯỢC LẠI.
1.1. Một số khái niệm………………………………………………………………...3 1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của chất và
lượng………………………………….3
1.1.2. Khái niệm về độ……………………………………………………….… 4
1.1.3. Khái niệm về điểm nút……………………………………….. ………….4
1.1.4. Khái niệm bước nhảy………………………………………………... …..4
1.1.5. Khái niệm các hình thức của bước của bước nhảy…………..…………..5
1.2. Nội dung quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược
lại………………………………………………………...5
1.3. Cơ sở lý luận về quy định chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng dẫn
đến những sự thay đổi về chất và ngược lại của phép biện chứng duy vật……………6
1.3.1. Khái niệm quy luật và phân loại quy luật………………………………..6
1.3.2. Khái niệm và đặc điểm của phép biện chứng duy vật…………………… 7
1.3.3. Nội dung cơ bản và nguyên lý của phép biện chứng duy vật…………….8
1.3.4. Các quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật và ý nghĩa chung của các quy luật
trên………………………………………………………………...8
1.3.5. Quan niệm về chất và lượng của các nhà triết học cổ…………………… 9
1.3.6. Quan niệm biện chứng duy vật về chất và lượng……………………………… 10
1.3.7. Mối quan hệ biện chứng sự thay đổi về lượng và sự thay đổi về chất………… 11 1.4. Ý nghĩa phương pháp
luận…………………………………………………….13
CHƯƠNG 2: VẬN DỤNG QUY LUẬT CHUYỂN HÓA TỪ NHỮNG THAY
ĐỔI VỀ LƯỠNG DẪN ĐẾN SỰ THAY ĐỔI VỀ CHẤT VÀ NGƯỢC LẠI VÀO THỰC TIỄN.
2.1 Vận dụng quy luật quy luật chuyển hóa từ những thay đổi về lượng dẫn sự
thay đổi về chất và ngược lại vào nên kinh tế Việt Nam định hướng xã hội chủ
nghĩa…………………………………………………………………………………14
2.1.1 Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam…….…14
2.2. Tính tất yếu khách quan kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước
ta……………………………………………………………………………….16
2.3. Những thành tựu và hạn chế trong thời kì đổi
mới…………………………..17
2.4. Quy luật chuyển hóa từ những thay đổi về lượng thành sự thay đổi về chất
và ngược lại. Vận dụng quy luật này vào thực
tiễn…………………………………..20
2.4.1. Nội dung và ý nghĩa của quy luật chuyển hoá từ những thay đổi về lượng
dẫn đến sự thay đổi về chất và ngược lại (Quy luật Lượng – Chất)…..........20
2.4.2. Vận dụng quy luật Lượng – Chất vào hoạt động thực tiễn……...…...….24
C. PHẦN KẾT LUẬN……………………………………………………………… 25
TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………………………………….26 A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Trong cuộc sống hằng ngày, đằng sau các hiện tượng muôn màu muôn vẻ,
con người dần dần nhận thức được tính trật tự và mối liên hệ có tính lặp lại của
sự vật hiện tượng, từ đó hình thành khái niệm “quy luật”. Với tư cách là phạm
trù của lý luận nhận thức, khái niệm “quy luật” là sản phẩm của tư duy khoa học
phản ánh sự liên hệ của các sự vật, hiện tượng và tính chỉnh thể của chúng.
Các quy luật của tự nhiên, xã hội cũng như của tư duy con người đều mang
tính khách quan. Con người không thể tạo ra hoặc xóa bỏ được quy luật mà chỉ
có thể nhận thức và vận dụng vào thực tế.
Học tập là quá trình tích lũy tri thức vô hạn tự bản thân nó có sự vân động
và biến đổi không ngừng. Quá trình tích lũy tri thức ở mỗi người không giống
nhau mà còn phụ thuộc vào khả năng tiếp thu cũng như mục đích và điệu kiện
học tập của mỗi người. Bất kể quá trình tiếp thu diễn ra dù nhanh hay chậm dù ít
hay nhiều thì sự tích lũy về tri thức ấy đều khiến cho con người đạt đến những
sự thay đổi nhất định. Triết học gọi đó là sự biến đổi về chất. Sự vân động biến
đổi trong quá trình học tập, rèn luyện của con người có tính trật tự và mối liên
hệ mang tính lặp lại diễn ra theo một quy luật cụ thể là “ Quy luật lượng chất”.
Việc nhận thức đúng đắn khái niệm từ mối quan hệ biện chứng và ý nghĩa
phương pháp luận của quy luật lượng chất là nền tảng lý luận làm cơ sở để con
người vận dụng vào việc giải quyết các tình huống về tự nhiên xã hội hoặc tư
duy nhằm lý giải được sự vận động và phát triển của mọi sự vật hiện tượng để
có những phương pháp và cách thức giải quyết một cách đúng đắn những vấn đề
trong thực tiễn cuộc sống cụ thể ở đây là sự vận dụng quy luật này vào quá trình học tập của sinh viên.
Vì thế sau khi thảo luận và khảo sát ý kiến nhóm chúng em đã thống nhất
chọn đề tài “ Lý luận của Triết học Mac - Lênin về quy luật chuyển hóa từ
những sự thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất và ngược, vận dụng quy
luật vào thực tiễn” làm đề tài nghiên cứu cuối kì.
2. Mục tiêu và đối tượng nghiên cứu.
Với bài tiểu luận này chúng em muốn làm rõ các nội dung cùng các khía
cạnh liên quan của quy luật lượng - chất để từ đó giải quyết các vấn đề sinh viên
hiện nay vận dụng quy luật này như thế nào. Đây là đề tài mang tính lý luận và
ứng dụng thực tiễn đòi hỏi tầm nhìn tổng quát, khả năng năm bắt và vận dụng 1
sâu sắc vào quá trình học tập của bản thân nói riêng và toàn thể sinh viên nói
chung. Vậy đối tượng nghiên cứu là các khía cạnh của quy luật lượng chất và sự
vận dụng quy luật này vào thực tiễn.
3. Phạm vi nghiên cứu
Tóm gọn trong việc phân tích sự chuyển hóa giữa lượng - chất và áp dụng
vào thực tiễn. Đồng thời dựa vào tiền đề đã được hoàn thiện trước đó nhờ vậy
mà có cơ sở để dựa vào và tham khảo.
4. Phương pháp nghiên cứu.
Cơ sở lý luận chung thứ nhất dựa trên nội phương pháp luận duy vật biện
chứng dựa trên những quan điểm về nhân sinh quan thế giới quan, dựa trên quy
luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất, sử
dụng các nguyên tắc của một hệ thống lý luận nhất định để giải quyết các vấn
đề. Và dựa trên phương pháp nghiên cứu lý thuyết là phương pháp thu thập tư
liệu và phân tích tổng hợp các thông tim kiếm trên ở các nguồn tài liệu làm sơ sở
cho lý luận của đề tài. 2 B. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: QUY LUẬT CHUYỂN HÓA TỪ NHỮNG SỰ THAY ĐỔI VỀ
LƯỢNG DẪN ĐẾN SỰ THAY ĐỔI VỀ CHẤT VÀ NGƯỢC LẠI. 1.1 Một số khái niệm:
1.1.1 Khái niệm, đặc điểm của chất và lượng.
* Khái niệm về chất:
Chất là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của
sự vật, hiện tượng, đó là sự thống nhất hữu cơ của những thuộc tính, những yếu
tố cấu thành sự vật, hiện tượng, nói lên sự vật, hiện tượng đó là gì, phân biệt nó
với các sự vật, hiện tượng khác. Ví dụ: Thuộc tính của ớt là cay, Thuộc tính của ớt là cay
* Đặc điểm của chất:
Chất thể hiện tính khách quan: chất là cái vốn có, nó nằm bên trong sự vật
hay hiện tượng không phụ thuộc vào những ý muốn chủ quan của con người. Ví
dụ: nước biển mặn tồn tại ở bên trong chứ không phải là do một lực lượng siêu
nhiên nào đó, hay ý muốn chủ quan của con người mà có thể áp đặt lên được nó.
Chất chính là sự thống nhất hữu cơ của những thuộc tính, những yếu tố của
sự vật. Thuộc tính chính là những tính chất của các sự vật, nó là cái vốn có của
sự vật. Các thuộc tính của sự vật nó chỉ được bộc lộ ra phía bên ngoài qua sự tác
động qua lại của các sự vật mang các thuộc tính đó với những sự vật khác. Mỗi
một sự vật hay hiện tượng đều mang thuộc tính cơ bản và không cơ bản. Chỉ có
những thuộc tính cơ bản thì mới hợp thành chất của những sự vật hay hiện
tượng. Mỗi sự vật hay hiện tượng đều có một quá trình tồn tại và phát triển qua
những giai đoạn và trong mỗi giai đoạn ấy nó lại có những chất riêng. Tóm lại,
mỗi sự vật hay hiện tượng không phải chỉ có duy một chất mà rất có thể nó có nhiều chất.
Chất thể hiện được tính ổn định tương đối của các sự vật và hiện tượng: khi
nó chưa được chuyển hóa thành các sự vật, hiện tượng khác thì chất của nó vẫn chưa có sự thay đổi.
* Khái niệm về lượng:
Lượng là một phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan của
sự vật hiện tượng, về các phương tiện. Nó biểu thị sự tồn tại của sự vật hiện 3
tượng về tốc độ, nhịp điệu và quá trình vận động, quá trình phát triển của sự vật
hiện tượng xung quanh. Sự vật hiện tượng nó tồn tại ở nhiều phương diện khác
nhau, được xác định bằng các phương thức khác nhau phù hợp với từng loại
lượng cụ thể của sự vật hiện tượng đó. Ví dụ: Diện tích đất nước Việt Nam là
331.212 km2 , Độ cao của núi Bà Đen Tây Ninh là 996m.
* Đặc điểm của lượng:
Lượng có tính khách quan bởi vì lượng là một dạng biểu hiện của vật chất,
nó chiếm một vị trí nhất định trong một không gian và tồn tại trong khoảng thời
gian nhất định. Trong các sự vật hiện tượng thì có nhiều loại lượng khác nhau
như: có lượng chính là yếu tố quyết định bên trong, nhưng có lượng chỉ thể hiện
các yếu tố bên ngoài của các sự vật, hiện tượng; các sự vật hiện tượng càng phức
tạp thì lượng của chúng cũng sẽ phải phức tạp theo.
Lượng sẽ thường xuyên biến đổi: Bản thân về lượng không nói lên các sự
vật đó (ví dụ như số lượng của các nguyên tử hợp thành nguyên tố hoá học,..) là
gì, các thông số về lượng cũng không ổn định mà nó lại thường xuyên biến đổi
cùng với các sự vận động biến đổi của những sự vật , đó chính là mặt không ổn
định của các sự vật.
Lượng có thể sẽ được xác định bằng những đơn vị đo lường cụ thể hoặc nó
có thể nhận thức bằng những con đường trừu tượng và khái quát hóa.
1.1.2 Khái niệm về độ.
Độ là một phạm trù triết học dùng để chỉ sự thống nhất giữa lượng và chất,
là giới hạn mà trong đó sự thay đổi về lượng chưa làm thay đổi căn bản về chất
của sự vật, sự vật chưa biến thành cái khác. Trong giới hạn của độ, lượng và chất
tác động biện chứng với nhau, làm cho sự vật vận động. Ví dụ: Người sống lâu
nhất thế giới từng được ghi nhận có tuổi thọ là 146 tuổi.
1.1.3. Khái niệm về điểm nút.
Điểm nút là giới hạn mà tại đó bất kì sự thay đổi nào về lượng cũng đưa
ngay tới sự thay đổi về chất của sư vật. Ví dụ: Nhiệt độ sôi của nước là 1000C.
Thì 1000C chính là điểm nút của nước để nó chuyển từ trạng thái lỏng sang trạng thái bay hơi.
1.1.4. Khái niệm bước nhảy.
Bước nhảy là sự kết thúc một giai đoạn biến đổi về lượng, là sự đứt đoạn
trong liên tục, nó không chấm dứt sự vận động nói chung mà chỉ chấm dứt một
dạng vận động cụ thể, tạo ra một bước ngoặc mới cho sự thống nhất biện chứng 4
giữa chất và lượng trong một độ mới. Ngoài ra bước nhảy là sự kết thúc một giai
đoạn phát triển đồng thời mở ra một giai đoạn mới tiếp theo của sự vật. Trong
giai đoạn mới đó, lượng tiếp túc biến đổi tích lũy điểm nút để chất mới hơn được
ra đời. Cứ như vậy tạo ra sự vận động phát triển đi lên của sử vật từ thấp đến
cao. Ví dụ: Xét “ nước” (H20) nguyên chất, trong điều kiện atmotphe ở trạng thái
thể lỏng (chất) được quy định bởi nhiệt độ (lượng) từ 00C đến 1000C. Khi nhiệt
độ biến thiên năm ngoài khoảng giới hạn 00C hoặc 1000C đó (điểm nút) thì tất
yếu xảy ra quá tình biến đổi của nước từ trạng thái lỏng sang trạng thái rắn hoặc khí (bước nhảy).
1.1.5 Khái niệm các hình thức của bước nhảy.
* Bước nhảy đột biến: Bước nhảy đột biến là bước nhảy được thực hiện
trong một thời gian rất ngắn làm thay đổi chất của toàn bộ kết cấu cơ bản của sự
vật. Ví dụ: Nguyên tố phóng xạ URANIUM 235 được tăng đến khối lượng nhất
định trong một khoảng thời gian ngắn thì xảy ra nổ.
* Bước nhảy dần dần: Bước nhảy dần dần là hình thức bước nhảy được
thực hiện bằng cách tích lũy dần dần những tố chất mới, mất dần dần nhân tố cũ.
Ví dụ: Để có thể tốt nghiệp THPT thì ta học qua các lớp được dạy dỗ bởi các
thầy cô đã được đào tạo.
* Bước nhảy toàn bộ: Bước nhảy toàn bộ là hình thức bước nhảy mà chất
của sự vật biến đổi các bộ phận, các mặt yếu tố cấu phần. Ví dụ: Tro cốt của con
người khi được qua nhiệt độ thích hợp có thể trở thành viên kim cương.
* Bước nhảy cục bộ: Bước nhảy cục bộ chỉ chất của sự vật biến đổi ở một
mặt, hay một phương diện nào đó. Ví dụ: Trong ngành công nghiệp chăn nuối
gia súc, người chăn nuôi sử dụng thuốc tăng tọng nhằm mục đích lợi nhuận.
1.2 Nội dung quy luật chuyển hóa từ những sự biến đổi về lượng thành
những sự thay đổi về chất và ngược lại:
Sự phát triển của mọi sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội cũng như sự
phát triển nhận thức trong tư duy con người đều đi từ sự thay đổi dần về lượng
khi vượt qua giới hạn về độ tới điểm nút thì gây ra sự thay đổi cơ bản về chất,
làm cho sự vật, hiện tượng phát triển cao hơn hoặc thay thế bằng sự vật , hiện
tượng khác. Sở dĩ như vậy là vì chất và lượng là hai mặt thống nhất hữu cơ
nhưng cũng mang trong mình tính mâu thuẫn vốn có trong sự vật. Lượng thì
thường xuyên biến đổi còn chất thì có xu thế ổn định. Do đó, lượng phát triển tới
một mức nào đó thì mâu thuẫn với chất cũ, yêu cầu tất yếu là phải thay đổi chất
cũ, mở ra một độ mới cho sự phát triển của lượng. Sự chuyển hóa từ những sự 5
thay đổi về lượng dẫn đến những sự thay đổi về chất, diễn ra một cách phổ biến
trong tự nhiên, xã hội và tư duy.
Quy luật này còn diễn ra theo chiều ngược lại, tức là không chỉ thay đổi về
lượng dẫn đến thay đổi về chất mà sau khi chất mới ra đời, do sự biến đổi về
lượng trước đó gây nên thì nó lại quay trở lại, tác động đến sự biến đổi của
lượng mới. Ảnh hưởng của chất mới đến lượng thể hiện ở quy mô, mức độ, nhịp
điệu phát triển mới. Nội dung của quy luật được phát biểu như sau: Mọi sự vật
đều là sự thống nhất giữa lượng và chất, sự thay đổi dần dần về lượng trong
khuôn khổ của độ tới điểm nút sẽ dẫn đến sự thay đổi về chất của sự vật thông
qua bước nhảy; chất mới ra đời tác động trở lại sự thay đổi của lượng mới. Quá
trình tác động đó diễn ra liên tục làm cho sự vật không ngừng phát triển, biến đổi.
Như chúng ta đã biết, quy luật về sự thay đổi của lượng dẫn đến sự thay đổi
về chất và ngược lại là một trong ba quy luật cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện
chứng. Nội dung của nó không chỉ giới hạn trong một hay một số lĩnh vực cụ thể
mà bao trùm lên mọi sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội và tư duy con người.
Ví dụ: Khoảng nhiệt độ từ -273oC đến 0oC chính là độ của nước. Đây là khoảng
giới hạn mà lượng của nước đựơc tích lũy nhưng không làm thay đổi chất căn
bản của nước. Đến 0oC thì sự thay đổi về chất diễn ra, như vậy, 0oC chính là
điểm nút mà ở đó, sự tích lũy về lượng của nước đã đủ để làm nó có sự thay đổi
về chất. Từ 0oC, nước không còn ở thể rắn nữa mà chuyển hoàn toàn sang thể
lỏng, vì vậy, đây chính là bước nhảy của nước trong quá trình chuyển từ thể rắn
sang thể lỏng. Chất mới được sinh ra lại tiếp tục quay trở lại tác động đến lượng
mới, điều này thể hiện ở vận tốc của các phân tử nước ở trạng thái lỏng được
tăng lên đáng kể so với trạng thái rắn khi mà nhiệt độ của nước tiếp tục được
nâng lên. Tương tự như sự phân tích trên, căn cứ vào sơ đồ chuyển đổi trạng thái
của nước ta sẽ có được những độ, những điểm nút và những chất mới. Quy luật
này của nước được thể hiện rõ ràng nhất ở vòng tuần hoàn của nước trong tự nhiên. 6
1.3. Cơ sở lý luận về quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng
thành những sự thay đổi về chất và ngược lại của phép biện chứng duy vật:
1.3.1: Khái niệm quy luật và phân loại quy luật:
Khái niệm quy luật: Quy luật là mối liên hệ bản chất, tất nhiên, phổ biến và
lặp lại giữa các sự vật, hiện tượng, giữa các đối tượng, giữa các thuộc tính của
các sự vật cũng như giữa các thuộc tính của cùng một sự vật, hiện tượng.
Căn cứ vào lĩnh vực tác động, quy luật được chia thành 3 loại là: Quy luật
tự nhiên, quy luật xã hội và quy luật tư duy.
Thứ nhất, dựa vào tính phổ biến các quy luật có thể được chia ra như sau: Quy
luật riêng, quy luật chung và những quy luật phổ biến.
+ Các quy luật riêng: được biết đến là quy luật sẽ thể hiện những mối liên hệ
đặc trưng cho một phạm vi nhất định những hiện tượng cùng loại.
+ Các quy luật chung: được biết đến là những quy luật tác động trong phạm vi
rộng hơn quy luật riêng, tác động trong nhiều loại sự vật, hiện tượng khác nhau.
+ Những quy luật phổ biến: Đây là những quy luật tác động trong tất cả các lĩnh
vực như: từ tự nhiên, xã hội cho đến tư duy. Đây chính là những quy luật phép
biện chứng duy vật nghiên cứu.
Thứ hai, căn cứ vào lĩnh vực tác động, các quy luật được chia làm 3 nhóm lớn sau:
+ Quy luật tự nhiên: là những quy luật nảy sinh, tác động không cần có sự tham
gia của con người, mặc dù một số quy luật tự nhiên cũng tồn tại trong con người.
+ Quy luật xã hội: là những quy luật hoạt động của chính con người trong các
quan hệ xã hội. Những quy luật đó không thể nảy sinh và tác động ngoài hoạt
động có ý thức của con người. Mặc dù vậy, quy luật xã hội vẫn mang tính khách quan.
+ Quy luật của tư duy: là những quy luật nói lên mối liên hệ nội tại của những
khái niệm, phạm trù, những phán đoán. Nhờ đó, trong tư tưởng của con người
hình thành tri thức nào đó về sự vật.
1.3.2. Khái niệm và đặc điểm của phép biện chứng duy vật :
Ăng ghen định nghĩa khái quát về pháp biện chứng duy vật rằng: “Phép
biện chứng là môn khoa học về những quy luật phổ biến của sự vận động và 7
phát triển của tự nhiên, của xã hội loài người và của tư duy”. Bên cạnh đó, các
nhà triết học nêu định nghĩa về phép biện chứng duy vật dưới nhiều khía cạnh
khác nhau. Khi nhấn mạnh về vai trò của nguyên lý về mối liên hệ phổ biến,
Ăng ghen cho rằng: “Phép biện chứng là khoa học về mối liên hệ phổ biến”.
Hay khi nhấn mạnh vai trò của nguyên lý về sự phát triển, Lênin định nghĩa:
“Phép biện chứng là học thuyết về sự phát triển, dưới hình thức hoàn bị nhất,
sâu sắc nhất và không phiến diện, học thuyết về tính tương đối của nhận thức
con người, nhận thức này phản ánh vật chất luôn phát triển không ngừng”.
* Đặc điểm của phép biện chứng duy vật:
Phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác – Lê nin thực chất là phép
biện chứng được xác lập trên nền tảng của thế giới quan duy vật khoa học. Phép
biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác – Lê nin là sự khác biệt về trình độ phát
triển so với các tư tưởng biện chứng trong các thời kỳ trước học trước đây.
Trong phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác – Lê nin ta nhận thấy rằng có
sự thống nhất giữa nội dung thế giới quan (duy vật biện chứng) và phương pháp
luận (biện chứng duy vật). Chính vì vậy, phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa
Mác – Lê nin không dừng lại ở sự giải thích thế giới mà còn là công cụ nhận
thức thế giới và cải tạo thế giới.
1.3.3. Nội dung cơ bản và nguyên lý của phép biện chứng duy vật:
Với tư cách là khoa học về mối liên hệ phổ biến và sự phát triển của tất cả
mọi sự vật, hiện tượng trong giới tự nhiên, xã hội và tư duy, nội dung cơ bản của
phép biện chứng duy vật bao gồm:
* Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến:
Nguyên lý này khái quát những tính chất chung của các mối liên hệ; nghiên
cứu khái quát những mối liên hệ phổ biến nhất của các sự vật, hiện tượng trong
tự nhiên, xã hội và tư duy; đó là các mối liên hệ: cái chung và cái riêng, tất nhiên
và ngẫu nhiên, bản chất và hiện tượng, nguyên nhân và kết quả, nội dung và
hình thức, khả năng và hiện thực.
* Nguyên lý về sự phát triển:
Nguyên lý này khái quát những tính chất chung của mọi sự phát triển của
các sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội và tư duy, đồng thời cũng nghiên
cứu chỉ ra những quy luật chung nhất của mọi quá trình vận động, phát triển; đó
là các quy luật: những thay đổi về lượng dẫn tới những thay đổi về chất và
ngược lại, quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập và quy luật phủ 8
định của phủ định. Đó là các quy luật về phương thức, nguồn gốc, động lực và
khuynh hướng cơ bản, phổ biến của mọi quá trình vận động, phát triển trong tự
nhiên, xã hội và tư duy.
1.3.4. Các quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật và ý nghĩa chung của các quy luật trên:
* Nguyên lý về sự phát triển bao gồm: Quy luật mâu thuẫn, quy luật lượng -
chất và quy luật phủ định. Trong đó:
Quy luật mâu thuẫn: Là một quy luật cơ bản trong phép biện chứng duy vật
lịch sử nhằm khẳng định rằng: Mọi sự vật, hiện tượng trong tự nhiên đều có sự
tồn tại cũng như mâu thuẫn bên trong. Quy luật mâu thuẫn còn có tên gọi khác
là quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập.
Quy luật lượng- chất: Hay còn gọi là quy luật chuyển hóa từ những sự thay
đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược lại là một trong ba quy
luật cơ bản của phép biện chứng duy vật trong triết học Mác - Lênin, chỉ cách
thức của sự vận động, phát triển, theo đó sự phát triển được tiến hành theo cách
thức thay đổi lượng trong mỗi sự vật dẫn đến chuyển hóa về chất của sự vật và
đưa sự vật sang một trạng thái phát triển tiếp theo.
Quy luật phủ định: hay quy luật phủ định của phủ định là một trong ba quy
luật cơ bản của phép biện chứng duy vật trong triết học Mác - Lênin, chỉ ra
khuynh hướng của sự phát triển, theo đó sự phát triển của sự vật, hiện tượng có
xu hướng, khuynh hướng lặp lại giai đoạn đầu nhưng ở trình độ cao hơn, phát
triển theo hình xoắn trôn ốc.
⇒ Ý NGHĨA: Các quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật chỉ ra hình thức
chung nhất của sự vận động, phát triển của thế giới vật chất và nhận thức của
con người về thế giới đó, đồng thời các quy luật này cũng tạo cơ sở cho phương
pháp chung nhất của tư duy biện chứng. Vì vậy đây là nền tảng cho sự phát triển
của sự vật hiện tượng sau này.
1.3.5. Quan niệm về chất và lượng của các nhà triết học cổ:
Đối với nhiều nhà triết học tại Hy Lạp, vật chất thường đồng nhất với sự
vật. Từ đó họ cố gắng hiểu vật chất và các hình thức biểu hiện của nó từ phương
diện chất. Ngược lại, những người thuộc trường phái Pitago xem đặc trưng về
lượng của thế giới vật chất là nền tảng của mọi cái đang tồn tại. Họ xem những
mối quan hệ số lượng là quy luật cấu thành mọi sự vật của thế giới. Lần đầu tiên
trong lịch sử triết học, chất và lượng có được ý nghĩa với tư cách là những phạm 9
trù trong triết học của Arixtốt. Ông xem chất là tất cả những cái gì làm cho sự
vật là nó. Còn lượng là tất cả những cái gì có thể phân ra thành những bộ phận
cấu thành. Ông phân lượng thành hai loại: số lượng và đại lượng. Ông cũng là
người đầu tiên tiến tới giải quyết một vấn đề quan trọng của quy luật: vấn đề
tính nhiều chất của sự vật. Từ đó, ông phân biệt sự khác nhau về hình thức với
chất căn bản của sự vật – cái sẽ xuất hiện hay mất đi cùng với sự xuất hiện hay
mất đi của bản thân sự vật; ông cũng đạt được bước tiến đáng kể trong việc
nghiên cứu phạm trù độ, xem độ là cái thống nhất, cái không thể phân chia giữa
chất và lượng. Sau này, quan điểm phiến diện tuyệt đối hoá đặc trưng về lượng
đã được khắc phục trong triết học cổ điển Đức, đặc biệt trong triết học Hêghen.
Hêghen đã phân tích một cách tỉ mỉ sự thống nhất biện chứng, mối quan hệ qua
lại, sự chuyển hóa lẫn nhau giữa lượng và chất, xem xét chất và lượng nằm trong
quá trình vận động và phát triển không ngừng. Với quan điểm biện chứng,
Hêghen đã xem xét từ “ chất thuần tuý “ đến ” chất được xác định ”; chất phát
triển đến tột độ thì ra đời lượng; lượng cũng không ngừng tiến hoá, “ số lượng ”
là đỉnh cao nhất trong sự tiến hoá. Trong việc xem xét mối quan hệ giữa thay đổi
về lượng và thay đổi về chất, Hêghen đặc biệt chú ý tới phạm trù bước nhảy.
Chính dựa trên tư tưởng của Hêghen, Lênin đã ra một kết luận quan trọng là :
Việc thừa nhận bước nhảy hay không là tiêu chí cơ bản để xem đó là người theo
quan điểm biện chứng hay siêu hình về sự phát triển. Tất nhiên, với tư cách là
nhà triết học duy tâm, Hêghen đã xem các phạm trù chất, lượng, độ chỉ như
những nấc thang tự phát triển của tinh thần, của “ ý niệm tuyệt đối ” chứ không
phải là những nấc thang nhận thức của con người đối với thế giới bên ngoài. Về
sau sự ra đời của phép biện chứng duy vật đánh dấu một giai đoạn phát triển căn
bản trong quan niệm về chất, lượng, mối quan hệ qua lại giữa sự thay đổi về
lượng và sự thay đổi về chất nói chung.
1.3.6. Quan niệm biện chứng duy vật về chất và lượng:
1.3.6.1. Quan niệm biện chứng duy vật về chất:
Trong hiện tại mọi sự vật hiện tượng khác nhau có những nét đặc trưng,
thuộc tính, suy nghĩ khác nhau hay thậm chí có những yêu cầu quy định khác
nhau. Ngoài ra mọi sự vật có vô vàn thuộc tính, mỗi thuộc tính của sự vật lại có
một tổng hợp những đặc trưng về chất của mình nên khiến cho mỗi chúng ta có
những suy nghĩ hành động và rồi trở thành một chất. từ đó ta nhận thấy rằng một
sự vật có vô vàn chất.
Phần lớn mối quan hệ giữa các sự vật đều là những lý do để ta tìm được các
thuộc tính phù hợp. Đặc biệt trong một mối quan hệ cụ thể sẽ dễ dàng bộc lộ ra 10
các thuộc tính của chúng và sẽ trở thành một chất. Thuộc tính còn là biểu hiện
một khía cạnh nào đó về chất của một sự vật trong mối quan hệ qua lại với sự
vật khác nhau, là những tính chất, những trạng thái, những yếu tố cấu thành nên
sự vật, sự việc…. Đó là những cái vốn có của sự vật từ khi sự vật được sinh ra
hoặc được hình thành trong sự vận động và phát triển của nó. Tuy nhiên sự phát
triển, dưới hình thức hoàn hảo không phiến diện. Làm cho nhận thức phản ánh
vật chất nhận thức thế giới và cải tạo thế giới.
1.3.6.2. Quan niệm biện chứng duy vật về lượng :
Lượng của sự vật biểu thị qua kích thước dài hay ngắn, số lượng nhiều hay
ít, quy mô lớn hay nhỏ, trình độ cao hay thấp, nhịp điệu nhanh hay chậm. Có
những lượng chỉ có thể biểu thị dưới dạng trừu tượng và khái quát như trình độ
tri thức khoa học của một người, ý thức trách nhiệm của một công dân.... Trong
những trường hợp đó chúng ta chỉ có thể nhận thức được lượng của sự vật bằng
con đường trừu tượng và khái quát hóa. Có những lượng biểu thị yếu tố quy
định kết cấu bên trong của sự vật (số lượng nguyên tử hợp thành nguyên tố hóa
học...) có những lượng vạch ra yếu tố bên ngoài của sự vật (chiều dài, chiều
rộng,...). Sự phân biệt chất và lượng của sự vật chỉ mang tính tương đối. Có
những tính quy định trong mối quan hệ này là chất, nhưng trong mối quan hệ
khác lại biểu thị lượng của sự vật và ngược lại. Lượng và chất không tách rời
nhau mà tác động lẫn nhau một cách biện chứng. Sự thay đổi về lượng tất yếu sẽ
dẫn tới sự chuyển hóa và chất của sự vật hiện tượng.
1.3.7. Mối quan hệ biến chứng sự thay đổi về lượng và sự thay đổi về chất:
Những sự thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất: Mỗi sự vật đều có
lượng, chất và chúng thay đổi trong quan hệ chặt chẽ với nhau, lượng thay đổi
nhanh hơn chất nhưng không phải mọi thay đổi của lượng đều ngay lập tức làm
thay đổi căn bản về chất. Sự thay đổi về lượng đều ngay lập tức làm thay đổi căn
bản về chất. Sự thay đổi về lượng chưa làm thay đổi căn bản về chất. Sự thay
đổi về lượng chưa làm thay đổi về chất chỉ trong thời gian nhất định. Vượt qua
giới hạn đó sẽ làm cho sự vật không còn là nó, chất cũ mất đi, chất mới ra đời.
Giới hạn mà trong đó sự thay đổi về lượng (tăng lên hoặc giảm đi) chưa
làm thay đổi về chất và được gọi là độ. Nói cách khác độ là phạm trù triết học
chỉ sự thống nhất giữa chất và lượng, là khoảng giới hạn mà trong đó sự thay đổi
về lượng (tăng hoặc giảm giảm), chưa làm cho sự thay đổi căn bản về chất của sự vật diễn ra. 11
Chất mới của sự vật chỉ có thể xuất hiện khi sự thay đổi về lượng đạt tới
điểm nút. Khi chất mới ra đời lại có sự tác động trở lại lượng của sự vật. Chất
mới tác động tới lượng của sự vật, hiện tượng trên nhiều phương diện: làm thay
đổi kết cấu, quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động, phát triển của sự vật,
hiện tượng. Ví dụ: Sau khi đã tốt nghiệp đại học sinh viên học lên thạc sĩ, khi đó
lượng kiến thức, kĩ năng cần học cũng nhiều hơn, cần nhiều thời gian tự nghiên
cứu, tìm tòi để thu nạp được nhiều hiểu biết hơn.
Những điểm giới hạn mà khi sự thay đổi về lượng đạt tới đó sẽ làm cho sự
vật thay đổi về chất của vật diễn ra được gọi là điểm nút. Ví dụ: Thời điểm học
sinh đã biết kết quả của các trường đại học và được nhập học đó chính là điểm
nút để chuyển từ chất học sinh thành sinh viên.
Sự thay đổi về chất do những thay đổi về lượng trước đó gây ra gọi là bước
nhảy. Bước nhảy là sự kết thúc của một giai đoạn phát triển của sự vật và là
điểm khởi đầu của một giai đoạn phát triển mới. Bước nhảy vọt làm cho sự vật
phát triển bị gián đoạn.
Những thay đổi về chất dẫn đến những thay đổi về lượng: Chất mới ra đời,
sẽ tác động trở lại tới sự thay đổi của lượng mới (làm thay đổi quy mô, nhịp
điệu, tốc độ,...phát triển của sự vật).
Ví dụ: khi chúng ta đã tốt nghiệp đại học thì trình đọc và nhận biết và hiểu
vấn đề về sự vật tốt hơn đối với sinh viên hoặc sinh viên. Như vậy, không chỉ sự
thay đổi về chất mà cả sự thay đổi về chất cũng gây nên những thay đổi về lượng.
* Sự thay đổi dần về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất:
Bất kỳ sự vật hiện tượng nào cũng có chất và lượng. Khi sự vật vận động
và phát triển, chất và lượng của cũng vận động, biến đổi. Sự thay đổi của lượng
và của chất không diễn ra độc lập với nhau mà có quan hệ chặt chẽ với nhau.
Nhưng không phải bất kỳ sự thay đổi nào về lượng cũng ngay lập tức làm thay
đổi căn bản chất của sự vật. Lượng của sự vật có thể thay đổi trong giới hạn nhất
định mà không làm thay đổi căn bản bản chất của sự vật đó. Giới hạn đó chính là “độ” .
* Sự thay đổi về chất tác động trở lại sự thay đổi về lượng: 12
Chất mới của sự vật xuất hiện khi sự thay đổi về lượng đạt tới điểm nút.
Khi chất mới ra đời lại có sự tác động trở lại lượng của sự vật. Chất mới tác
động tới lượng của sự vật, hiện tượng trên nhiều phương diện như: Làm thay đổi
quy mô, kết cấu, trình độ, nhịp điệu sự vận động, phát triển của sự vật/ hiện
tượng. Ví dụ: Sau khi tôi tốt nghiệp ở trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật
TP.HCM, tôi sẽ học lên đến thạc sĩ. Vì khi đó lượng kiến thức, kĩ năng phát triển
bản thân đòi hỏi phải có thời gian tự nghiên cứu, tìm tòi để thu nạp được nhiều hiểu biết hơn.
⇒ Có thể thấy với bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng có sự thay thống nhất biện
chứng giữa chất và lượng. Sự thay đổi dần về lượng tới điểm nút sẽ dẫn đến sự
thay đổi về chất nhờ bước nhảy. Chất mới ra đời tác động lại với lượng dần đến
sự thay đổi của lượng mới. Quá trình đó diễn ra liên tục và tạo thành cách thức
phổ biến của các quá trình vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng trong tự
nhiên, xã hội và tư duy.
1.4. Ý nghĩa phương pháp luận:
Bất kỳ sự vật nào cũng đều có 2 phần chất và lượng tồn tại trong tính quy
định, tác động và chuyển hóa lẫn nhau. Vì vậy cần coi trọng và tạo nên sự nhận
thức toàn diện sự vật.
Sự vận động và phát triển của sự vật bao giờ cũng diễn ra bằng cách tích
lũy dần về số lượng đến một giới hạn nhất định, thực hiện bước nhảy để chuyển
đổi chất. Đây là quá trình vận động và phát triển của sự vật. Do đó trong hoạt
động nhận thức và hoạt động thực tiễn con người phải biết tích lũy về lượng để
làm biến đổi về chất theo quy luật. Phương pháp này giúp cho chúng ta tránh
được tư tưởng chủ quan, duy ý chí, nôn nóng “đốt cháy giai đoạn” muốn thực
hiện những bước nhảy liên tục.
Quy luật của tự nhiên và quy luật của xã hội đều có tính khách quan. Song
quy luật của tự nhiên diễn ra tự phát, còn quy luật xã hội chỉ được thực hiện
thông qua hoạt động có ý thức của con người. Do đó khi tích lũy đủ về số lượng
phải có quyết tâm để tiến hành bước nhảy, kịp thời chuyển những sự thay đổi về
lượng thành những thay đổi về chất. Chỉ như vậy mới khắc phục được tư tưởng
bảo thủ, trì trệ “hữu khuynh”.
Trong hoạt động con người còn phải biết vận dụng linh hoạt các hình thức
của bước nhảy. Sự vận dụng này tùy thuộc vào việc phân tích đúng đắn các điều
kiện khách quan và những nhân tố chủ quan, tùy theo trường hợp, điều kiện và 13
quan hệ cụ thể. Sự thay đổi về chất của Sự thay đổi về chất của sự vật còn phụ
thuộc vào sự thay đổi phương thức liên kết giữa các yếu tố tạo thành sự vật. Do
đó, trong hoạt động phải biết cách tác động vào phương thức liên kết giữa các
yếu tố tạo thành sự vật trên cơ sở hiểu rõ bản chất, quy luật, kết cấu của sự vật đó. 14