Lý luận của Triết học Mác – Lênin về vấn đề giai cấp và đấu tranh giai cấp, liên hệ với thực trạng phát triển giai cấp công nhân ở Việt Nam hiện nay| Tiểu luận môn Triết học Mác – Lênin

Trong xã hội tồn tại nhiều thành phần giai cấp tuy nhiên giai cấp thống trị chiếm đoạt lao động của các giai cấp và tầng lớp bị trị, chiếm đoạt của cải xã hội vào tay mình. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC...............
(LOGO TRƯỜNG)
TIỂU LUẬN MÔN............
ĐỀ TÀI:
“ LÝ LUẬN CỦA TRIẾT HỌC MAC-LEENIN VỀ VẤN ĐỀ GIAI CẤP VÀ
ĐẤU TRANH GIAI CẤP, LIÊN HỆ VỚI THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN
GIAI CẤP CÔNG NHÂN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY”
Họ và tên sinh viên:
Lớp:
Mã sinh viên:
Giáo viên hướng dẫn:
Hà Nội, 2022
1
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...................................................................................................................3
NỘI DUNG...............................................................................................................4
CHƯƠNG 1: QUAN ĐIỂM CỦA MAC-LEENIN VỀ VẤN ĐỀ GIAI CẤP
ĐẤU TRANH GIAI CẤP........................................................................................4
1.1. Khái niệm giai cấp...................................................................................4
1.2. Nguồn gốc, điều kiện và kết cấu xã hội giai cấp....................................4
1.2.1. Nguồn gốc giai cấp.............................................................................4
1.2.2. Điều kiện tồn tại (và mất đi) của giai cấp........................................5
1.2.3. Kết cấu giai cấp..................................................................................6
1.3. Đấu tranh giai cấp...................................................................................7
1.4. Đấu tranh giai cấp là một động lực phát triển của xã hội có giai cấp.8
1.5. Tính tất yếu của cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản.............9
1.6. Lực lượng và tiến trình đấu tranh giai cấp trong xã hội tư bản chủ
nghĩa 10
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT
NAM HIỆN NAY...................................................................................................14
2.1. Số lượng, chất lượng và cơ cấu.............................................................14
2.2. Ý thmc chính trn, đạo đmc, ko luâ
q
t và tác phong lao đô
q
ng..................17
CHƯƠNG 3: GIrI PHÁP PHÁT TRIỂN GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIÊ
qT
NAM........................................................................................................................20
KẾT LUẬN............................................................................................................24
DANH MỤC THAM KHrO................................................................................25
2
MỞ ĐẦU
Trong hội tồn tại nhiều thành phần giai cấp tuy nhiên giai cấp thống trị chiếm
đoạt lao động của c giai cấp tầng lớp bị trị, chiếm đoạt của cải hội vào
tay mình.
Các giai cấp, tầng lớp bị tr không những bị chiếm đoạt kết qulao động họ
còn bị áp bức về chính trị, hội tinh thần. Không có sự bình đẳng giữa giai
cấp thống trị và giai cấp b trị, chẳng hạn giữa giai cấp các n tư bản với giai
cấp những công nhân m thuê. Giai cấp bóc lột bao giờ cũng ng mọi biện
pháp và phương tiện bảo vệ địa vị giai cấp của họ, duy trì củng cố kinh tế xã hội
cho phép họ được hưởng những đặc quyền, đặc lợi giai cấp.
Công cụ chủ yếu là quyền lực nhàớc. Lợi ích bản của giai cấp bị trị đối lập
với lợi ích bản của giai cấp thống trị. Đây đối kháng về quyền lợi giữa
những giai cấp áp bức bóc lột những giai cấp, tầng lớp bị áp bức, bị bóc lột.
Đối kháng nguyên nhân của đấu tranh giai cấp. Có áp bức thì đấu tranh
chống áp bức.
vậy từ giai cấp dẫn đến đấu tranh giai cấp không do một thuyết hội nào
tạo ra là hiện tượng tất yếu không thể tránh được trong hội áp bức giai
cấp. Đấu tranh giai cấp một trong những động lực thúc đẩy sự vận động
phát triển của xã hội sự phân chia giai cấp.
Từ những do trên em quyết định làm bài tiểu luận này về đề tài: luận của
Triết học Mác Lênin về vấn đgiai cấp và đấu tranh giai cấp. Liên hthực tiễn
về thực trạng phát triển của giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay”.
3
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: QUAN ĐIỂM CỦA MAC-LEENIN VỀ VẤN ĐỀ GIAI CẤP VÀ
ĐẤU TRANH GIAI CẤP
1.1. Khái niệm giai cấp
Quan điểm duy vật lịch sử học thuyết giá trị thặng của C. Mác sở
luận khoa học làm sáng tỏ bản chất của quan hệ giai cấp. Năm 1919, trong tác
phẩm “Sáng kiến vĩ đại”. V. I. Lênin đã đưa ra định nghĩa về giai cấp như sau:
“Giai cấp là những tập đoàn người to lớn khác nhau về địa vị của họ trong một hệ
thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử, khác nhau về quan hệ của họ (thường
thì những quan hệ này được pháp luật quy định và thừa nhận) đối với những tư liệu
sản xuất, về vai trò của họ trong tổ chức lao động xã hội, và như vậy khác nhau về
cách thức hưởng thụ về phần của cải hội ít hoặc nhiều họ được hưởng.
Giai cấpnhững tập đoàn người, tập đoàn này thì có thể chiếm đoạt lao động
của tập đoàn khác, do chỗ các tập đoàn đó địa vị khác nhau trong một chế độ
kinh tế xã hội nhất định.”
1.2. Nguồn gốc, điều kiện và kết cấu xã hội giai cấp
1.2.1. Nguồn gốc giai cấp
Chúng ta nhận thấy, theo chủ nghĩa duy vật lịch sử cũng đã khẳng định, sự phân
chia giai cấp hội thành giai cấp do các nguyên nhân cụ thể được nêu ra về kinh
tế. Theo đó, ta nhận thấy rằng, trong giai đoạn hiện nay, khi hội ngày càng phát
triển, việc sử dụng công cụ bằng kim loại cũng đã giúp cho năng suất lao động của
con người được tăng lên một cách đáng kể từ đó dẫn đến sự phân công lại lao
4
động cụ thể như lao động chân tay, lao động trí óc cùng với nhiều loại lao động
khác.
Với các lực lượng lao động cụ thể này, chế độ con người làm chung ăn chung cũng
đã thế không còn thích hợp nữa điều này trên thực tế thì cũng đã được
thay thế cụ thể bằng các hình thức sản xuất chung của con người. Các liệu sản
xuất sản phẩm được làm ra trở thành tài sản riêng thay trở thành một tài sản
chung nhưgiai đoạn trước. Sở hữunhân về tư liệu sản xuất cũng đã xuất hiện
và nó được thay thế sở hữu cộng đồng. Chế độ tư hữu cũng đã từ đó mà ra đời dẫn
đến sự bất bình đẳng về tài sản, cũng chính bởinguyên nhân đó mà xã hội phân
hóa thành các giai cấp khác nhau bao gồm giai cấp thống trị và giai cấp bị trị.
Như vậy, thông qua phân tích được nêu cụ thể bên trên, ta nhận thấy rằng, sở
hình thành trực tiếp của giai cấp đó chính từ chế độ hữu về liệu sản xuất.
Giai cấp được hình thành theo hai con đường cụ thể như sau:
Đầu tiên, con đường đó chính là sự phân hoá bên trong nội bộ công xã thành
kẻ thống trị và những chủ thể là người bị trị.
Thứ hai, những binh bị bắt trong chiến tranh giữa các bộ lạc sẽ không bị
giết mà những tù binh đó sẽ bị biến thành nô lệ.
Chế độ chiếm hữu lệ được hiểu bản chính chế độ giai cấp đầu tiên
trong lịch sử thế giới, tiếp đến chính chế độ phong kiến chế độ bản chủ
nghĩa. Các chế độ này cũng được coi bước phát triển cuối cùng cao nhất về
xã hội có giai cấp.
1.2.2. Điều kiện tồn tại (và mất đi) của giai cấp
5
Chế độ tư hữu và xã hội có giai cấp tồn tại ở giai đoạn trước cũng giống như là một
cách tất yếu trong suốt quá trình lịch sử nhiều nghìn năm trong điều kiện cơ bản cụ
thể là: Lực lượng sản xuất của xã hội đó đã có sự phát triển tới mức xã hội đó đã có
thể tạo ra được sản phẩm thặng dư, nhưng các sản phẩm này lại chưa đạt tới mức
có thể bảo đảm để có thể thỏa mãn nhu cầu hợp lý của con người.
theo quan điểm đó, sự phát triển đầy đủ của những lực lượng sản xuất hiện đại
cũng đã thể đạt được tới mức bảo đảm thỏa mãn nhu cầu hợp của con người
và điều này cũng sẽ giúp xóa bỏ sự phân chia xã hội thành các giai cấp khác nhau.
Trong giai đoạn hiện nay, chủ nghĩa tư bản hiện đang phát triển với tốc độ rất cao,
sự phát triển nhanh chóng này cũng đã góp phần tạo ra một lực lượng sản xuất
hùng mạnh những điều kiện kinh tế cũng như những điều kiện hội khác để
nhằm mục đích có thể xóa bỏ giai cấp.
Chúng ta nhận thấy rằng, thực chất đối với sự phát triển rất cao của lực lượng sản
xuất, đến một mức độ nhất định nài đó thì sự phát triển rất cao của lực lượng sản
xuất cũng sẽ làm cho sự phân chia giai cấp của xã hội bị mất đi tính tất yếu.
Tuy nhiên, ta cũng nhận thấy được rằng, sự phát triển rất cao của lực lượng sản
xuất trên thực tế chỉ một điều kiện mang tính bản, nhưng thực tế thì cũng
sẽ không phải duy nhất để thực hiện hội không giai cấp. Cần thiết phải
thêm những điều kiện kinh tế cũng như là các điều kiện xã hội cụ thể khác, đặc biệt
là sự phát triển cao và toàn diện của con người.
Các giai cấp như chúng ta đã biết nó sẽ không tự động mất đi. Chính bởi vì thế giai
cấp công nhân, nhân dân lao động sẽ trách nhiệm cần phải tiến hành cuộc đấu
tranh giai cấp tự giác, tổ chức, tiến tới để thể giành lấy dân chủ, thiết lập
chính quyền của giai cấp công nhânnhân dân lao động, dựa vào công cụ chính
6
quyền đó để nhằm mục đích thể cải tạo hội cũ, xây dựng hội mới không
còn giai cấp.
1.2.3. Kết cấu giai cấp
Ta hiểu rằng, đối với mỗi kiểu hội thì trên thực tế cũng sẽ kết cấu hội
giai cấp riêng, mỗi kết cấu cũng sẽ gồm 02 giai cấp cơ bản, một số giai cấp không
cơ bản tầng lớp trung gian. Khi các hình thái kinh tế cũng như hội này được
thay thế bằng hình thái kinh tế hay xã hội khác thì kết cấu giai cấp của xã hội cũng
sẽ bị thay đổi theo. Trong đó:
Hai giai cấp cơ bản nhất đó là hai giai cấp xuất hiện và tồn tại gắn liền với phương
thức sản xuất thống trị của xã hội. Sự đối kháng giữa hai giai cấp này sẽ được thể
hiện sự mâu thuẫn cơ bản của phương thức sản xuất.
Bên cạnh giai cấp bản trong hội thì sẽ giai cấp không bản, cụ thể như
trong hội chiếm hữu lệ, đó thể những nông dân khi họ ít ruộng
đất. Trong xã hội phong kiến thì đó chính các giai cấp nô lệ chủ tàn
của xã hội cũ. Trong xã hội tư bản, giai cấp không cơ bản là những giai cấp địa chủ
với tư cách là tàn dư, giai cấp nông dân.
Tầng lớp trung gian được hiểu bản chính những tầng lớp trí thức làm công
việc chủ yếu bằng trí óc. Tầng lớp trung gian không phải một giai cấp được
hình thành từ những giai cấp khác nhau để nhằm mục đích thể thực hiện việc
phục vụ những giai cấp khác nhau.
Từ những phân tích được nêu cụ thể bên trên về kết cấu giai cấp và sự biến đổi của
giai cấp cũng đã phần nào giúp cho chúng ta thể hiểu địa vị, vai trò thái độ
chính trị của từng giai cấp đối trong cuộc vận động lịch sử, đặc biệt như trong
cuộc đấu tranh của thời đại ngày nay.
7
1.3. Đấu tranh giai cấp
Trong xã hội có giai cấp, giai cấp thống trị chiếm đoạt lao động của các giai cấp và
tầng lớp bị trị, chiếm đoạt của cải xã hội vào tay mình. Các giai cấp, tầng lớp bị trị
không những bị chiếm đoạt về lao động còn bị áp bức về chính trị, hội
tinh thần. Những bất công như vậy làm tất yếu nảy sinh cuộc đấu tranh giữa các
giai cấp.
V. I. Lênin đã định nghĩa:
Đấu tranh giai cấp là “Cuộc đấu tranh của quần chúng bị tước hết quyền, bị áp bức
và lao động, chống bọn có đặc quyền, đặc lợi, bọn áp bức và bọn ăn bám, cuộc đấu
tranh của những người công nhân làm thuê hay những người sản chống những
người hữu sản hay giai cấp tư sản”.
Thực chất của đấu tranh nàycuộc đấu tranh giải quyết mâu thuẫn về mặt lợi ích
giữa quần chúng bị áp bức, vô sản, đi làm thuê chống lại giai cấp thống trị, chống
lại bọn đặc quyền, đặc lợi, những kẻ đi áp bức và bóc lột.
Cuộc đấu tranh đó nguyên nhân khách quan từ sự phát triển mang tính hội
hóa ngày càng sâu rộng của lực lượng sản xuất với quan hệ chiếm hữu nhân về
tư liệu sản xuất. Biểu hiện của mâu thuẫn này về phương diện xã hội là: Mâu thuẫn
giữa một bên giai cấp cách mạng, tiến bộ, đại diện cho phương thức sản xuất
mới, với một bên giai cấp thống trị, bóc lột, đại biểu cho những lợi ích gắn với
quan hệ sản xuất lỗi thời, lạc hậu.
1.4. Đấu tranh giai cấp là một động lực phát triển của xã hội có giai cấp
Đấu tranh giai cấp được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau trong tất cả các
lĩnh vực của đời sống xã hội, nhưng trong xã hội có mâu thuẫn đối kháng, thì trước
8
hết giải quyết mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất mới quan hệ sản xuất cũ,
giữa sở hạ tầng kiến trúc thượng tầng trong một hình thái kinh tế hội.
Mâu thuẫn đó bao giờ cũng được giải quyết bằng một cuộc cách mạng xã hội.
dụ: Cách mạng sản giải quyết mâu thuẫn bản của chế độ địa chủ phong
kiến, cách mạng vô sản giải quyết mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản.
Như vậy, thực chất quá trình đấu tranh giai cấp khi giải quyết những mâu thuẫn cơ
bản của các hình thái kinh tế hội khác nhau phương thức dẫn đến sự thay
đổi chuyến hóa các hình thái kinh tế – xã hội có giai cấp theo những quy luật khách
quan vốn có của nó.
Đấu tranh giai cấp là một quá trình cải biến xã hội chẳng những chỉ giải quyết mâu
thuẫn giữa lực lượng sản xuất quan hệ sản xuất, còn giải quyết mâu thuẫn
giữa sở hạ tầng kiến trúc thượng tầng, cũng như còn tác dụng cải tạo
bản thân các giai cấp tiến bộ và cách mạng.
Trong hội giai cấp, sự phát triển của các bộ phận khác nhau trong kiến trúc
thượng tầng, dụ như văn hóa nghệ thuật đều mang dấu ấn của quá trình đấu
tranh giai cấp bị chi phối bởi quá trình đấu tranh giai cấp trong lịch sử. Đấu
tranh giai cấp là một quy luật chung của xã hội có giai cấp, song lại biểu hiện mang
tính đặc thù trong những điều kiện lịch sử cụ thể. Điều đó do kết cấu giai cấp, do
địa vị lịch sử của mỗi giai cấp cách mạng trong từng phương thức sản xuất quyết
định.
1.5. Tính tất yếu của cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản
Mỗi thời đại lịch sử có những giai cấp đứng ở vị trí trung tâm, đại diện cho khuynh
hướng phát triển của thời đại đó, có nhiệm vụ đấu tranh xóa bỏ xã hội cũ, xây dựng
xã hội mới tiến bộ hơn. Trong thời đại ngày nay giai cấp vô sản tiến hành cuộc đấu
9
tranh chống lại giai cấp sản, chủ nghĩa tư bản với mục đích xóa bỏ chủ nghĩa
bản xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản trên toàn thế giới.
Cuộc đấu tranh của giai cấp sản mang tính tất yếu khách quan quy luật. Bởi
vì, nó phản ánh tính mâu thuẫn “giữa một bên là tư liệu sản xuất bị tập trung trong
tay sản, một bên người sản xuất đã bị đẩy đến chỗ không còn ngoài
sức lao động của họ, thế đã sự cách biệt dứt khóat Mâu thuẫn giữa sự sản
xuất tính hội sự chiếm hữu tính chất tư bản chủ nghĩa biểu hiện thành
sự đối kháng giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản”.
Cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp sản một quá trình được thể hiện thông
qua nhiều giai đoạn khác nhau. Nhưng về cơ bản được thể hiện qua hai thời kỳ, đó
là:
Giai đoạn trước khi xác lập được chính quyền nhà nước cho giai cấp sản. Giai
đoạn này xét về hình thức bản cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp sản thể
hiện trong ba hình thức: Đấu tranh kinh tế, đấu tranh chính trị, đấu tranh tưởng.
Trong đó, đấu tranh chính trị là hình thức cao nhất.
Giai đoạn thứ hai sau khi đã xây dựng được chính quyền nhà nước cho giai cấp
vô sản. Giai đoạn này cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp của giai cấp sản vẫn
tiếp tục vì sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
1.6. Lực lượng tiến trình đấu tranh giai cấp trong hội bản chủ
nghĩa
Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C.Mác Ph.Ăng-ghen đã phân tích
nguyên nhân cuộc đấu tranh giai cấp dẫn đến sự sụp đổ của chế độ phong kiến để
hình thành nên hội bản: “... chúng ta đã thấy rằng, những liệu sản xuất
trao đổi, làm cơ sở cho giai cấp tư sản hình thành, đã được tạo ra trong lòng xã hội
10
phong kiến. Những liệu sản xuất trao đổi ấy, phát triển tới một trình độ nhất
định nào đó thì... tất cả những cái đó đều biến thành xiềng xích. Phải đập tan
những xiềng xích ấy... Thay vào đó sự cạnh tranh tự do, với một chế độ hội
và chính trị thích ứng, với sự thống trị kinh tế và chính trị của giai cấp tư sản”.
Như vậy, sự ra đời của phương thức sản xuất bản tất yếu khách quan
bước tiến đại trong tiến trình phát triển lịch sử - hội mặc quan hệ sản
xuất tư bản chủ nghĩa đã giải phóng lực lượng sản xuất. Song, thực ra đó chỉ sự
thay thế chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất của giai cấp địa chủ, bằng chế độ
sở hữunhân vềliệu sản xuất của giai cấp tư sản, thay thế phận làm thuê, làm
mướn của người nông cho địa chủ bằng cuộc đời làm thuê của giai cấp công
nhân cho giai cấp tư sản. Vì thế, mâu thuẫn về lợi ích giữa giai cấp tư sản và vô sản
lại tương tự như địa chủ nông tiếp tục diễn ra trong lòng hội bản chủ
nghĩa. Mâu thuẫn này không thể giải quyết trong hội bản nguyên nhân
của cuộc đấu tranh giữa giai cấp tư sản và vô sản.
Bởi vậy: “những khí giai cấp sản đã dùng để đánh đổ chế độ phong kiến
thì ngày nay quay lại đập vào chính ngay giai cấp sản”(8). Nghĩa là, lịch sử đã
tạo ra chủ nghĩa bản hiện đại đến lượt lại trthành vật cản của văn minh
nhân loại. Đồng thời các ông khẳng định, tronghội tư bản chủ nghĩa, tất cả các
giai cấp, các tầng lớp trung gian bị bóc lột đều đấu tranh chống lại giai cấp tư sản.
Nhưng, “Trong tất cả các giai cấp hiện đang đối lập với giai cấp sản thì chỉ
giai cấp vô sảngiai cấp thực sự cách mạng. Tất cả các giai cấp khác đều suy tàn
tiêu vong cùng với sự phát triển của đại công nghiệp”(9). Đây một trong
những tưởng bản của luận đấu tranh giai cấp của chủ nghĩa Mác. Sau này
V.I Lê-nin cũng đã khẳng định: “Điểm chủ yếu trong học thuyết của Mác chỗ
nó đã làm sáng tỏ vai trò lịch sử thế giới của giai cấp vô sản”.
11
Sứ mệnh lịch sử của giai cấp sản không phải “ý muốn nhân tạo”, hoặc “lựa
đặt ngông cuồng” của C.Mác do địa vị kinh tế - hội khách quan quy định.
Bởi, giai cấp sản sản phẩm của nền đại công nghiệp, đại diện cho phương
thức sản xuất tiên tiến của thời đại, là đại biểu chân chính duy nhất cho lợi ích toàn
hội, một giai cấp cách mạng duy nhất chỉ mới tính triệt để cách
mạng, tự giải phóng cho mình và giải phóng cho xã hội. Nói cách khác, giai cấp vô
sản không thể giải phóng mình nếu không đồng thời giải phóng toàn xã hội.
Tiến trình của cuộc đấu tranh giai cấp C.Mác chỉ ra diễn ra theo hai bước.
Trước hết là giai cấpsản liên hiệp lại, thành lập các đoàn thể, tạo điều kiện cho
sự ra đời chính đảng sản. Dưới sự lãnh đạo của chính đảng sản, giai cấp
sản dùng bạo lực lật đổ toàn bộ chính quyền tư sản.
Sau khi đạt được chính quyền “giai cấp sản sẽ dùng sự thống trị của mình để
từng bước đoạt lấy toàn bộ bản trong tay giai cấp sản, để tập trung tất cả
những công cụ sản xuất vào tay nhà nước, tức giai cấp sản đã được tổ chức
thành giai cấp thống trị”. Tuy nhiên, trong một số tác phẩm đầu đời, C. Mác chưa
thấy được tính phức tạp của cuộc đấu tranh giai cấp.
Cũng thông qua việc tổng kết thực tiễn phong trào đấu tranh giai cấp giai đoạn
1848 - 1851, C. Mác đã khẳng định: để thực hiện được sứ mệnh lịch sử của mình,
giai cấp vô sản phải thực hiện cách mạng không ngừng và sự chuyên chính giai cấp
- chuyên chính sản, “Chủ nghĩa hội này lời tuyên bố cách mạng không
ngừng, là chuyên chính giai cấp của giai cấp sản, coi đó giai đoạn quá độ tất
yếu để đi đến xóa bỏ những khác biệt giai cấp nói chung, xóa bỏ tất cả những quan
hệ sản xuất làmsở cho những sự khác biệt ấy, xóa bỏ tất cả những mối quan hệ
xã hội thích ứng với những quan hệ sản xuất đó, để đi đến cải biến tất cả những tư
tưởng nảy sinh ra từ những quan hệ sản xuất đó”.
12
Điều đó cho thấy, từ chủ nghĩa bản lên chủ nghĩa hội không thể không
một thời kỳ quá độ về chính trị. Nhà nước của thời kỳ quá độ này nền chuyên
chính của giai cấp sản giữa hội bản hội cộng sản một thời kỳ
cải biến cách mạng từ xã hội trước đến xã hội sau. Tương ứng với thời kỳ ấy là một
thời kỳ quá độ chính trị trong đó nhà nước không thể làm khác hơn chuyên
chính cách mạng của giai cấp vô sản.
C. Mác viết: “Giữa hội bản chủ nghĩa hội cộng sản chủ nghĩa một
thời kỳ cải biến cách mạng từ hội nọ sang hội kia. Thích ứng với thời kỳ ấy
là một thời kỳ quá độ chính trị, và nhà nước của thời kỳ ấy không thể là cái gì khác
hơn là nền chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản”.
Như vậy, qua một số các tác phẩm của mình, C. Mác đã nêu những luận điểm quan
trọng về giai cấp, đấu tranh giai cấp là: sự xuất hiện giai cấp trong xã hội là tất yếu
khách quan do sự phát triển của lực lượng sản xuất dẫn tới chế độ chiếm hữu
nhân về tư liệu sản xuất; trong hội giai cấp tất yếu sẽ dẫn đến đấu tranh giai
cấp; giai cấp sản chỉ hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình khi hội tụ đủ điều
kiện khách quan và chủ quan cần thiết.
Điều kiện khách quan là sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất, của nền đại
công nghiệp, quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp sản. Điều kiện chủ quan
giai cấp vô sản phải tập hợp được liên minh đông đủ lực lượng, liên minh với nông
dân và tiểu tư sản, xây dựng chính Đảng Cộng sản, có hệ tư tưởng tiến bộ của mình
và chịu sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Thực hiện cách mạng không ngừng. Sau khi cách mạng thắng lợi, giai cấp sản
phải đập tan nhà nước sản, thành lập nhà nước sản thực hiện nền chuyên
chính vô sản trong nhà nước vô sản ở thời kỳ quá độ.
13
14
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT
NAM HIỆN NAY
2.1. Số lượng, chất lượng và cơ cấu
Sau 30 năm đổi mới, giai cấp công nhân nước ta không ngừng lớn mạnh cả về số
lượng và chất lượng, đa dạng về cơ cấu. Theo số liê
x
u thống kê, tính đến cuối năm
2013 tổng số công nhân lao động làm việc trực tiếp trong các doanh nghiệp thuộc
mọi thành phần kinh tế ở nước ta là 11.565.900 người (chiếm 12,8% dân số, 21,7%
lực lượng lao động hội). Trong đó, 1.660.200 công nhân làm việc trong
doanh nghiệp nhà nước; 6.854.800 công nhân trong các doanh nghiệp ngoài nhà
nước 3.050.900 công nhân trong các doanh nghiệp vốn đầu nước
ngoài.Công nhân trong doanh nghiê
x
p ngoài nhà nướcdoanh nghiê
x
p có vốn đầu
tư nước ngoài phát triển nhanh, ngược lại, công nhân trong doanh nghiê
x
p nhà nước
ngày càng giảm về số lượng.
Về trình đô
x học vấn trình đô
x chuyên môn nghề nghiê
x
p, 70,2% tổng số công
nhân trình đô
x trung học phổ thông, 26,8% có trình đô
x trung học sở và 3,1%
trình đô
x tiểu học. Công nhân trình đô
x trung cấp chiếm 17,9%, trình đô
x cao
đẳng chiếm 6,6%, trình đô
x
đại học chiếm 17,4%, công nhân được đào tạo tại doanh
nghiê
x
p chiếm 48%.
Trước yêu cầu của sự phát triển, giai cấp công nhân nước ta còn nhiều hạn chế, bất
x
p. “Sự phát triển của giai cấp công nhân chưa đáp ứng được yêu cầu về số lượng,
cơ cấu trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp của sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa hội nhập kinh tế quốc tế; thiếu nghiêm trọng các
chuyên gia kỹ thuật, cán bộ quản giỏi, công nhân lành nghề; tác phong công
15
nghiệp kỷ luật lao động còn nhiều hạn chế; đa phần công nhân từ nông dân,
chưa được đào tạo cơ bản và có hệ thống”.
Chúng ta đang trong giai đoạn cấu “dân số vàng”. Tuy nhiên, quá trình
chuyển đổi cấu kinh tế lại không tương thích với quá trình chuyển dịch cấu
lao đô
x
ng. Để hướng đến
x
t nền sản xuất công nghiê
x
p hiê
x
n đại, số lượng giai cấp
công nhân lao đô
x
ng công nghiê
x
p chỉ chiếm gần 22% lực lượng lao động hội
hết sức khiêm tốn.
Trình độ văn hóa và tay nghề của công nhân thấp đã ảnh hưởng không tốt đến việc
tiếp thu khoa học - kỹ thuật, đến năng suất lao động, chất lượng sản phẩm. Theo
đánh giá của Ngân hàng Thế giới (WB) năm 2014 về chất lượng lao đô
x
ng được
tính theo thang điểm 10, thì chất lượng lao đô
x
ng V
x
t Nam chỉ đạt 3,79 điểm, xếp
thứ 11/12 nước Châu ~ tham gia xếp hạng của WB. Trong khi Hàn Quốc đạt 6,91
điểm, •n Đô
x
là 5,76 điểm, Malaysia là 5,59 điểm, Thái Lan 4,94 điểm...
Còn theo kết quả khảo sát của Tổ chức Lao đô
x
ng quốc tế (ILO) vào tháng 9 năm
2014, năng suất lao đô
x
ng của công nhân V
x
t Nam thuô
x
c vào nhóm thấp nhất của
khu vực, chỉ bằng 1/5 lao đô
x
ng của công nhân Malaysia, 2/5 Thái Lan, 1/15
Singapore, 1/11 Nhâ
x
t Bản, 1/10 Hàn Quốc. Trong số các nước ASEAN, năng suất
lao đô
x
ng của công nhân V
x
t Nam chỉ cao hơn Campuchia và Lào.
Theo Bô
x Kế hoạch và Đầu tư, với tốc đô
x tăng năng suất lao đô
x
ng như hiê
x
n nay, thì
phải đến năm 2038 năng suất lao đô
x
ng của công nhân V
x
t Nam mới bắt kịp
Philippines, năm 2069 chúng ta mới bắt kịp được Thái Lan, do đó, chúng ta cần có
đối sách để nâng cao chất lượng nhân lực, góp phần nâng cao năng suất lao đô
x
ng
trong quá trình cạnh tranh thời
x
i nhâ
x
p.Nếu không kế hoạch đón nhâ
x
n đào
tạo đón đầu, thì chúng ta sẽ bị thiếu hụt nghiêm trọng về lao đô
x
ng khi các dự án
lớn đầu tư vào Việt Nam đi vào sản xuất.
16
Hiê
x
n nay, “Chất lượng, hiê
x
u quả giáo dục và đào tạo còn thấp so với yêu cầu, nhất
là giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiê
x
p. Hê
x
thống giáo dục và đào tạo thiếu liên
thông giữa các trình đô
x giữa các phương thức giáo dục, đào tạo; còn
x
ng
thuyết, nhƒ thực hành. Đào tạo thiếu gắn kết với nghiên cứu khoa học, sản xuất
kinh doanh và nhu cầu của thị trường lao đô
x
ng”.
Nguồn lực lao đô
x
ng qua đào tạo của nước ta vừa thiếu lại vừa thừa, hê
x
quả là tỷ
x
thất nghiê
x
p của những người đã qua đào tạo ngày càng cao. Trong số 10,77 triê
x
u
người lao đô
x
ng đã qua đào tạo có chứng chỉ, văn bằng hiê
x
n nay, thì trình đô
x
đại học
trở lên có 4,47 triê
x
u người (chiếm 41,51%), trình đô
x cao đẳng1,61 triê
x
u người
(chiếm 14,99%), trình đô
x trung cấp 2,92 triê
x
u người (chiếm 27,11%), trình đô
x
cấp có 1,77 triê
x
u người (chiếm 16,39%). Theo đó, trình đô
x đại học/cao đẳng/trung
cấp/sơ cấp tương ứng theo tỷ
x
: 1/0,35/0,65/0,4. Điều này cảnh báo về sự mất cân
đối trong cơ cấu lao đô
x
ng qua đào tạo giữa các bâ
x
c ở nước ta.
Theo Bản tin
x
p nhâ
x
t thị trường lao đô
x
ng của quý I năm 2016, từ quý III năm
2015 đến quý I năm 2016 số lao đô
x
ng trình đô
x cao đẳng, đại học trở lên thất
nghiê
x
p tăng rất nhanh, từ 199,4 nghìn người lên 225 nghìn người, chiếm 20% số
lao đô
x
ng thất nghiê
x
p. Ngoài ra còn 114 nghìn người trình đô
x đại học trở lên
lao đô
x
ng giản đơn những lĩnh vực sản xuất không cần trình đô
x
. Nguy này
được dự báosẽ còn gia tăng khi V
x
t Nam hô
x
i nhâ
x
p Cô
x
ng đồng kinh tế ASEAN
(AEC).
Trong điều kiê
x
n thế giới đã bước vào thời kỳ phát triển kinh tế tri thức, sản phẩm
lao đô
x
ng được tạo ra với hàm lượng chất xám ngày càng cao, tính cạnh tranh trong
quá trình tham gia vào chuỗi sản xuất giá trị toàn cầu ngày càng được đẩy mạnh,
thì vai trò của nguồn nhân lực, trực tiếp là người công nhân lao đô
x
ng sẽ đóng
vai trò quyết định.
17
Trong thời gian tới, quá trình quốc tế hóa sản xuất với sự phân công và hợp tác lao
đô
x
ng diễn ra ngày càng sâu rô
x
ng giữa các nước trong khu vực và trên thế giới. Khi
chúng ta thực hiê
x
n đầy đủ các cam kết của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO),
các Hiê
x
p định Thương mại tự do thế
x
mới, đă
x
c biê
x
t Hiê
x
p định đối tác xuyên Thái
Bình Dương (TPP) và AEC đi vào thực chất, những rào cản về không gian kinh tế,
hàng hóa, dịch vụ, vốn, khoa học công nghê
x
, thị trường lao đô
x
ng được gỡ bỏ, thì sự
cạnh tranh giữa các nước càng trở nên gay gắt.
Hiê
x
n ASEAN đã có Hiê
x
p định về di chuyển tự nhiên nhân lực,thỏa thuâ
x
n công
nhâ
x
n lẫn nhau về chứng chỉ hành nghề của quan chính thức đối với 8 ngành
nghề được tự do chuyển dịch: kiểm toán, kiến trúc, kỹ sư, nha sĩ, bác sĩ, y tá, điều
tra viên du lịch. V
x
c công nhâ
x
n trình đô
x lẫn nhau về kỹ năng nghề sẽ
x
t
trong những điều kiê
x
n rất quan trọng trong viê
x
c thực hiê
x
n dịch chuyển lao đô
x
ng
giữa V
x
t Nam với các nước trong khu vực. Tuy nhiên, theo dự báo của ILO, khi
tham gia AEC, số viê
x
c làm của V
x
t Nam sẽ tăng lên 14,5% vào năm 2025.
Nhưng trình đô
x phát triển không đồng đều dẫn đến viê
x
c lao đô
x
ng tay nghề chủ
yếu di chuyển vào thị trường Singapore, Malaysia Thái Lan. Những lao đô
x
ng
được chứng nhâ
x
n về trình đô
x
, kỹ năng sẽ được di chuyển tự do hơn. Đây sẽ
thách thức cho V
x
t Nam, số lượng công nhân lành nghề nước ta còn khiêm
tốn, buô
x
c phải chấp nhâ
x
n nguồn lao đô
x
ng di đến từ các nước khác trình đô
x
cao hơn. Thời gian tới, nếu trình đô
x
của công nhân nước ta không được cải thiê
x
n để
đáp ứng yêu cầu, thì chúng ta sẽ bị thua ngay trên “sân nhà”.
2.2. Ý thmc chính trn, đạo đmc, ko luâ
q
t và tác phong lao đô
q
ng
Hiê
x
n nay, tâm lý, thói quen tác phong lao động gắn liền với nền sản xuất nhỏ
còn in đậm trong một bộ phận giai cấp công nhân nước ta. Hơn nữa, trong quá
trình phát triển, giai cấp công nhân thường xuyên tiếp nhận những thành phần mới,
18
phần lớn từ nông dân, họ còn trẻ tuổi đời, ý thức lập trường giai cấp còn hạn
chế.
x
y, “Công nhân nước ta không đồng đều về nhận thức hội, giác ngộ
giai cấp, bản lĩnh chính trị, ý thức tổ chức và kỷ luật lao động”.
Dưới tác đô
x
ng của
x
i nhâ
x
p quốc tế, giai cấp công nhân nước ta năng động, chủ
động hơn, cố gắng nâng cao năng lực, hướng tới hiệu quả công việc ngày càng cao
hơn. Nhưng
x
t khác,
x
t bô
x phận công nhân nước ta bị phai nhạt giá trị đạo đức
truyền thống, xa rời lý tưởng cách mạng.
Kết quả mô
x
t cuô
x
c khảo sát về lối sống của giai cấp công nhân nước ta hiê
x
n nay cho
thấy: công nhân lối sống buông thả, thực dụng chiếm 27,9%; 22% ích kỷ, chủ
nghĩa cá nhân; 13,6% phai nhạt lý tưởng, giá trị sống; 18,7% có biểu hiê
x
n suy thoái
đạo đức, lối sống; 12,9% thái đô
x bi quan, chán đời; 20,3% cảm trước bất
công; 25,5% ứng xử, giao tiếp kém; 8,1% trụy lạc; 29,4% đua đòi, lãng phí.
Những kết quả khảo sát cũng chỉ ra, nhiều công nhân vi phạm kỷ luâ
x
t lao đô
x
ng
như: không sử dụng thiết bị bảo
x lao đô
x
ng (45,2%); đi muô
x
n, về sớm (24,8%);
lấy đồ của công ty (11,8%); nghỉ làm không xin phép (25,6%); không hoàn thành
định mức công viê
x
c (25,6%); không chấp hành kỷ luâ
x
t lao đô
x
ng (19,3%) .
Điều này gây ảnh hưởng đến doanh nghiê
x
p và hình ảnh người công nhân V
x
t Nam
trong quá trình
x
i nhâ
x
p quốc tế.Nhiều công nhân coi công việc tại nhà máy,
nghiệp như một cách mưu sinh, chứ chưa phải một nghề nghiệp; họ chưa coi
đó một sự nghiệp, không ý thức được vị trí vai trò của giai cấp mình. Qua
khảo sát, chỉ 23,5% tự hào công nhân; 54,4% bằng lòng với vị trí hiê
x
n tại;
4,5% cảm thấy thân phâ
x
n làm thuê bị coi rẻ; 9% chẳng thích thú gì với thân phâ
x
n
của mình.
Theo mô
x
t cuô
x
c khảo sát gần đây đối với công nhân ba miền (Bắc, Trung, Nam) cho
thấy, hầu hết công nhân không nhâ
x
n mình thuô
x
c giai cấp lãnh đạo
x
i, họ chỉ
19
nhâ
x
n mình những người làm công ăn lương, cố gắng làm tốt công viê
x
c để tăng
thêm thu nhâ
x
p nhằm cải thiê
x
n cuô
x
c sống. Không ít công nhân làm việc trong các
doanh nghiệp vốn đầu nước ngoài tâm làm thuê. Họ chỉ chú trọng đến
“công việc”, làm tròn phận sự, thụ động và ít chú trọng đến các lĩnh vực chính trị -
hội, coi những hoạt động đó của ban chuyên trách. Do nhâ
x
n thức như
x
y,
nên có “một bộ phận công nhân chưa thiết tha phấn đấu vào Đảng và tham gia hoạt
động trong các tổ chức chính trị - xã hội” .
Khi được hỏi sao không muốn vào Đảng, thì kết quả khảo sát nhâ
x
n được là:
34,6% kỷ luâ
x
t nghiêm của Đảng; 38,1% vì phải đóng đảng phí; 18,7% vì sợ bị
phân biê
x
t đối xử; 17,9% vì không lợi íchnhân; 16,6%ngại phấn đấu r…n
luyê
x
n; 15,1% ngại học luâ
x
n, nghị quyết của Đảng; 12,1% mất nhiều thời
gian hô
x
i họp.
Ngoài ra, còn có một bộ phận công nhân hoài nghi, không tin tưởng vào đường lối,
chủ trương của Đảng chính sách, pháp luâ
x
t của Nhà nước, hồ về lập trường
giai cấp, nhìn thấy một vài biểu hiện về mức sống của một số nhà tư bản đã vội ca
ngợi, không tin tưởng vào chủ nghĩa xã hội.
20
| 1/27

Preview text:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC............... (LOGO TRƯỜNG)
TIỂU LUẬN MÔN............ ĐỀ TÀI:
“ LÝ LUẬN CỦA TRIẾT HỌC MAC-LEENIN VỀ VẤN ĐỀ GIAI CẤP VÀ
ĐẤU TRANH GIAI CẤP, LIÊN HỆ VỚI THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN
GIAI CẤP CÔNG NHÂN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY” Họ và tên sinh viên: Lớp: Mã sinh viên: Giáo viên hướng dẫn: Hà Nội, 2022 1 MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...................................................................................................................3
NỘI DUNG...............................................................................................................4
CHƯƠNG 1: QUAN ĐIỂM CỦA MAC-LEENIN VỀ VẤN ĐỀ GIAI CẤP VÀ
ĐẤU TRANH GIAI CẤP........................................................................................4
1.1.
Khái niệm giai cấp...................................................................................4 1.2.
Nguồn gốc, điều kiện và kết cấu xã hội giai cấp....................................4 1.2.1.
Nguồn gốc giai cấp.............................................................................4 1.2.2.
Điều kiện tồn tại (và mất đi) của giai cấp........................................5 1.2.3.
Kết cấu giai cấp..................................................................................6 1.3.
Đấu tranh giai cấp...................................................................................7 1.4.
Đấu tranh giai cấp là một động lực phát triển của xã hội có giai cấp.8 1.5.
Tính tất yếu của cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản.............9 1.6.
Lực lượng và tiến trình đấu tranh giai cấp trong xã hội tư bản chủ nghĩa 10
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT
NAM HIỆN NAY...................................................................................................14
2.1.
Số lượng, chất lượng và cơ cấu.............................................................14 2.2.
Ý thmc chính trn, đạo đmc, ko luâ q
t và tác phong lao đô qng..................17
CHƯƠNG 3: GIrI PHÁP PHÁT TRIỂN GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIÊqT
NAM........................................................................................................................20

KẾT LUẬN............................................................................................................24
DANH MỤC THAM KHrO................................................................................25 2 MỞ ĐẦU
Trong xã hội tồn tại nhiều thành phần giai cấp tuy nhiên giai cấp thống trị chiếm
đoạt lao động của các giai cấp và tầng lớp bị trị, chiếm đoạt của cải xã hội vào tay mình.
Các giai cấp, tầng lớp bị trị không những bị chiếm đoạt kết quả lao động mà họ
còn bị áp bức về chính trị, xã hội và tinh thần. Không có sự bình đẳng giữa giai
cấp thống trị và giai cấp bị trị, chẳng hạn giữa giai cấp các nhà tư bản với giai
cấp những công nhân làm thuê. Giai cấp bóc lột bao giờ cũng dùng mọi biện
pháp và phương tiện bảo vệ địa vị giai cấp của họ, duy trì củng cố kinh tế xã hội
cho phép họ được hưởng những đặc quyền, đặc lợi giai cấp.
Công cụ chủ yếu là quyền lực nhà nước. Lợi ích cơ bản của giai cấp bị trị đối lập
với lợi ích cơ bản của giai cấp thống trị. Đây là đối kháng về quyền lợi giữa
những giai cấp áp bức bóc lột và những giai cấp, tầng lớp bị áp bức, bị bóc lột.
Đối kháng là nguyên nhân của đấu tranh giai cấp. Có áp bức thì có đấu tranh chống áp bức.
Vì vậy từ giai cấp dẫn đến đấu tranh giai cấp không do một lý thuyết xã hội nào
tạo ra mà là hiện tượng tất yếu không thể tránh được trong xã hội có áp bức giai
cấp. Đấu tranh giai cấp là một trong những động lực thúc đẩy sự vận động và
phát triển của xã hội có sự phân chia giai cấp.
Từ những lý do trên em quyết định làm bài tiểu luận này về đề tài: “ Lý luận của
Triết học Mác – Lênin về vấn đề giai cấp và đấu tranh giai cấp. Liên hệ thực tiễn
về thực trạng phát triển của giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay”. 3 NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: QUAN ĐIỂM CỦA MAC-LEENIN VỀ VẤN ĐỀ GIAI CẤP VÀ ĐẤU TRANH GIAI CẤP
1.1. Khái niệm giai cấp
Quan điểm duy vật lịch sử và học thuyết giá trị thặng dư của C. Mác là cơ sở lý
luận khoa học làm sáng tỏ bản chất của quan hệ giai cấp. Năm 1919, trong tác
phẩm “Sáng kiến vĩ đại”. V. I. Lênin đã đưa ra định nghĩa về giai cấp như sau:
“Giai cấp là những tập đoàn người to lớn khác nhau về địa vị của họ trong một hệ
thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử, khác nhau về quan hệ của họ (thường
thì những quan hệ này được pháp luật quy định và thừa nhận) đối với những tư liệu
sản xuất, về vai trò của họ trong tổ chức lao động xã hội, và như vậy khác nhau về
cách thức hưởng thụ và về phần của cải xã hội ít hoặc nhiều mà họ được hưởng.
Giai cấp là những tập đoàn người, mà tập đoàn này thì có thể chiếm đoạt lao động
của tập đoàn khác, do chỗ các tập đoàn đó có địa vị khác nhau trong một chế độ
kinh tế xã hội nhất định.”
1.2. Nguồn gốc, điều kiện và kết cấu xã hội giai cấp
1.2.1. Nguồn gốc giai cấp
Chúng ta nhận thấy, theo chủ nghĩa duy vật lịch sử cũng đã khẳng định, sự phân
chia giai cấp xã hội thành giai cấp do các nguyên nhân cụ thể được nêu ra về kinh
tế. Theo đó, ta nhận thấy rằng, trong giai đoạn hiện nay, khi xã hội ngày càng phát
triển, việc sử dụng công cụ bằng kim loại cũng đã giúp cho năng suất lao động của
con người được tăng lên một cách đáng kể và từ đó dẫn đến sự phân công lại lao 4
động cụ thể như lao động chân tay, lao động trí óc cùng với nhiều loại lao động khác.
Với các lực lượng lao động cụ thể này, chế độ con người làm chung ăn chung cũng
đã vì thế mà không còn thích hợp nữa mà điều này trên thực tế thì cũng đã được
thay thế cụ thể bằng các hình thức sản xuất chung của con người. Các tư liệu sản
xuất và sản phẩm được làm ra trở thành tài sản riêng thay vì trở thành một tài sản
chung như ở giai đoạn trước. Sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất cũng đã xuất hiện
và nó được thay thế sở hữu cộng đồng. Chế độ tư hữu cũng đã từ đó mà ra đời dẫn
đến sự bất bình đẳng về tài sản, cũng chính bởi vì nguyên nhân đó mà xã hội phân
hóa thành các giai cấp khác nhau bao gồm giai cấp thống trị và giai cấp bị trị.
Như vậy, thông qua phân tích được nêu cụ thể bên trên, ta nhận thấy rằng, cơ sở
hình thành trực tiếp của giai cấp đó chính là từ chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất.
Giai cấp được hình thành theo hai con đường cụ thể như sau:
– Đầu tiên, con đường đó chính là sự phân hoá bên trong nội bộ công xã thành
kẻ thống trị và những chủ thể là người bị trị.
– Thứ hai, những tù binh bị bắt trong chiến tranh giữa các bộ lạc sẽ không bị
giết mà những tù binh đó sẽ bị biến thành nô lệ.
Chế độ chiếm hữu nô lệ được hiểu cơ bản chính là chế độ có giai cấp đầu tiên
trong lịch sử thế giới, tiếp đến chính là chế độ phong kiến và chế độ tư bản chủ
nghĩa. Các chế độ này cũng được coi là bước phát triển cuối cùng và cao nhất về xã hội có giai cấp.
1.2.2. Điều kiện tồn tại (và mất đi) của giai cấp 5
Chế độ tư hữu và xã hội có giai cấp tồn tại ở giai đoạn trước cũng giống như là một
cách tất yếu trong suốt quá trình lịch sử nhiều nghìn năm trong điều kiện cơ bản cụ
thể là: Lực lượng sản xuất của xã hội đó đã có sự phát triển tới mức xã hội đó đã có
thể tạo ra được sản phẩm thặng dư, nhưng các sản phẩm này lại chưa đạt tới mức
có thể bảo đảm để có thể thỏa mãn nhu cầu hợp lý của con người.
Và theo quan điểm đó, sự phát triển đầy đủ của những lực lượng sản xuất hiện đại
cũng đã có thể đạt được tới mức bảo đảm thỏa mãn nhu cầu hợp lý của con người
và điều này cũng sẽ giúp xóa bỏ sự phân chia xã hội thành các giai cấp khác nhau.
Trong giai đoạn hiện nay, chủ nghĩa tư bản hiện đang phát triển với tốc độ rất cao,
sự phát triển nhanh chóng này cũng đã góp phần tạo ra một lực lượng sản xuất
hùng mạnh và những điều kiện kinh tế cũng như những điều kiện xã hội khác để
nhằm mục đích có thể xóa bỏ giai cấp.
Chúng ta nhận thấy rằng, thực chất đối với sự phát triển rất cao của lực lượng sản
xuất, đến một mức độ nhất định nài đó thì sự phát triển rất cao của lực lượng sản
xuất cũng sẽ làm cho sự phân chia giai cấp của xã hội bị mất đi tính tất yếu.
Tuy nhiên, ta cũng nhận thấy được rằng, sự phát triển rất cao của lực lượng sản
xuất trên thực tế chỉ là một điều kiện mang tính cơ bản, nhưng thực tế thì nó cũng
sẽ không phải là duy nhất để thực hiện xã hội không giai cấp. Cần thiết phải có
thêm những điều kiện kinh tế cũng như là các điều kiện xã hội cụ thể khác, đặc biệt
là sự phát triển cao và toàn diện của con người.
Các giai cấp như chúng ta đã biết nó sẽ không tự động mất đi. Chính bởi vì thế giai
cấp công nhân, nhân dân lao động sẽ có trách nhiệm cần phải tiến hành cuộc đấu
tranh giai cấp tự giác, có tổ chức, tiến tới để có thể giành lấy dân chủ, thiết lập
chính quyền của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, dựa vào công cụ chính 6
quyền đó để nhằm mục đích có thể cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới không còn giai cấp.
1.2.3. Kết cấu giai cấp
Ta hiểu rằng, đối với mỗi kiểu xã hội thì trên thực tế cũng sẽ có kết cấu xã hội –
giai cấp riêng, mỗi kết cấu cũng sẽ gồm 02 giai cấp cơ bản, một số giai cấp không
cơ bản và tầng lớp trung gian. Khi các hình thái kinh tế cũng như xã hội này được
thay thế bằng hình thái kinh tế hay xã hội khác thì kết cấu giai cấp của xã hội cũng
sẽ bị thay đổi theo. Trong đó:
Hai giai cấp cơ bản nhất đó là hai giai cấp xuất hiện và tồn tại gắn liền với phương
thức sản xuất thống trị của xã hội. Sự đối kháng giữa hai giai cấp này sẽ được thể
hiện sự mâu thuẫn cơ bản của phương thức sản xuất.
Bên cạnh giai cấp cơ bản trong xã hội thì sẽ là giai cấp không cơ bản, cụ thể như
trong xã hội chiếm hữu nô lệ, đó có thể là những nông dân khi mà họ có ít ruộng
đất. Trong xã hội phong kiến thì đó chính là các giai cấp nô lệ và chủ nô là tàn dư
của xã hội cũ. Trong xã hội tư bản, giai cấp không cơ bản là những giai cấp địa chủ
với tư cách là tàn dư, giai cấp nông dân.
Tầng lớp trung gian được hiểu cơ bản chính là những tầng lớp trí thức làm công
việc chủ yếu bằng trí óc. Tầng lớp trung gian không phải là một giai cấp và được
hình thành từ những giai cấp khác nhau để nhằm mục đích có thể thực hiện việc
phục vụ những giai cấp khác nhau.
Từ những phân tích được nêu cụ thể bên trên về kết cấu giai cấp và sự biến đổi của
giai cấp cũng đã phần nào giúp cho chúng ta có thể hiểu địa vị, vai trò và thái độ
chính trị của từng giai cấp đối trong cuộc vận động lịch sử, đặc biệt như là trong
cuộc đấu tranh của thời đại ngày nay. 7
1.3. Đấu tranh giai cấp
Trong xã hội có giai cấp, giai cấp thống trị chiếm đoạt lao động của các giai cấp và
tầng lớp bị trị, chiếm đoạt của cải xã hội vào tay mình. Các giai cấp, tầng lớp bị trị
không những bị chiếm đoạt về lao động mà còn bị áp bức về chính trị, xã hội và
tinh thần. Những bất công như vậy làm tất yếu nảy sinh cuộc đấu tranh giữa các giai cấp.
V. I. Lênin đã định nghĩa:
Đấu tranh giai cấp là “Cuộc đấu tranh của quần chúng bị tước hết quyền, bị áp bức
và lao động, chống bọn có đặc quyền, đặc lợi, bọn áp bức và bọn ăn bám, cuộc đấu
tranh của những người công nhân làm thuê hay những người vô sản chống những
người hữu sản hay giai cấp tư sản”.
Thực chất của đấu tranh này là cuộc đấu tranh giải quyết mâu thuẫn về mặt lợi ích
giữa quần chúng bị áp bức, vô sản, đi làm thuê chống lại giai cấp thống trị, chống
lại bọn đặc quyền, đặc lợi, những kẻ đi áp bức và bóc lột.
Cuộc đấu tranh đó có nguyên nhân khách quan từ sự phát triển mang tính xã hội
hóa ngày càng sâu rộng của lực lượng sản xuất với quan hệ chiếm hữu tư nhân về
tư liệu sản xuất. Biểu hiện của mâu thuẫn này về phương diện xã hội là: Mâu thuẫn
giữa một bên là giai cấp cách mạng, tiến bộ, đại diện cho phương thức sản xuất
mới, với một bên là giai cấp thống trị, bóc lột, đại biểu cho những lợi ích gắn với
quan hệ sản xuất lỗi thời, lạc hậu.
1.4. Đấu tranh giai cấp là một động lực phát triển của xã hội có giai cấp
Đấu tranh giai cấp được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau trong tất cả các
lĩnh vực của đời sống xã hội, nhưng trong xã hội có mâu thuẫn đối kháng, thì trước 8
hết là giải quyết mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất mới và quan hệ sản xuất cũ,
giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng trong một hình thái kinh tế – xã hội.
Mâu thuẫn đó bao giờ cũng được giải quyết bằng một cuộc cách mạng xã hội.
Ví dụ: Cách mạng tư sản giải quyết mâu thuẫn cơ bản của chế độ địa chủ phong
kiến, cách mạng vô sản giải quyết mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản.
Như vậy, thực chất quá trình đấu tranh giai cấp khi giải quyết những mâu thuẫn cơ
bản của các hình thái kinh tế – xã hội khác nhau là phương thức dẫn đến sự thay
đổi chuyến hóa các hình thái kinh tế – xã hội có giai cấp theo những quy luật khách quan vốn có của nó.
Đấu tranh giai cấp là một quá trình cải biến xã hội chẳng những chỉ giải quyết mâu
thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, mà còn giải quyết mâu thuẫn
giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, cũng như nó còn có tác dụng cải tạo
bản thân các giai cấp tiến bộ và cách mạng.
Trong xã hội có giai cấp, sự phát triển của các bộ phận khác nhau trong kiến trúc
thượng tầng, ví dụ như văn hóa nghệ thuật đều mang dấu ấn của quá trình đấu
tranh giai cấp và bị chi phối bởi quá trình đấu tranh giai cấp ở trong lịch sử. Đấu
tranh giai cấp là một quy luật chung của xã hội có giai cấp, song lại biểu hiện mang
tính đặc thù trong những điều kiện lịch sử cụ thể. Điều đó do kết cấu giai cấp, do
địa vị lịch sử của mỗi giai cấp cách mạng trong từng phương thức sản xuất quyết định.
1.5. Tính tất yếu của cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản
Mỗi thời đại lịch sử có những giai cấp đứng ở vị trí trung tâm, đại diện cho khuynh
hướng phát triển của thời đại đó, có nhiệm vụ đấu tranh xóa bỏ xã hội cũ, xây dựng
xã hội mới tiến bộ hơn. Trong thời đại ngày nay giai cấp vô sản tiến hành cuộc đấu 9
tranh chống lại giai cấp tư sản, chủ nghĩa tư bản với mục đích xóa bỏ chủ nghĩa tư
bản xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản trên toàn thế giới.
Cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản mang tính tất yếu khách quan và quy luật. Bởi
vì, nó phản ánh tính mâu thuẫn “giữa một bên là tư liệu sản xuất bị tập trung trong
tay tư sản, và một bên là người sản xuất đã bị đẩy đến chỗ không còn có gì ngoài
sức lao động của họ, thế là đã có sự cách biệt dứt khóat Mâu thuẫn giữa sự sản
xuất có tính xã hội và sự chiếm hữu có tính chất tư bản chủ nghĩa biểu hiện thành
sự đối kháng giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản”.
Cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản là một quá trình được thể hiện thông
qua nhiều giai đoạn khác nhau. Nhưng về cơ bản được thể hiện qua hai thời kỳ, đó là:
Giai đoạn trước khi xác lập được chính quyền nhà nước cho giai cấp vô sản. Giai
đoạn này xét về hình thức cơ bản cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản thể
hiện trong ba hình thức: Đấu tranh kinh tế, đấu tranh chính trị, đấu tranh tư tưởng.
Trong đó, đấu tranh chính trị là hình thức cao nhất.
Giai đoạn thứ hai là sau khi đã xây dựng được chính quyền nhà nước cho giai cấp
vô sản. Giai đoạn này cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp của giai cấp vô sản vẫn
tiếp tục vì sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
1.6. Lực lượng và tiến trình đấu tranh giai cấp trong xã hội tư bản chủ nghĩa
Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C.Mác và Ph.Ăng-ghen đã phân tích
nguyên nhân cuộc đấu tranh giai cấp dẫn đến sự sụp đổ của chế độ phong kiến để
hình thành nên xã hội tư bản: “... chúng ta đã thấy rằng, những tư liệu sản xuất và
trao đổi, làm cơ sở cho giai cấp tư sản hình thành, đã được tạo ra trong lòng xã hội 10
phong kiến. Những tư liệu sản xuất và trao đổi ấy, phát triển tới một trình độ nhất
định nào đó thì... tất cả những cái đó đều biến thành xiềng xích. Phải đập tan
những xiềng xích ấy... Thay vào đó là sự cạnh tranh tự do, với một chế độ xã hội
và chính trị thích ứng, với sự thống trị kinh tế và chính trị của giai cấp tư sản”.
Như vậy, sự ra đời của phương thức sản xuất tư bản là tất yếu khách quan và là
bước tiến vĩ đại trong tiến trình phát triển lịch sử - xã hội và mặc dù quan hệ sản
xuất tư bản chủ nghĩa đã giải phóng lực lượng sản xuất. Song, thực ra đó chỉ là sự
thay thế chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất của giai cấp địa chủ, bằng chế độ
sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất của giai cấp tư sản, thay thế phận làm thuê, làm
mướn của người nông nô cho địa chủ bằng cuộc đời làm thuê của giai cấp công
nhân cho giai cấp tư sản. Vì thế, mâu thuẫn về lợi ích giữa giai cấp tư sản và vô sản
lại tương tự như địa chủ và nông nô tiếp tục diễn ra trong lòng xã hội tư bản chủ
nghĩa. Mâu thuẫn này không thể giải quyết trong xã hội tư bản và là nguyên nhân
của cuộc đấu tranh giữa giai cấp tư sản và vô sản.
Bởi vậy: “những vũ khí mà giai cấp tư sản đã dùng để đánh đổ chế độ phong kiến
thì ngày nay quay lại đập vào chính ngay giai cấp tư sản”(8). Nghĩa là, lịch sử đã
tạo ra chủ nghĩa tư bản hiện đại và đến lượt nó lại trở thành vật cản của văn minh
nhân loại. Đồng thời các ông khẳng định, trong xã hội tư bản chủ nghĩa, tất cả các
giai cấp, các tầng lớp trung gian bị bóc lột đều đấu tranh chống lại giai cấp tư sản.
Nhưng, “Trong tất cả các giai cấp hiện đang đối lập với giai cấp tư sản thì chỉ có
giai cấp vô sản là giai cấp thực sự cách mạng. Tất cả các giai cấp khác đều suy tàn
và tiêu vong cùng với sự phát triển của đại công nghiệp”(9). Đây là một trong
những tư tưởng cơ bản của lý luận đấu tranh giai cấp của chủ nghĩa Mác. Sau này
V.I Lê-nin cũng đã khẳng định: “Điểm chủ yếu trong học thuyết của Mác là ở chỗ
nó đã làm sáng tỏ vai trò lịch sử thế giới của giai cấp vô sản”. 11
Sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản không phải là “ý muốn nhân tạo”, hoặc “lựa
đặt ngông cuồng” của C.Mác mà do địa vị kinh tế - xã hội khách quan quy định.
Bởi, giai cấp vô sản là sản phẩm của nền đại công nghiệp, đại diện cho phương
thức sản xuất tiên tiến của thời đại, là đại biểu chân chính duy nhất cho lợi ích toàn
xã hội, là một giai cấp cách mạng và duy nhất chỉ có nó mới có tính triệt để cách
mạng, tự giải phóng cho mình và giải phóng cho xã hội. Nói cách khác, giai cấp vô
sản không thể giải phóng mình nếu không đồng thời giải phóng toàn xã hội.
Tiến trình của cuộc đấu tranh giai cấp mà C.Mác chỉ ra diễn ra theo hai bước.
Trước hết là giai cấp vô sản liên hiệp lại, thành lập các đoàn thể, tạo điều kiện cho
sự ra đời chính đảng vô sản. Dưới sự lãnh đạo của chính đảng vô sản, giai cấp vô
sản dùng bạo lực lật đổ toàn bộ chính quyền tư sản.
Sau khi đạt được chính quyền “giai cấp vô sản sẽ dùng sự thống trị của mình để
từng bước đoạt lấy toàn bộ tư bản trong tay giai cấp tư sản, để tập trung tất cả
những công cụ sản xuất vào tay nhà nước, tức là giai cấp vô sản đã được tổ chức
thành giai cấp thống trị”. Tuy nhiên, trong một số tác phẩm đầu đời, C. Mác chưa
thấy được tính phức tạp của cuộc đấu tranh giai cấp.
Cũng thông qua việc tổng kết thực tiễn phong trào đấu tranh giai cấp giai đoạn
1848 - 1851, C. Mác đã khẳng định: để thực hiện được sứ mệnh lịch sử của mình,
giai cấp vô sản phải thực hiện cách mạng không ngừng và sự chuyên chính giai cấp
- chuyên chính vô sản, “Chủ nghĩa xã hội này là lời tuyên bố cách mạng không
ngừng, là chuyên chính giai cấp của giai cấp vô sản, coi đó là giai đoạn quá độ tất
yếu để đi đến xóa bỏ những khác biệt giai cấp nói chung, xóa bỏ tất cả những quan
hệ sản xuất làm cơ sở cho những sự khác biệt ấy, xóa bỏ tất cả những mối quan hệ
xã hội thích ứng với những quan hệ sản xuất đó, để đi đến cải biến tất cả những tư
tưởng nảy sinh ra từ những quan hệ sản xuất đó”. 12
Điều đó cho thấy, từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội không thể không có
một thời kỳ quá độ về chính trị. Nhà nước của thời kỳ quá độ này là nền chuyên
chính của giai cấp vô sản và giữa xã hội tư bản và xã hội cộng sản có một thời kỳ
cải biến cách mạng từ xã hội trước đến xã hội sau. Tương ứng với thời kỳ ấy là một
thời kỳ quá độ chính trị trong đó nhà nước không thể làm khác hơn là chuyên
chính cách mạng của giai cấp vô sản.
C. Mác viết: “Giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa là một
thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia. Thích ứng với thời kỳ ấy
là một thời kỳ quá độ chính trị, và nhà nước của thời kỳ ấy không thể là cái gì khác
hơn là nền chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản”.
Như vậy, qua một số các tác phẩm của mình, C. Mác đã nêu những luận điểm quan
trọng về giai cấp, đấu tranh giai cấp là: sự xuất hiện giai cấp trong xã hội là tất yếu
khách quan do sự phát triển của lực lượng sản xuất dẫn tới chế độ chiếm hữu tư
nhân về tư liệu sản xuất; trong xã hội có giai cấp tất yếu sẽ dẫn đến đấu tranh giai
cấp; giai cấp vô sản chỉ hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình khi hội tụ đủ điều
kiện khách quan và chủ quan cần thiết.
Điều kiện khách quan là sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất, của nền đại
công nghiệp, quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản. Điều kiện chủ quan là
giai cấp vô sản phải tập hợp được liên minh đông đủ lực lượng, liên minh với nông
dân và tiểu tư sản, xây dựng chính Đảng Cộng sản, có hệ tư tưởng tiến bộ của mình
và chịu sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Thực hiện cách mạng không ngừng. Sau khi cách mạng thắng lợi, giai cấp vô sản
phải đập tan nhà nước tư sản, thành lập nhà nước vô sản và thực hiện nền chuyên
chính vô sản trong nhà nước vô sản ở thời kỳ quá độ. 13 14
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Số lượng, chất lượng và cơ cấu
Sau 30 năm đổi mới, giai cấp công nhân nước ta không ngừng lớn mạnh cả về số
lượng và chất lượng, đa dạng về cơ cấu. Theo số liê x
u thống kê, tính đến cuối năm
2013 tổng số công nhân lao động làm việc trực tiếp trong các doanh nghiệp thuộc
mọi thành phần kinh tế ở nước ta là 11.565.900 người (chiếm 12,8% dân số, 21,7%
lực lượng lao động xã hội). Trong đó, có 1.660.200 công nhân làm việc trong
doanh nghiệp nhà nước; 6.854.800 công nhân trong các doanh nghiệp ngoài nhà
nước và 3.050.900 công nhân trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài.Công nhân trong doanh nghiê x
p ngoài nhà nước và doanh nghiê x p có vốn đầu
tư nước ngoài phát triển nhanh, ngược lại, công nhân trong doanh nghiê x p nhà nước
ngày càng giảm về số lượng.
Về trình đô x học vấn và trình đô x chuyên môn nghề nghiê p, x có 70,2% tổng số công
nhân có trình đô x trung học phổ thông, 26,8% có trình đô x trung học cơ sở và 3,1%
có trình đô x tiểu học. Công nhân có trình đô x trung cấp chiếm 17,9%, trình đô x cao
đẳng chiếm 6,6%, trình đô x
đại học chiếm 17,4%, công nhân được đào tạo tại doanh nghiê x p chiếm 48%.
Trước yêu cầu của sự phát triển, giai cấp công nhân nước ta còn nhiều hạn chế, bất câ x
p. “Sự phát triển của giai cấp công nhân chưa đáp ứng được yêu cầu về số lượng,
cơ cấu và trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp của sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế; thiếu nghiêm trọng các
chuyên gia kỹ thuật, cán bộ quản lý giỏi, công nhân lành nghề; tác phong công 15
nghiệp và kỷ luật lao động còn nhiều hạn chế; đa phần công nhân từ nông dân,
chưa được đào tạo cơ bản và có hệ thống”.
Chúng ta đang ở trong giai đoạn cơ cấu “dân số vàng”. Tuy nhiên, quá trình
chuyển đổi cơ cấu kinh tế lại không tương thích với quá trình chuyển dịch cơ cấu lao đô x
ng. Để hướng đến mô x
t nền sản xuất công nghiê x p hiê x
n đại, số lượng giai cấp công nhân lao đô x ng công nghiê x
p chỉ chiếm gần 22% lực lượng lao động xã hội là hết sức khiêm tốn.
Trình độ văn hóa và tay nghề của công nhân thấp đã ảnh hưởng không tốt đến việc
tiếp thu khoa học - kỹ thuật, đến năng suất lao động, chất lượng sản phẩm. Theo
đánh giá của Ngân hàng Thế giới (WB) năm 2014 về chất lượng lao đô x ng được
tính theo thang điểm 10, thì chất lượng lao đô x ng Viê x
t Nam chỉ đạt 3,79 điểm, xếp
thứ 11/12 nước Châu ~ tham gia xếp hạng của WB. Trong khi Hàn Quốc đạt 6,91
điểm, •n Đô x là 5,76 điểm, Malaysia là 5,59 điểm, Thái Lan 4,94 điểm...
Còn theo kết quả khảo sát của Tổ chức Lao đô x
ng quốc tế (ILO) vào tháng 9 năm 2014, năng suất lao đô x ng của công nhân Viê x t Nam thuô x
c vào nhóm thấp nhất của
khu vực, chỉ bằng 1/5 lao đô x
ng của công nhân Malaysia, 2/5 Thái Lan, 1/15 Singapore, 1/11 Nhâ x
t Bản, 1/10 Hàn Quốc. Trong số các nước ASEAN, năng suất lao đô x ng của công nhân Viê x
t Nam chỉ cao hơn Campuchia và Lào.
Theo Bô x Kế hoạch và Đầu tư, với tốc đô x tăng năng suất lao đô x ng như hiê x n nay, thì
phải đến năm 2038 năng suất lao đô x ng của công nhân Viê x t Nam mới bắt kịp
Philippines, năm 2069 chúng ta mới bắt kịp được Thái Lan, do đó, chúng ta cần có
đối sách để nâng cao chất lượng nhân lực, góp phần nâng cao năng suất lao đô x ng
trong quá trình cạnh tranh thời hô x i nhâ x
p.Nếu không có kế hoạch đón nhâ x n và đào
tạo đón đầu, thì chúng ta sẽ bị thiếu hụt nghiêm trọng về lao đô x ng khi các dự án
lớn đầu tư vào Việt Nam đi vào sản xuất. 16 Hiê x
n nay, “Chất lượng, hiê x
u quả giáo dục và đào tạo còn thấp so với yêu cầu, nhất
là giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiê x p. Hê x
thống giáo dục và đào tạo thiếu liên
thông giữa các trình đô x và giữa các phương thức giáo dục, đào tạo; còn nă x ng lý
thuyết, nhƒ thực hành. Đào tạo thiếu gắn kết với nghiên cứu khoa học, sản xuất
kinh doanh và nhu cầu của thị trường lao đô x ng”. Nguồn lực lao đô x
ng qua đào tạo của nước ta vừa thiếu lại vừa thừa, hê x quả là tỷ lê x thất nghiê x
p của những người đã qua đào tạo ngày càng cao. Trong số 10,77 triê x u người lao đô x
ng đã qua đào tạo có chứng chỉ, văn bằng hiê x n nay, thì trình đô x đại học trở lên có 4,47 triê x
u người (chiếm 41,51%), trình đô x cao đẳng có 1,61 triêu x người
(chiếm 14,99%), trình đô x trung cấp 2,92 triêu x
người (chiếm 27,11%), trình đô x sơ cấp có 1,77 triê x
u người (chiếm 16,39%). Theo đó, trình đô x đại học/cao đẳng/trung
cấp/sơ cấp tương ứng theo tỷ lê x
: 1/0,35/0,65/0,4. Điều này cảnh báo về sự mất cân
đối trong cơ cấu lao đô x
ng qua đào tạo giữa các bâ x c ở nước ta. Theo Bản tin câ x p nhâ x t thị trường lao đô x
ng của quý I năm 2016, từ quý III năm
2015 đến quý I năm 2016 số lao đô x
ng có trình đô x cao đẳng, đại học trở lên thất nghiê x
p tăng rất nhanh, từ 199,4 nghìn người lên 225 nghìn người, chiếm 20% số lao đô x ng thất nghiê x
p. Ngoài ra còn có 114 nghìn người có trình đô x đại học trở lên lao đô x
ng giản đơn ở những lĩnh vực sản xuất không cần trình đô x . Nguy cơ này
được dự báo là sẽ còn gia tăng khi Viê x t Nam hô x i nhâ x p Cô x ng đồng kinh tế ASEAN (AEC). Trong điều kiê x
n thế giới đã bước vào thời kỳ phát triển kinh tế tri thức, sản phẩm lao đô x
ng được tạo ra với hàm lượng chất xám ngày càng cao, tính cạnh tranh trong
quá trình tham gia vào chuỗi sản xuất giá trị toàn cầu ngày càng được đẩy mạnh,
thì vai trò của nguồn nhân lực, mà trực tiếp là người công nhân lao đô x ng sẽ đóng vai trò quyết định. 17
Trong thời gian tới, quá trình quốc tế hóa sản xuất với sự phân công và hợp tác lao đô x
ng diễn ra ngày càng sâu rô x
ng giữa các nước trong khu vực và trên thế giới. Khi chúng ta thực hiê x
n đầy đủ các cam kết của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), các Hiê x
p định Thương mại tự do thế hê x mới, đă x c biê x t Hiê x
p định đối tác xuyên Thái
Bình Dương (TPP) và AEC đi vào thực chất, những rào cản về không gian kinh tế,
hàng hóa, dịch vụ, vốn, khoa học công nghê x , thị trường lao đô x
ng được gỡ bỏ, thì sự
cạnh tranh giữa các nước càng trở nên gay gắt. Hiê x n ASEAN đã có Hiê x
p định về di chuyển tự nhiên nhân lực, có thỏa thuâ x n công nhâ x
n lẫn nhau về chứng chỉ hành nghề của cơ quan chính thức đối với 8 ngành
nghề được tự do chuyển dịch: kiểm toán, kiến trúc, kỹ sư, nha sĩ, bác sĩ, y tá, điều
tra viên và du lịch. Viê x c công nhâ x
n trình đô x lẫn nhau về kỹ năng nghề sẽ là môt x trong những điều kiê x
n rất quan trọng trong viê x c thực hiê x n dịch chuyển lao đô x ng giữa Viê x
t Nam với các nước trong khu vực. Tuy nhiên, theo dự báo của ILO, khi tham gia AEC, số viê x c làm của Viê x
t Nam sẽ tăng lên 14,5% vào năm 2025.
Nhưng trình đô x phát triển không đồng đều dẫn đến viêc x lao đô x ng có tay nghề chủ
yếu di chuyển vào thị trường Singapore, Malaysia và Thái Lan. Những lao đô x ng được chứng nhâ x n về trình đô x
, kỹ năng sẽ được di chuyển tự do hơn. Đây sẽ là thách thức cho Viê x
t Nam, vì số lượng công nhân lành nghề ở nước ta còn khiêm tốn, buô x c phải chấp nhâ x n nguồn lao đô x
ng di cư đến từ các nước khác có trình đô x
cao hơn. Thời gian tới, nếu trình đô x
của công nhân nước ta không được cải thiê x n để
đáp ứng yêu cầu, thì chúng ta sẽ bị thua ngay trên “sân nhà”.
2.2. Ý thmc chính trn, đạo đmc, ko luâ q
t và tác phong lao đô qng Hiê x
n nay, tâm lý, thói quen và tác phong lao động gắn liền với nền sản xuất nhỏ
còn in đậm trong một bộ phận giai cấp công nhân nước ta. Hơn nữa, trong quá
trình phát triển, giai cấp công nhân thường xuyên tiếp nhận những thành phần mới, 18
phần lớn là từ nông dân, họ còn trẻ tuổi đời, ý thức lập trường giai cấp còn hạn chế. Vì vâ x
y, “Công nhân nước ta không đồng đều về nhận thức xã hội, giác ngộ
giai cấp, bản lĩnh chính trị, ý thức tổ chức và kỷ luật lao động”. Dưới tác đô x ng của hô x i nhâ x
p quốc tế, giai cấp công nhân nước ta năng động, chủ
động hơn, cố gắng nâng cao năng lực, hướng tới hiệu quả công việc ngày càng cao hơn. Nhưng mă x
t khác, mô xt bô x phận công nhân nước ta bị phai nhạt giá trị đạo đức
truyền thống, xa rời lý tưởng cách mạng. Kết quả mô x t cuô x
c khảo sát về lối sống của giai cấp công nhân nước ta hiê x n nay cho
thấy: công nhân có lối sống buông thả, thực dụng chiếm 27,9%; 22% ích kỷ, chủ
nghĩa cá nhân; 13,6% phai nhạt lý tưởng, giá trị sống; 18,7% có biểu hiê x n suy thoái
đạo đức, lối sống; 12,9% có thái đô x bi quan, chán đời; 20,3% vô cảm trước bất
công; 25,5% ứng xử, giao tiếp kém; 8,1% trụy lạc; 29,4% đua đòi, lãng phí.
Những kết quả khảo sát cũng chỉ ra, nhiều công nhân vi phạm kỷ luâ x t lao đô x ng
như: không sử dụng thiết bị bảo hô x lao đô x ng (45,2%); đi muô x n, về sớm (24,8%);
lấy đồ của công ty (11,8%); nghỉ làm không xin phép (25,6%); không hoàn thành định mức công viê x
c (25,6%); không chấp hành kỷ luâ x t lao đô x ng (19,3%) .
Điều này gây ảnh hưởng đến doanh nghiê x
p và hình ảnh người công nhân Viê x t Nam trong quá trình hô x i nhâ x
p quốc tế.Nhiều công nhân coi công việc tại nhà máy, xí
nghiệp như là một cách mưu sinh, chứ chưa phải là một nghề nghiệp; họ chưa coi
đó là một sự nghiệp, không ý thức được vị trí và vai trò của giai cấp mình. Qua
khảo sát, chỉ có 23,5% tự hào là công nhân; 54,4% bằng lòng với vị trí hiê x n tại; 4,5% cảm thấy thân phâ x
n làm thuê bị coi rẻ; 9% chẳng thích thú gì với thân phâ x n của mình. Theo mô x t cuô x
c khảo sát gần đây đối với công nhân ba miền (Bắc, Trung, Nam) cho
thấy, hầu hết công nhân không nhâ x n mình thuô x
c giai cấp lãnh đạo xã hô x i, họ chỉ 19 nhâ x
n mình là những người làm công ăn lương, cố gắng làm tốt công viê x c để tăng thêm thu nhâ x p nhằm cải thiê x n cuô x
c sống. Không ít công nhân làm việc trong các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có tâm lý làm thuê. Họ chỉ chú trọng đến
“công việc”, làm tròn phận sự, thụ động và ít chú trọng đến các lĩnh vực chính trị -
xã hội, coi những hoạt động đó là của ban chuyên trách. Do nhâ x n thức như vâ x y,
nên có “một bộ phận công nhân chưa thiết tha phấn đấu vào Đảng và tham gia hoạt
động trong các tổ chức chính trị - xã hội” .
Khi được hỏi vì sao không muốn vào Đảng, thì kết quả khảo sát nhâ x n được là: 34,6% vì kỷ luâ x
t nghiêm của Đảng; 38,1% vì phải đóng đảng phí; 18,7% vì sợ bị phân biê x
t đối xử; 17,9% vì không có lợi ích cá nhân; 16,6% vì ngại phấn đấu r…n luyê x
n; 15,1% vì ngại học lý luâ x
n, nghị quyết của Đảng; 12,1% vì mất nhiều thời gian hô x i họp.
Ngoài ra, còn có một bộ phận công nhân hoài nghi, không tin tưởng vào đường lối,
chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luâ x
t của Nhà nước, mơ hồ về lập trường
giai cấp, nhìn thấy một vài biểu hiện về mức sống của một số nhà tư bản đã vội ca
ngợi, không tin tưởng vào chủ nghĩa xã hội. 20