












Preview text:
lOMoAR cPSD| 61431571
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA QUẢN TRỊ KINH DOANH
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
Đề tài số 1: Lý luận Mác – xít về con người và vấn đề con
người trong sự nghiệp công nghiệp hóa- hiện đại hóa đất nước Việt Nam hiện nay
Họ, tên Sinh viên: Phạm Thị Yến Nhi Mã SV: 11233538
Lớp học phần : Triết học Mác Lê-nin(123)_18 GVHD: TS Lê Ngọc Thông Khóa: 65 Hà Nội - 2023 lOMoAR cPSD| 61431571 MỤC LỤC
I. MỞ ĐẦU:............................................................................................................ 2
II. NỘI DUNG:....................................................................................................... 3
1. Chương 1 : Cơ sở lí luận về vấn đề con người:............................................... 3
1.1. Một số quan niệm triết học về con người trước Mác:....................................... 3
1.2. Quan niệm của triết học Mác - xít về bản chất con người:............................... 4
2. Chương 2 : Phát huy nhân tố con người trong sự nghiệp CNH - HĐH đất
nước:........................................................................................................................ 8
2.1. Quan điểm về Đảng Cộng sản Việt Nam về nhân tố con người:...................... 8
2.2. Phát huy nhân tố con người trong sự nghiệp CNH-HĐH đất
nước:........................................................................................................................ 10
2.3. Những nhiệm vụ cơ bản của xây dựng con người trong quá trình CNH-HĐH
đất nước:................................................................................................................. 11
III. KẾT LUẬN:.................................................................................................... 14
IV. PHỤ LỤC VÀ TÀI LIỆU THAM KHẢO:.................................................. 15
4.1. Danh mục các kí hiệu, chữ viết tắt:.............................................................. 15
4.2. Tài liệu tham khảo:........................................................................................ 15 lOMoAR cPSD| 61431571 I. MỞ ĐẦU
Trong triết học, con người là một để tài lớn, nghiên cứu vấn đề con người có vai trò
rất to lớn đối với sự phát triển của thể giới, là vấn đề được các nhà triết gia của mọi
thời đại bao gồm cả phương Đông và phương Tây quan tâm nghiên cứu. Trong các
hệ thống tư tưởng đó, vấn đề con người trong triết học Mác - xít được nghiên cứu và
trình bày một cách bao quát, đặc sắc và mang tính khoa học nhất. Chủ nghĩa Mác -
Lê nin đã kết luận: “Con người không chỉ là chủ thể của hoạt động sản xuất vật chất,
đóng vai trò quyết định trong sự phát triển của lực lượng sản xuất, mà con người còn
là chủ thể của quá trình lịch sử, của sự tiến bộ xã hội". Đặc biệt khi xã hội loài người
ngày càng phát triển và đạt đến trình độ văn minh cao cấp như hiện nay, đối với một
quốc gia bất kỳ, trong các điều. kiện và nguồn lực để phát triển kinh tế - xã hội, nhân
tố con người (nguồn nhân lực) luôn giữ một vai trò vô cùng quan trọng trong sự phát triển đó,
Việt Nam là một quốc gia đang phát triển và đang thực hiện mạnh mẽ quá trình CNH
- HĐH đất nước. Với đà phát triển như vậy thì việc chú trọng nghiên cứu nhân tố con
người là một yêu cầu và nhiệm vụ cấp bách mà Đảng và Nhà nước ta phải thực hiện.
Những lý luận về vấn đề con người đã được trình bày vô cùng khoa học trong Triết
học Mác - Lênin và được đúc kết sâu sắc trong hệ Tư tưởng Hồ Chí Minh. Dựa vào
những kiến thức đã được học ở bộ môn Triết học Mác - Lênin và sự hướng dẫn tận
tình của giáo viên hướng dẫn của tôi: TS. Lê Ngọc Thông, tôi đã quyết định lựa
chọn đề tài tiểu luận triết học: “Lý luận Mác – xít về con người và vấn đề con người
trong sự nghiệp CNH - HĐH đất nước Việt Nam hiện nay.” Với đề tài này, từ việc
nghiên cứu những quan điểm chung nhất của Triết học
Mác - Xít về vấn đề con người cùng với việc xem xét những quan điểm chỉ đạo của
Đảng ta, ta phân tích đến vai trò, vị trí của con người Việt Nam hiện nay. Cuối cùng,
luận vấn đề ta đưa ra những nhiệm vụ cụ thể cho sự phát triển con người. Vì là lần
đầu tiên thực hiện nên bài tiểu luận này sẽ không trách khỏi những khiếm khuyết về
hình thức và những sai sót, hạn chế về nội dung, rất mong sự thông cảm của các thầy cô II. NỘI DUNG
1. Chương 1: Cơ sở lí luận về vấn đề con người.
1.1. Một số quan niệm triết học về con người trước Mác.
Có thể nói vấn đề con người là một trong những vấn đề quan trọng nhất trên thế giới. Đó
là một chủ đề đang được các nhà khoa học và nghiên cứu ngày càng phân tích sâu hơn.
Không chỉ vậy, trong số rất nhiều chủ đề khoa học của xã hội cổ đại và hiện đại, chủ đề
con người là trọng tâm được các nhà nghiên cứu cổ đại đặc biệt quan tâm. Các lĩnh vực
tâm lý học, sinh học, y học, triết học, xã hội học, v.v.v... Từ rất sớm trong lịch sử, con
người đã quan tâm đến con người và không ngừng nghiên cứu về con người. Mỗi lĩnh vực
nghiên cứu đều có tầm quan trọng riêng đối với sự hiểu biết và lợi ích của con người. Từ
thời cổ đại, Xôcrat đã viêt: "con người hãy nhận thức chính mình". lOMoAR cPSD| 61431571
Những vấn đề muôn thủa như: Thế giới mà con người đang sống là gì? Con người do
đâu mà có? Bản chất của con người là gì? Con người có giáo dục được không, có nhận
thức được thế giới không? Con người có vai trò gì với thế giới xung quanh?
Có hay không có cuộc sông khi con người đã chết?... đã được các trường phải tư tuởng,
triết học nghiên cứu, trả lời. Đây cũng là nội dung cơ bản của thế giới quan con người,
một trong những nội dung cấu thành nên thế giới quan triết học. Tùy theo điều kiện lịch
sử mà mỗi thời đại lại nêu bật chủ đề này, chủ đề kia.
a)Quan niệm về con người trong triết học phương Đông trước Mác
Từ thời cổ đại, các trường phái triết học phương Đông đều tìm cách lý giải vấn đề bản
chất con người, quan hệ giữa con người với thế giới xung quanh. Do những điều kiện kinh
tế- xã hội và đặc điểm lịch sử của triết học phương Đông, thì vấn đề con người đều được
lý giải trên cơ sở thế giới quan duy tâm, tôn giáo thần bí hoặc nhị nguyên luận. Trong triết
học Phật giáo, con người là sự kết hợp giữa danh và sắc (vật chất và tinh thần). Đời sống
con người trên trần thế chỉ là ảo giác, hư vô. Vi vậy, cuộc đời con người khi còn sống chỉ
là sống gửi, là tạm bợ. Cuộc sống vĩnh cửu là phải hướng tới cõi Niết bàn, nơi tinh thần
con người được giải thoát để trở thành bất diệt .
Trong triết học phương Đông, với sự chi phối bởi thế giới quan duy tâm hoặc duy vật chất
phác, biểu hiện trong tư tưởng Nho giáo, Lão giáo,quan niệm về bản chất con người cũng
thể hiện một cách phong phú và thường gắn với "thiên mệnh". Khổng Tử cho rằng bản
chất con người do “Thiên mệnh” chi phối quyết định, đức “Nhân” chính là giá trị cao nhất
của con người. Ngược lại, Lão giáo lại cho rằng con người sinh ra từ “Đạo”. Do vậy, con
người cần phải sống “Vô vi”, theo lẽ tự nhiên thuần phác, v.v…
Tóm lại, dù trong triết học phương Đông, tồn tại rất nhiều quan niệm về con người, nhưng
nhìn chung, trong nền triết học này, con người chủ yếu được hiểu trong mối quan hệ đạo
đức - chính trị; còn khi xem xét con người trong mối quan hệ với tự nhiên hay với xã hội
thì nó bộc lộ yếu tố duy tâm, hay có pha trộn tính chất duy vật chất phác.
b) Quan niệm về con người trong triết học phương Tây trước Mác
Trong triết học Hy Lạp cổ đại, con người được xem là điểm khởi đầu của tư duy triết học;
con người và thế giới xung quanh là tấm gương phản chiếu lẫn nhau; bởi vì con người chỉ
là tiểu vũ trụ trong vũ trụ bao la. Chẳng hạn, Prôtago – nhà triết học thuộc trường phái
ngụy biện cho rằng “con người là thước đo của vũ trụ”. Còn Aristote lại cho rằng con
người là thang bậc cao nhất của vũ trụ; song đối với ông, chỉ có linh hồn, tư duy, trí nhớ,
ý chí, năng khiếu nghệ thuật mới làm cho con người nổi bật lên… Nhìn chung, trong triết
học Hy Lạp cổ đại bước đầu đã có sự phân biệt con người với tự nhiên, nhưng đó chỉ là
hiểu biết bên ngoài về tồn tại con người.
Trong triết học cổ điển Đức, những nhà triết học nổi tiếng như Cantơ, Hêghen đã phát
triển quan niệm về con người theo khuynh hướng chủ nghĩa duy tâm. Hêghen, với cách lOMoAR cPSD| 61431571
nhìn của một nhà duy tâm khách quan, thông qua sự vận động của "ý niệm tuyệt đội",
đã cho rằng, con người là hiện thân của "ý niệm tuyệt đối".
Có thể khái quát rằng, các quan niệm về con người trong triết học trước Mác, dù là đứng
trên nền tảng thế giới quan duy tâm, nhị nguyên luận hoặc duy vật siêu hình, đều không
phản ánh đúng bản chất con người. Nhìn chung, các quan niệm trên đều xem xet con người
một cách trửu tượng, tuyệt đối hóa mặt tinh thần hoặc thể xác con người, tuyệt đối hoa
mặt tự nhiên - sinh học mà không thấy mặt xã hội trong đời sống con người. Tuy vậy, một
số trường phái triết học vẫn đạt được một số thành tựu trong việc phân tích, quan sát con
người, để cao lý tinh, xác lập các giá trị về nhân bản học để hướng con người tới tự do.
Đó là những tiền để có ý nghĩa cho việc hình thành tư tưởng về con người của triết học mácxit.
1.2 Quan niệm của triết học Mác - xít về bản chất con người
Trong lịch sử triết học trước Mác, các quan niệm về con người, cơ bản là những quan niệm
duy tâm, tôn giáo hoặc siêu hình. Mặc dù, triết học duy vật trước Mác coi con người là
một thực thể tự nhiên – thực thể xã hội. Song họ cũng không vượt qua tính chất siêu hình
và thậm chí còn là duy tâm. Bởi vì họ đã quy đặc trưng bản chất con người theo khuynh
hướng tuyệt đối hóa những thuộc tính tự nhiên hoặc thuộc tính xã hội, mà không thấy
được vai trò của hoạt động thực tiễn xã hội.
Trong quan niệm của triết học Mác - xít, con người là một thực thể trong sự thống nhất
biện chứng giữa cái tự nhiên và cái xã hội. Con người sinh ra từ tự nhiên, tuân theo các
quy luật tự nhiên, đồng thời con người tồn tại và phát triển gắn liền với sự tồn tại và phát triển của xã hội.
Theo chủ nghĩa Mác - Lênin con người là khái niệm chỉ những cá thểngười như một chỉnh
thể trong sự thống nhất giữa mặt sinh học và mặt xã hội của nó. Con người là sản phẩm
của sự tiến hoá lâu dài từ giới tự nhiên và giới sinh vật. Do vậy nhiều quy luật sinh vật
học cùng tồn tại và tác động đến con người. Đó là quá trình tạo thành phương diện sinh
học và khả năng thoả mãn những nhu cầu sinh học như: ăn, mặc, ở; hoạt động và nhu cầu
tái sản sinh con người. Như vậy, con người trước hết là một tồn tại sinh vật, con người tự
nhiên là con người mang tất cả bản tính sinh học, tính loài. Yếu tố sinh học trong con
người, trước hết là tổ chức cơ thể và mối quan hệ của nó với tự nhiên, là những thuộc tính,
những đặc điểm sinh học, quá trình tâm sinh lý, các giai đoạn phát triển khác nhau thể
hiện bản chất sinh học của cá nhân con người. Điều đó giải thích vì sao Mác cho rằng con
người trước hết phải ăn, mặc ở rồi mới làm chính trị.
“Bản thân cái sự kiện là con người từ loài động vật mà ra, cũng đã quyết định việc con
người không bao giờ hoàn toàn thoát ly khỏi những đặc tính vốn có của con vật” Nhưng
chỉ dừng lại ở một số thuộc tính sinh học của con người thì không thể giải thích được bản
chất của con người. Cần khẳng định răng, mặt tự nhiên không phải là yếu tố duy nhất quy
định bản chất con người. Đặc trưng quy định sự khác biệt giữa con người với thế giới loài
vật là phương diện xã hội của nó. Để nhấn mạnh bản chất xã hội của con người, luận điểm
nổi tiếng về con người được C.Mác viết trong Luận cương về Phoi-ơ-bắc (1845): "Bản lOMoAR cPSD| 61431571
chất con người không phải là một cái gì trừu tượng, cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong
tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội".
Với quan niệm đó, C. Mác chỉ ra rằng bản chất con người không phải là trừu tượng mà là
hiện thực, không phải tự nhiên mà là lịch sử. Con người là một thực thể thống nhất giữa
yếu tố sinh học và yếu tố xã hội, nhưng yếu tố xã hội mới là bản chất đích thực của con người.
Mác và Anghen nhiều lần khẳng định lại quan điểm của những nhà triết học đi trước rằng.
Con người là một bộ phận của giới tự nhiên, là một động vật xã hội, nhưng khác với họ,
Mác, Anghen; xem xét mặt tự nhiên của con người, như ăn, ngủ, đi lại, yêu thích... Không
còn hoàn mang tính tự nhiên như ở con vật mà đã được xã hội hoá. con người là sự kết
hợp giữa mặt tự nhiên và mặt xã hội nên Mác nhiều lần đã so sánh con người với con vật,
so sánh con người với những con vật có bản năng gần giống với con người... Và để tìm ra
sự khác biệt đó. Mác đã chỉ ra sự khác biệt ở nhiều chỗ như chỉ có con người làm ra tư
liệu sinh hoạt của mình, con người biến đổi tự nhiên theo quy luật của tự nhiên, con người
là thước đo của vạn vật, con người sản xuất ra công cụ sản xuất...
Luận điểm xem con người là sinh vật biết chế tạo ra công cụ sản xuất được xem là luận
điểm tiêu biểu của chủ nghĩa Mác về con người. Tính xã hội của con người biểu hiện trong
hoạt động sản xuất vật chất; hoạt động sản xuất vật chất biểu hiện một cách căn bản tính
xã hội của con người. Thông qua hoạt động lao động sản xuất, con người sản xuất ra của
cải vật chất và tinh thần, phục vụ đời sống của mình; hình thành và phát triên ngôn ngữ
và tự dụy; Các lập quan hệ xã hội. Bởi vậy, lao động là yếu tố quyết định hình thành bản
chất xã hội của con người, đồng thời hình thành nhân cách cá nhân trong cộng đồng xã
hội. Thông qua hoạt động sản xuất vật chất, con người đã làm thay đổi, cải biến toàn bộ
giới tự nhiên: “con vật chỉ tái sản xuất ra bản thân nó, còn con người thì tái sản xuất ra
toàn bộ giới tự nhiên”. Tính xã hội của con người biểu hiện trong hoạt động sản xuất vật
chất, con người sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần để phục vụ đời sống của mình,
hình thành phát triển ngôn ngữ và tư duy, xác lập các quan hệ xã hội.
Là sản phẩm của tự nhiên và xã hội nên quá trình hình thành và phát triển của con người
luôn luôn bị quyết định bởi ba hệ thống quy luật khác nhau, nhưng thống nhất với nhau.
Hệ thống các quy luật tự nhiên như quy luật về sự phù hợp cơ thể với môi trường, quy
luật về sự trao đổi chất, về di truyền, biến dị, tiến hóa.. quy định phương diện sinh học của
con người. Hệ thống các quy luật tâm lý ý thức hình thành và vận động trên nền tảng sinh
học của con người như hình thành tình cảm, khát vọng, niềm tin, ý chí.
Luận điểm của Mác coi “Bản chất của con người là tổng hoà các quan hệ xã hội”. Điều
lưu ý là luận đề trên khẳng định bản chất xã hội, không có nghĩa phủ nhận mặt tự nhiên
trong cuộc sống con người; trái lại, điều đó muốn nhấn mạnh sự phân biệt giữa con người
và thế giới động vật ở bản chất xã hội và đó cũng là để khắc phục sự thiếu sót của các nhà
triết học trước Mác về bản chất xã hội của con người. Chính Lênin cũng đã không tán
thành quan điểm cho rằng mọ người đều ngang nhau về mặt sinh học. Ông viết “thực hiện
một sự bình đẳng về sức lực và tài năng con người thì đó là một điều ngu xuẩn... Nói tới lOMoAR cPSD| 61431571
bình đẳng thì đó luôn luôn là sự bình đẳng xã hội, bình đẳng về địa vị chỉ không phải là
sự bình đẳng về thể lực và trí lực của cá nhân”.
Mặt khác, cái bản chất với ý nghĩa là cái phổ biến, cái mang tính quy luật chứ không phải
là cái duy nhất; do đó cần phải thấy được các biểu hiện riêng biệt, phong phú và đa dạng
của mỗi cá nhân trong cộng đồng xã hội.
Không có tự nhiên, không có lịch sử - xã hội thì không thể có con người. Con người
là sản phẩm của lịch sử, của sự tiến hoá lâu dài của giới hữu sinh, nhưng con người
luôn là chủ thể lịch sử - xã hội.
Để khẳng định cho tiến trình phát triển lịch sử của xã hội loài người là sự thay thế lẫn nhau
của các hình thái kinh tế - xã hội, Mác đã nói tới việc lấy sự phát triển toàn diện của con
người làm thước đo chung cho sự phát triển xã hội, Mác cho rằng xu hướng chung của
tiến trình phát triển lịch sử được quy định bởisự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội
bao gồm con người và những công cụ lao động do con người tạo ra, sự phát triển của lực
lượng sản xuất xã hội, tự nó đã nói lên trình độ phát triển của xã hội qua việc con người
đã chiếm lĩnh xã hội và sử dụng ngày càng nhiều lực lượng tự nhiên với tư cách là cơ sở
vật chất cho hoạt động sống của chính con người và quyết định quan hệ giữa người với
người trong sản xuất. Sản xuất ngày càng phát triển tính chất xã hội hoá ngày càng tăng.
Việc tiến hành sản xuất tập thể bằng lực lượng của toàn xã hội và sự phát triển mới của
nền sản xuất do nó mang lại sẽ cần đến những con người hoàn toàn mới. Những con người
có năng lực phát triển toàn diện và đến lượt nó, nền sản xuất sẽ tạo nên những con người
mới, sẽ làm nên những thành viên trong xã hội có khả năng sử dụng một cách toàn diện
năng lực phát triển của mình theo Mác "phát triển sản xuất vì sự phồn vinh của xã hội, vì
cuộc sống tốt đẹp hơn cho mỗi thành viên trong cộng đồng xã hội và phát triển con người
toàn diện là một quá trình thống nhất để làm tăng thêm nền sản xuất xã hội" để sản xuất
ra những con người phát triển toàn diện hơn nữa, Mác coi sự kết hợp chặt chẽ giữa phát
triển sản xuất và phát triển con người là một trong những biện pháp mạnh mẽ để cải biến xã hội.
Con người là sản phẩm phát triển của tự nhiên và lịch sử phát triển của xã hội. Song, điều
quan trọng hơn cả là con người luôn luôn là chủ thể của lịch sử xã hội. Với tính cách chủ
thể của lịch sử, thông qua hoạt động thực tiễn, con người biến đổi giới tự nhiên, biến đổi
xã hội và bản thân mình.
Trong quá trình cải biến giới tự nhiên, con người cũng làm ra lịch sử của mình. Con người
là sản phẩm của lịch sử, đồng thời là chủ thể sáng tạo ra lịch sử. Hoạt động sản xuất vật
chất vừa là điều kiện cho sự tồn tại của con người, vừa là phương thức dẫn đến sự biến
đổi xã hội. Đó là quá trình con người nhận thức và vận dụng các quy luật khách quan để
khẳng lịch sử vận động phát triển của xã hội là lịch sử của phát triển của các phương thức
sản xuất vật chất khác nhau, v.v…
Không có con người trừu tượng, con người là cụ thể trong mỗi giai đoạn phát triển nhất
định của lịch sử và bản chất của con người trong tính hiện thực của nó là tổng hòa những
mối quan hệ xã hội. Bản chất con người không phải là một hệ thống đóng kín, mà là hệ
thống mở tương ứng với điều kiện lịch sử của con người. Cho nên, có thể nói rằng, sự vận lOMoAR cPSD| 61431571
động và phát triển của lịch sử sẽ quy định tương ứng với sự vận động và phát triển của
bản chất con người thông qua những mối quan hệ xã hội trong lịch sử. 2.
Chương 2: Phát huy nhân tố con người trong sự nghiệp CNH - HĐH đất nước
2.1. Quan điểm về Đảng Cộng sản Việt Nam về nhân tố con ngườiXuất phát từ quan
điểm Mác-xít về con người cho thấy, khi con người là một thực thể tự nhiên - xã hội, con
người nói chung biểu hiện ra trên nhiều phương diện. Chẳng hạn, con người tồn tại với tư
cách là một nguồn tài nguyên đặc biệt - tài nguyên con người; con người tồn tại với tư
cách là một nguồn lực đặc biệt hay nguồn lực con người, hoặc tồn tại với tư cách là một
nhân tố thúc đẩy đời sống kinh tế - xã hội gọi là nhân tố con người… Bởi vậy, khái niệm
nhân tố con người là sự tiếp tục triển khai quan điểm của triết học Mác - Lênin về con người.
Kế thừa quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin trong tiến trình xây dựng xã hội mới, Đảng
ta đã khẳng định: nguồn lực quý báu nhất, có vai trò quyết định nhất là con người Việt
Nam; nhân tố con người chính là nguồn sức mạnh nội sinh của dân tộc Việt Nam. Đối với
một nước chủ động lựa chọn và kiên trì con đường phát triển theo định hướng xã hội chủ
nghĩa như Việt Nam, sự phát triển, tăng trưởng kinh tế, xét đến cùng cũng là vì con người,
hướng đến con người. Trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế, Đảng ta xác định
một trong những yếu tố quyết định việc chúng ta có tranh thủ tận dụng thành công những
thuận lợi, cơ hội và vượt qua thách thức, khó khăn mà quá trình đó đặt ra hay không phụ
thuộc đáng kể vào con người.
Trong đường lối phát triển, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn có những định hướng chuẩn
giá trị cho việc xây dựng con người Việt Nam. Điều đó được phản ánh trong việc Đảng
ta luôn coi trọng, đẩy mạnh và đổi mới công tác giáo dục - đào tạo, coi
“giáo dục là quốc sách hàng đầu”. Đây là điều kiện để hình thành và phát triển các thế hệ
con người Việt Nam khỏe về thể chất, trong sáng về tâm hồn, có trình độ chuyên môn cao
đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH - HĐH đất nước. Trước hết, cần khẳng định rằng,
những nhận thức đúng đắn, đầy đủ của Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề con người và
phát triển con người, dựa trên cơ sở lý luận khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh cũng như được đúc kết từ kinh nghiệm thực tiễn của đất nước, đặc
biệt là trong thời kỳ đổi mới.
Với những định hướng đúng đắn của Đảng về vị trí, vai trò của nhân tố con người, chúng
ta đã xây nên những thế hệ con người Việt Nam có lý tưởng cách mạng vững vàng, đạo
đức cách mạng trong sáng, có ý thức rõ ràng về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Chính
những chuẩn giá trị đó là động lực quan trọng thúc đẩy con người Việt Nam chiến đấu,
lao động, học tập và sáng tạo, đem lại những thắng lợi đáng tự hào trong công cuộc xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên thời kỳ trước đổi mới,
chúng ta chưa nhận thức hết những nhân tố tác động đến phát triển kinh tế - xã hội, trong
đó có nhiều yếu tố liên quan đến vấn đề con người và động lực phát triển con người. Trong
suốt một thời gian dài, chúng ta đã quá đề cao lợi ích tập thể một cách chung chung, trừu lOMoAR cPSD| 61431571
tượng, trong khi đó lợi ích cá nhân không được quan tâm đúng mức, thậm chí rất mờ nhạt.
Chính vì vậy không tạo được động lực hoạt động của mỗi cá nhân trong xã hội.
Bước vào thời kỳ đổi mới toàn diện đất nước, vấn đề con người đã được Đảng ta đặc biệt
quan tâm. Bởi lẽ đổi mới không có mục tiêu, động lực nào khác nào khác ngoài xuất phát
từ con người và vì con người. Con người vừa là chủ thể vừa là động lực vừa là mục tiêu
của sự nghiệp đổi mới. Đổi mới bắt đầu từ con người và hướng đến con người. Xuất phát
từ mục đích, yêu cầu, nội dung đổi mới, Đảng ta cũng đã nhìn nhận con người một cách
cụ thể và hiện thực hơn. Con người ở đây không phải là con người chung chung mà là con
người cụ thể, con người xã hội với tính cách là một nhân cách phát triển. Sự hoàn thiện
và phát triển của mỗi cá nhân với những nhu cầu và năng lực tự nó là nền tảng của sự phát
triển xã hội. Sự nghiệp đổi mới chỉ thành công khi từng cá nhân phát triển với tư cách là
chủ thể có ý thức. Thực tiễn đã chứng minh “không phải bộ máy, cũng không phải khâu
nào khác trong hệ thống chính trị với tầm quan trọng của nó mà chính là con người với
những phẩm chất và năng lực nhất định quyết định sức mạnh của đổi mới” Đại hội Đại
biểu toàn quốc lần thứ VI (1986), đại hội khởi xướng sự nghiệp đổi mới, đã khẳng định
vai trò quan trọng của nhân tố con người và bắt đầu bằng mệnh đề “Đổi mới tư duy”.
Trong “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và chiến
lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000”, Đảng ta đã đặt con người vào
vị trí trung tâm của sự phát triển. Đại hội VII tiếp tục khẳng định quan điểm “coi mục tiêu
và động lực của sự phát triển là vì con người, do con người, trước hết là người lao động.
Đó cũng là quan điểm về sự thống nhất giữa mục tiêu của chính sách xã hội - tất cả vì con
người”, “mục tiêu giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng
nhân tài, hình thành đội ngũ lao động có trí thức, có tay nghề, có năng lực thực hành, tự
chủ, năng động và sáng tạo, có đạo đức cách mạng, tinh thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội”
Tại Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ VIII, Đại hội đưa đất nước ta tiến vào thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Đảng ta khẳng định: “Lấy việc phát
huy nguồn lực con người là yếu tố phát triển nhanh và bền vững. Tăng trưởng kinh tế gắn
liền với cải thiện đời sống nhân dân, phát triển văn hóa giáo dục, thực hiện tiến bộ và công
bằng xã hội, bảo vệ môi trường”
Tại Đại hội lần thứ XII Đảng ta đã khẳng định: “Phát huy nhân tố con người trong mọi
lĩnh vực của đời sống xã hội; tập trung xây dựng con người về đạo đức, nhân cách, lối
sống, trí tuệ và năng lực làm việc; xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh” . Như vậy,
vấn đề con người và phát huy nhân tố con người ở Đại hội XII được tiếp cận một cách
toàn diện và hệ thống hơn. Con người được nhìn nhận trên cả hai phương diện cá nhân và
cộng đồng, đồng thời thể hiện rõ những điều kiện về vật chất và tinh thần đảm bảo cho
con người phát triển toàn diện hơn.
Như vậy, có thể khẳng định rằng suốt tiến trình lãnh đạo cách mạng của Đảng, đặc biệt
trong thời kỳ đổi mới toàn diện đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn quan tâm đến
vấn đề con người và phát huy nhân tố con người. Nhờ vậy, sau 30 năm đổi mới toàn diện
“đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây lOMoAR cPSD| 61431571
dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa”. Trong công cuộc đổi mới
hiện nay, tiềm năng sáng tạo to lớn của con người Việt Nam đã và đang được phát huy
mạnh mẽ, chúng ta hoàn toàn có thể tin tưởng rằng, với những quan điểm của chủ nghĩa
Mác – Lênin cũng như là những quan điểm và chủ trương đúng đắn của Đảng về chiến
lược phát triển con người thời kỳ đổi mới, tiềm năng sáng tạo to lớn của con người Việt
Nam đang ngày càng được khơi dậy, được nhân lên và phát triển, tạo ra nguồn lực nội
sinh quyết định sự phát triển của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Điều này càng
có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với nước ta hiện nay, khi mà nguồn lực tài chính và vật
chất còn nhiều hạn hẹp và trong thời đại kinh tế trí thức hiện nay, nguồn lực con người
với tiềm năng và năng lực sáng tạo vô cùng phong phú đang ngày càng trở thành nguồn
gốc quan trọng nhất của sự giàu có và phát triển toàn diện đất nước. lOMoAR cPSD| 61431571
2.2. Phát huy nhân tố con người trong sự nghiệp CNH-HĐH đất nước
Hiện nay, việc xây dựng con người Việt Nam theo quan điểm của Đảng, là sự chuẩn bị
tích cực, chủ động nguồn nhân lực chất lượng cao cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện
đại hoá, cho tương lai và triển vọng của đất nước trên con đường phát triển theo mục tiêu
của chủ nghĩa xã hội. Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng xã hội
chủ nghĩa trong bối cảnh toàn cầu hoá, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế không thể
không dựa vào nhân tố con người, vì vậy cần phải bồi dưỡng, phát triển con người Việt
Nam nhằm nâng cao chất lượng của nguồn nhân lực, nhân tố con người. Xây dựng con
người Việt Nam chính là xây dựng nhân cách của con người với nội dung toàn diện, từ
bồi dưỡng và phát triển thể lực, năng lực, trí tuệ với phương pháp tư duy khoa học sáng
tạo. Xây dựng con người Việt Nam hướng tới sự phát triển không chỉ chất lượng cá thể
con người mà còn là sự phát triển của cả cộng đồng dân tộc Việt Nam.
CNH - HĐH đất nước theo định hướng XHCN không thể không xuất phát từ tinh thần
nhân văn sâu sắc, không thể không phát triển con người Việt Nam toàn diện để lấy đó làm
động lực xây dựng xã hội ta thành một xã hội “công bằng, nhân ái”, “tốt đẹp và toàn diện”.
Nếu CNH - HĐH là vì mục tiêu phát triển con người toàn diện thì con người ở đây không
chỉ hiểu với tư cách là người lao động sản xuất mà còn với tư cách là công dân của xã hội,
một cá nhân trong tập thể, một thành viên trong cộng đồng dân tộc, một con người trí tuệ
trước vận mệnh quốc gia. Đó không chỉ là đội ngũ những người lao động có năng suất
cao, những nhà khoa học giỏi, các chuyên gia kỹ thuật, các nhà doanh nghiệp, những nhà
quản lý, lãnh đạo có tài, mà đó còn là hàng triệu những công dân yêu nước, ý thức được
cuộc sống đói nghèo và nguy cơ tụt hậu để cùng nhau gắn bó vì sự nghiệp chung.
2.3. Những nhiệm vụ cơ bản của xây dựng con người trong quá trình CNH-HĐH đất nước
Xây dựng con người là mục tiêu của sự nghiệp CNH - HĐH đất nước nên nó phải là kết
quả tổng hợp của tất cả những hoạt động kinh tế, chính trị, xã hội và văn hóa của chúng
ta. Song ở đây, chúng ta chi bàn đến những nhiệm vụ cơ bản trên lĩnh vực tư tưởng, văn
hóa tác động đến sự hình thành con người trong quá trình CNH - HĐH đất nước, cụ thê như sau:
2.3.1. Xây dựng tư tưởng đạo đức và lối sống
Nghị quyết hội nghị lần thứ V Ban Chấp Hành Trung Ương khóa VII về xây dựng đời
sống văn hóa, tinh thần của nhân dân ta đã chỉ rõ: "Tư tưởng, đạo đức, lối sống và đời
sống văn hóa được coi là những lĩnh vực quan trọng nhất hiện nay cần đặc biệt quan tâm".
Định hướng xây dựng con người, yêu tô tư tưởng, đạo đức lối sống là yếu tố cơ bản nhất
trong phẩm chất tinh thần của con người Việt Nam hiện nay. Trong đó, "Hệ tư tưởng là
cốt lõi của văn hóa, là định hướng cơ bàn cho đời sống tinh thần xã hội". Theo quan điểm
của Đâng Cộng sản Việt Nam đó là tư tưởng: Độc lập dân tộc gắn liền với
Chủ Nghĩa Xã Hội dựa trên nền tảng chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Nhằm mục tiêu tất cả vì con người, vì hạnh phúc và
sự phát triển phong phú tự do, toàn diện của con người trong mối quan hệ hài hòa giữa cá
nhân và xã hội, giữa cộng đồng và tự nhiên. Do vậy, nhiệm vụ đặt ra là: lOMoAR cPSD| 61431571
-Cần nghiên cứu và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào hoàn cảnh nước ta trong
giai đoạn hiện nay và trước những biến đối sâu rộng của thời đại mới. Tuyên truyền giáo
dục cho nhân dân hiểu biết đầy đủ sâu sắc chủ nghĩa Mác-Lênin, củng cố lòng tin của
nhân dân va tư tưởng Hồ Chí Minh đã lựa chọn.
- Khắc phục những biểu hiện dao động, hoài nghi về con đường đi lên CNXH; Phủ nhận
những thành quả của CNXH hiện thực trên thế giới; Phủ nhận con đường đi lên CNXH ở
nước ta; Phủ nhận lịch sử Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự mơ hồ, bàn quan mất
cảnh giác trước những luận điệu xuyên tạc, bôi nhọ chế độ ta của các thế lực thù địch.
Đồng thời đấu tranh phê phán chống lại những tư tưởng phản động, chống phá cách mạng
nước ta và sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng. III. KẾT LUẬN