Lý luận Mác – xít về mâu thuẫn biện chứng và sự vận dụng trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay | Bài tập lớn môn triết học mác - lênin
Lý luận Mác – xít về mâu thuẫn biện chứng và sự vận dụng trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay | Tiểu luận môn triết học mác - lênin được siêu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuận bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đón xem!
Môn: Triết học Mác - Lenin( LLNL 1105)
Trường: Đại học Kinh Tế Quốc Dân
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
lOMoAR cPSD| 23022540
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA MÔI TRƯỜNG, BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU VÀ ĐÔ THỊ BÀI TẬP LỚN
MÔN: TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN
Đề bài: Lý luận Mác – xít về mâu thuẫn biện chứng và sự vận dụng trong quá
trình xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay.
Họ và tên: Nguyễn Đức Quang Minh
Lớp: Kinh tế và Quản lý Đô thị 64 Mã sinh viên: 11224234 GVHD: Lê Ngọc Thông Hà Nội – 06/2023 lOMoAR cPSD| 23022540 Mục lục
Phần mở đầu…………………………………………………………………….… 3
Nội dung……………………………………………………………………………4 1. Mâu thuẫn biện
chứng…………………………………………………..4
1.1. Khái niệm mâu thuẫn biện chứng…………………………………. ….4
1.2. Đặc điểm và vai trò của phép biện chứng duy vật………………….… 4
2. Sự vận dụng trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường theo
định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay……………………………… 4
2.1. Nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay..5
2.2. Cơ sở lý luận của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN…………… 5
2.3. Những mâu thuẫn trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện
nay………………………………………………………….5
2.3.1. Mâu thuẫn giữa phát triển kinh tế thị trường với tính định hướng xã hội chủ
nghĩa……………………………………………………………………………6
2.3.2. Mâu thuẫn giữa phát triển kinh tế thị trường với sự phân hoá giàu
nghèo……………………………………………………………………………….7
2.3.3. Mâu thuẫn giữa phát triển kinh tế thị trường với giải quyết công ăn việc
làm………………………………………………………………………………….7
3. Vận dụng………………………………………………………………….8
3.1. Định hướng vận dụng…………………………………………………… 8
3.2. Thực trạng vận dụng thành công………………………………………...9
3.3. Thất bại………………………………………………………………… 10
3.4. Nguyên nhân…………………………………………………………...10 lOMoAR cPSD| 23022540 3.5. Đề xuất giải
pháp……………………………………………………….11
Kết luận…………………………………………………………………………...11 Tài liệu tham
khảo………………………………………………………………..12 Phần mở đầu
Trong bối cảnh nền kinh tế thế giới có những biến đổi phức tạp, cùng với cuộc cách
mạng khoa học và công nghiệp lần thứ ba dẫn đến xu hướng toàn cầu hóa trở nên
phổ biến và là một xu thế tất yếu chi phối mọi quốc gia trên thế giới, làn sóng cải
cách kinh tế cũng diễn ra rộng khắp trên thế giới từ các nước phát triển, nước đang
phát triển và cả các nước xã hội chủ nghĩa cũ
Tại Việt Nam, sau nhiều năm áp dụng, mô hình kinh tế kế hoạch hóa đã cho thấy
những yếu kém. Kết quả sản xuất chưa tương xứng với sức lao động và vốn đầu tư
bỏ ra; những mất cân đối của nền kinh tế quốc dân còn trầm trọng; thu nhập quốc
dân chưa bảo đảm được tiêu dùng của xã hội; thị trường, vật giá, tài chính, tiền tệ
không ổn định; đời sống của nhân dân lao động còn khó khăn. Nền kinh tế phát triển
chậm, có xu hướng giảm sút và rơi vào khủng hoảng. Trong khi nguồn viện trợ của
bên ngoài, các nguồn vốn và hàng hoá vật tư, nguyên liệu và hàng hoá tiêu dùng đã
bị cắt giảm đáng kể.
Trước những khó khăn đó, đổi mới toàn diện nền kinh tế trở thành yêu cầu cấp bách
ở nước ta. Trong quá trình đổi mới, nước ta đã đạt được những thành tựu quan
trọng: giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, kinh tế tăng trưởng khá, kết
cấu hạ tầng kinh tế - xã hội và năng lực sản xuất tăng nhiều, đời sống của các tầng
lớp nhân dân tiếp tục được cải thiện, tình hình chính trị – xã hội cơ bản ổn định, quốc
phòng an ninh được tăng cường, thế và lực của nước ta được nâng cao trên trường
quốc tế… Tuy nhiên trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa vẫn còn có nhiều mâu thuẫn cần phải giải quyết như: phát triển kinh
tế thị trường với định hướng xã hội chủ nghĩa, sự phân hoá giàu nghèo có xu hướng
gia tăng, thực hiện công bằng trong phân phối thu nhập… Đây là những vấn đề vừa
cấp bách vừa thường xuyên, lâu dài và cũng là vấn đề quan trọng nhất trong đời sống
kinh tế xã hội ở nước ta. Vì vậy, bài tiểu luận này sẽ phân tích các mâu thuẫn tồn tại
trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam và đề ra giải lOMoAR cPSD| 23022540
pháp để giải quyết những mâu thuẫn trên một cách triệt để nhằm xây dựng một nhà
nước xã hội chủ nghĩa ngày một hoàn thiện hơn. Nội dung
1. Mâu thuẫn biện chứng
1.1 Khái niệm mâu thuẫn biện chứng
Mâu thuẫn biện chứng là khái niệm dùng để chỉ sự liên hệ, tác động theo cách vừa
thống nhất, vừa đấu tranh; vừa đòi hỏi, vừa loại trừ, vừa chuyển hóa lẫn nhau giữa
các mặt đối lập. Yếu tố tạo thành mâu thuẫn biện chứng là các mặt đối lập. Yếu tố
tạo thành mâu thuẫn biện chứng là các mặt đối lập, các bộ phận, các thuộc tính… có
khuynh hướng biến đổi trái ngược nhau, nhưng cũng tồn tại khách quan trong mỗi
sự vật, hiện tượng của tự nhiên, xã hội và tư duy. Trong mỗi mâu thuẫn, các mặt đối
lập vừa thống nhất với nhau, vừa đấu tranh lẫn nhau tạo nên trạng thái ổn định tương
đối của sự vật, hiện tượng.
1.2. Đặc điểm và vai trò của phép biện chứng duy vật
Về đặc điểm, phép biện chứng duy vật hình thành từ sự thống nhất hữu cơ giữa thế
giới quan duy vật và phương pháp luận biện chứng; giữa lý luận 3 nhận thức và
lôgíc biện chứng; mỗi nguyên lý, quy luật,phạm trù của phép biện chứng đều được
luận giải trên cơ sở khoa học và được chứng minh bằng toàn bộ sự phát triển của
khoa học tự nhiên trước đó.Về vai trò, phép biện chứng duy vật đã kế thừa và phát
triển phép biện chứng từ tự phát đến tự giác, tạo ra chức năng phương pháp luận
chung nhất, giúp định hướng việc đề ra các nguyên tắc tương ứng trong hoạt động
nhận thức và thực tiễn và là một hình thức tư duy hiệu quả quan trọng nhất đối với khoa học.
Đối tượng nghiên cứu của phép biện chứng duy vật là trạng thái tồn tại có tính quy
luật phổ biến nhất của sự vật, hiện tượng trong thế giới. Vấn đề này thể hiện trong
các câu hỏi: sự vật, hiện tượng quanh ta và cả bản thân ta tồn tại trong trạng thái liên
hệ qua lại, quy định, chuyển hóa lẫn nhau và luôn vận động, phát triển hay trong
trạng thái tách rời, cô lập nhau và đứng im, không vận động, phát triển?... Để trả lời
câu hỏi trên, phép biện chứng duy vật đã đưa ra nội dung gồm hai nguyên lý, sáu lOMoAR cPSD| 23022540
cặp phạm trù và ba quy luật cơ bản. Các quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật.
2. Sự vận dụng trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường theo định
hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay
2.1. Nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần vận hành theo quy luật của thị trường có sự quản lí vĩ mô của nhà nước.
2.2. Cơ sở lý luận của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN
Đảng Cộng sản Việt Nam cho rằng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa phù hợp với quan điểm của chủ nghĩa Marx cổ điển về phát triển kinh tế và
chủ nghĩa duy vật lịch sử, cho rằng chủ nghĩa xã hội chỉ có thể xuất hiện khi điều
kiện vật chất đã được phát triển đến khi đủ để các mối quan hệ xã hội chủ nghĩa phát
triển. Mô hình thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được coi là một bước quan
trọng để đạt được sự tăng trưởng và hiện đại hóa kinh tế cần thiết trong khi cùng tồn
tại trong nền kinh tế thị trường toàn cầu và hưởng lợi từ thương mại toàn cầu. Đảng
Cộng sản Việt Nam đã tái khẳng định cam kết của mình đối với sự phát triển của nền
kinh tế xã hội chủ nghĩa với những cải cách của thời kỳ Đổi Mới.
Mô hình kinh tế này được bảo vệ từ quan điểm của chủ nghĩa Marx, trong đó tuyên
bố rằng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa chỉ có thể xuất hiện sau khi phát triển nền tảng
chủ nghĩa xã hội thông qua việc thiết lập nền kinh tế thị trường và kinh tế trao đổi
hàng hóa, và chủ nghĩa xã hội sẽ chỉ xuất hiện sau khi giai đoạn này hoàn thành vai
trò lịch sử của nó, và sẽ biến đổi theo xu hướng dần tự chuyển hóa. Những người
ủng hộ mô hình này cho rằng hệ thống kinh tế của Liên Xô và các quốc gia vệ tinh
đã cố gắng đi từ nền kinh tế tự nhiên sang nền kinh tế kế hoạch bằng các mệnh lệnh
hành chính mà không trải qua giai đoạn cần thiết để phát triển nền kinh tế thị trường.
2.3. Những mâu thuẫn trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam hiện nay
2.3.1. Mâu thuẫn giữa phát triển kinh tế thị trường với tính định hướng xã hội chủ nghĩa.
Quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta từ một nước phong kiến đi lên bỏ qua
giai đoạn tư bản chủ nghĩa nên gặp rất nhiều khó khăn và thử thách, đặc biệt là trong lOMoAR cPSD| 23022540
lĩnh vực kinh tế. Điều đó đòi hỏi nhà nước ta phải có những biện pháp phù hợp để
phát triển nền kinh tế thị trường nhưng vẫn giữ vững được định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trước đây để xây dựng nền kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa nước
ta đã xây dựng một nền kinh tế kế hoạch với hai hình thức sở hữu là sở hữu toàn dân
và sở hữu tập thể. Vì vậy đã làm kìm hãm sự phát triển nền kinh tế.
Khi đất nước ta hoàn toàn thống nhất, Đảng và Nhà nước ta đã xác định nước ta sẽ
đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa. Nhưng lúc đó chúng ta
còn nhận thức đơn giản về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội
nên chúng ta đã coi chủ nghĩa xã hội là một nhà nước của dân và do dân làm chủ,
xoá bỏ chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất nên đã thiết lập nên một nền kinh tế mà chỉ
có sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể.
Do đó đã tạo nên một nền kinh tế quản lý tập trung quan liêu bao cấp. Hậu quả là cơ
quan quản lý nhà nước làm thay chức năng quản lý sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp. Còn các doanh nghiệp vừa bị trói buộc vì không có quyền tự chủ, vừa ỷ lại
vào cấp trên vì không bị ràng buộc với kết quả sản xuất kinh doanh. Thêm vào đó
bộ máy quản lý cồng kềnh làm triệt đi tính năng động sáng tạo của các đơn vị kinh
tế, hình thành cơ chế kìm hãm sự phát triển kinh tế xã hội. Khi đó chủ yếu phát triển
kinh tế theo chiều rộng chứ không phải phát triển kinh tế theo chiều sâu. Vì vậy, tại
đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI năm 1986, Đảng ta đã đề ra phương hướng đổi
mới kinh tế là chuyển nền kinh tế nước ta sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước.
Như vậy chấp nhận nền kinh tế thị trường là chúng ta chấp nhận sự mâu thuẫn của
nó với tính định hướng xã hội chủ nghĩa vì nền kinh tế thị trường gồm có nhiều thành
phần kinh tế, nhiều hình thức sở hữu và do đó cũng có nhiều hình thức phân phối.
Sự phức tạp và đa dạng của nền kinh tế thị trường làm cho định hướng xã hội chủ
nghĩa ngày càng khó khăn và đòi hỏi phải có sự quản lý chặt chẽ của nhà nước. Mỗi
thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ có bản chất kinh tế xã hội riêng, nên bên
cạnh sự thống nhất của các thành phần kinh tế, còn có những khác biệt và mâu thuẫn
khiến cho nền kinh tế thị trường nước ta phát triển theo những phương hướng khác nhau.
Chẳng hạn các thành phần kinh tế dựa trên chế độ tư hữu tuy có vai trò quan trọng
trong việc phát triển sản xuất, giải quyết việc làm, nhưng vì dựa trên chế độ tư hữu
về tư liệu sản xuất, nên chúng không tránh khỏi tính tự phát chạy theo lợi nhuận đơn lOMoAR cPSD| 23022540
thuần, nảy sinh những hiện tượng tiêu cực làm tổn hại đến lợi ích chung của xã hội.
Vì vậy, thành phần kinh tế nhà nước phải được xây dựng và phát triển có hiệu quả
để thực hiện tốt vai trò của mình; đồng thời Nhà nước phải thực hiện tốt vai trò quản
lý vỹ mô kinh tế – xã hội để đảm bảo cho nền kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
2.3.2. Mâu thuẫn giữa phát triển kinh tế thị trường với sự phân hoá giàu nghèo.
Nền kinh tế thị trường phát triển, tạo ra nhiều của cải vật chất cho xã hội nhưng
không vì vậy mà đời sống của nhân dân được nâng cao và ổn định. Trái lại cùng với
quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thì cũng
diễn ra sự phân hoá giàu nghèo, sự phân tầng xã hội theo mức sống ngày càng tăng.
Năm 1993, theo kết quả điều tra giàu nghèo của 91732 hộ trên phạm vi cả nước, tính
chung khoảng cách chênh lệch thu nhập giữa nhóm hộ giàu và nhóm hộ nghèo là 6,2
lần. Các năm 1994, 1995, 1996, Tổng cục thống kê đã tiến hành điều tra hộ gia đình
đa mục tiêu với cỡ mẫu 4,5 vạn hộ và năm 1999 điều tra 2,5 vạn hộ đại diện cho cả
nước, 7 vùng sinh thái, khu vực thành thị, nông thôn, thì chênh lệch thu nhập giữa
nhóm hộ giàu và nhóm hộ nghèo là 6,5 lần năm 1994, 7 lần năm 1995, 7,3 lần năm
1996 và 8,9 lần năm 1999. như vậy hệ số chênh lệch thu nhập giữa nhóm hộ giàu và
hộ nghèo tăng dần qua các năm trên phạm vi cả nước cũng như trong từng vùng.
Sự phân hoá giàu nghèo ngày càng rộng sẽ lan sang các lĩnh vực khác như giáo dục,
chăm sóc sức khoẻ, nhà ở và các dịch vụ cơ bản khác… Điều đó đưa đến hệ quả
không mong muốn, làm xuất hiện những nhóm xã hội dễ bị tổn thương trong nền
kinh tế thị trường, tác động đến tư tưởng, tâm lý, niềm tin về công bằng xã hội. Vì
thế, cần tăng cường vai trò của nhà nước đối với phân phối thu nhập nhằm từng bước
thực hiện mục tiêu của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
2.3.3. Mâu thuẫn giữa phát triển kinh tế thị trường với giải quyết công ăn việc làm
Cùng với quá trình đổi mới kinh tế, chuyển nền kinh tế nước ta sang nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa các chính sách xã hội cũng được đổi mới, điều
chỉnh và sửa đổi liên tục theo hướng huy động mọi nguồn lực trong xã hội bao gồm
nhà nước, cộng đồng và người dân cùng thực hiện. Một trong các chính sách quan
trọng đó là vấn đề giải quyết công ăn việc làm. lOMoAR cPSD| 23022540
Phát triển nền kinh tế thị trường tức là đa dạng hoá các loại hình sản xuất kinh doanh,
áp dụng các thành tựu khoa học – kỹ thuật tiên tiến vào sản xuất nhằm tăng năng
suất lao động và tạo ra sản phẩm có chất lượng cao. Đồng thời phải đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế quốc dân để tạo nên sự tăng trưởng kinh tế
nhanh và bền vững của toàn bộ nền kinh tế. Như vậy khoa học – kỹ thuật ngày càng
phát triển và được ứng dụng vào quá trình sản xuất thì sự thay thế con người bằng
máy móc diễn ra càng nhanh. Cùng với sự gia tăng dân số thì số người thất nghiệp
hàng năm là hết sức trầm trọng.
Thất nghiệp là nguy cơ dẫn đến nghèo đói và các tệ nạn xã hội khác. Đối với người
lao động, thiếu hoặc không có việc làm là một nguy cơ dẫn đến thu nhập thấp hoặc
không có thu nhập. Mặt khác nó không chỉ tước mất quyền bình đẳng được làm việc
của người lao động để phát huy năng lực, mà còn vừa không có thu nhập bảo đảm
cho cuộc sống của bản thân người lao động và gia đình họ. Bởi vậy, Nhà nước phải
có chính sách giải quyết việc làm, tạo sự bình đẳng về quyền lao động và thu nhập.
Cùng với Bộ luật lao động, Chính phủ đã ban hành các nghị định và thông tư để tạo
ra cơ sở pháp lý cho quan hệ lao động trong cơ chế thị trường, thúc đẩy thị trường
lao động phát triển, tạo việc làm. Nhờ có các chính sách đúng đắn và sự tham gia
tích cực của các tổ chức và nhân dân, nên việc giải quyết việc làm đã có những
chuyển biến tích cực, số người có việc làm đã tăng lên đáng kể. Qua cải cách hành
chính và xắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước, lao động trong khu vực nhà nước giảm
từ 14,7% năm 1991 xuống còn 9% năm 2000, khu vực kinh tế tư nhân, kinh tế tập
thể thu hút khoảng 90%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài thu hút được 33 vạn lao
động. Điều đó cho thấy việc phát triển đa dạng các thành phần kinh tế đã góp phần
rất lớn vào việc giải quyết công ăn việc làm. Tuy nhiên từ năm 2001 đến nay tỷ trọng
lao động làm việc trong khu vực nhà nước có xu hướng tăng trở lại.
Bên cạnh một số kết quả đã đạt được trong vấn đề giải quyết việc làm cho người lao
động thì vẫn còn những hạn chế cần được giải quyết. Tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị
và thiếu việc làm ở nông thôn còn cao. Cơ cấu và chất lượng chuyển dịch lao động
còn chậm, tỷ lệ lao động đã qua đào tạo thấp (20%), năng suất lao động không cao.
Còn thiếu những chính sách chưa đủ mạnh để khuyến khích đầu tư, khai thác, huy
động các nguồn lực để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm. Việc thực hiện
mục tiêu quốc gia về giải quyết việc làm ở một số địa phương còn lúng túng; việc
giải ngân quỹ quốc gia về hỗ trợ việc làm còn chậm, hiệu quả một số dự án tạo việc
làm còn thấp. Đây là những tồn tại cần phải khắc phục để giải quyết triệt để vấn đề
việc làm cho người lao động. lOMoAR cPSD| 23022540
3. Vận dụng 3.1. Định hướng vận dụng
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam coi trọng vai trò của
thị trường trong việc phân phối tài nguyên và quyết định giá cả. Vì vậy, thị trường
được coi là cơ chế quan trọng để khuyến khích sự cạnh tranh và tạo điều kiện cho
các doanh nghiệp hoạt động hiệu quả. Tuy nhiên, mô hình kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam cũng nhấn mạnh vai trò của Nhà nước trong
việc điều chỉnh và quản lý thị trường, nhằm đảm bảo công bằng và sự phát triển bền vững.
Mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam đặc biệt chú
trọng vào việc xây dựng và phát triển các ngành công nghiệp cơ bản, như công
nghiệp chế biến, công nghệ thông tin, năng lượng tái tạo và du lịch. Đây là những
ngành có tiềm năng phát triển cao và có thể tạo ra nhiều việc làm cho người dân.
Đồng thời, mô hình này cũng đặt mục tiêu phát triển các ngành kinh tế mới, như
công nghệ cao, khoa học, để đáp ứng yêu cầu của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0.
Mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam cũng chú trọng
vào việc phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Đất nước đang đẩy mạnh
đổi mới giáo dục và đào tạo, nhằm cung cấp cho người dân kiến thức và kỹ năng
phù hợp với yêu cầu của thị trường lao động. Đồng thời, chính sách mô hình kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam cũng tạo điều kiện thuận lợi
cho việc khuyến khích sự sáng tạo và khởi nghiệp, nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế và xã hội.
3.2. Thực trang vận dụng thành công
Với sự ra đời của mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Việt Nam
đã có những bước tiến mới trong việc phát triển kinh tế. Mô hình này giúp cho các
doanh nghiệp có thể hoạt động trong một môi trường cạnh tranh công bằng hơn,
đồng thời đảm bảo quyền lợi của người lao động và sự phát triển bền vững.
Theo số liệu từ Tổng cục Thống kê Việt Nam, GDP của Việt Nam đã tăng trưởng
7,08% trong năm 2018, cao nhất trong vòng 10 năm qua. Đây là một trong những
chứng chỉ rõ ràng cho thấy sự thành công của mô hình kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam.
Thứ nhất, bình quân 6 tháng đầu năm của giai đoạn 2017-2020, số lượng doanh
nghiệp phá sản, giải thể, tạm ngừng hoạt động hơn 52.000 doanh nghiệp. Riêng 6
tháng đầu năm 2021, doanh nghiệp phá sản, giải thể, tạm ngừng hoạt động khoảng lOMoAR cPSD| 23022540
70.000, tuy cao hơn bình quân 6 tháng giai đoạn 2017-2020 nhưng chủ yếu là doanh
nghiệp nhỏ và siêu nhỏ có số vốn dưới 10 tỷ đồng với khả năng chống chịu thấp,
đóng góp không đáng kể vào tăng trưởng kinh tế.
Thứ hai, số lượng doanh nghiệp thành lập mới 6 tháng đầu năm nay hơn 67.000
doanh nghiệp, tăng 8,1% so với cùng kỳ, với tổng vốn đăng ký hơn 942.000 tỷ đồng,
tăng 34,3% so cùng kỳ năm trước. Vốn đầu tư nước ngoài đăng ký mới 6 tháng đầu
năm 2021 đạt con số ấn tượng với 9,55 tỷ USD, tăng 13,2% so cùng kỳ năm trước.
Vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội trong 6 tháng đầu năm đạt gần 1.170 nghìn tỷ đồng,
tăng 7,2%, trong đó vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt hơn 214.000 tỷ đồng, tăng
6,7 % so với cùng kỳ năm 2020.
Thứ ba, trong 6 tháng đầu năm 2021, các doanh nghiệp thuộc một số ngành kinh tế
mũi nhọn, đặc biệt là công nghiệp chế biến, chế tạo, tiếp tục là động lực tăng trưởng
của nền kinh tế với tốc độ tăng ấn tượng đạt 11,42%, đóng góp trên 50% vào mức
tăng chung; biểu hiện qua trị giá xuất khẩu hàng hóa (chủ yếu là hàng hóa của ngành
công nghiệp chế biến, chế tạo) 6 tháng ước tính đạt 157,63 tỷ USD, tăng 28,4%.
Ngoài ra, mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cũng giúp cho Việt
Nam có được một số thành tựu khác như: tăng trưởng kinh tế ổn định, giảm tỷ lệ
nghèo đói, tăng cường quan hệ kinh tế với các quốc gia khác trong khu vực và trên thế giới. 3.3. Thất bại
Việc áp dụng mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cũng gặp phải
nhiều thách thức như: chưa hoàn thiện hệ thống pháp luật và chính sách liên quan
đến môhình này; chưa đảm bảo được sự công bằng và minh bạch trong hoạt động
kinh doanh; còn nhiều khó khăn trong việc quản lý và giám sát các doanh nghiệp. 3.4. Nguyên nhân
Thiếu sự hiểu biết và nhận thức: Một nguyên nhân quan trọng là thiếu sự hiểu biết
và nhận thức về tầm quan trọng của việc hoàn thiện hệ thống pháp luật và chính sách
liên quan đến mô hình kinh doanh. Điều này có thể do thiếu thông tin, giáo
dục, hoặc sự chú trọng không đúng mức từ các cơ quan chính phủ và các bên liên quan khác.
Sự ảnh hưởng của lợi ích cá nhân và nhóm lợi ích: Một số cá nhân hoặc nhóm lợi
ích có thể có ảnh hưởng đến việc hoàn thiện hệ thống pháp luật và chính sách liên
quan đến mô hình kinh doanh. Có thể có sự xung đột lợi ích giữa các bên liên quan lOMoAR cPSD| 23022540
Thiếu nguồn lực và khả năng quản lý: Việc hoàn thiện hệ thống pháp luật và chính
sách liên quan đến mô hình kinh doanh đòi hỏi nguồn lực và khả năng quản lý. Tuy
nhiên, các cơ quan chính phủ có thể thiếu nguồn lực, kỹ năng và kiến thức để triển
khai và thực thi các biện pháp cần thiết. Điều này có thể dẫn đến việc chậm trễ
trong việc hoàn thiện hệ thống pháp luật và chính sách liên quan đến mô hình kinh doanh nghiệp.
Sự phức tạp của mô hình kinh doanh: Một số mô hình kinh doanh có tính phức tạp
cao, với nhiều yếu tố và quy định pháp lý liên quan. Việc hoàn thiện hệ thống pháp
luật và chính sách liên quan đến mô hình này có thể gặp khó khăn do sự phức tạp
của các yếu tố này. Các bên liên quan có thể cần thời gian để nghiên cứu, hiểu rõ.
Sự thay đổi công nghệ và môi trường kinh doanh: Môi trường kinh doanh và công
nghệ liên tục thay đổi, tạo ra những thách thức mới cho việc hoàn thiện hệ thống
pháp luật và chính sách liên quan đến mô hình kinh doanh. Các quy định hiện tại có
thể không phù hợp hoặc không đủ linh hoạt để đáp ứng các yêu cầu mới. Thiếu sự
kiểm soát và giám sát: Việc quản lý và giám sát các doanh nghiệp trong mô hình
kinh doanh cũng gặp nhiều khó khăn. Thiếu sự kiểm soát và giám sát có thể dẫn đến
việc vi phạm pháp luật và chính sách, gây ra sự không công bằng và thiếu minh bạch
trong hoạt động kinh doanh
3.5. Đề xuất giải pháp
Hoàn thiện hệ thống pháp luật và chính sách: Cần tiếp tục nghiên cứu, xem xét và
điều chỉnh các quy định pháp luật và chính sách liên quan đến mô hình kinh doanh.
Điều này bao gồm việc tạo ra các quy định rõ ràng, minh bạch và công bằng để đảm
bảo sự tuân thủ và thực hiện hiệu quả. Cần có sự tham gia của các chuyên gia,
nhà lập pháp và các bên liên quan để đảm bảo tính toàn vẹn, hiệu quả của hệ thống pháp luật.
Tăng cường giám sát và kiểm soát: Cần tăng cường quản lý và giám sát các doanh
nghiệp để đảm bảo tuân thủ các quy định pháp luật và chính sách. Điều này có thể
được thực hiện thông qua việc thành lập cơ quan giám sát độc lập, tăng cường khả
năng kiểm tra và xử lý vi phạm, xử phạt nghiêm và tạo ra các cơ chế phản hồi công khai. lOMoAR cPSD| 23022540
Tăng cường hợp tác và giao lưu quốc tế: Việc chưa hoàn thiện hệ thống pháp luật và
chính sách không chỉ ảnh hưởng đến doanh nghiệp trong nước mà còn ảnh hưởng
đến môi trường kinh doanh quốc tế. Do đó, cần tăng cường hợp tác và giao lưu với
các quốc gia khác để học hỏi kinh nghiệm và tiếp thu những giải pháp tốt nhất từ
các quốc gia đã thành công trong việc xây dựng và áp dụng hệ thống pháp luật và
chính sách liên quan đến mô hình kinh doanh. Kết luận
Tóm lại, mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đang được áp dụng
tại Việt Nam và đã mang lại những thành tựu đáng kể trong việc phát triển kinh tế.
Tuy nhiên, để đạt được sự thành công lâu dài, cần phải tiếp tục hoàn thiện hệ thống
pháp luật và chính sách liên quan đến mô hình này, đồng thời tăng cường giám sát
và quản lý các doanh nghiệp.
Tài liệu tham khảo
1. Giáo trình Triết học Mác – Lênin (Dành cho bậc đại học hệ không chuyên lýluận chính trị)
2. Cục Thống kê Việt Nam
3. Một số mâu thuẫn trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường địnhhướng
xã hội chủ nghĩa – Trần Thành
4. Giáo trình luật kinh tế