















Preview text:
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
VIỆN CNTT & KINH TẾ SỐ -----***----- TIỂU LUẬN
Đề tài: “LÝ LUẬN MÁC-XÍT VỀ MỐI QUAN HỆ
GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC VÀ SỰ VẬN DỤNG
TRONG GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ VIỆC LÀM, THẤT
NGHIỆP CỦA SINH VIÊN ĐÃ TỐT NGHIỆP”
Giảng viên hướng dẫn TS. Lê Ngọc Thông
Sinh viên thực hiện Hồ Văn Hậu
Lớp Khoa Học Máy Tính 63 Năm học 2021-2022 Hà Nội, 2022 LỜI MỞ ĐẦU
Thế giới xung quanh ta có vô vàn sự vật và hiện tượng phong phú, đa dạng.
Nhưng dù phong phú và đa dạng đến đâu thì cũng quy về hai lĩnh vực: vật chất và ý
thức. Có rất nhiều quan điểm triết học xoay quanh vấn đề về mối quan hệ giữa vật
chất và ý thức, nhưng chỉ có quan điểm triết học Mác – Lenin là có thể coi là đúng
đắn và được biết đến nhiều nhất đó là: vật chất là cái có trước, ý thức là cái có sau.
Vật chất quyết định sự ra đời của ý thức, đồng thời ý thức tác động trở lại vật chất.
Từ ngày đất nước ta có sự đổi mới về kinh tế, chuyển từ kinh tế tập trung sang
cơ chế thị trường nhiều thành phần, tự do hoạch động và hạch toán nên đất nước cũng
có nhiều thay đổi. Sự thay đổi này đã mang lại cho đất nước nhiều thành tựu về kinh
tế cũng như xã hội. Nhưng xét đến tính hai mặt của vấn đề thì cơ chế thị trường bên
cạnh những mặt được thì cũng còn những mặt chưa được: Một trong những mặt chưa
được đó là những mặt đó là tình trạng sinh viên ra trường thất nghiệp ngày càng tăng,
vấn đề xã hội mà gần như không có trong nền kinh tế bao cấp. Đất nước muốn phát
triển thì phải đi lên từ lao động, mà sinh viên là lực lượng lao động trẻ, năng động,
dồi dào và được đào tạo. Vì vậy đây là nguồn nhân lực rất quan trọng cần được sử
dụng một cách hợp lý hiệu quả.
Vấn đề này được nhìn nhận ở nhiều góc độ khác nhau vì mỗi người có một quan
điểm khác nhau. Điều này xảy ra là vì về mặt nhận thức chủ thể chưa nhìn nhận vấn
đề một cách toàn diện, tổng thể mà chỉ nhìn ở một phía nhất định. Do vậy bài tiểu
luận này em sẽ vận dụng mối quan hệ giữa vật chất và ý thức của triết học Mác -
Lênin để giải thích nguyên nhân của vấn đề và đưa ra một vài giải pháp. MỤC LỤC
PHẦN 1: MỐI QUAN HỆ GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC..............................1
1.1 Quan niệm về vật chất và ý thức...................................................................1
1.1.1 Vật chất.....................................................................................................1
1.1.2 Ý thức........................................................................................................1
1.2 Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức............................................................2
1.2.1 Quan niệm của chủ nghĩa duy tâm và duy vật siêu hình......................2
1.2.2 Quan niệm của chủ nghĩa duy vật biện chứng......................................3
PHẦN 2: VẬN DỤNG TRONG GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ VIỆC LÀM, THẤT
NGHIỆP CỦA SINH VIÊN ĐÃ TỐT NGHIỆP...................................................6
2.1 Thực trạng về sự thất nghiệp của sinh viên sau khi thất nghiệp ra trường
................................................................................................................................6
2.2 Nguyên nhân của vấn đề............................................................................6
2.2.1 Từ phía nền kinh tế- xã hội.....................................................................6 2.2.2
Về vấn đề đào tạo..................................................................................7
2.2.3. Về chính sách của nhà nước...................................................................8
2.2.4. Về phía bản thân và gia đình đối tượng được đào tạo......................9
2.3 Một số kiến nghị giải pháp............................................................................9
2.3.1. Cơ sở giải pháp........................................................................................9
2.3.2. Giải pháp..................................................................................................9
PHẦN 1: MỐI QUAN HỆ GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC
1.1 Quan niệm về vật chất và ý thức 1.1.1 Vật chất
Trong tác phẩm “Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán” V.I.
Lênin đã đưa ra định nghĩa về vật chất như sau: “Vật chất là một phạm trù triết học
dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được
cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh, và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”.
Định nghĩa vật chất của V.I. Lênin bao hàm các nội dung cơ bản sau:
Thứ nhất, vật chất là thực tại khách quan – cái tồn tại hiện thực bên ngoài ý
thức và không lệ thuộc vào ý thức.
Thứ hai, vật chất là cái khi mà tác động vào giác quan của con người thì đem lại cho con người cảm giác.
Thứ ba, vật chát là cái mà ý thức chẳng qua chỉ là sự phản ánh của nó. 1.1.2 Ý thức
a) Quan điểm của chủ nghĩa duy tâm
Chủ nghĩa duy tâm khách quan tuyệt đối hóa vai trò của lý tính, khẳng định thế
giới “ý niệm” hay “ý niệm tuyệt đối” là bản thể, sinh ra toàn bộ thế giới hiện thực.
Còn chủ nghĩa duy tâm chủ quan tuyệt đối hóa vai trò của cảm giác, coi cảm giác là
tồn tại duy nhất, “tiên thiên”, sản sinh ra thế giới vật chất.
b) Quan điểm của chủ nghĩa duy vật siêu hình
Đối lập với các quan niệm của chủ nghĩa duy tâm, các nhà duy vật siêu hình phủ
nhận tính chất siêu tự nhiên của ý thức, tinh thần; họ đồng nhất ý thức với vật chất,
coi ý thức là một dạng vật chất đặc biệt do vật chất sản sinh ra.
c) Quan điểm của chủ nghĩ duy vật biện chứng
Các Mác phê phán chủ nghĩa duy tâm khách quan cho rằng “ý niệm” có trước,
sáng tạo ra thế giới, đồng thời khẳng định quan điểm duy vất biện chứng về ý thức:
“Ý niệm chẳng qua chỉ là vật chất được đem chuyển vào trong đầu óc con người và
cải biến đi ở trong đó.” 1
Xét về nguồn gốc của ý thức, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin chia làm 2 loại:
Nguồn gốc tự nhiên: ý thức chỉ là thuộc tính của vật chất; nhưng không phải
của mọi dạng vật chất, mà là thuộc tính của một dạng vật chất sống có tổ chức cao
nhất là bộ óc con người. Cùng với thế giới khách quan, cả hai chính là điều kiện cần
cho sự hình thành của ý thức.
Nguồn gốc xã hội: lao động – hoạt động vật chất và ngôn ngữ - tín hiệu vật chất
ở con người là điều kiện đủ và yếu tốt quyết định đến sự hình thành của ý thức.
Ý thức là tính chủ quan của thế giới khách quan. Bản chất của ý thức là sự phản
ánh hiện thực khách quan vào cuộc sống con người một cách năng động, sáng tạo.
1.2 Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
Mối quan hệ giữa vật chât và ý thức là “Vấn đề cơ bản của mọi vấn đề triết học,
đặc biệt là của triết học hiện đại”. Tùy theo lập trường thế giới quan khác nhau khi
giải quyết mối quan hệ giữa vật chất và ý thức mà hình thành hai đường lối cơ bản
trong triết học là chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật.
1.2.1 Quan niệm của chủ nghĩa duy tâm và duy vật siêu hình
a) Chủ nghĩa duy tâm Ý thức Phủ định vai trò Vật chất của vật chất
Đối với chủ nghĩa duy tâm, ý thức, tinh thần vốn có của người đã bị trừu tượng
hóa, tách khỏi con người hiện thực thành một lực lượng thần bí, tiên thiên. Họ coi ý
thức là tồn tại duy nhất, tuyệt đối, là tính thứ nhất từ đó sinh ra tất cả; còn thế giới vật
chất chỉ là bản sao, biểu hiện khác của ý thức tinh thần, là tính thứ hai do ý thức tinh
thần sinh ra. Trên thực tế chủ nghĩa duy tâm là cơ sở lý luận của tôn giáo, chủ nghĩa
ngu dân. Mọi con đường mà chủ nghĩa duy tâm mở ra đều đẫn con người đến với
thần học, với “đường sáng thế”. Trong thực tiễn, người duy tâm phủ nhận tính khách
quan, cường điệu vai trò nhân tố chủ quan, duy ý chí, hành động bất chấp điều kiện, quy luật khách quan.
b) Chủ nghĩa duy vật siêu hình 2 Phủ định vai trò Vật chất Ý thức của ý thức
Chủ nghĩa duy vật siêu hình tuyệt đối hóa yếu tố vật chất, chỉ nhấn mạnh một
chiều vai trò của vật chất sinh ra ý thức, quyết định ý thức, phụ nhận tính độc lập
tương đối của ý thức, không thấy được tính năng động, sáng tạo, vai trò to lớn của ý
thức trong hoạt động thực tiễn cỉa trạo hiện thực khách quan. Do vậy, họ đã phạm
nhiều sai lầm có tính nguyên tắc bởi thái độ “khách quan chủ nghĩa”, thụ động, ỷ lại,
trông chờ không đem lại hiệu quả trong hoạt động thực tiễn.
1.2.2 Quan niệm của chủ nghĩa duy vật biện chứng
Theo quan điểm triết học Mác – Lênin, vật chất và ý thức có mối quan hệ biện
chứng, trong đó vật chất quyết định ý thức, còn ý thức tác động tich cực trở lại vật chất.
a) Vật chất quyết định ý thức
Vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức được thể hiện trên một số khía cạnh:
Thứ nhất, vật chất quyết định nguồn gốc của ý thức.
Con người do giới tự nhiên, vật chất sinh ra, cho nên lẽ tất nhiên, ý thức – một
thuộc tính của bộ phận con người – cũng do giới tự nhiên, vật chất sinh ra. Các thành
tựu của khoa học tự nhiên hiện đại đã chứng minh được rằng giới tự nhiên có trước
con người; vật chất là cái có trước, còn ý thức là cái có sau. Vật chất tồn tại khách
quan, độc lập với ý thức và là nguồn gốc sinh ra ý thức. Bộ óc con người là một dạng
vật chất có tổ chức cao nhất, là cơ quan phản ánh để hình thành ý thức. Ý thức tồn tại
phụ thuộc vào hoạt động thần kinh của bộ não trong quá trình phản ánh hiện thực
khách quan. Sự vận động của thế giới vật chất là yếu tố quyết định sự ra đời của cái
vật chất có tư duy là bộ óc con người.
Thứ hai, vật chất quyết định nội dung của ý thức.
Ý thức dưới bất kỳ hình thức nào, suy cho cùng đều là phản ánh hiện thực
khách quan. Ý thức mà trong nội dung của nó chẳng qua là kết quả của sự phản ánh
hiện thực khách quan vào trong đầu óc con người. Hay nói cách khác, có thế giới
hiện thực vận động, phát triển theo những quy luật khách quan của nó, được phản ánh
vào ý thức mới có nội dung của ý thức. 3
Ý thức chỉ là hình ảnh của thế giới khách quan. Sự phát triển của hoạt động
thực tiễn là động lực mạnh mẽ nhất quyết định tính phong phú và độ sâu sắc của nội
dung của tư duy, ý thức con người qua các thế hệ, qua các thời đại.
Thứ ba, vật cht quyết định bản chất của ý thức.
Phản ánh và sáng tạo là hai thuộc tính không tách rời trong bản chất của ý thức.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng xem xét thế giới vật chật là thế giới của con người hoạt
động thực tiễn. Chính thực tiễn là hoạt động vât chất có tính cải biến thế giới của con
người – là cơ sở để hình thành, phát triển ý thức, trong đó ý thức của con người vừa
phản ánh, vừa sáng tạo, phản ánh để sáng tạo và sáng tạo trong phản ánh.
Thứ tư, vật chất quyết định sự vận động, phát triển của ý thức.
Mọi sự tồn tại, phát triển của ý thức đều gắn liền với quá trình biến đổi của vật
chất; vật chất thay đổi thì sớm hay muộn, ý thức cũng phải thay đổi theo. Khi sản
xuất xã hội xuất hiện chế độ tư hữu, ý thức chính trị, pháp quyền cũng dần thay thế
cho ý thức quần cư, cộng đồng thời nguyên thuỷ. Trong đời sống xã hội, vai trò quyết
định của vật chất đối với ý thức được biểu hiện ở vai trò của kinh tế với xã hội chính
trị, đời sống vật chất đối với đời sống tinh thần, tồn tại xã hội đối với ý thức xã hội.
Vật chất và ý thức là hai hiện tượng đối lập nhau về bản chất, nhưng về mặt
nhận thức luận, cần quán triện sâu sắc tư tưởng biện chứng của V.I. Lênin rằng “sự
đối lập giữa vật chất và ý thức chỉ có ý nghĩa tuyệt đối trong những phạm vi hết sức
hạn chế: trong trường hợp này chỉ giới hạn trong vấn đề nhận thức luận cơ bản là
thừa nhận cái gì có trước và cái gì có sau. Ngoài giới hạn đó thì không còn nghi ngờ
gì nữa rằng sự đối lập đó là tương đối”. Ở đây, tính tương đối của sự đối lập giữa vật
chất và ý thức thể hiện qua mối quan hệ giữa thẹc thể vật chất đặc biệt – bộ óc con
người và thuộc tính của chính nó.
b) Ý thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại vật chất
Thứ nhất, tính độc lập tương đối của ý thức thể hiện ở chỗ ý thức là sự phản
ánh thế giưới vật chất bào trong đầu óc con người, do vật chất sinh ra, nhưng khi dã
ra đời thì ý thức có “đời sống” riêng, có quy luật vận động, phát triển riêng, không lệ
thuộc một cách máy móc vào vật chất. Ý thức một khi ra đồi thì có tính độc lập tương
đối, tác động trở lại thế giới vật chất. Ý thức có thể thay đổi nhanh, chậm, song hành
với hiện thực, nhưng nhìn chung nó thường thay đổi chậm so với sự biến đối của thế giới vật chất. 4
Thứ hai, sự tác động của ý thức đối với vật chất phải thông qua ý hoạt động
thực tiễn của con người. Nhờ hoạt động thực tiễn, ý thức có thể làm biến đổi những
điều kiện, hoàn cảnh vật chất, thậm chí còn tạo ra “thiên nhiên thứ hai” phục vụ cho
cuộc sống của con người. Còn tự bản thân ý thức thì không thể biến đổi được hiện
thực. Con người dựa trên những tri thức về thế giới khách quan, hiểu biết về những
quy luật khách quan, từ đó đề ra mục tiêu, phương hướng, biện pháp và ý chí quyết
tâm để thực hiện thắng lợi mục tiêu đã xác định.
Thứ ba, vai trò của ý thức thể hiện ở chỗ nó chỉ đạo hoạt động, hành động của
con người; nó có thể quyết định làm cho hoạt động của con người đúng hay sai, thành
công hay thất bại. Khi phản ánh đúng hiện thực, ý thức có thể dự báo, tiên đóan một
cách chính xác cho hiện thực, có thể hình thành nên những lý luận, định hướng đúng
đắn. Ngược lại, ý thức có thể tác động tiêu cực khi nó phản ánh sai, xuyên tạc hiện thực.
Thứ tư, xã hội ngày càng phát triển thì bai trò của ý thức ngày càng to lớn, nhất
là trong thời đại của thông tin, kinh tế tri thức, thời đại của các cuộc cách mạng khoa
học và công nghiệp hiện đại, khi mà tri thức khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất
trực tiếp. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, vai trò của tri thức khoa học, của tư tưởng
chính trị, tư tưởng nhân văn là hết sức quan trọng.
Xét đến cùng thì vật chất quyết định ý thức, nhưng ý thính có tính độc lập
tương đối, tác động trở lại cái vật chất trong một thời hạn nhất định.
c) Ý nghĩa phương pháp luận
Từ mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong triết học Mác – Lênin, rút ra
nguyên tắc phương pháp luận là tôn trọng tính khách quan kết hợp phát huy tính năng
động chù quan. Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn, mọi chủ trương, đường lối,
kế hoạch, mục tiêu, chúng ta đều phải xuất phát từ thực tế khách quan, từ những điều
kiện, tiền đề vật chất hiện có. Phải phát huy tính năng động, sáng tạo của ý thức, phát
huy vai trò nhân tố con người, chống tư tưởng, thái độ thụ động, ỷ lại, ngồi chờ, bảo
thủ, trì trệ, thiếu tính sáng tạo và phải coi trọng vai trò của ý thức.
Để thực hiện nguyên tắc tôn trọng tính khách quan kết hợp phát huy tính năng
động, chủ quan, chúng ta còn phải nhận thức và giải quyết đúng đắn các quan hệ xã
hội; phải có động cơ trong sáng, thái độ thật sự khách quan, khoa học, không vụ lợi
trong nhận thức và hành động của mình. 5
PHẦN 2: VẬN DỤNG TRONG GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ VIỆC LÀM, THẤT
NGHIỆP CỦA SINH VIÊN ĐÃ TỐT NGHIỆP
2.1 Thực trạng về sự thất nghiệp của sinh viên sau khi thất nghiệp ra trường
Từ khi đất nước ta có chính sách mở cửa giao lưu hợp tác với các nước trong
khu vực cũng như các nước trên thế giới, kinh tế chuyển sang nền kinh tế nhiều thành
phần tự do cạnh tranh phát triển đã phát huy rất nhiều mặt tích cực. Mặt tích cực đáng
chú ý là sự cố gắng vươn lên của lớp thanh niên mới để có thể đáp ứng được yêu cầu,
đòi hỏi của công việc. Sự mở rộng phát triển kinh tế thị trường thực sự đã mang lại
những cơ hội việc làm cho sinh viên có khả năng, có năng lực, linhhoạt. Nhưng
không phải mọi sinh viên ra trường đều có việc làm và đây là một vấn đề đang được
quan tâm của xã hội. Căn cứ vào điều tra mới nhất của bộ GD- ĐT thì “năm 2003 cả
nước có 157 trường đại học, cao đẳng với gần 122 000 sinh viên chính quy tốt nghiệp
thì đến năm học 20019-2020 đã có 237 trường đại học, cao đẳng với gần 270 000
sinh viên ra trường’’(nguồn tin trên mạng Internet). Kết quả cho thấy tỷ lệ chung của
sinh viên có việc làm sau khi ra trường hiện nay là ~80%. Nếu tỷ lệ có việc làm của
sinh viên tốt nghiệp loại trung bình chỉ là 77,8% thì tỷ lệ có việc làm của sinh viên tốt
nghiệp loại xuất sắc là 94,5%. Chỉ có 1,8% sinh viên xuất sắc hiện thất nghiệp. Phân
tích tình trạng việc làm của sinh viên theo kết quả xếp loại tốt nghiệp cho thấy, tỷ lệ
có việc làm của sinh viên tốt nghiệp tăng dần theo thứ hạng. Hơn 93% sinh viên sau
khi tốt nghiệp đã có việc làm chủ yếu là làm công ăn lương. Như vậy, tỷ lệ sinh viên
tự tạo việc làm sau khi tốt nghiệp đại học còn rất thấp.
Bên cạnh đó, tỷ lệ sinh viên thay đổi việc làm sau khi tốt nghiệp là tương đối
cao, đặc biệt là nhóm sinh viên nữ, dân tộc thiểu số và đối tượng thuộc diện nghèo.
Trong số sinh viên đang có việc làm, tỷ lệ sinh viên đã thay đổi công việc chiếm hơn
40%. Tỷ lệ này phản ánh sự lựa chọn công việc của sinh viên sau khi tốt nghiệp ngày
càng linh hoạt. Sinh viên thuộc hộ gia đình nghèo, cận nghèo cũng có tỷ lệ thay đổi
việc làm cao hơn đáng kể so với sinh viên không thuộc hộ nghèo. Kết quả này cho
thấy sinh viên thuộc nhóm yếu thế thường sẵn sàng làm các công việc khác nhau và
luôn tìm các cơ hội công việc tốt hơn.
2.2 Nguyên nhân của vấn đề
2.2.1 Từ phía nền kinh tế- xã hội
Trong những năm nước ta còn thực hiện chính sách bao cấp thì không có hiện
tượng sinh viên ra trường thất nghiệp. Phần lớn là vì ngày đó sinh viên còn ít số 6
lượng các trường đại học không nhiều nhưng chủ yếu là sinh viên sau khi tốt nghiệp
thường được nhà nước phân công tác.
Nhưng từ khi nhà nước có chính sách mở cửa kinh tế nhà nước chuyển sang
kinh tế thị trường, các doanh nghiệp phải tự lo cho mình, tự tính toán “lời ăn, lỗ chịu”
không có sự bao cấp của nhà nước thì vấn đề việc làm thực sự trở nên bức bách.
Cũng từ đây cơ cấu bộ máy trong các cơ quan gọn nhẹ hơn nhiều do số lao động
tuyển vào được cân nhắc kỹ lưỡng theo khối lượng và mức độ đòi hỏi của công việc.
Ngày nay, chúng ta có thể thấy một hiện tượng là sinh viên tốt nghiệp ra trường
chỉ muốn trụ lại thành phố để làm việc kể cả những sinh viên xuất thân và lớn lên từ
những miền quê. Họ chấp nhận ở lại thành phố để làm việc dù là việc không đúng với
nghành được đào tạo hoặc có thu nhập. Như vậy một số nơi như hải đảo, vùng sâu,
vùng xa thì vẫn thiếu trầm trọng nguồn nhân lực trong khi thành phố vẫn phải đương
đầu với sức ép của tình trạng thất nghiệp.
Đến đây ta có thể thấy được tính hai mặt của nền kinh tế thị trường. Một mặt nó
tạo điều kiện cho mọi thành phần kinh tế có khả năng phát triển mạnh hơn, một mặt
nó cũng tạo ra sự cạnh tranh và chính sự cạnh tranh cũng là động lực thúc đẩy kinh tế
phát triển, đi lên. Hơn nữa kinh tế thị trường sẽ làm cho mọi người phải cố gắng nỗ
lực để trang bị cho mình vốn kiến thức đầy đủ thì mới có thể tìm được việc làm.
Nhưng mặt khác nền kinh tế thị trường cũng có những tác động không lớn đến vấn đề
xã hội là việc gây ra sự thiếu thừa “giả” về lực lượng lao động, mất cân đối về nguồn
lao động và cũng làm nảy sinh một số vấn đề tiêu cực trong việc làm. 2.2.2
Về vấn đề đào tạo
Tình trạng sinh viên ra trường không có việc làm một phần cũng có nguyên
nhân ở phía đào tạo. Nhiều chương trình đào tạo quá cũ kỹ, lạc hậu từ nội dung đến
phương pháp giảng dạy. Đôi khi được học là học chay còn vào thực tiễn thì như mới
hoàn toàn vì học nhưng không có thực hành, không có trang thiết bị phục vụ cho việc
giảng dạy, học tập, vì vậy không phát huy được khả năng sáng tạo của sinh viên. Tại
một số nước có nền giáo dục hiện đại, sinh viên sau khi học hết năm thứ 3 thì có thể
làm việc được tại một cơ quan theo một ngành nghề đã được đào tạo. Phần đông
ngoài các chương trình đào tạo ở trường đại học, họ còn phải học thêm các khoá học
ở ngoài như ngoại ngữ, tin học để có thể đáp ứng được yêu cầu của công việc.
a) Cơ cấu đào tạo 7
Có thể nói cơ cấu đào tạo của nước ta còn quá lạc hậu và chưa bám sát thực tế.
Trong khi một đất nước đang phát triển như Việt Nam rất cần đến đội ngũ kỹ sư về kỹ
thuật, công nghệ, xây dựng cơ bản thì nguồn cung cấp nhân lực từ phía đào tạo lại
chưa đáp ứng được hết nhu cầu. Trong khi đó sinh viên trong khối kinh tế thì đang
quá dư thừa “90% sinh viên khối kinh tế ra trường không có việc làm” là một phần
do bên đào tạo nắm được nhu cầu thực tế về nguồn nhân lực, chưa thông tin đầy đủ
cho sinh viên về việc chọn nhóm ngành học, nhiều sinh viên chọn trường chỉ theo
cảm tính chứ không tính đến mục đích phục vụ tương lai và khả năng xin việc làm sau này.
b) Chất lượng đào tạo
Hiện nay chất lượng đào tạo và thực tế còn có khoảng cách quá xa. Những gì
sinh viên được học phần lớn chưa đáp ứng được yêu cầu của công việc. Nguyên nhân
một phần là do học không đi đôi với hành, thiếu cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ
cho việc giảng dậy và học tập hoặc nếu có thì quá xa so với thực tế công việc. Phần
khác là do xã hội ngày càng phát triển với tốc độ cao và vì vậy sản xuất cũng thay đổi
theo. Phương thức sản xuất thay đổi trong khi đó đào tạo không bắt kịp được những
thay đổi này vì vậy nó thường bị tụt hậu. Khi không có sự cân bằng, đồng bộ giữa
đào tạo và thực tế công việc đã làm cho sinh viên sau khi ra trường không đủ khả
năng phục vụ cho công việc. Họ cảm thấy rất lúng túng trước những yêu cầu của đơn vị sử dụng lao động.
Chính vì sự phát triển của khoa học - kỹ thuật ngày càng cao nên công việccũng
đòi hỏi đội ngũ người lao động phải có trình độ, năng lực. Điều này đòi hỏi ngành
GD - ĐT phải phương pháp đào tạo mới, cải thiện chất lượng đào tạo để có thể bắt
kịp được sự phát triển của thời đại.
2.2.3. Về chính sách của nhà nước
Trong những năm gần đây, nhà nước cũng có rất nhiều quan tâm đến sự nghiệp
đào tạo nói chung và đào tạo đại học nói riêng cùng với những khuyến khích để sử
dụng sinh viên sau khi tốt nghiệp, ví dụ như sinh viên thuộc khối sư phạm được miễn
học phí. Nhưng về cơ bản thì nhà nước vẫn chưa có chính sách hợp lý để khuyến
khích cũng như tạo điều kiện cho sinh viên sau khi ra trường yên tâm công tác và
phát huy hết khả năng, chẳng hạn như chính sách đối với những người về công tác tại
những vùng sâu, vùng xa, hải đảo chưa hợp lý cho lắm nên không thu hút được sinh
viên sau khi ra trường tự nguyện về đây công tác.Vậy nên chăng nhà nước cần có 8
chính sách hợp cũng như thoả đáng hơn nữa cả về mặt vật chất cũng như tinh thần để
sinh viên sau khi ra trường sẵn sàng có công tác ở bất cứ nơi đâu để góp phần vào sự
nghiệp công nghiệp hoá và đổi mới đất nước . 2.2.4.
Về phía bản thân và gia đình đối tượng được đào tạo
Bên cạnh những nguyên nhân được nêu ở trên thì nguyên nhân từ phía bản thân
sinh viên cũng là một yếu tố gây ra tình trạng sinh viên thất nghiệp sau khi ra trường.
Chúng ta có thể nhận thấy một thực tế rằng hiện nay sinh viên ra trường đều muốn
bám trụ lại thành phố để làm việc dù công việc đó không đúng ngành được đào tạo
hoặc thậm chí là công việc phổ thông miễn sao có thu nhập. Nhóm sinh viên xuất
thân từ các tỉnh lẻ ra thành phố học cũng không muốn trở về quê hương để phục vụ,
điều này đang làm cho các thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh đang
quá tải về dân số cũng như sức ép về nhu cầu việc làm. Tình hình này đã và đang gây
ra những ảnh hưởng xấu đến chủ trương phát triển kinh tế - xã hội ở miền núi, nông
thôn của Đảng và nhà nước.
2.3 Một số kiến nghị giải pháp
2.3.1. Cơ sở giải pháp
Qua việc phân tích những nguyên nhân gây ra hiện tượng sinh viên thất nghiệp
sau khi ra trường bằng việc vận dụng “mối quan hệ giữa vật chất và ý thức của triết
học Mác-Lênin” phần nào cũng cho ta thấy được góc cạnh của vấn đề mặc dù phần
phân tích ở trên chỉ là rất khái quát. Chúng ta đều nhận thấy rằng tình trạng thất
nghiệp ở sinh viên sau khi ra trường không phải do lỗi toàn bộ của bất cứ ban ngành
nào mà nó do nhiều yếu tố tác động đến, nguyên nhân khách quan như tình hình kinh
tế xã hội, nguyên nhân chủ quan là về hệ thống giáo dục đào tạo, chính sách sử dụng
và đãi ngộ lao động chưa hợp lý cũng như tâm lý chủ quan về phía bản thân sinh
viên. Nhưng dù nói gì đi nữa thì thất nghiệp ngày càng tăng sẽ ảnh hưởng không tốt
đến tình hình phát triển kinh tế xã hội của đất nước nhất là Việt Nam, một nước đang
phát triển với dân số trẻ rất cần mọi tài năng, nỗ lực và sự đóng góp của lớp trẻ,
những chủ nhân tương lai của đất nước. Vì vậy để giải quyết vấn đề này thì không
phải một sớm một chiều mà cần phải có thời gian và sự kết hợp từ nhiều phía. 2.3.2. Giải pháp
a) Phát triển cả về chiều sâu lẫn chiều rộng các ngành nghề sản xuất -kinh doanh 9
Để tạo thêm được công ăn việc làm thì không còn cách nào khác là phải mở
rộng các ngành nghề sản xuất - kinh doanh. Muốn làm được điều này thì nhà nước
cần có những chính sách nhằm đẩy mạnh, khuyến khích các thành phần kinh tế tham
gia vào đầu tư, phát triển mở rộng sản xuất cũng như tạo ra các điều kiệnthuận lợi về
môi trường để họ có thể hoạt động thuận tiện hơn. Bên cạnh đó nhà nước cũng phải là
người đi đầu, chủ trương trong việc thực hiện các chương trìnhquốc gia về khoa học -
kỹ thuật cũng như đưa nó vào thực tiễn sản xuất nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm,
tăng năng suất lao động, nâng cao điều kiện sống cho người lao động. Nếu các chính
sách này được đưa vào thực tiễn thì người lao động sẽ phải cố gắng hơn để nâng cao
trình độ chuyên môn cho công việc và đơn vị sửdụng cũng sẽ có điều kiện để thu hút
nhiều hơn lực lượng lao động được đào tạo với chất lượng cao.
b) Về phía ngành giáo dục - đào tạo
Đào tạo chính là nền tảng, là cơ sở để cho “ra lò” những lao động có kĩ năng, có
tay nghề, vì vậy đào tạo cần phải đổi mới nâng cao chất lượng để làm sao khi tốt
nghiệp sinh viên có khả năng đáp ứng những nhu cầu ngày một cao của công việc.
Bên cạnh đó nhà nước và bộ giáo dục cũng cần có sự phối hợp để tính toán để cân đối
tỷ lệ hợp lý giữa các ngành nghề đào tạo, đáp ứng được nhu cầu của thực tế, tránh
hiện tượng thừa thì vẫn cứ thừa còn thiếu thì vẫn cứ thiếu. Ngành đào tạo cũng có
mối liên hệ với thị trường lao động để luôn cập nhập được xu hướng của nhu cầu để
đào tạo cho phù hợp cả về chất lượng cũng như số lượng.
c) Về phía chính sách của nhà nước
Nhà nước là người quản lý ở tầm vĩ mô do vậy nhà nước cần đưa ra các chính
sách hợp lý để thu hút và tạo điều kiện cho sinh viên vào học các ngành nghề kỹ thuật
nghành mà hiện nay một đất nước đang trên con đường công nghiệp hoá hiện đại hoá
rất cần đến. Cùng với việc vào học nhà nước cũng nên có chính sách quan tâm đến
những người làm việc, công tác tại những vùng xa, vùng khó khăn để động viên họ cả
về mặt vật chất cũng như tinh thần để họ có thể yên tâm đem hết tâm huyết và năng
lực ra để phục vụ đất nước.
Nhà nước cũng cần tạo cơ hội để các trường đào tạo có điều kiện tiếp cậnđược
với thị trường lao động để biết đươc tình hình thực tế cũng những thay đổi về khoa
học - công nghệ, các loại máy móc hiện đại để từ đó có thể cập nhập cho sinh viên
một cách liên tục và kịp thời những sự thay đổi đó. 10
d) Về phía sinh viên
Hiện nay rất nhiều đói tượng chọn trường đại học nhưng không có sự định
hướng cho khả năng của đầu ra sau này mà chỉ chọn như một cái “mốt” với những
nghành đang “nổi” như tài chính, ngân hàng, ưu chính viễn thông… Đây là một tư
tưởng tiêu cực có ảnh hưởng không tốt tới quá trình phát triển kinh tế - xã hội gây ra
tình trạng thừa thiếu bất hợp lý. Và lại tâm lý hiện nay của nhiều bậc phụ huynh là
bắt buộc phải vào được đại học. Phải nói rằng có được tấm bằng đại học để ra nghề là
một điều rất cần và quan trọng. Nhưng chúng ta cũng cần biết rằng đại học chưa phải
là con đường duy nhất để lập nghiệp. Vì vậy bản thân đối tượng được đào tạo cũng
như các bậc phụ huynh cần phải đánh giá lại cách nhìn nhận làm sao để chọn cho con
em mình và hoàn cảnh gia đình mà vẫn có ích cho xã hội. Những sinh viên ra trường
cũng cần có cách nhìn nhận đúng đắn hơn trong việc chọn cho mình một nơi làm việc. 11 TÀI LIỆU THAM KHẢO
Bộ Giáo dục và Đào tạo (2021), Giáo dục Đại học năm 2019-2020,
10/05/2022, từ nguồn https://moet.gov.vn/thong-ke/Pages/thong-ko-giao-duc- dai-hoc.aspx?ItemID=7389
Nghiêm Huê (2021), Phần
lớn sinh viên tốt nghiệp có việc làm thu nhập từ 7
triệu đồng trở lên, 10/05/2022, từ https://tienphong.vn/phan-lon-sinh-vien-tot-
nghiep-co-viec-lam-thu-nhap-tu-7-trieu-dong-tro-len-post1380817.tpo
Trịnh Thị Định, Nguyễn Huyền Anh Khảo (2018),
sát chất lượng sinh viên
thất nghiệp tại Việt Nam: Một số suy nghĩ về thực tiễn và giải pháp, 09/05/2022, nguồn
https://www.vnseameo.org/bblam/forum/EMD/Trinh_Thi_Dinh_VN.pdf
Thân Trung Dũng (2015), Việc làm của sinh viên sau khi tốt nghiệp - một vấn
đề xã hội nan giải, 09/05/2022, nguồn http://tadri.org/
Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo trình triết học Mác- Lênin (Sử dụngtrong các
trường đại học- hệ chính quy không chuyên lý luận chính trị). Hà Nội 2018 -2019
Giáo trình những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác- Lênin (Dành cho sinh
viên đại học, cao đẳng khối không chuyên ngành Mác- Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh). Nxb. Chính trị quốc gia sự thật. 13