






















Preview text:
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Khoa Đầu tư *** BÀI TIỂU LUẬN
TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN Đề tài số 10
Lý luận Mác – xít về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức và
sự vận dụng trong giải quyết vấn đề việc làm, thất nghiệp của
sinh viên đã tốt nghiệp.
Họ và tên: Bùi Bảo Linh Mã SV: 11213052
Lớp: Triết học Mác - Lênin(221)_07 Năm: 2021-2022
Giáo viên hướng dẫn: TS. Lê Ngọc Thông
Hà Nội, tháng 5 năm 2022 MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU.......................................................................................................................... 1
NỘI DUNG.............................................................................................................................. 2
I – Khái quát về vật chất và ý thức:.......................................................................................2
1. Khái quát về vật chất:...................................................................................................2
2. Khái quát về ý thức:......................................................................................................4
II – Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức:............................................................5
1. Vật chất quyết định ý thức:.............................................................................5
2. Sự tác động trở lại của vật chất đối với ý thức:.......................................7
III - Ý nghĩa của phương pháp luận:......................................................................8
1. Quan điểm khách quan:....................................................................................8
2. Phát huy tính năng động chủ quan của ý thức:.......................................9
3. Phòng chống, khắc phục bệnh trì trệ, thụ động đồng thời khắc
phục bệnh chủ quan duy ý chí:...........................................................................9
IV – Vận dụng mối quan hệ giữa vật chất và ý thức vào giải quyết vấn
đề việc làm, thất nghiệp của sinh viên đã tốt nghiệp:................................10
1. Thực trạng thất nghiệp của sinh viên đã tốt nghiệp:.....................................................10
2. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng thất nghiệp của sinh viên:..........................................11
3. Giải pháp của vấn đề:..................................................................................................13
KẾT LUẬN........................................................................................................................... 16
TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................................................................17 LỜI MỞ ĐẦU
Lịch sử triết học từ thời kì cổ đại đến nay luôn là cuộc đấu tranh không
ngừng nghỉ giữa các trường phái triết học. Đó là cuộc đấu tranh giữa các hệ tư
tưởng, các khuynh hướng khác nhau trong việc giải quyết các vấn đề cơ bản của
triết học. Đây cũng là cơ sở hình thành nên hai trường phát triết học khác nhau:
chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm. Chủ nghĩa duy vật triết học cho rằng
bản chất thế giới là vật chất; vật chất là tính thứ nhất, ý thức là tính thứ hai; vật
chất là cái có trước và quyết định ý thức. Chủ nghĩa duy tâm triết học cho rằng
bản chất thế giới là ý thức, ý thức là tính thứ nhất, vật chất là tính thứ hai; ý thức
quyết định vật chất. Tuy nhiên, quan điểm chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy
vật trước chủ nghĩa Mác-Lênin đã bộc lộ những hạn chế nhất định qua việc tuyệt
đối hóa vai trò của vật chất hay ý thức, thể hiện cái nhìn phiến diện và không
toàn diện của vấn đề. Những hạn chế này đã được các nhà triết học của chủ biện
chứng của mình. Từ việc nghiên cứu mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý
thức, ta thấy được sự tác động qua lại của vật chất và ý thức: vật chất sinh ra và
quyết định ý thức, còn ý thức cũng tồn tại tương đối độc lập và có tác động trở
lại vật chất. Quan điểm này đã thể hiện một cách toàn diện, đúng đắn hơn và
giúp ta phần nào hiểu rõ hơn về các vấn đề cơ bản trong triết học. Trên cơ sở các
vấn đề cơ bản đó, ta mới có thể đi sâu vào giải quyết các vấn đề khác.
Với mong muốn tìm hiểu và nghiên cứu sâu hơn về vấn đề này, em quyết
định chọn đề tài “Lý luận Mác – xít về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
và sự vận dụng trong giải quyết vấn đề việc làm, thất nghiệp của sinh viên đã tốt nghiệp”. 1 NỘI DUNG
I – Khái quát về vật chất và ý thức:
1. Khái quát về vật chất:
1.1: Khái niệm về vật chất:
- Quan niệm trước Mác về “vật chất”:
+ Chủ nghĩa duy vật trước Mác có rất nhiều định nghĩa về vật chất, trong đó
nổi lên các định nghĩa điển hình sau đây: Phạm trù vật chất là nền tảng của thế
giới duy vật xác lập trên cơ sở thừa nhận bản chất của thế giới là duy vật. Giống
như mọi phạm trù khác, phạm trù vật chất có quá trình phát sinh phát triển gắn
liền hoạt động thực tiễn của con người trong giới tự nhiên.
+ Thời cổ đại các nhà triết học duy vật đã đồng nhất vật chất nói chung với
những dạng cụ thể của nó, tức là những vật thể hữu hình, cảm tính đang tồn tại ở
thế giới bên ngoài. Đỉnh cao của tư tưởng duy vật cổ đại là thuyết nguyên tử của
Lơxíp và Đêmôcrít. Ví dụ: Talet cho rằng vật chất là nước, Anaximen cho rằng vật chất là không khí.
=> Quan niệm vật chất thời kì cổ đại mang tính trực quan, cảm tình. Nó chỉ có
tác dụng chống lại quan điểm của chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo. Theo quan
điểm duy tâm thì thực thể của thế giới, cơ sở của mọi tồn tại là bản nguyên tinh
thần nào đó. Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật thì thực thể của thế giới là
vật chất cái tồn tại một cách vĩnh cửu tạo nên mọi sự vật và hiện tượng với
những thuộc tính vốn có của nó.
- Thời ki cận đại thế kỷ XVII XVIII(thời kì phục hưng): chủ nghĩa duy vật nói
chung và phạm trù vật chất nói riêng đã có bước phát triển mới, chứa đựng
nhiều yếu tố biện chứng. Mọi phân biệt về vật chất giữa các vật thể đều bị quy
giản về sự phân biệt về lượng, mọi hiện tượng bị quy về cái đơn giản, mọi sự
vận động đều quy về sự dịch chuyển vị trí trong không gian. Đồng nhất vật chất
với thuộc tính của vật chất.
=> Quan điểm vật chất thời kì cận đại mang tính siêu hình, máy móc. 2
- Quan niệm của C.Mác và Ăngghen về “vật chất”: Trong khi đấu tranh chống
chủ nghĩa duy tâm, thuyết bất khả tri và phê phán chủ nghĩa duy vật siêu hình,
máy móc đã đưa ra những tư tưởng hết sức quan trọng về vật chất. Dù ở thời kì
của mình, C.Mác và Ph.Ăngghen chưa xây dựng được một khái niệm hoàn
chỉnh về vật chất nhưng những quan niệm của các ông về vật chất là vô cùng
quan trọng, trở thành tiền đề chỉ dẫn để sau này V.I.Lênin khái quát ra phạm trù vật chất:
+ Thứ nhất, vật chất tồn tại khách quan, không do ai sáng tạo ra và không thể bị tiêu diệt.
+ Thứ hai, vật chất là một phạm trù của triết học, một sáng tạo thuần túy của
tư duy và là một sự trìu tượng.
+ Thứ ba, vật chất không phải cái gì khác hơn là tổng số những vật thể.
+ Thứ tư, vật chất là tồn tại của chính bản thân con người cùng với những
điều kiện sinh hoạt vật chất của con người, hoạt động vật chất và những quan hệ
vật chất giữa người với người.
- Quan niệm về vật chất của V.I.Lênin:
Kế thừa tư tưởng của C.Mac, Ph.ăngghen và nhu cầu đấu tranh chống chủ
nghĩa duy tâm, Lênin đã định nghĩa như sau: “Vật chất là một phạm trù triết học
dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác,
được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh, và tồn tại không lệ
thuộc vào cảm giác”. Đây là định nghĩa khoa học nhất, hoàn chỉnh nhất về vật
chất của V.I.Lênin trong tác phẩm “Chủ nghĩa duy vật và Chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán”.
1.2: Các hình thức vận động cơ bản của vật chất:
- Vận động: Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng thì vận động
hiểu theo nghĩa chung nhất bao gồm tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn
ra trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy. Vận động là
thuộc tính cố hữu của vật chất, gắn liền với vật chất, không thể có vật chất mà
không có vận động, ngược lại, mọi vận động đều là vận động của vật chất, thông
qua vận động mà vật chất biểu hiện sự tồn tại của mình. Vì vậy, con người chỉ 3
nhận thức được sâu sắc sự vật, hiện tượng bằng cách xem xét chúng trong quá
trình vận động. Nhận thức sự vận động của một sự vật, hiện tượng chính là nhận
thức bản thân sự vật, hiện tượng đó. Ph.Ăngghen khẳng định rằng, vật chất
không vận động sẽ tiêu tan, biến mất; rằng không thể quan niệm được vật chất
mà lại không vận động. Vận động của vật chất là tự thân vận động – nguồn gốc
của vận động nằm trong bản thân cấu trúc nội tại của vật chất.
- Không gian và thời gian: Mọi dạng cụ thể của vật chất đều tồn tại ở một vị
trí nhất định, có một quảng tính nhất định và tồn tại trong những mối tương quan
nhất định với những dạng vật chất khác. Những hình thức tồn tại như vậy được
gọi là không gian. Mặt khác, thời gian là hình thức tồn tại của vật chất vận động
xét về mặt độ dài diễn biến, sự kế tiếp của các quá trình. Không gian và thời
gian là những hình thức tồn tại của vật chất vận động, được con người khái quát
khi nhận thức về thế giới. Không có không gian và thời gian thuần tuý tách rời
vật chất vận động. V.I.Lênin viết: “Trong thế giới không có gì ngoài vật chất
đang vận động và vật chất đang vận động không thể vận động ở đâu ngoài
không gian và thời gian”.
2. Khái quát về ý thức:
Ý thức là một trong hai phạm trù thuộc về vấn đề cơ bản của triết học, là
trọng tâm của cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm trong
lịch sử triết học. Nó được hiểu là sự phản ánh thế giới khách quan lên trí óc của
con người thông qua việc lấy các hoạt động thực tiễn làm cơ sở và cũng là hình
ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Trên lập trường duy vật, ngay từ thời cổ
đại, các triết gia đã có cách lý giải vô cùng thô sơ, mộc mạc, chẳng hạn, ý thức -
linh hồn con người cũng là do lừa (theo Hêraclit), hay do nguyên tử đặc biệt cấu
tạo thành (quan niệm của Đêmôcrit). Chủ nghĩa duy tâm xuyên suốt từ thời cổ
đại đến cận, hiện đại đều “kiên định” một quan niệm về ý thức có trước con
người, về ý thức bẩm sinh trong đầu óc (như Platôn, Cantơ...), về linh hồn lý
tính do Thượng đế ban cho con người. 4
2.1: Bản chất của ý thức:
Dựa trên lý luận phản ánh của mình, chủ nghĩa duy vật biện
chứng đã giải quyết một cách khoa học vấn đề bản chất của ý
thức. Đó chính là sự phản
ánh hiện thực khách quan một cách
năng động sáng tạo bởi bộ óc người. Bản chất của ý thức được thể hiện qua các ý sau:
- Thứ nhất, ý thức là cái phản ánh thế giới khách quan trong đầu
óc của con người hay là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.
- Thứ hai, ý thức là sự phản ảnh khách quan một cách chủ động và tích cực.
- Thứ ba, ý thức mang bản chất xã hội.
2.2: Kết cấu của ý thức:
- Kết cấu của ý thức theo chiều ngang: Ý thức bao gồm các
yếu tố cấu thành như tri thức, tình cảm, niềm tin, lý trí, ý chí…
mà trong đó tri thức là nhân tố cơ bản, là cốt lõi.
- Kết cấu của tri thức theo chiều dọc: Là “lát cắt” theo chiều
sâu của thế giới nội tâm con người bao gồm các yếu tố như tự ý
thức, tiềm thức, vô thức…
II – Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức:
1. Vật chất quyết định ý thức:
Theo quan điểm triết học Mác - Lênin, vật chất và ý thức có
mối quan hệ biện chứng, trong đó vật chất quyết định ý thức,
còn ý thức tác động tích cực trở lại vật chất. Đây là nguyên tắc
đặc biệt quan trọng, được xem là nguyên tắc xuất phát điểm
của chủ nghĩa duy vật biện chứng. Vai trò quyết định của vật
chất đối với ý thức thể hiện trên các khía cạnh sau:
- Một là, vật chất quyết định nguồn gốc của ý thức: Ý thức là
sản phẩm của bộ óc, một dạng vật chất có tổ chức cao nhất. 5
Không có bộ óc người thì không thể có ý thức. Mặt khác, nếu
không có sự tác động của thế giới khách quan vào bộ óc thì
cũng không thể ra đời ý thức. Sự vận động của thế giới vật chất
là yếu tố quyết định sự ra đời của cái vật chất có tư duy là bộ óc
người. Tóm lại, nếu không có tất cả những yếu tố như vừa nêu
(bộ óc người, thế giới khách quan tác
động vào bộ óc người, hoạt động lao động, cơ chế phản ánh,
ngôn ngữ) thì ý thức được hình thành.
Ví dụ: Hoạt động của ý thức diễn ra bình thường trên cơ sở hoạt động sinh
lý thần kinh của bộ não người. Nhưng khi bộ não con người bị tổn thương thì
hoạt động ý thức cũng bị rối loạn.
- Hai là, vật chất quyết định nội dung, bản chất của ý thức: Ý
thức dưới bất kỳ hình thức nào đều phản ánh hiện thực khách
quan vào trong đầu óc con người. Vì thế điều kiện vật chất,
hoàn cảnh sinh sống, các mối quan hệ xã hội... của con người
đều được phản ánh, được chép lại, chụp lại trong ý thức. Hay
nói cách khác, việc thế giới hiện thực vận động và phát triển
theo những quy luật khách quan của nó được phản ánh vào ý
thức; từ đó mới có nội dung hay bản chất của ý thức. Triết gia cổ
điển Đức L. Phoiơbắc từng cho rằng khi sống trong túp lều
tranh, người ta suy nghĩ khác với khi ở trong cung điện. Rõ ràng,
trong thực tế, tư tưởng, tình cảm, tâm lý, ý chí,... của con người
bị quy định bởi hoàn cảnh trong đó họ sinh sống.
- Ba là, vật chất không chỉ quy định nội dung mà còn quy định
cả hình thức biểu hiện cũng như sự thay đổi, biến đổi, phát triển
của ý thức: Ý thức luôn là cái phản ánh do cái bị phản ánh quy
định. Việc cái bị phản ánh thay đổi đương nhiên kéo theo sự
thay đổi của cái phản ánh. Bên cạnh đó, trong sự phát triển của
xã hội, ở mỗi giai đoạn lịch sử ứng với tính chất của phương
thức sản xuất vật chất, tính chất của các quan hệ kinh tế là 6
những sự phát triển với những đặc trưng khác nhau của lĩnh vực ý thức, tinh thần.
Ví dụ, theo dòng chảy thời gian qua bao lần chuyển mình
của xã hội thì ý thức cũng thay đổi. Những tư tưởng lạc hậu như
“Trọng nam khinh nữ” hay “Cạo đầu bôi vôi” đến nay đã dần bị
xóa bỏ. Như vậy, vật chất quyết định ý thức, làm tiền đề cho sự
ra đời và phát triển của ý thức. Một câu hỏi đặt ra là vậy ngược
lại, ý thức có tác động trở lại vật chất hay không? Câu trả lời là
“có”. Ý thức cũng có những tác động to lớn đối với vật chất.
2. Sự tác động trở lại của vật chất đối với ý thức:
Mặc dù vật chất sinh ra ý thức nhưng ý thức không thụ động mà sẽ tác động
trở lại vật chất thông qua các hoạt động thực tiễn của con người. Điều này được
thể hiện ở những khía cạnh sau đây:
- Thứ nhất, ý thức có thể làm biến đổi hiện thực vật chất khách quan để phục vụ
nhu cầu của con người nhưng khi nói tới vai trò của ý thức, ta cần hiểu rằng về
thực chất, đó là vai trò của con người.
+ C.Mác đã từng khẳng định: “Tư tưởng căn bản không thực hiện được gì hết,
muốn thực hiện được tư tưởng thì cần có những con người sử dụng lực lượng
thực tiễn.” Bản thân ý thức tự nó không thể thay đổi được thực tại khách quan,
nhưng ý thức có thể làm cơ sở cho những hoạt động sáng tạo trong việc cải biến
xã hội. Ví dụ, khi con người không còn thỏa mãn với thiên nhiên vốn có, bằng ý
thức của mình, thông qua hoạt động thực tiễn, con người đã cải tạo, chinh phục
giới tự nhiên và tạo ra một thiên nhiên thứ hai, thứ ba… để phục vụ nhu cầu
ngày càng cao của mình. Như vậy, ý thức có thể tác động trở lại vật chất nhưng
sự tác động đó phải thông qua hoạt động thực tiễn của con người.
+ Ý thức cho con người ta tri thức, sự hiểu biết về những quy luật trong xã hội
như quy luật chính trị, quy luật kinh tế và các quy luật khác (tức cung cấp thế
giới quan) để trên cơ sở đó con người xác định mục tiêu, đề ra phương hướng, 7
lựa chọn phương pháp để thực hiện mục tiêu đó và cải biến hiện thực khách quan.
- Thứ hai, sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất là vô cùng to
lớn nhưng có thể diễn ra theo hai khả năng:
+ Ý thức, tư tưởng tiên tiến, phản ánh đúng quy luật khách quan sẽ thúc đẩy sự
phát triển của hiện thực vật chất.
+ Ngược lại, nếu ý thức, tư tưởng lạc hậu, lỗi thời có thể là lực cản phá vỡ sự
vận động và phát triển của vật chất.
Ví dụ: Khi hiểu được tính chất vật lý của thép là nóng chảy ở nhiệt độ
hơn 10000 độ C, người ta tạo ra các nhà máy gang thép để sản xuất thép đủ kích
cỡ thay vì dùng phương pháp thủ công cổ xưa.
Qua đó, ta nhận thấy rằng, trong mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, hoạt
động thực tiễn đóng vai trò vô cùng quan trọng. Vật chất phản ánh vào đầu óc
con người để hình thành ý thức bao giờ cũng diễn ra cùng với hoạt
động thực tiễn, ngược lại, ý thức muốn cải biến được điều kiện
vật chất cũng phải thông qua hoạt động thực tiễn. Hoạt động
thực tiễn là cầu nối, là khâu trung gian giữa vật chất và ý thức.
III - Ý nghĩa của phương pháp luận:
Từ nghiên cứu về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, ta
rút ra những bài học có tính chất phương pháp luận có vai trò vô
cùng quan trọng cho con người trong nhận thức cũng như hoạt
động thực tiễn của họ.
1. Quan điểm khách quan:
Vật chất quyết định ý thức, ý thức là sự phản ánh vật chất,
cho nên trong nhận thức phải đảm bảo nguyên tắc “tính khách
quan của sự xem xét” và trong hoạt động thực tiễn phải luôn
luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo các quy
luật khách quan, lấy thực tế khách quan làm gốc, làm cơ sở. 8
Quan điểm khách quan yêu cầu:
- Thứ nhất, khi xem xét, nhận thức sự vật phải xuất phát từ
chính bản thân sự vật đó, phải phản ánh sự vật trung thành như
nó vốn có, phải tôn trọng sự thật, không được lấy ý chí chủ quan
áp đặt cho sự vật. Nếu ý thức phản ánh không đúng hay đi xa
rời khỏi thực tế khách quan sẽ dẫn tới những sai lầm, hậu quả
khôn lường. Bởi vậy, ta phải nhận thức sự vật hiện tượng một
cách chân thực, đúng đắn, tránh tô hồng hay bôi đen đối tượng
hay gán cho đối tượng cái mà nó không có.
- Thứ hai, trong nhận thức và hoạt động thực tiễn phải xuất phát
từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan.
Mọi mục đích, kế hoạch, chủ trương hay biện pháp hành động
của con người đều phải dựa trên việc phân tích cặn kẽ, thấu đáo
hoàn cảnh thực tế khách quan. Các chủ trương chính sách của
con người phải phản ánh được những nhu cầu đã chín muồi của
điều kiện thực tế, có như vậy chủ trương, chính sách mới đạt
được thành công. Như V.I.Lênin đã nhiều lần nhấn mạnh, không
được lấy ý muốn chủ quan của mình làm chính sách, không
được lấy tình cảm làm điểm xuất phát cho chiến lược cách
mạng. Nhận thức, cải tạo sự vật hiện tượng, nhìn chung, phải
xuất phát từ chính bản thân sự vật hiện tượng đó với những
thuộc tính, mối liên hệ bên trong vốn có của nó. Điều bức thiết
là phải tránh chủ nghĩa chủ quan, bệnh chủ quan duy ý chí, chủ
nghĩa duy vật tầm thường, chủ nghĩa thực dụng và chủ nghĩa khách quan.
2. Phát huy tính năng động chủ quan của ý thức:
Ý thức có tính độc lập tương đối, tác động trở lại vật chất
thông qua hoạt động của con người, cho nên cần phải phát huy 9
tính tích cực của ý thức đối với vật chất bằng cách nâng cao
năng lực nhận thức các quy luật khách quan và vận dụng chung
trong hoạt động thực tiễn của con người. Muốn vậy, con người
cần phải tích cực học tập và làm chủ tri thức khoa học để vận
dụng các tri thức trong hoạt động thực tiễn của mình. Bên cạnh
đó, con người cần tự giác rèn luyện để hình thành và củng cố
nhân sinh quan cách mạng hay tình cảm, nghị lực cách mạng
để có sự thống nhất hữu cơ giữa tính khoa học và tính nhân văn
trong định hướng hành động.
3. Phòng chống, khắc phục bệnh trì trệ, thụ động đồng thời khắc phục
bệnh chủ quan duy ý chí:
Trong sự vận động đa dạng của xã hội, xuất hiện những xu hướng cần
khắc phục và loại trừ:
- Xu hướng thứ nhất là bảo
thủ, trì trệ, thụ động, ỷ lại, trông chờ
vào điều kiện vật chất kiểu “Đại Lãn chờ sung”, không chịu cố
gắng, không tích cực chủ động vượt khó, vươn lên.
- Xu hướng thứ hai là chủ quan duy ý chí, được hiểu là sự cứng
nhắc, không mềm dẻo, linh hoạt trong việc áp dụng tri thức vào
thực tiễn, nhất là khi thực tiễn sớm đã thay đổi và một số tri
thức đã không còn phù hợp để vận dụng vào. Một khi ta không
lấy thực tiễn khách quan làm điểm xuất phát, làm cơ sở để đưa
ra ý kiến cá nhân mà lại lấy ý kiến chủ quan, lấy tình cảm,
nguyện vọng cá nhân làm điểm xuất phát cho chủ trương, chính
sách, ta sẽ rơi vào bệnh “chủ quan duy ý chí”. 10
IV – Vận dụng mối quan hệ giữa vật chất và ý thức vào
giải quyết vấn đề việc làm, thất nghiệp của sinh viên đã tốt nghiệp:
1. Thực trạng thất nghiệp của sinh viên đã tốt nghiệp:
Từ những năm trước đây, tình hình thất nghiệp của sinh viên sau khi ra
trường đã luôn là một vấn đề nhức nhối trong cộng đồng. Theo như ông Phạm
Vũ Luận, cựu Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo, cho biết về vấn đề giải quyết
việc làm cho sinh viên sau khi tốt nghiệp, trong những năm từ 2011 đến năm
2014, mỗi năm trung bình đều có trên 400 nghìn sinh viên tốt nghiệp từ những
trường đại học, cao đẳng nhưng số sinh viên tốt nghiệp và tìm được việc làm lại
luôn luôn thấp hơn số sinh viên thất nghiệp. Tiếp theo sau đó trong năm 2015,
những người có trình độ đại học cũng được cho là có tình trạng thất nghiệp cao
nhất tính theo trình độ chuyên môn.
Đến quý 1 năm 2017, dựa trên dữ liệu của Tổng cục thống kê, trong tổng
lực lượng lao động cả nước có gần 918 nghìn lao động thiếu việc làm và có 1,14
triệu người là lao động thất nghiệp. Nếu xem xét tình trạng thất nghiệp theo
trình độ chuyên môn kỹ thuật, tức là sinh viên ra trường có trình độ chuyên môn
nhất định, thì trong quý 1 năm 2017, nếu như số lao động thất nghiệp cả nước là
lao động đã qua đào tạo chuyên nghiệp hoặc đào tạo nghề từ 3 tháng trở lên
được thống kê lên tới 13,4% thì trong đó, nhóm lao động có trình độ từ đại học
trở lên lại chiếm thị phần lớn nhất vào khoảng 17% tổng số lao động thất nghiệp trong nhóm này.
Ngoài ra, kể từ khi dịch COVID-19 xuất hiện từ năm 2019 đến nay, tình
hình lao động việc làm cũng xuất hiện nhiều sự biến đổi nhất định khi mà ngày
càng có nhiều công ty, doanh nghiệp đang phải tạm thời đóng cửa hoặc phải cắt
giảm ngân sách, chi phí trong mọi hoạt động bao gồm cả việc tuyển thêm lực
lượng lao động để đối phó với tình hình dịch bệnh khó khăn. Theo như số liệu
đã được công bố, chỉ tính riêng trong quý 3 năm 2021 vừa qua, cả nước ta có
hơn 28,2 triệu người có độ tuổi từ 15 trở lên đã phải chịu đựng những ảnh
hưởng nặng nề của dịch COVID-19 như mất việc làm, giãn việc, nghỉ luân 11
phiên, giảm giờ làm, giảm thu nhập,… Số lao động phải hứng chịu các ảnh
hưởng tiêu cực của dịch COVID-19 trong quý 3 đã tăng thêm 15,4 triệu người so với quý trước.
2. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng thất nghiệp của sinh viên:
2.1: Sự cạnh tranh đến từ môi trường:
Hằng năm, số lượng sinh viên tốt nghiệp đầu ra ở các ngành
nói chung và ngành kinh tế nói riêng là rất nhiều, nhiều đến ồ ạt
và dẫn đến thừa thãi. Hiện tại, ở nước ta có hơn 500 trường đại
học đang được mở cửa đào tạo, chưa tính đến cấp cao đẳng và
dạy nghề. Do đó việc lựa chọn được cơ sở đào tạo phù hợp là
khá khó khăn với sinh viên, quá trình đào tạo có sự chênh lệch
về chất lượng dẫn đến đầu ra sau này có sự cạnh tranh cao
nhưng nó thật sự bất lợi đối với các sinh viên ở những trường
không thuộc diện hàng top mà các tổ chức thường đề cao.
2.2: Thiếu sót trong định hướng ngành nghề ban đầu:
Phần lớn sinh viên nói rằng công việc của họ chưa hoặc
không đúng với chuyên ngành học tại trường. Điều này sẽ gián
tiếp gây tác động tới sự lựa chọn về công việc sau này như xin
thôi việc để tìm công việc phù hợp hơn hay thậm chí là bị sa
thải, từ đó ít nhiều ảnh hưởng tới tỷ lệ thất nghiệp bậc đại học
của tương lai. Việc lựa chọn ngành nghề phù hợp thực sự là một
thử thách đối với học sinh ở tuổi 18. Mặc dù có sự hỗ trợ, tư vấn
từ gia đình và xã hội, nhưng nhìn chung hầu như mọi người đều
phải qua trải nghiệm mới thực sự xác định được ngành nghề, lối
đi phù hợp trong sự nghiệp hay mĩ miều hơn gọi là “đam mê”.
2.3: Nhu cầu của người muốn ứng tuyển và nhà tuyển dụng có sự chênh lệch:
Các nhà tuyển dụng đều chỉ ra rằng đa số sinh viên đều có
kiến thức vững vàng, bằng cấp với điểm số đạt yêu cầu, cũng có 12
những đối tượng vô cùng xuất sắc trong quá trình học tập, rèn
luyện. Nhưng khi tham gia phỏng vấn kiểm tra sinh viên lại
không vận dụng được những kiến thức đã học để xử lý tình
huống công việc, kỹ năng phân tích vấn đề, kỹ năng làm việc
nhóm, kỹ phán đoán, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng tin học văn
phòng, kỹ năng lãnh đạo, kỹ năng giao tiếp,...v.v. Qua bằng cấp
có thể thấy sinh viên đã được học tập và rèn luyện các kỹ năng
trên ở bậc đại học. Tuy nhiên khi vận dụng lý thuyết ra thực
tiễn, các ứng viên đều khá lúng túng và thiếu sự nhanh nhạy.
Ngoài ra, chính sách tuyển lao động của các nhà tuyển dụng đối
với nhóm lao động có trình độ cao cũng ảnh hưởng đến tỷ lệ
này, bởi yêu cầu đối với lao động đã qua đào tạo ở các trình độ
càng cao càng khắt khe hơn so với lao động giản đơn và cũng
do nhóm lao động đã qua đào tạo thường có yêu cầu về mức
thu nhập cao hơn nhóm lao động giản đơn.
2.4: Chất lượng đào tạo chưa thực sự gắn với nhu cầu xã hội:
Có thể nói cơ cấu đào tạo của nước ta còn quá lạc hậu và
chưa bám sát thực tế. Trong khi một đất nước đang phát triển
như Việt Nam rất cần đến đội ngũ kỹ sư về kỹ thuật, công nghệ,
xây dựng cơ bản thì nguồn cung cấp nhân lực từ phía đào tạo lại
chưa đáp ứng được hết nhu cầu .Trong khi đó sinh viên trong
khối kinh tế thì đang quá dư thừa “ 90 % sinh viên khối kinh tế
ra trường không có việc làm ” là một phần do bên đào tạo nắm
được nhu cầu thực tế về nguồn nhân lực, chưa thông tin đầy đủ
cho sinh viên về việc chọn nhóm ngành học, nhiều sinh viên
chọn trường chỉ theo cảm tính chứ không tính đến mục đích
phục vụ tương lai và khả năng xin việc làm sau này.
Những gì sinh viên được học phần lớn chưa đáp ứng được
yêu cầu của công việc. Nguyên nhân một phần là do học không 13
đi đôi với hành, thiếu cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ cho
việc giảng dạy và học tập hoặc nếu có thì quá xa so với thực tế
công việc. Phần khác là do xã hội ngày càng phát triển với tốc
độ cao và vì vậy sản xuất cũng thay đổi theo. Phương thức sản
xuất thay đổi trong khi đó đào tạo không bắt kịp được những
thay đổi này vì vậy nó thường bị tụt hậu. Khi không có sự cân
bằng, đồng bộ giữa đào tạo và thực tế công việc đã làm cho
sinh viên sau khi ra trường không đủ khả năng phục vụ cho công việc.
3. Giải pháp của vấn đề:
Sau khi phân tích những nguyên nhân gây ra tình trạng thất nghiệp của sinh
viên sau khi ra trường bằng việc vận dụng “ Lý luận mác xít về mối quan hệ
giữa vật chất và ý thức” phần nào đã đưa ra cho chúng ta thấy được góc cạnh
của vấn đề. Có thể dễ dàng nhận thấy rằng bên cạnh những yếu tố khách quan là
những yếu tố chủ quan. Tình trạng sinh viên thất nghiệp nếu còn kéo dài sẽ ảnh
hưởng không nhỏ đến tình hình phát triển kinh tế xã hội, nhất là trong giai đoạn
đổi mới nền kinh tế như bây giờ. Một đất nước muốn phát triển nhanh chóng
đều luôn cần nguồn nhân lực hội tụ đầy đủ những yếu tố có kinh nghiệm có kiến
thức, và đó chính là thế hệ trẻ của chúng ta. Những chủ nhân tương lai của đất
nước sẽ đóng góp sức mình giúp đất nước có thể sánh vai với các cường quốc
năm châu theo lời Bác dạy, sẽ một ngày đưa Việt Nam đứng vững trên thị trường
kinh tế thế giới. Chính vì thế việc giải quyết vấn đề thất nghiệp đang rất cấp
bách và cần có những giải pháp hữu dụng nhất. 3.1: Về phía sinh viên:
- Thứ nhất, học sinh; sinh viên cần định hướng sơ bộ về nghề
nghiệp của mình trong tương lai. Học sinh, sinh viên cần thay
đổi nhận thức, hiểu được đầu ra của ngành học. Học sinh, sinh
viên cần học những ngành nghề mà trong đó có sự đam mê,
yêu thích của bản thân và phù hợp với khả năng của mình. 14
Đồng thời, các giảng viên của nhà trường nên kết hợp cùng với
lãnh đạo của các doanh nghiệp trao đổi và định hướng nghề
nghiệp phù hợp với từng tân sinh viên, dựa trên việc phân tích
tính cách, đặc điểm gia đình, sở thích...của từng cá nhân để đưa
ra lời khuyên cho các em nên chọn ngành nào phù hợp với
mình, có cơ hội việc là tốt nhất và phát huy được năng lực cao nhất.
- Thứ hai, trải nghiệm thực tế tại các doanh nghiệp là điều vô
cùng quan trọng. Nâng cao chất lượng đào tạo, kỹ năng làm
việc cho sinh viên cần có sự kết hợp giữa sinh viên và nhà
trường. Việc học đi đôi với thực hành, học đến đâu có thể thực
hành đến đó để việc giảng dạy không còn mang ý nghĩa trừu
tượng mà còn mang tính ứng dụng thiết thực. Sinh viên cần
thực hiện nghiêm túc trong quá trình đi kiến tập, thực tập. Nếu
sinh viên coi hoạt động kiến tập, thực tập cho hết môn thì sẽ
không khác gì vẫn chạy theo lý thuyết mà không có thực tế.
- Thứ ba, sinh viên cần nghiêm túc học hành ngay khi đang
còn ngồi trên ghế nhà trường. Sự nghiêm khắc trong quá trình
học tập của bản thân sẽ giúp sinh viên tự rèn luyện tính cách,
kỹ năng đồng thời đạt kết quả tốt trong quá trình học tập, sẽ
giúp ích rất nhiều cho công việc chuyên môn ngay sau khi ra trường. 3.2: Về phía Nhà nước:
- Thứ nhất, hoàn thiện thể chế thị trường lao động, tạo khung pháp lý phù
hợp, bảo đảm đối xử bình đẳng giữa người sử dụng lao động và người lao động.
Thực hiện đúng các luật về lao động, tiền lương tối thiểu, bảo hiểm lao động,
xuất khẩu lao động, pháp lệnh đình công... Người lao động được quyền hưởng
lương đúng với số lượng và chất lượng lao động họ đã bỏ ra, phải được bảo đảm 15
về chỗ ở và những điều kiện môi trường lao động, an sinh khác theo đúng luật pháp.
- Thứ hai, Nhà nước cùng các doanh nghiệp cần phải quan tâm đào tạo công
nhân trình độ cao, trình độ lành nghề, trình độ văn hóa đối với lao động trẻ,
khỏe, nhất là khu vực nông thôn để cung ứng cho các vùng kinh tế trọng điểm,
các khu công nghiệp, khu du lịch, dịch vụ và xuất khẩu lao động.
- Thứ ba, đa dạng hóa các loại hình thị trường, các lớp dạy nghề của Nhà
nước, của tư nhân và quốc tế; áp dụng cơ chế thị trường trong dạy nghề, dần
dần hình thành thị trường dạy nghề phù hợp với pháp luật. Thực hiện quy hoạch
đầu tư tập trung hệ thống dạy nghề, kỹ thuật thực hành qua lao động trực tiếp;
đặc biệt là xây dựng các trường dạy nghề trọng điểm quốc gia.
- Thứ tư, thực hiện hiệu quả dự án hỗ trợ đào tạo giảng viên; xây dựng cơ
chế xác định chỉ tiêu tuyển sinh đào tạo trung cấp, đào tạo cao đẳng, đại học
hàng năm trên cơ sở nhu cầu của thị trường lao động, năng
lực đào tạo và tỷ lệ
người học tốt nghiệp có việc làm của cơ sở đào tạo; chỉ đạo các cơ sở đào tạo
đầu tư nâng cao điều kiện đảm bảo chất lượng đào tạo, hợp tác với đơn vị sử
dụng lao động để xây dựng chương trình đào tạo cân đối giữa lý thuyết và thực
hành, xây dựng chuẩn đầu ra, hỗ trợ sinh viên thực tập và đánh giá sinh viên tốt
nghiệp theo yêu cầu của thị trường lao động.
3.3: Sự vận dụng của bản thân:
Từ mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, ta liên hệ bản thân để rút ra những
bài học kinh nghiệm quý báu đối với quá trình học tập và làm việc.
Trước hết, trong quá trình hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn,
chúng ta cần coi trọng thực tế khách quan, lấy thực tế khách quan làm căn cứ
cho mọi hoạt động của mình. Bên cạnh đó, cần phát huy tính năng động chủ
quan, tức là phát huy vai trò tích cực của ý thức, vai trò tích cực của nhân tố con
người. Như vậy, để đạt được thành công trong mọi lĩnh vực, con người cần trang 16
bị các tri thức cần thiết và xác định đúng đắn mục tiêu, phương hướng hoạt động
và tổ chức thực hiện. Cũng với nỗ lực và ý chí mạnh mẽ của mình để đạt mục
tiêu đề ra. Từ mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, cá nhân em thấy rằng bản
thân phải luôn phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức, phát huy nhân tố
con người để tác động cái tạo thế giới khách quan. Đặc biệt cần tránh bảo thủ trì
trệ, thái độ tiêu cực, thụ động, ỷ lại.
Từ đó, bản thân phải xác định được các yếu tố khách quan ảnh hưởng đến
cuộc sống hàng ngày, vì vật chất quyết định ý thức nên con người cần ý thức
được vật chất của cuộc sống còn thiếu thốn để phù hợp với thực tế khách quan.
Hơn nữa, cần tiếp thu có chọn lọc kiến thức mới và không chủ quan trong mọi
tình huống. Khi giải thích một hiện tượng cần phải xét yếu tố vật chất lẫn tinh
thần, cả yếu tố khách quan và điều kiện khách quan. KẾT LUẬN
Có thể nói, vật chất đóng một vai trò vô cùng lớn và quyết định đối với ý
thức, nó là cái có trước ý thức, ý thức là cái có sau, vật chất là nguồn gốc của ý
thức, quyết định nội dung của ý thức; nhưng ý thức lại là sự phản ánh hiện thực
khách quan của thế giới vật chất. Mối quan hệ biện chứng này chỉ được thực
hiện thông qua hoạt động thực tiễn của con người. Nâng cao vai trò của ý thức
đối với vật chất chính là nâng cao năng lực nhận thức các quy luật khách quan
và vận dụng các quy luật khách quan trong hoạt động thực tiễn của con người.
Bên cạnh đó, sự năng động, sáng tạo của ý thức con người cũng
không kém phần quan trọng khi nó là yếu tố quyết định liệu
thực tại khách quan có thể phát triển ngày một tốt đẹp hơn
không. Vì vậy, việc hiểu đúng, hiểu toàn diện, sâu sắc mối quan
hệ giữa vật chất và ý thức sẽ là cơ sở để chúng ta giải quyết bất
kể vấn đề nào trong cuộc sống. 17 TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. GIÁO TRÌNH TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN (Sử dụng trong các
trường đại học hệ không chuyên lý luận chính trị) (Tài liệu dùng
tập huấn giảng dạy năm 2019).
2. Tài liệu “Quan điểm của Mác – Ăngghen về vật chất”.
3. Tài liệu “Phương thức và hình thức tồn tại của vật chất”.
4. Tài liệu “Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức” – Tác giả Phạm Kim Oanh
5. Giáo trình Kinh tế học Chính trị Mác-Lênin (tái bản), Hội đồng
Trung ương chỉ đạo sản xuất giáo trình Quốc gia các bộ môn
khoa học Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản Chính
trị Quốc gia – Sự thật, Hà Nội, năm 2005.
6. Trang web của Bộ Giáo Dục và Đào tạo: Bài thống kê giáo dục
đại học năm 2019-2020: https://bitly.com.vn/g6ohwk
7. Trang web Tạp chí công thương: Bài báo “Sinh viên thất
nghiệp khi ra trường nguyên nhân và cách khắc phục”: 18
https://tapchicongthuong.vn/bai-viet/sinh-vien-that-nghiep-sau-
khi-ra-truong-nguyen-nhan-va-cach-khac-phuc-48972.htm 6. Giáo trình Kinh tế học Chính trị Mác – Lê nin (tái bản), Hội
đồng Trung ươnchỉ đạo biên soạn
giáo trình Quốc gia các bộ môn khoa học Mác – Lê nin, Tưtưởng
Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, năm 2005
7. Giáo trình lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam (tái bản có sửa 8. đổi, bổ sung), Hội https://tcnn.vn/news/d etail/44249/Doi-moi- chinh-tri-o-Viet-Nam- hien-nay---tiep-can- 19 tu-moi-quan-he-giua- kinh-te-va-chinh- tri.html 9. https://tuyengiao.vn/d ua-nghi-quyet-cua- dang-vao-cuoc- song/nhan-thuc-va- giai- quyet-dung-dan-moi- quan-he-giua-doi-moi- kinh-te-va-doi-moi- chinh-tri-135330
16 tế và chính trị có mối quan hệ biện chứng, mật thiết, không tách rời nhau. Để
xử lý tốtmối quan hệ này, trong đó có vấn đề đổi mới chính trị đồng bộ, phù hợp với đổi mới 20
cho quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất,
luôn có tác dụng thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất”. 21