



















Preview text:
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP.HCM
KHOA CHÍNH TRỊ VÀ LUẬT
TIỂU LUẬN CUỐI KỲ ***
LÝ LUẬN VỀ MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA NỘI DUNG VÀ
HÌNH THỨC TRONG PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT VÀ TÁC
ĐỘNG CỦA NÓ ĐẾN THỊ HIẾU THẨM MỸ CỦA SINH VIÊN HIỆN NAY
Tiểu luận cuối kỳ môn: Triết học Mac – Lenin
MÃ MÔN HỌC & MÃ LỚP: LLCT130105_23_1_06CLC
NHÓM THỰC HIỆN: Oxygen
GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẤN: ThS. Trần Ngọc Chung
TP. Hồ Chí Minh, 12/2023
DANH SÁCH THÀNH VIÊN THAM GIA VIẾT TIỂU LUẬN
HỌC KỲ I NĂM HỌC 2023-2024
Tên đề tài: Nguyên tắc nhân đạo trong Bộ luật hình sự Việt Nam. TỈ LỆ % STT
HỌ VÀ TÊN SINH VIÊN MÃ SỐ SINH VIÊN HOÀN THÀNH 1 Lê Hồ Thảo Vy 100% 23126055 2 Phan Thanh Trực 100% 23126049 3 Lưu Hoàng Vân Nhi 100% 23126030 4 Nguyễn Lê Bảo Trân 100% 23126043 5 Võ Trần Minh Danh 100% 23126009 Ghi chú:
- Tỷ lệ % = 100%: Mức độ phần trăm của từng sinh viên tham gia.
- Trưởng nhóm: Lê Hồ Thảo Vy SĐT: 0356020008
Nhận xét của giáo viên
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
Ngày 01 tháng 12 năm 2023 LỜI CẢM ƠN
Công trạng của cá nhân chủ yếu là nhờ tập thể mà có– Chủ tịch Hồ Chí
Minh. Thành công trong cuộc sống không chỉ có một cá nhân tạo ra mà còn gắn liền
với sự hỗ trợ, giúp đỡ của nhiều người khác. Trong suốt thời gian học tập ở giảng
đường đại học vừa qua, em đã nhận được rất nhiều sự giúp đỡ, chia sẻ, quan tâm của
quý thầy cô, gia đình và bạn bè.
Lời đầu tiên, em xin gửi đến quý thầy, cô giảng viên trường Đại học Sư phạm
kỹ thuật TP. HCM (HCMUTE) đã vô cùng nhiệt huyết, tận tâm trong việc giảng dạy
và truyền đạt vốn kiến thức quý báu của mình để giúp đỡ sinh viên rất nhiều trong thời
gian học tập tại trường. Em xin chân thành cảm ơn thầy ThS. Trần Ngọc Chung đã
nhiệt tình, tận tâm chỉ bảo chúng em qua từng buổi học trên lớp cũng như những buổi
thảo luận về tính sáng tạo và vận dụng kiến thức trong môi trường thực tế cuộc sống.
Một lần nữa, em xin chân thành cảm ơn thầy/cô.
Bài tiểu luận của chúng em không tránh khỏi những thiếu sót, rất mong nhận
được ý kiến đóng góp quý báu của thầy cô để bài tiểu luận hoàn thiện hơn.
Lời sau cùng, em xin kính chúc quý thầy ThS. Trần Ngọc Chung sức khỏe,
niềm tin, vững bước trên con đường dìu dắt chúng em trưởng thành. Trân trọng,
TP. Thủ Đức, ngày 2 tháng 12 năm 2023 MỤC LỤC A. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 2. Mục tiêu nghiên cứu B. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA NỘI DUNG VÀ
HÌNH THỨC TRONG PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT 1.1 - Khái niệm
1.1.1 - Phép biện chứng duy vật 1.1.2 - Nội dung 1.1.3 - Hình thức
1.2 - Mối quan hệ giữa nội dung và hình thức
1.2.1 Sự tương đồng giữa nội dung và hình thức
1.2.2 Mối quan hệ biện chứng giữa nội dung và hình thức
1.3 - Ý nghĩa phương pháp luận từ mối quan hệ
CHƯƠNG 2: TÁC ĐỘNG CỦA MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG
GIỮA NỘI DUNG VÀ HÌNH THỨC ĐẾN THỊ HIẾU THẨM MỸ CỦA SINH VIÊN HIỆN NAY 2.1 - Khái niệm
2.1.1 - Thị hiếu thẩm mỹ
2.1.2 - Những yếu tố tạo thành thị hiếu thẩm mĩ
2.2 - Khái quát về thị hiếu thẩm mỹ của sinh viên ngày nay
2.3 - Tác động của mối quan hệ đến vấn đề
2.3.1 - Ảnh hưởng đến thị hiếu thẩm mỹ của sinh viên
2.3.1.1 - Hình thành phát triển thị hiếu thẩm mỹ
2.3.1.2 - Nâng cao thị hiếu của sinh viên
2.3.2 - Những biểu hiện, tương tác của sinh viên trong quá trình
bộc lộ thị hiếu thẩm mỹ của mình
2.3.2.1 - Nhu cầu bộc lộ cái “tôi” cá nhân
2.3.2.2 - Sự nhạy bén và tương tác với xã hội
2.3.3 - Thị hiếu thẩm mỹ của sinh viên tác động ảnh hưởng xã hội 2.4 - Liên hệ bản thân C. KẾT LUẬN
BẢN PHÂN CÔNG NHIỆM VỤ
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Với sự phát triển nhanh chóng của công nghệ và truyền thông, sinh viên ngày
nay tiếp cận với nhiều hình thức nghệ thuật khác nhau. Họ không chỉ đọc sách, xem
phim, nghe nhạc mà còn tiếp xúc với các hình thức nghệ thuật mới như video trực
tuyến, media xã hội và nền tảng số,.. Điều này tạo ra một tầm nhìn đa dạng về cách
thức biểu hiện nội dung và hình thức trong các tác phẩm của cuộc sống.
Trước tiên, nội dung và hình thức không thể tách rời khi ta nói về một vấn đề
nào đó. Hình thức là cách biểu hiện nội dung; nội dung trong khi đó là bản chất, ý
nghĩa sâu xa được truyền đạt qua vấn đề được đề cập. Sự tương tác giữa nội dung và
hình thức tạo nên một mối quan hệ biện chứng, một mối liên kết hợp nhất giữa hai yếu
tố này, ảnh hưởng đến việc thấu hiểu và đánh giá nghệ thuật trong cuộc sống và ngay
cả thẩm mỹ của sinh viên hiện nay. Mối quan hệ biện chứng giữa nội dung và hình
thức không chỉ ảnh hưởng đến cách mà sinh viên hiểu và đánh giá nghệ thuật mà còn
thể hiện sự phản ánh của xã hội đương đại. Sinh viên đang đối diện với việc hiểu rõ
hơn về sự đa dạng và đa chiều của thế giới thông qua việc tìm hiểu về mối quan hệ này.
Việc chọn đề tài nói về mối quan hệ biện chứng giữa nội dung và hình thức trong phép
biện chứng duy vật và thể hiện được sự tinh tế trong tìm hiểu về triết học mà còn đề
cập đến một phạm trù rộng lớn trong văn hóa và nghệ thuật.
Trên cơ sở đó, việc nghiên cứu về mối quan hệ biện chứng giữa nội dung và
hình thức trong phép biện chứng duy vật không chỉ là việc hiểu sâu hơn về văn hóa,
nghệ thuật mà còn giúp sinh viên xây dựng khả năng phê phán, suy luận và cảm nhận
sâu sắc về thẩm mỹ, giúp họ trở thành người độc lập trong việc đánh giá và tận hưởng
các tác phẩm nghệ thuật.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Mục đích của bài tiểu luận nhằm tìm hiểu cơ bản các khái niệm về nội dung,
hình thức trên cơ sở đó xem xét mối quan hệ của chúng trong phép biện chứng duy vật 1
và qua đó gián tiếp đưa ra cái nhìn khách quan nhất về tác động của mối quan hệ đó
đến thị hiểu thẩm mỹ của sinh viên hiện nay. B. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA NỘI DUNG VÀ HÌNH
THỨC TRONG PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT 1.1 - Khái niệm
1.1.1 - Phép biện chứng duy vật
C. Mác, Ph. Ăngghen và V.I.Leenin không đưa ra một định nghĩa thống nhất
nào về phép biện chứng duy vật, mà trong các tác phẩm của các ông có nhiều định
nghĩa khác nhau về phép biện chứng duy vật. Trong tác phẩm Chống Đuyrinh, khi bàn
về các quy luật, Ph. Ăngghen định nghĩa: “phép biện chứng chẳng qua chỉ là môn khoa
học về những quy luật phổ biến của sự vận động và sự phát triển của tự nhiên, của xã
hội loài người và của tư duy”. Khi chỉ ra nội dung chủ yếu của phép biện chứng, Ph.
Ăngghen định nghĩa: “phép biện chứng là khoa học về sự liên hệ phổ biến. Những quy
luật chủ yếu: sự chuyển hóa lượng thành chất, - sự xâm nhập lẫn nhau của các mâu
thuẫn đối cực và sự chuyển hóa từ mâu thuẫn này sang mâu thuẫn khác khi mâu thuẫn
đó lên tới cực độ, - sự phát triển bằng mâu thuẫn hoặc phủ định của phủ định, -phát
triển theo hình thức xoáy trôn ốc”, “phép biện chứng đã được coi là khoa học về
những quy luật phổ biến nhất của mọi vận động. Điều đó có nghĩa là những quy luật
ấy phải có hiệu lực đối với vận động trong giới tự nhiên và trong lịch sử loài người
cũng như đối với vận động của tư duy”.
Khi giới thiệu về C. Mác, V.I. Lênin định nghĩa: “…phép biện chứng, tức là
học thuyết về sự phát triển, dưới hình thức hoàn bị nhất, sâu sắc nhất và không phiến
diện, học thuyết về tính tương đối của nhận thức của con người, nhận thức này phản
ảnh vật chất luôn luôn phát triển không ngừng”. Khi bàn về các yếu tố của phép biện
chứng, V.I. Lênin đưa ra định nghĩa: “có thể định nghĩa vắn tắt phép biện chứng là học
thuyết về sự thống nhất các mặt đối lập. Như thế là nắm được hạt nhân của phép biện
chứng, nhưng điều đó đòi hỏi phải có những sự giải thích và một sự phát triển thêm”.
Trong văn cảnh khác liên quan đến quan điểm của Hegel về phép biện chứng, V.I.
Lênin viết: “theo nghĩa đen, về phép biện chứng là sự nghiên cứu mâu thuẫn trong 2
ngay bản chất của các đối tượng”, “phép biện chứng chính là lý luận nhận thức (của
Heeghen và) của chủ nghĩa Mác: đó là một “mặt” (không phải một “mặt” mà là thực chất)”. 1.1.2 - Nội dung
Nội dung bao gồm nguyên lý cơ bản nhất: nguyên lý về mối quan hệ phổ biến
và nguyên lý về sự phát triển.
– Nguyên lý về mối quan hệ phổ biến: Mối liên hệ dùng để chỉ sự quy định, sự tác
động và chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng, hay giữa các mặt, các yếu tố
của mỗi sự vật, hiện tượng trong thế giới. Mối liên hệ phổ biến dùng để chỉ mối liên hệ
tồn tại ở nhiều sự vật hiện tượng của thế giới. Giữa các sự vật, hiện tượng của thế giới
vừa tồn tại những mối liên hệ đặc thù, vừa tồn tại những mỗi liên hệ phổ biến. Tính
thống nhất trong tính đa dạng của thế giới. Tính chất các mối liên hệ:
+ Tính khách quan: Những mối liên hệ tồn tại độc lập với ý thức của con
người. Thông qua các mối liên hệ thì sự vật biểu hiện sự tồn tại của mình.
+ Tính phổ biến: Bất cứ sự vật nào cũng có mối liên hệ với sự vật khác,
mối liên hệ có ở trong tự nhiên, xã hội và tư duy.
+ Tính đa dạng, phong phú: Các sự vật hiện tượng đều có những mối
liên hệ cụ thể khác nhau, giữ vị trí và vai trò khác nhau đối với sự tồn tại và
phát triển của nó. Mối liên hệ bên trong – mối liên hệ bên ngoài, mối liên hệ
chủ yếu – mối liên hệ thứ yếu, mối liên hệ bản chất – mối liên hệ không bản
chất, mối liên hệ tất nhiên – mối liên hệ ngẫu nhiên, mối liên hệ trực tiếp – mối liên hệ gián tiếp,….
Ý nghĩa phương pháp luận: Trong hoạt động nhận thức và thực tiễn, cần phải có quan
điểm toàn diện “xem xét sự vật trong mối quan hệ biện chứng, xác định mối liên hệ
giữa các bộ phận, các mặt của sự vật”, quan điểm lịch sử - cụ thể “phải xét đến những
tính chất đặc thù của đối tượng, xét đến tình huống cần giải quyết khác nhau trong thực tiễn”.
– Nguyên lý về sự phát triển: Theo quan điểm biện chứng, phát triển chỉ quá trình vận
động theo khuynh hướng đi lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn
thiện đến hoàn thiện hơn. Sự khác nhau trong quan điểm về sự phát triển giữa tư duy 3
siêu hình với biện chứng. Bao gồm các tính chất: tính khách quan, tính phổ biến, tính
đa dạng, phong phú. Tính chất các mối liên hệ:
+ Tính khách quan: Phát triển là thuộc tính tất yếu, khách quan, không
phụ thuộc vào ý thức con người.
+ Tính phổ biến: Quá trình phát triển diễn ra trong tất cả các sự vật, hiện
tượng, quá trình của tự nhiên, xã hội và tư duy.
+ Tính đa dạng, phong phú: Mỗi sự vật hiện tượng có quá trình phát triển riêng, không giống nhau.
Ý nghĩa phương pháp luận: Trong hoạt động nhận thức và thực tiễn, cần phải có quan
điểm phát triển “xem xét sự vật trong sự phát triển, trong sự tự vận động, trong sự biến
đổi của nó”, quan điểm lịch sử - cụ thể “ nhìn sự vật theo khuynh hướng đi lên, phải
chấp nhận tính quanh co, phức tạp của quá trình phát triển”.
Nội dung bao gồm sáu cặp phạm trù cơ bản: cái riêng – cái chung, nguyên nhân
– kết quả, tất nhiên – ngẫu nhiên, nội dung – hình thức, bản chất – hiện tượng, khả năng – hiện thực
Nội dung tuân theo ba quy luật cơ bản: quy luật lượng – chất; quy luật mâu –
thuẫn; quy luật phủ định của phủ định 1.1.3 - Hình thức
Phép biện chứng chất phát thời cổ đại: Ra đời ở cả phương Đông và phương
Tây, nó đã khái quát được những nét cơ bản về quá trình vận động biện chứng của thế
giới, những kết luận của phép biện chứng chất phát được ra đời từ những quan sát
mang tính trực quan của những nhà Triết học thời cổ đại.
Phép biện chứng duy tâm của triết học cổ điển Đức: Đỉnh cao là chính là phép
biện chứng duy tâm của Hegel.
Phép biện chứng duy vật của triết học Mác – Lênin: Là hình thức phát triển cao
nhất của phép biện chứng do Mác và Ăngghen sáng tạo vào những năm 40 của thế kỉ thứ XIX.
1.2. Mối quan hệ giữa nội dung và hình thức
1.2.1. Sự tương đồng giữa nội dung và hình thức
Việc nhận thức nội dung và hình thức sự vật, hiện tượng và sự hình thành các
khái niệm về chúng được thực hiện trong quá trình nhận thức từ những mối liên hệ 4
nhân quả này sang mối liên hệ nhân quả khác, từ những đặc tính này sang những đặc
tính khác của sự vật, hiện tượng ấy.
Nội dung là phạm trù triết học dùng để chỉ tổng thể tất cả các mặt, yếu tố tạo nên
sự vật, hiện tượng. Hình thức là phạm trù triết học dùng để chỉ phương thức tồn tại,
biểu hiện và phát triển của sự vật, hiện tượng ấy; là hệ thống các mối liên hệ tương
đối bền vững giữa các yếu tố cấu thành nội dung của sự vật, hiện tượng và không
chỉ là cái biểu hiện ra bên ngoài, mà còn là cái thể hiện cấu trúc bên trong của sự
vật, hiện tượng. Nhiều khi con người rất khó khăn trong việc nhận thức rành mạch
nội dung của một đối tượng nào đó (nhất là đối tượng tinh thần), mà thường lẫn với
cấu trúc của nó. Trong trường hợp này rõ ràng có sự giao thoa, thâm nhập lẫn nhau
giữa nội dung và hình thức, và hình thức khi đó được gọi là hình thức nội dung
(hình thức bên trong), “... gắn liền chặt chẽ với nội dung". Kiểu hình thức này
thường thuộc về cái riêng xác định, không lặp lại ở cái riêng khác, nên nó là cái đơn
nhất. Nhưng cũng có những hình thức chung cho nhiều cái riêng của cùng một lớp,
chúng được gọi là hình thức hình thức (hình thức bên ngoài, hình thức chung), nên
nó cũng gọi là cái chung. Mặt khác khi xác định nội dung của đối tượng, nhận thức
trả lời cho câu hỏi “đối tượng là gì”, nhưng khi trả lời cho câu hỏi “đối tượng là như
thế nào”, tức là phải xác định hình thức tồn tại hay hình thức biểu hiện của nó.
Sự tương đồng giữa nội dung và hình thức trong phép biện chứng duy vật là một
khía cạnh quan trọng trong việc hiểu và áp dụng triết học này. Phép biện chứng duy
vật cho rằng sự tương đồng này không chỉ tồn tại ở mức độ bề ngoài, mà còn ở mức độ
sâu xa, ảnh hưởng đến cả bản chất của các hiện tượng.
Theo quan điểm của phép biện chứng duy vật, nội dung và hình thức không thể
hoàn toàn tách rời nhau. Nội dung là những yếu tố ý nghĩa, thông tin, hay ý niệm được
truyền đạt thông qua hình thức. Trong khi đó, hình thức là cách thức bày tỏ, diễn giải
và truyền đạt nội dung.
Sự tương đồng giữa nội dung và hình thức có ý nghĩa quan trọng trong việc hiểu sự
phát triển của các hiện tượng xã hội và tự nhiên. Nó cho phép chúng ta nhìn nhận mối
quan hệ không chỉ ở mặt bề ngoài mà còn ở mặt sâu xa của các hiện tượng, từ đó giúp
chúng ta có cái nhìn toàn diện và sâu sắc hơn về thế giới xung quanh. 5
Việc áp dụng sự tương đồng giữa nội dung và hình thức trong phép biện chứng duy
vật cũng đóng vai trò quan trọng trong việc phân tích và lý giải các hiện tượng xã hội.
Nó cho phép chúng ta nhìn thấy mối liên kết sâu xa giữa các yếu tố khác nhau trong
một hiện tượng, từ đó cung cấp một cái nhìn toàn diện và logic hơn về sự phát triển của xã hội.
Với sự tương đồng này, phép biện chứng duy vật không chỉ là một lý thuyết trừu
tượng, mà còn là công cụ để nắm bắt và hiểu rõ các quy luật tự nhiên và xã hội. Nó
mang lại khả năng lý giải, dự đoán và ứng dụng vào thực tiễn, góp phần vào việc xây
dựng một xã hội công bằng và tiến bộ.
1.2.2. Mối quan hệ biện chứng giữa nội dung và hình thức
Nội dung và hình thức của sự vật, hiện tượng tồn tại thống nhất chặt chẽ trong
mối liên hệ phụ thuộc lẫn nhau, nhưng nội dung giữ vai trò quyết định. Hình thức
xuất hiện trong sự quy định của nội dung và sau khi xuất hiện, hình thức tồn tại
tương đối độc lập và có ảnh hưởng tới nội dung, gây ra các hệ quả nhất định. Khi
hình thức phù hợp với nội dung, nó là động cơ thúc đẩy nội dung phát triển, còn khi
không phù hợp, hình thức cản trở sự phát triển đó của nội dung. Cùng một nội dung,
trong quá trình phát triển, có thể thể hiện dưới nhiều hình thức và ngược lại, cùng
một hình thức có thể biểu hiện cho một số nội dung khác nhau. Sự vật, hiện tượng
phát triển thông qua sự đổi mới không ngừng của nội dung và sự thay đổi theo chu
kỳ của hình thức. Lúc đầu, sự biến đổi diễn ra trong nội dung chưa ảnh hưởng đến
hình thức, nhưng khi sự biến đổi đó tiếp tục diễn ra tới giới hạn nhất định, nội dung
mới xuất hiện thì hình thức ban đầu trở nên chật hẹp, kìm hãm sự phát triển của nội
dung. Nội dung mới phá bỏ hình thức cũ và trong vỏ bao bọc của hình thức mới đó,
thì nội dung mới sẽ tiếp tục phát triển. Ở đây có sự tác động của quy luật phổ biến
(theo nghĩa tác động ở mọi đối tượng, mọi lĩnh vực vật chất và tinh thần) về sự phù
hợp (tương thích) của hình thức với nội dung.
Mối quan hệ biện chứng giữa nội dung và hình thức trong phép biện chứng duy
vật là một khía cạnh quan trọng và không thể thiếu trong triết học duy vật cho phép ta
nhìn nhận hiện thực một cách toàn diện. Nội dung và hình thức không chỉ đơn thuần là
hai yếu tố riêng lẻ, mà chúng tương tác và ảnh hưởng lẫn nhau để tạo nên sự phát triển của hiện thực. 6
Trong phép biện chứng duy vật, nội dung được hiểu là bản chất hay cốt lõi của
một sự vật, hiện tượng hoặc quá trình. Nó đại diện cho các yếu tố quan trọng như ý
niệm, ý thức, hay tồn tại của sự vật. Trái ngược lại, hình thức đề cập đến các dạng biểu
hiện bên ngoài của nội dung thông qua các thuộc tính như hình dạng, kích thước, màu sắc hay âm thanh.
Tuy nhiên, không có sự tồn tại riêng lẻ của nội dung hoặc hình thức trong phép
biện chứng duy vật. Nội dung và hình thức tương tác và phát triển cùng nhau. Nội
dung tồn tại thông qua hình thức, trong khi hình thức cũng bị nội dung ảnh hưởng và điều chỉnh.
1.3. Ý nghĩa phương pháp luận từ mối quan hệ giữa nội dung và hình thức
Thứ nhất, hình thức của sự vật, hiện tượng do nội dung của nó quyết định, là kết
quả những thay đổi của nội dung và để đáp ứng những thay đổi đó thì sự thay đổi
hình thức phải dựa vào những thay đổi thích hợp của nội dung quyết định nó; do
vậy, muốn biến đổi sự vật, hiện tượng thì trước hết phải tác động, làm thay đổi nội dung của nó.
Thứ hai, hình thức chỉ thúc đẩy nội dung phát triển khi nó phù hợp với nội dung
nên để thúc đẩy sự vật, hiện tượng phát triển nhanh, cần chú ý theo dõi mối quan hệ
giữa nội dung đang phát triển với hình thức ít thay đổi, và khi giữa nội dung với
hình thức xuất hiện sự không phù hợp thì trong những điều kiện nhất định phải can
thiệp vào tiến trình khách quan, đem lại sự thay đổi cần thiết về hình thức để nó trở
nên phù hợp với nội dung đã phát triển và bảo đảm cho nội dung phát triển hơn nữa,
không bị hình thức cũ kìm hãm.
Thứ ba, một nội dung có thể có nhiều hình thức thể hiện và ngược lại nên cần sử
dụng mọi hình thức có thể có, mới cũng như cũ, kể cả việc phải cải biến các hình thức
vốn có, lấy hình thức này bổ sung, thay thế cho hình thức kia để làm cho bất kỳ hình
thức nào cũng trở thành công cụ phục vụ nội dung mới. V.I. Lênin kịch liệt phê phán
thái độ chỉ thừa nhận các hình thức cũ, bảo thủ, trì trệ, chỉ muốn làm theo hình thức cũ;
đồng thời cũng phê phán thái độ phủ nhận vai trò của hình thức cũ trong hoàn cảnh
mới, chủ quan, nóng vội, thay đổi hình thức cũ một cách tùy tiện, vô căn cứ. 7
CHƯƠNG 2: TÁC ĐỘNG CỦA MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA
NỘI DUNG VÀ HÌNH THỨC ĐẾN THỊ HIẾU THẨM MỸ CỦA SINH VIÊN HIỆN NAY 2.1 - Khái niệm
2.1.1. Thị hiếu thẩm mỹ
Thị hiếu thẩm mỹ là khái niệm chỉ sở thích của con người trong lĩnh vực thẩm
mỹ, biểu hiện ở sự rung cảm, sự lựa chọn, sự đánh giá, thẩm định và sáng tạo thẩm mỹ
của mỗi cá nhân. Thị hiếu thẩm mỹ là cơ sở cho mọi hoạt động thưởng thức, đánh giá
và sáng tạo thẩm mỹ; là một thành tố cấu thành nhân cách của mỗi người. Thị hiếu
thẩm mỹ không chỉ biểu hiện quá trình tự phát triển của cá nhân mà còn thể hiện trình
độ giáo dục thẩm mỹ trong nhà trường và ngoài xã hội.
Trong tác phẩm, quan niệm của Kant về nguồn gốc và bản chất của thị hiếu
thẩm mỹ mang đậm tính duy tâm chủ quan, biểu hiện cảm giác thích thú một cách độc
lập, không tuân theo trình tự thông thường của nhận thức, diễn tả sự thích thú, sự hài
lòng của con người về đối tượng. Sự thích thú, hài lòng đó không diễn tả tính chất nào
ở đối tượng mà chỉ là cách thức đối tượng tác động lên chúng ta; nó diễn ra trong
chúng ta mà chúng ta không cần quan tâm đến sự hiện hữu của vật. Vì vậy Kant khẳng
định rằng, thị hiếu thẩm mỹ mang tính vô tư, không mục đích, không khái niệm.
Do đó, cái riêng của thị hiếu thẩm mỹ của một con người là một hình thức cụ
thể biểu hiện và phản ánh trị một mức độ nhất định về trình độ, xu hướng nói chung
của một xã hội, một thời đại.
2.1.2. Các yếu tố tạo thành thị yếu thẩm mỹ
Thị hiếu thẩm mĩ là sự thống nhất hài hòa giữa tình cảm và lý trí, giữa cảm xúc
và trí tuệ. Thiếu yếu tố cảm xúc, sự đánh giá của thị hiếu sẽ mất đi tính riêng biệt độc
đáo của nó. Ngược lại, nếu không có sự dẫn dắt của các yếu tố lí trí, trí tuệ, thì sự lựa 8
chọn của thị hiếu sẽ mất đi tính định hướng, và sự đánh giá của thị hiếu sẽ chẳng có
được độ tin cập như nó cần phải có.
Sự kết hợp giữa yếu tố cảm xúc và yếu tố trí tuệ trong thị hiếu thẩm mỹ liên
quan đến một vấn đề rất tế nhị - đó là vấn đề thị hiếu cao và thị hiếu thấp.
Những người có thị hiếu thấp (hay thị hiếu kém phát triển) là những người chưa
được nâng cao về trình độ học vấn và trình độ thẩm mỹ. Những người có thị hiếu thẩm
mỹ thấp, khi đánh giá các hiện tượng thẩm mĩ thường hay nặng về cảm tính. Khả năng
phân biệt giữa cái đẹp thật và cái không đẹp á họ còn rất hạn chế. Phần lớn những
người này thường có xu hướng thích những cái không đẹp vì tưởng rằng nó đẹp. Tình
trạng này được bộc lộ khá phổ biến trong nhiều lĩnh vực khác nhau của cuộc sống: từ
trang phục, mua sắm đồ đạc, trang trí nhà cửa cho đến cách nói năng, giao tiếp và
trong thưởng thức nghệ thuật,...
Những người có thị hiếu cao (hay thị hiếu phát triển) là những người có vốn
văn hóa chung, có trình độ học vấn sâu rộng và vốn kinh nghiệm thẩm mĩ phong phú.
Và những người này, thị hiếu thẩm mỹ thường tinh tế hơn, sâu sắc hơn. Nhờ vậy,
những đánh giá thẩm mĩ của họ cũng trá nên đúng đắn và toàn diện hơn cả về nội dung lẫn hình thức,...
Như vậy, thị hiếu thẩm mỹ cao hay thấp phụ thuộc vào trình độ tri thức của chủ
thể. Trong đó, tri thức thẩm mĩ, tri thức về nghệ thuật là yếu tố rất quan trọng bái khả
năng đánh giá và lựa chọn của thị hiếu thẩm mỹ, xét đến cùng - là do yếu tố trí tuệ quy
định. Vì vậy, việc không ngừng nâng cao trình độ thẩm mĩ cho công chúng luôn là vấn
đề trọng đại của sự nghiệp giáo dục thẩm mĩ của xã hội.
Thị hiếu thẩm mĩ biểu hiện năng lực thẩm mĩ chủ chủ quan của chủ thể, nhưng
sự hình thành, vận động và phát triển của nó không tách rời với các yếu tố xã hội như
yếu tố giai cấp (trong xã hội có phân chia giai cấp), yếu tố dân tộc, thời đại và yếu tố
lứa tuổi,... Nói khác đi, thị hiếu thẩm mĩ là một quan hệ biện chứng của cái cá nhân
(tính chất cá nhân) và cái xã hội (tính chất xã hội), được biểu hiện thành năng lực thẩm
mĩ của mỗi chủ thể xác định. 9
2.2. Khái quát về thị hiếu thẩm mỹ của sinh viên ngày nay
Việt Nam là một đất nước đang phát triển, năng động với các đặc trưng văn hóa
nổi bật là sự giao lưu, cởi mở và dễ tiếp nhận các yếu tố văn hóa từ đa quốc gia. Cùng
với quá trình thay đổi liên tục, đời sống nhân dân ngày càng thay đổi với nhu cầu
hưởng thụ văn hóa của người dân ngày càng cao. Đối với giới trẻ, bối cảnh xã hội này
tạo điều kiện thuận lợi để họ có thể tiếp thu và thưởng thức những giá trị văn hóa nhân
văn và tiến bộ của thế giới. Từ đó, góp phần nâng cao nhu cầu và thị hiếu thẩm mỹ, thị
hiếu nghệ thuật của giới trẻ ngày càng đa dạng và phong phú hơn.
Hiện nay Việt Nam đang trong quá trình hội nhập với quốc tế trong nhiều lĩnh
vực, giao lưu văn hóa diễn ra dưới nhiều hình thức, Internet và truyền thông nói chung
có ảnh hưởng mạnh mẽ đến nhận thức và thị hiếu thẩm mỹ của giới trẻ. Các loại hình
nghệ thuật qua những phương tiện nghe nhìn hiện đại đã đáp ứng nhu cầu của giới trẻ
từng ngày, từng giờ từng phút, tác động trực tiếp đến họ: máy nghe nhạc cá nhân, điện
thoại di động, các loại máy tính cá nhân, truyền hình... Lĩnh vực thời trang cũng được
truyền thông phản ánh hàng ngày, từ những "tin hot" về các ngôi sao, diễn viên, người
mới nổi... đến những xu hướng thời trang thế giới luôn được cập nhật. Hình ảnh các
"ngôi sao", "hot girl" tràn ngập bìa sách báo tạp chí mà thiếu vắng những sự bình luận
phân tích của các chuyên gia trong lĩnh vực này. Phim ảnh cũng đang là "trào lưu" mới
của giới trẻ thành phố vì hiện nay xem phim ở các rạp hiện đại, tiện nghi và luôn có
phim mới, hay... có thể từ dư luận của giới trẻ về bộ phim này để nhìn nhận "thị hiếu"
về điện ảnh của lớp trẻ.
Ngoài ra, cần nhận thấy rằng "thị hiếu thẩm mỹ" không chỉ thể hiện qua lĩnh
vực nghệ thuật (mặc dù đây là lĩnh vực nhạy cảm nhất của thị hiếu giới trẻ), mà còn ở
nhiều lĩnh vực khác, được biểu hiện rõ nhất là trong môi trường đô thị đang trong quá
trình xây dựng thành phố văn minh - hiện đại. Thẩm mỹ trong xây dựng, trang trí nội
thất nhà ở, quán cà phê, cửa hàng, tiệm ăn... Nhất là trong "ngôn ngữ giao tiếp" và
"ứng xử văn hóa" của những cư dân đô thị... Muốn có một thành phố đẹp cần có những
con người hiểu biết về cái đẹp, từ đó mới có thể gìn giữ những nét đẹp truyền thống và
tạo dựng thêm những nét đẹp mới của thành phố. 10
Tuy nhiên, bên cạnh những ảnh hưởng tích cực không thể không nhận thấy ảnh
hưởng tiêu cực của các phương tiện truyền thông là có thể đưa đến nhận thức thẩm mỹ
lệch lạc, hay nhẹ nhất cũng là tạo nên vài "cơn sốt ảo" về giá trị văn hóa của một tác
phẩm nghệ thuật, một "ngôi sao đang lên"... Tuy tác hại có thể chưa nhận ra ngay
nhưng dần dần sẽ làm giới trẻ "miễn dịch" với "cái xấu". Xây dựng thẩm mỹ tốt đẹp là
quá trình lâu dài và khó khăn nhưng chỉ vài tác động nhỏ hàng ngày cũng làm mất đi
nhận thức về "cái đẹp thực sự". Vai trò của truyền thông thực sự quan trọng trong
trách nhiệm định hướng thẩm mỹ cho giới trẻ hiện nay, nhất là các mạng xã hội và các
hình thức hoạt động khác trên Internet.
Thế giới mở đã tạo điều kiện cho giới trẻ có nhiều cơ hội tiếp xúc, giao lưu với
các nền văn hoá khác trên thế giới; khả năng học hỏi, tiếp thu của giới trẻ rất nhanh, vì
vậy trong quá trình tiếp xúc, sẽ không tránh khỏi việc tiếp nhận nhanh những giá trị
văn hoá không phù hợp với chuẩn mực xã hội, với truyền thống văn hoá của dân tộc.
Qua những biểu hiện ở một bộ phận giới trẻ có thể thấy rằng, việc cảm nhận, thưởng
thức và đánh giá các giá trị văn hoá, thị hiếu thẩm mỹ bị thay đổi do không có một
phông văn hoá vững chắc, làm lệch đi giá trị Chân – Thiện – Mỹ theo cách hiểu truyền thống.
Giới trẻ ngày nay có rất nhiều cơ hội để tiếp cận và thưởng thức cái đẹp, thưởng
thức nghệ thuật; bên cạnh việc giáo dục và đào tạo chuyên môn nghiệp vụ, giới trẻ còn
có nhu cầu làm giàu hơn về mặt tinh thần thông qua phát triển năng lực thị hiếu thẩm
mỹ đa dạng và phong phú. Kích thích nhu cầu hình thành thị hiếu thẩm mỹ chính
đáng, phù hợp chuẩn mực xã hội, sống có lý tưởng, tinh thần chia sẻ, tình cảm, yêu
thiên nhiên, yêu cuộc sống; bên cạnh đó khơi dậy khả năng tiềm ẩn của bản thân, sống
đúng, sống đẹp, có đủ trình độ chuyên môn cũng như kỹ năng vững chắc trở thành
công dân trẻ tử tế, tự tin và chủ động trong lựa chọn nghề nghiệp và cuộc sống cho chính bản thân.
Như vậy, có thể thấy, giới trẻ Việt Nam hiện nay vừa tha thiết với các giá trị
truyền thống vừa thức thời trước sự phát triển của văn minh hiện đại, do đó cái cốt lõi
là giáo dục và tổ chức xã hội cần có góc nhìn tương tác biện chứng để biến các giá trị
văn hóa truyền thống thành mục tiêu và là động lực cho sự phát triển của văn minh 11
hiện đại và ngược lại phát triển văn minh muốn bền vững cũng cần phải chú trọng dựa
trên những nền tảng giá trị của văn hóa. Người trẻ đang cần sống trong không gian văn
hóa có sự tương tác liên cá thể, ở mỗi cá thể cần có một bản sắc riêng của sự đa dạng
văn hóa – một nguồn lực sáng tạo và cảm xúc góp phần cho sự phát triển xã hội đương đại.
2.3 - Tác động của mối quan hệ đến vấn đề
2.3.1 - Ảnh hưởng của mối quan hệ đến thị hiếu thẩm mỹ của sinh viên
Từ góc nhìn của khách quan, sinh viên có nhiều cơ hội khám phá sự đa dạng
thẩm mỹ thông qua mối quan hệ biện chứng giữa nội dung và hình thức:
2.3.1.1 Thay đổi thế giới quan về mối quan hệ và hình thành nền
tảng cho sự phát triển thị hiếu thẩm mỹ
Khi nắm rõ được ý nghĩa mối quan hệ biện chứng giữa nội dung và hình thức,
sinh viên được tiếp cận với các đối tượng thẩm mỹ sẽ nhận ra ngay trong thị hiếu
thẩm mỹ cũng cần có sự tương tác, gắn bó giữa nội dung và hình thức.
Mối quan hệ biện chứng giữa nội dung và hình thức giảng giải cho sinh viên
hiểu rằng một hiện tượng, sự kiện, con người hay tác phẩm nghệ thuật không thể
được đánh giá chỉ dựa trên nội dung hay thông điệp mà nó mang. Thực tế để đánh giá
một sự vật có tính nghệ thuật cao có thể được tăng cường và tạo ra ấn tượng mạnh mẽ
hơn thông qua việc sử dụng ngôn ngữ, màu sắc và các yếu tố khác của hình thức biểu đạt.
Chẳng hạn như, một bản tình ca mang trong mình những lời ca tha thiết, trìu mến
nhưng lại không có sự hài hòa giữa các âm sắc, các quãng không được liên kết chặt
chẽ với nhau làm cho bản tình ca trở nên chói tai, khó biểu đạt được tình ý trong nội
dung. Ngược lại, một tác phẩm có hình thức tuyệt đẹp nhưng thiếu nội dung ý nghĩa
chỉ trở thành một tác phẩm “rác”. 12
Bằng cách tương tác giữa nội dung và hình thức, sinh viên hiểu được lại chủ
động sự bổ trợ qua lại giữa hai yếu tố này, tạo ra trải nghiệm thẩm mỹ tốt hơn. Khi
sinh viên áp dụng phân tích và tổ hợp nội dung và hình thức một cách thông minh, họ
có thể đánh giá khách quan hay tạo ra đối tượng thẩm mỹ mà không chỉ chứa đựng
thông điệp sâu sắc mà còn gây ấn tượng mạnh mẽ và tạo ra trải nghiệm thẩm mỹ tốt cho người xem.
Việc hiểu và áp dụng mối quan hệ biện chứng giữa nội dung và hình thức là
một yếu tố quan trọng trong việc phát triển và bộc lộ thị hiếu thẩm mỹ của sinh viên.
2.3.1.2 Nâng cao thị hiếu sinh viên về sự tương quan giữa cá nhân và xã hội.
Thấm nhuần tư tưởng triết học, hiểu được mối quan hệ biện chứng sẽ thúc đẩy
sinh viên mài mò tìm hiểu, nghiên cứu cách xã hội đã từng định hình nội dung và
phát triển hình thức trong lịch sử như thế nào. Họ có thể theo dõi sự tiến bộ của nghệ
thuật qua các giai đoạn lịch sử và xem những mâu thuẫn nghệ thuật được bắt đầu,
diễn ra rồi kết thúc. Thông qua đó, sinh viên cũng có thể khám phá cách mà đối tượng
thẩm mỹ có thể tác động và thay đổi xã hội thông qua sự thay đổi nội dung và hình
thức. Gợi mở tính thị hiếu về mâu thuẫn giữa các trường phái, phong cách và xu
hướng. Dần dần nâng cao khả năng quan sát, phân tích thẩm mỹ.
Bên cạnh đó, mối quan hệ biện chứng giữa nội dung và hình thức khuyến
khích sự sáng tạo và khám phá của sinh viên. Gợi mở nhận thức về mâu thuẫn giữa
các trường phái, phong cách và xu hướng nghệ thuật. Sinh viên có thể tìm hiểu sự
tương quan phức tạp giữa cá nhân và xã hội trong quá trình sáng tạo và tiếp nhận
nghệ thuật. Họ có thể nghiên cứu cách mà cá nhân nghệ sĩ tạo ra nội dung và hình
thức theo cái “tôi” cá nhân khi bị ảnh hưởng bởi xã hội, văn hóa và các tình huống
lịch sử. Sinh viên cũng có thể xem xét cách mà công chúng tiếp nhận và tương tác với
nghệ thuật dựa trên các giá trị và quan điểm cá nhân cũng như những yếu tố xã hội
hóa khác. Điều này sẽ hỗ trợ sinh viên đúc kết được những kinh nghiệm và chiêm
nghiệm nhiều hơn về chân-thiện-mỹ. 13
Mối tương quan giữa cá nhân và xã hội trong mọi lĩnh vực tạo ra sự đa dạng
thẩm mỹ và mang lại cơ hội cho khám phá và hiểu biết sâu hơn về sự đa dạng này.
Sinh viên có thể áp dụng kiến thức và hiểu biết thẩm mỹ của mình để tạo ra các đối
tượng thẩm mỹ độc đáo. Họ có thể khám phá cách kết hợp và thay đổi nội dung và
hình thức để tạo ra những trải nghiệm thẩm mỹ độc đáo và cá nhân. Điều này khuyến
khích sinh viên không chỉ là người tiêu thụ tác phẩm nghệ thuật mà còn là người sáng
tạo, thể hiện ý tưởng và suy nghĩ của mình thông qua mối quan hệ biện chứng giữa nội dung và hình thức.
Tuy nhiên, việc nâng cao thị hiếu sinh viên về sự tương quan giữa cá nhân và
xã hội không chỉ có lợi cho sự phát triển cá nhân mà còn có ảnh hưởng đến xã hội.
Bằng cách hiểu rõ hơn về mối quan hệ này, sinh viên có thể trở thành những người
đóng góp tích cực vào xã hội thông qua sự sáng tạo và nhận thức thẩm mỹ. Họ có thể
tạo ra những tác phẩm nghệ thuật mang tính chất xã hội, thể hiện những giá trị và vấn
đề quan trọng trong xã hội hiện đại.
Đồng thời, việc khám phá mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội cũng mở ra cơ
hội cho sinh viên hiểu rõ hơn về thế giới xung quanh, văn hóa và lịch sử. Điều này
giúp mở rộng tầm nhìn và khả năng thấu cảm của sinh viên đối với những người khác
và những tình huống khác nhau. Sự nhạy cảm và hiểu biết sâu về mối quan hệ giữa xã
hội và nghệ thuật cũng có thể giúp sinh viên trở thành những người lãnh đạo văn hóa
trong tương lai, đóng góp vào việc xây dựng một xã hội mang tính nhân văn và phát triển bền vững.
2.3.2 - Những biểu hiện, tương tác của sinh viên trong quá trình bộc lộ thị
hiếu thẩm mỹ của mình
Trong quá trình nhìn nhận và bộc lộ thị hiếu thẩm mỹ sinh viên thường có
những biểu hiện cụ thể như sau:
2.3.2.1 - Nhu cầu bộc lộ cái “tôi” cá nhân.
Vốn dĩ nhu cầu bộc lộ cái “tôi” được xếp trở thành điều quan trọng tất yếu
nhất trong bậc thang nhu cầu của Maslow và điều ấy được thể hiện rõ ràng hơn khi 14
con người, đặc biệt là lứa tuổi sinh viên sau khi được rèn giũa thị hiếu thẩm mỹ lại càng bộc lộ mạnh hơn.
Định vị được thị hiếu bản thân tạo tiền đề cho sự tự tin và tự chủ để phát triển
mạnh mẽ hơn với niềm yêu dành cho chân-thiện-mỹ. Ta có thể nhìn vào một sinh
viên không ngần ngại bày tỏ những quan điểm, lý luận của mình trước đám đông đầy
tự tin và tự chủ; một sinh viên dám thể hiện, đưa ra những quan điểm mới mẻ trước
thời đại hay không giữ chặt lấy các quy tắc chuẩn mực về đối tượng thẩm mỹ; và gần
gũi hơn là những nam thanh nữ tú tự do phối đồ, ăn mặc thời trang theo đúng cá tính,
sở thích của mình bước vào giảng đường. Tất cả là để bộc lộ và khẳng định bản thân
hay cao hơn là bộc lộ được thị hiếu thẩm mỹ của bản thân.
2.3.2.2. Sự nhạy bén và tương tác với xã hội
Sau khi được nâng cao thị hiếu thẩm mỹ, sinh viên có khả năng nhạy bén với
các đối tượng thẩm mỹ và tương tác với xã hội một cách tốt hơn. Thị hiếu thẩm mỹ
phát triển giúp sinh viên có khả năng phân tích và đánh giá các tác phẩm nghệ thuật,
từ các tác phẩm hội họa, điêu khắc, âm nhạc đến văn học, phim ảnh và sân khấu hay
hơn thế nữa là về các khía cạnh xã hội
Sinh viên có sự nhạy bén về thẩm mỹ có khả năng nhận ra và đánh giá các yếu
tố thẩm mỹ trong xã hội xung quanh họ. Họ có khả năng đọc hiểu và giải mã các
thông điệp và ý nghĩa mà nghệ thuật truyền tải hay những sự kiện, sự việc trong thực tiễn xã hội.
Ngoài ra, sinh viên có thể tương tác với xã hội thông qua nghệ thuật để phản
ánh cái đẹp, cái xấu, cái bi, cái hài, cái trác tuyệt trong cuộc sống. Họ có khả năng tạo
ra và thể hiện ý tưởng và suy nghĩ cá nhân thông qua nghệ thuật, từ việc viết, sáng tác
âm nhạc, điêu khắc, vẽ tranh đến biểu diễn sân khấu.Chúng ta rất dễ để tìm thấy việc
sinh viên đăng tải, chia sẻ các tác phẩm hay bình phẩm đối tượng thẩm mỹ thông qua
các nền tảng trực tiếp như Instagram, Pinterest, hay các diễn đàn khác… Sự nhạy bén
về thẩm mỹ giúp sinh viên tự tin hơn trong việc thể hiện bản thân và giao tiếp với
công chúng thông qua nghệ thuật. 15