



















Preview text:
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA LÍ LUẬN CHÍNH TRỊ
BỘ MÔN TRIẾT HỌC MÁC- LÊNIN
TIỂU LUẬN CUỐI KỲ
HỌC KỲ 1 / 2022-2023 ﺀﺀﺀﺀﺀﺀﺀ
LÝ LUẬN VỀ MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA NỘI DUNG VÀ HÌNH
THỨC TRONG PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT VÀ TÁC ĐỘNG CỦA NÓ
ĐẾN THỊ HIẾU THẨM MỸ CỦA SINH VIÊN HIỆN NAY
GVHD: Th.S Đỗ Thị Thanh Huyền
SVTH: Lương Phương Thúy 22132164
Trương Võ Hoàng Tú 22132193
Trương Minh Truyện 22132184 Phạm Kim Tuyến 22132191 Lê Thị Tú Quyên 22132132
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 11 tháng 11 năm 2022
DANH SÁCH THÀNH VIÊN THAM GIA VIẾT TIỂU LUẬN:
HỌC KÌ I NĂM HỌC 2021-2022
Đề tài: Lý luận về mối quan hệ biện chứng giữa nội dung và hình thức trong
phép biện chứng duy vật và tác động của nó đến thị hiếu thẩm mỹ của sinh viên hiện nay. Họ và tên MSSV Tỉ lệ % Lương Phương Thúy 22132164 100% Trương Võ Hoàng Tú 22132193 100% Trương Minh Truyện 22132184 100% Phạm Kim Tuyến 22132191 100% Lê Thị Tú Quyên 22132132 100%
Ghi chú: Tỉ lệ % = Mức độ phần trăm của từng sinh viên tham gia NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN:
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………. ĐIỂM:
………………………………………………………………………………………
………………………….……………………………………………..……
KÍ TÊN:……………….………………………………….………………. MỤC LỤC
CHƯƠNG 1: PHẦN MỞ ĐẦU……………………………...……………………1
1.1 Lý do chọn đề tài………………………………………………………………1
1.2 Mục tiêu nghiên cứu…………………………………………………………...2
1.3 Phương pháp nghiên cứu………………………………………………….…..2
CHƯƠNG 2: MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA NỘI DUNG VÀ HÌNH
THỨC TRONG PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT………………………...……2
2.1 Khái niệm………………………………………………………………..……..2
2.1.1 Khái niệm về nội dung………………………………………………..……..2
2.1.2 Khái niệm về hình thức…………………………………………….….…….2
2.1.3 Khái niệm nội dung trong phép biện chứng duy vật……………..……….3
2.1.4 Khái niệm hình thức trong phép biện chứng duy vật……………..............3
2.2 Mối quan hệ biện chứng giữa nội dung và hình thức…………….…………3
2.2.1 Sự thống nhất gắn bó chặt chẽ giữa nội dung và hình thức………………3
2.2.2 Vai trò quyết định của nội dung đối với hình thức trong quá trình vận
động và phát triển của sự vật…………………………………………..................5
2.2.3 Sự tác động tích cực ngược trở lại giữa hình thức và nội dung……..........6
2.3 Ý nghĩa của phép biện chứng trong mối quan hệ nội dung và hình thức….7
CHƯƠNG 3: TÁC ĐỘNG CỦA MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA NỘI
DUNG VÀ HÌNH THỨC TRONG PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT ĐẾN THỊ
HIẾU THẨM MỸ SINH VIÊN HIỆN NAY……………………………………..7
3.1 Khái niệm………………………………………………………………………7
3.1.1 Thị hiếu là ……………………………………………………….…………..7
3.1.2 Thẩm mỹ là…………………………………………………….…………….8
3.1.3 Thị hiếu thẩm mỹ là………………………………………............................9
3.2 Thị hiếu thẩm mỹ của sinh viên hiện nay…………………….……………..10
3.2.1 Biểu hiện và tác động của thị hiếu thẩm mỹ đến sinh viên hiện nay……11
3.2.2 Nguyên nhân tạo nên thị hiếu thẩm mỹ đối với sinh viên……………….12
3.2.3 Đánh giá biểu hiện…………………………………………….……………13
3.2.4 Một số giải pháp nhằm nâng cao nhận thức và thị hiếu thẩm mỹ của sinh
viên……………………………………………………...........................................14
3.3 Sự tác động của mối quan hệ biện chứng giữa nội dung và hình thức trong
phép biện chứng duy vật đến thẩm mỹ của sinh viên hiện nay….……………15
CHƯƠNG 4: KẾT LUẬN CHUNG..……………………………………………19
TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………………………….20
CHƯƠNG 1: PHẦN MỞ ĐẦU
1.1 Lý do chọn đề tài
Triết học Mác- Lênin là khoa học của mọi khoa học. Nó không những giúp con
người giải quyết những vấn đề liên quan với nhau mà còn nâng cao tư duy, mở
rộng thế giới quan của con người để ta có thể nhận thức đúng đắn và cải tạo
hiệu quả thế giới. Bên cạnh đó, triết học còn nghiên cứu về các câu hỏi chung
và cơ bản về sự tồn tại, kiến thức, giá trị, lý trí, tâm trí và ngôn ngữ. Những câu
hỏi như vậy thường được đặt ra là vấn đề cần nghiên cứu hoặc giải quyết; qua
đó nhằm thảo luận phê bình, lập luận hợp lý và trình bày có hệ thống. Và trong
quá trình hội nhập và phát triển đất nước, thì vấn đề về thị hiếu thẩm mỹ của
sinh viên Việt Nam hiện nay cũng là một đề tài đáng để nghiên cứu. Bởi phát
triển con người toàn diện và hài hòa là mục đích lý tưởng của xã hội ta. Con
người phát triển toàn diện và hài hòa nghĩa là con người phát triển cả về thể
chất tinh thần, cả lý trí và tình cảm, cả năng lực lao động và khả năng sáng tạo
đồng thời hưởng thụ các sản phẩm do chính mình làm ra. Tuy nhiên trong bối
cảnh xã hội hiện nay, có sự nhìn nhận về phát triển con người có phần thiên
lệch, đặc biệt là do chạy theo lợi ích của vật chất mà không ít người đã tuyệt đối
hóa giá trị vật chất, xem nhẹ hoặc quên đi giá trị tinh thần của con người. Thực
tế đời sống tinh thần là vô cùng quan trọng đối với mỗi cá nhân nói riêng và với
xã hội nói chung. Sinh viên- thế hệ trẻ của đất nước là lực lượng quan trọng, có
vai trò quyết định đến vận mệnh, tương lai của đất nước. Chính vì thế mà thị
hiếu thẩm mỹ của sinh viên là một vấn đề cấp bách trong đời sống thẩm mỹ nói
chung và thị hiếu của sinh nói riêng cần được quan tâm hơn: không phải sinh
viên nào cũng có được một thị hiếu thẩm mỹ tốt, có nhiều sinh viên cũng có
những nhược điểm về tâm sinh lý, hạn chế về thế giới quan khiến cho công tác
giáo dục tư tưởng và thị hiếu gặp phải không ít khó khăn. 1
Với những lí do trên, nhóm chúng em đã thống nhất chọn đề tài: “Lí luận về
mối quan hệ biện chứng giữa nội dung và hình thức trong phép biện chứng duy
vật và tác động của nó đến thị hiếu thẩm mỹ của sinh viên hiện nay” làm tiểu
luận triết học của mình.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
Trên cơ sở mối quan hệ giữ nội dung và hình thức trong phép biện chứng duy
vật, luận án làm rõ nội dung về tác động của mối quan hệ nội dung và hình thức
trong phép biện chứng duy vật đối với thị hiếu thẩm mỹ của sinh viên hiện nay.
Từ đó ta có thể đề ra những phương hướng và các giải pháp nhằm nâng cao thị
hiếu thẩm mỹ của sinh viên Việt Nam hiện nay.
1.3 Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp của nghiên cứu luận án là chủ nghĩa duy vật biện chứng. Bên
cạnh đó tra cứu tài liệu, tổng hợp và phân tích thông tin, nghiên cứu và đưa ra
những nhận xét đánh giá. Ngoài ra, vận dụng quan điểm toàn diện và hệ thống
kết hợp khái quát và mô tả, phân tích và tổng hợp các phương pháp liên ngành
xã hội và nhân văn để đề ra những phương hướng và giải pháp tốt nhất đối với vấn đề trên.
CHƯƠNG 2: MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA NỘI DUNG VÀ HÌNH
THỨC TRONG PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT 2.1 Khái niệm
2.1.1 Khái niệm về nội dung
Nội dung là phạm trù chỉ tổng hợp tất cả những mặt, những yếu tố, những quá trình
tạo nên sự vật, là mặt bên trong của sự vật, cái được hình thức chứa đựng hoặc biểu hiện.
2.1.2 Khái niệm hình thức: 2
Toàn thể nói chung những gì làm thành bề ngoài của sự vật, chứa đựng hoặc biểu hiện nội dung.
2.1.3 Khái niệm nội dung theo duy vật biện chứng:
Ta hiểu về nội dung theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin cụ thể như sau:
Nội dung về cơ bản được hiểu là một phạm trù tóm tắt một cách đơn giản tất cả các
khía cạnh, yếu tố và quá trình cấu thành nên một sự vật.
Theo khái niệm của từ điển tiếng Việt, về cơ bản ta có thể hiểu nội dung là mặt bên
trong của sự vật, được chứa đựng hoặc được biểu hiện cụ thể bằng hình thức:
Nội dung không chỉ bao gồm các bộ phận và các tác động qua lại của chúng với
nhau, tức là tác động qua lại bên trong, mà còn chi phối tác động qua lại với các đối tượng bên ngoài khác
Nội dung là chất liệu để xây dựng nên sự vật, hiện tượng. Vì vậy, nó được coi là
mặt bên trong của sự vật, được chứa đựng hoặc biểu hiện bằng hình thức.
2.1.4 Khái niệm hình thức theo duy vật biện chứng:
Là phạm trù chỉ phương thức tồn tại, biểu hiện và phát triển của sự vật, hiện tượng.
Là hệ thống các mối quan hệ tương đối ổn định giữa các yếu tố cấu thành nên nội
dung của sự vật, hiện tượng và không chỉ là biểu hiện bên ngoài mà còn là kết cấu
bên trong của sự vật và hiện tượng.
Hình thức là tổng thể những cái tạo nên hình thức bên ngoài của sự vật, cái chứa
đựng hoặc biểu hiện nội dung. Hình thức là cách thức thể hiện, tiến hành một hoạt
động bao gồm hình thức bên trong và hình thức bên ngoài.
2.2 Mối quan hệ biện chứng giữa nội dung và hình thức
2.2.1 Sự thống nhất gắn bó chặt chẽ giữa nội dung và hình thức 3
Trước hết, nội dung và hình thức gắn bó hết sức chặt chẽ với nhau. Nội dung là
những mặt, những yếu tố, những quá trình tạo nên sự vật. Trong khi đó, hình thức
lại chính là hệ thống các mối liên hệ tương đối bền vững giữa những yếu tố ấy. Có
thể thấy rằng, các yếu tố vừa góp phần tạo nên nội dung vừa tham gia vào các mối
liên hệ tạo nên hình thức. Bất kỳ một sự vật nào cũng phải có đồng thời cả nội dung
và hình thức. Không có hình thức nào không chứa nội dung và cũng không có nội
dung nào chỉ tồn tại thuần túy mà không có hình thức. Như vậy, nội dung và hình
thức phải thống nhất với nhau thì sự vật mới tồn tại. Nội dung nào có hình thức đó.
Ví dụ như cây gỗ tốt có thể sản xuất ra rất nhiều những bộ bàn ghế với những kích
thước, khuôn khổ và tính chất bề mặt khác nhau phù hợp với từng nhu cầu và mục
đích sử dụng. Những cây gỗ ấy sẽ được sơ chế, mài nhẵn, đẽo gọt cẩn thận và tất
nhiên sẽ cho ra đời những bộ bàn ghế đẹp, sang trọng, mang lại cảm giác thoải mái,
đồng thời tôn vinh phong thái và đẳng cấp của người sử dụng (nội dung được thể
hiện dưới hình thức). Mặt khác, hình thức lại được thể hiện dưới nội dung. Khi
nhìn vào một bộ bàn ghế đẹp, sang trọng, chắc chắn, lại còn tỏa ra mùi thơm dễ
chịu thì chắc chắn bộ bàn ghế ấy phải được làm từ những loại gỗ tốt, chất lượng
cao, khi sử dụng lâu dài gỗ không có dấu hiệu bị mọt hay ẩm mốc, tạo cảm giác
thoải mái và an tâm cho người sử dụng.
Nội dung và hình thức không thể tồn tại tách rời nhau, nhưng như vậy không có
nghĩa là nội dung và hình thức lúc nào cũng phù hợp với nhau. Không phải một nội
dung bao giờ cũng chỉ được thể hiện trong một hình thức nhất định và ngược lại,
không phải một hình thức chỉ chứa đựng được một nội dung nhất định. Trên thực
tế, trong quá trình phát triển, một nội dung có thể có nhiều hình thức thể hiện. Ví
dụ như với cùng các nguyên vật liệu xây dựng, các nội thất giống nhau nhưng ta có
thể xây dựng và thiết kế được nhiều ngôi nhà với nhiều kiểu kiến trúc khác nhau.
Hoặc cùng 1 diện tích đất, ta có thể xây dựng được nhiều kiểu kiến trúc nhà khác 4
nhau ( 1 tầng, 2 tầng, có sân, không có sân,...). Mặt khác, một hình thức cũng thể
hiện được nhiều nội dung khác nhau. Lấy ví dụ như trong 1 cuốn tiểu thuyết có thể
chứa đựng rất nhiều nội dung với những chủ đề khác nhau ( chiến tranh, lãng mạn,
hài hước, ...). Chính vì điều đặc biệt đó nên việc tận dụng tất cả mọi loại hình thức
có thể, kể cả một số hình thức cũ để phục vụ cho nội dung mới, được xem là một
vấn đề quan trọng. Lênin đã kịch liệt phê phán thái độ chỉ thừa nhận những hình
thức cũ, đồng thời, ông cũng bác bỏ quan niệm phủ nhận mọi hình thức cũ. Ông đòi
hỏi cần phải khai thác mọi loại hình thức có thể có, cả mới lẫn cũ, tất cả đều như
nhau, lấy cái nọ để bổ sung cho cái kia. Làm như vậy không phải để điều hòa cái
mới và cãi cũ mà là để làm cho bất cứ hình thức nào cũng trở thành một công cụ
giành thắng lợi hoàn toàn và cuối cùng, quyết định dứt khoát cho chủ nghĩa cộng
sản. Cụ thể, Lenin từng viết “ Chủ nghĩa giáo điều hữu huynh cứ khăng khăng chỉ
thừa nhận những hình thức cũ, nó đã hoàn toàn phá sản vì nó không nhận thấy nội
dung mới. Chủ nghĩa giáo điều tả khuynh lại khăng khăng tuyệt đối phủ nhận
những hình thức cũ nhất định nào đó mà không thấy rằng nội dung đang tự mở lấy
một con đường xuyên qua tất cả mọi hình thức, rằng nhiệm vụ của những người
cộng sản chúng ta, là phải nắm lấy hết thảy những hình thức đó, học cách lấy hình
thức này bổ sung hết sức nhanh chóng cho các hình thức khác, lấy hình thức này
thay thế cho các hình thức khác…”
2.2.2 Vai trò quyết định của nội dung đối với hình thức trong quá trình vận
động và phát triển của sự vật
Nội dung là mặt động nhất của sự vật, khuynh hướng chủ đạo của nó là biến đổi.
Còn hình thức là mặt tương đối ổn định và bền vững của sự vật, khuynh hướng chủ
đạo của hình thức là ổn định. Hình thức và nội dung tác động lẫn nhau của những
mặt trong sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau trước hết làm cho các yếu tố của nội
dung biến đổi trước; còn những mối liên kết giữa các yếu tố của nội dung, tức hình 5
thức thì chưa biến đổi ngay, vì vậy hình thức sẽ trở nên lạc hậu hơn so với nội dung
và sẽ trở thành nhân tố kìm hãm nội dung phát triển. Do xu hướng chung của sự
phát triển của sự vật, hình thức không thể kìm hãm mãi sự phát triển của nội dung
mà sẽ phải thay đổi cho phù hợp với nội dung mới. Ví dụ, lực lượng sản xuất là nội
dung của phương thức sản xuất còn quan hệ sản xuất biến là hình thức của quá
trình sản xuất. Quan hệ sản xuất biến đổi chậm hơn, lúc đầu quan hệ sản xuất còn là
hình thức thích hợp cho lực lượng sản xuất. Nhưng do lực lượng sản xuất biến đổi
nhanh hơn nên sẽ đến lúc quan hệ sản xuất lạc hậu hơn so với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất và sẽ trở thành yếu tố kìm hãm lực lượng sản xuất phát
triển. Để mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển, con người phải thay đổi quan
hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp với lực lượng sản xuất. Như vậy
sự biến đổi của nội dung quy định sự biến đổi của hình thức.
2.2.3 Sự tác động tích cực ngược trở lại giữa hình thức và nội dung
Hình thức do nội dung quyết định nhưng hình thức có tính độc lập tương đối và tác
động trở lại nội dung. Sự tác động của hình thức đến nội dung thể hiện ở chỗ: nếu
phù hợp với nội dung thì hình thức sẽ ngăn cản, kìm hãm sự phát triển của nội
dung. Sự không phù hợp ấy tiếp tục phát triển và tới một mức độ nhất định sẽ xảy
ra sự xung đột giữa nội dung và hình thức: nội dung mới phá bỏ hình thức cũ và
trên cơ sở của hình thức vừa mới hình thành, nó tiếp tục biến đổi, phát triển và
chuyển sang một trạng thái mới về chất. Ví dụ, khi đi mua sắm, điều đầu tiên đập
vào mắt chúng ta là những sản phẩm với mẫu mã đẹp với kiểu dáng bắt mắt. Chính
yếu tố bắt mắt và đẹp đã thu hút được sự chú ý của chúng ta, sau đó, chúng ta mới
quan tâm đến giá cả, nhãn hiệu và chất lượng của sản phẩm. Ngược lại, nếu sản
phẩm có mẫu mã xấu thì dù chất liệu có tốt, giá cả phải chăng hay có là hàng hiệu
đi chăng nữa thì có thể nào chúng ta cũng không quan tâm tới. Đây chính là tâm lý
chung khi đi mua sắm của hầu hết tất cả mọi người. 6
2.3 Ý nghĩa của phép biện chứng trong mối quan hệ nội dung và hình thức
Nội dung và hình thức luôn gắn bó với nhau trong quá trình vận động, phát triển
của sự vật, vì vậy nên trong nhận thức không được tách rời tuyệt đối hóa giữa nội
dung và hình thức. Đặc biệt, cần chống chủ nghĩa hình thức. Cùng một nội dung,
trong quá trình phát triển của sự vật có thể có nhiều hình thức và ngược lại, một
hình thức có thể có nhiều nội dung. Chính vì lẽ đó, trong hoạt động thực tiễn cần
chủ động nhiều hình thức khác nhau, đáp ứng từng yêu cầu cụ thể khác nhau để đạt hiểu quả cao nhất.
Nội dung quyết định hình thức nên để nhận thức và cải tạo sự vật ta cần căn cứ
trước hết vào nội dung. Tuy nhiên, hình thức cũng có tính độc lập tương đối và tác
động ngược trở lại nội dung. Do vậy trong hoạt động thực tiễn cần phải thường
xuyên đối chiếu giữa nội dung và hình thức để từ đó làm cho hình thức phù hợp với
nội dung, có như vậy thì hình thức mới thúc đẩy nội dung cùng phát triển.
CHƯƠNG 3:TÁC ĐỘNG CỦA MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA NỘI
DUNG VÀ HÌNH THỨC TRONG PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT ĐẾN THỊ
HIẾU THẨM MỸ SINH VIÊN HIỆN NAY 3.1 Khái niệm
3.1.1 Thị hiếu là gì?
Thị hiếu là một khái niệm bao hàm những nội dung hết sức đa dạng và phong phú.
Người Trung Quốc coi thị hiếu là sự thích thú. Người phương Tây gọi là cảm giác,
khẩu vị. Còn chúng ta thường hiểu thị hiếu là sự lựa chọn, sở thích của cá nhân
hoặc một nhóm người nào đó. Có thể gọi thị hiếu là sở thích. Người ta có thể thích
món ăn này không thích món ăn kia, thích hoặc không thích kiểu nhà này hay kiểu
nhà khác; thích hay không thích cách thức giao tiếp này hoặc cách giao tiếp kia.
Cho nên, sở thích được biểu hiện trong mọi lĩnh vực hoạt động xã hội, lối sống, đạo
đức, tính thần và nghệ thuật. 7
Trong các sở thích đó có sở thích tốt, sở thích xấu có sở thích xuất phát từ một nhu
cầu lành mạnh hoặc không lành mạnh, giả tạo, thấp kém, cũng có loại sở thích
không xấu, không có hại, có sở thích này bài xích sở thích kia. Trong xã hội loài
người, con người là một chỉnh thể, mỗi người là một cái riêng, cái đơn nhất, do vậy
tồn tại sở thích cá nhân, thị hiếu cá nhân. Và cũng như vậy thị hiếu cũng được thể
hiện dưới nhiều hình thức khác nhau phản ánh các lĩnh vực tinh thần khác nhau
trong cuộc cuộc sống con người.
Giữ thị hiếu và thị trường có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Thị hiếu của chúng ta
dễ dàng bị ảnh hưởng bởi thị trường. Nhưng ở 1 khía cạnh nào đó, thị hiếu của
chúng ta cũng thay đổi đặc điểm của thị trường.
3.1.2 Thẩm mỹ là gì?
Nhắc đến thẩm mỹ, người ta nghĩ đến việc làm đẹp. Tuy nhiên, thẩm mỹ còn có
nhiều ý nghĩa khác nhau. Vậy thẩm mỹ là gì? Thẩm mỹ là ngành học nghiên cứu,
điều tra của cái đẹp và nhận thức về nó bởi những cá thể. Đó là nguyên do tại sao
nó tương quan ngặt nghèo đến thẩm mỹ và nghệ thuật. Từ thẩm mỹ bắt nguồn từ
thẩm mỹ Latinh tân tiến. Sau này, bên Hy Lạp lại có nghĩa là nhận thức hoặc sự
nhạy cảm trải qua những giác quan. Thẩm mỹ có ý nghĩa khác nhau tuỳ thuộc vào
toàn cảnh mà nó được sử dụng. Mặc dù toàn bộ đều xoay quanh nhận thức về cái đẹp.
Trong đời sống hàng ngày, nó được sử dụng để chỉ sự tồn tại của con người, sự vật,
hiện tượng hoặc không gian nào đó. Ví dụ: “Đặt cái bàn bên cửa sẽ ảnh hưởng đến
tính thẩm mỹ của căn nhà”. Từ thẩm mỹ cũng hoàn toàn có thể đề cập đến vệ sinh
cá thể. Ví dụ: “Cô ấy đã đạt được điểm A về thẩm mỹ. Cô ấy luôn gọn gàng, ngăn nắp những đồ vật”.
3.1.3 Thị hiếu thẩm mỹ là gì? 8
Có rất nhiều quan điểm khác nhau về thị hiếu thẩm mỹ của con người dù ở góc độ
cá nhân hay xã hội. Có quan điểm tuyệt đối hoá vai trò của thị hiếu cá nhân, năng
lực bẩm sinh của cá nhân, hoặc tuyệt đối hoá thị hiếu xã hội của các cộng đồng
người như giai cấp, dân tộc, thời đại. Chẳng hạn, Môngteskiơ cho rằng thị hiếu
thẩm mỹ là “cái thu hút chúng ta chú ý tới đối tượng bằng tình cảm”. Ngược lại
Rútxô coi: “Thị hiếu thẩm mỹ là năng lực nhận xét về cái mà đông đảo mọi người
thích hay không thích”. Còn Cantơ nhận thấy tính phức tạp và tính cá nhân của thị
hiếu thẩm mỹ, nên cho rằng “về thị hiếu không nên bàn cãi”.
Thực ra, thị hiếu thẩm mỹ vừa mang tính cá nhân và tính xã hội, là mối quan hệ
giữa cái riêng và cái chung và nó phụ thuộc vào những điều kiện lịch sử xã hội nhất
định. Thị hiếu thẩm mỹ mang dấu ấn cá nhân, là sở thích của cá nhân, nhưng đồng
thời nó mang tính xã hội sâu sắc và phụ thuộc vào thị hiếu chung của xã hội theo
những chuẩn mực của hoạt động đánh giá thẩm mỹ của xã hội. Chẳng hạn, thời
nguyên thủy khi tồn tại chế độ mẫu hệ, lúc đó thị hiếu thẩm mỹ của toàn bộ bộ tộc
hướng đến cái đẹp của hình tượng người đàn bà theo chủ nghĩa phồn thực. Trong
nền văn hoá Hy Lạp – La mã cổ đại thì đó là hình tượng người anh hùng, nhà triết
học, nhà quán quân thể thao. Thời kỳ trung cổ là cái đẹp và quyền năng tối thượng
của Chúa. Thời kỳ phục hưng là sự ngưỡng mộ cái đẹp trong con người đầy đặn,
phúc hậu, những vẻ đẹp thuần khiết, thanh tao mang tính bản thiện, trong sáng
nhưng khổng lồ. Và trong thời đại văn minh của thế kỷ XXI, với sự phát triển mạnh
mẽ của khoa học công nghệ và vai trò của nền kinh tế tri thức, tính chất toàn cầu
hóa cũng làm xuất hiện những thị hiếu thẩm mỹ mới có tính chất đa dạng và phong
phú hơn, nhất là đề cao yếu tố tri thức của con người.
Thực chất, thị hiếu thẩm mỹ không phải là năng lực bẩm sinh hoặc thần bí và bất
biến. Thị hiếu thẩm mỹ là thái độ tình cảm khiến người ta phải đánh giá trực tiếp,
tức thời trước cái đẹp, cái xấu, cái bi, cái hài trong cuộc sống và nghệ thuật. Vì vậy, 9
thị hiếu thẩm mỹ biểu hiện thế giới quan, nhân sinh quan, trình độ tâm lý - xã hội
của chủ thể khi thẩm định những giá trị thẩm mỹ. Thị hiếu thẩm mỹ không chỉ
được quyết định bởi những đặc điểm của khách thể được cảm thụ còn bởi tính chất
của chủ thể thụ cảm, đánh giá, sáng tạo. Trong thị hiếu thẩm mỹ bao giờ cũng bao
hàm sự thống nhất giữa yếu tố khách thể và chủ thể…
Xuất phát từ quan điểm thực tiễn của mỹ học hiện đại, chúng ta thấy có hai loại thị
hiếu thẩm mỹ bắt nguồn từ hai quan hệ cơ bản của đời sống. Một loại thị hiếu thẩm
mỹ bắt nguồn từ đời sống thực tế, từ trong lao động sản xuất và đấu tranh xã hội
thường đánh giá đúng hơn các chân lý sinh động của cuộc sống. Ngược lại, loại thị
hiếu không bắt nguồn từ cuộc sống, xa rời nghệ thuật lành mạnh là loại thị hiếu
phiến diện, không có khả năng đánh giá đúng giá trị và hướng phát triển của thị
hiếu thẩm mỹ. Hay nói một cách khác tiêu chuẩn để phân biệt thị hiếu tốt với thị
hiếu tồi là ở chỗ, sự đánh giá thị hiếu có phù hợp với những giá trị thẩm mỹ khách quan hay không.
Một thị hiếu tốt là năng lực có được khoái cảm do cái đẹp chân chính đưa lại, là
nhu cầu thụ cảm và sáng tạo cái đẹp trong lao động, trong sinh hoạt hàng ngày,
trong hành vi, cư xử của con người ở trong cuộc sống và trong nghệ thuật. Cơ sở
hình thành của một thị hiếu thẩm mỹ tốt là cảm xúc thẩm mỹ phát triển cao, là cảm
xúc về tính mực thước, là khả năng biết thụ cảm sự hài hoà giữa hình thức và nội
dung, biết nhận ra giá trị thẩm mỹ của các hiện tượng xã hội, của các tác phẩm
nghệ thuật dưới ánh sáng của lý tưởng thẩm mỹ tiên tiến.
3.2. Thị hiếu thẩm mỹ của sinh viên hiện nay
3.2.1. Biểu hiện và sự tác động
Ngày nay, internet với tốc độ phủ sóng cao cùng sự phát triển giao lưu trên "không
gian mạng" đã giúp thanh niên - những con người nhanh nhạy trước thay đổi của 10
thời đại tiếp cận với nhiều thị hiếu khác nhau. Sinh viên chủ yếu bị thu hút bởi các
thị hiếu về thẩm mĩ, thể hiện qua nhiều lĩnh vực như nghệ thuật, xây dựng, kinh
doanh... Tuy nhiên, sinh viên hiện tại đang chưa có cảm nhận rõ ràng về thị hiếu,
dẫn đến các lầm tưởng về thị hiếu của bản thân. Ta dễ dàng nhận thấy điều này
thông qua cách ăn mặc, cách suy nghĩ, cảm thụ thẩm mỹ và những lời lẽ, phát
ngôn... Một vài bạn trẻ dễ dàng cổ xúy cho mặt sai trái của tình yêu và hôn nhân,
mốt thời trang lập dị, phản cảm "thiếu vải" hay các phát ngôn gây sốc dư luận. Đặc
biệt, thanh niên giới trẻ đang có xu hướng yêu thích và đề cao thị hiếu với những
giá trị văn hóa "nhập ngoại" mà gạt bỏ, thậm chí là "chà đạp" giá trị văn hóa truyền
thống của đất nước. Một bộ phận người trẻ tuổi "sính ngoại", đề cao "tung hô"
phong tục tập quán của nền văn hóa khác mà lãng quên "cái hồn dân tộc". Bên cạnh
một số bạn "hòa nhập nhưng lại hòa tan" như vậy, ta cũng bắt gặp các bạn có cách
tiếp nhận thị hiếu một cách tích cực khi đứng trước cơn sốt ảo, các trào lưu về văn
hóa, nghệ thuật. Những bạn trẻ này biết cách tiếp thu đúng đắn, phù hợp với nhu
cầu bản thân và chọn lọc những giá trị tốt đẹp để học hỏi.
Thế giới hội nhập hiện nay dễ dàng tạo điều kiện cho sinh viên có nhiều cơ hội tiếp
xúc và giao lưu với các nền văn hóa khác nhau. Đây cũng là một phần nguyên nhân
gây nên việc tiếp thu, phát triển một cách tiêu cực các thị hiếu. Nguyên nhân chủ
yếu xuất phát từ chính bản thân các bạn trẻ khi có cái nhìn lệch lạc, quan điểm sai
lầm, dẫn đến tiếp nhận những giá trị không phù hợp với chuẩn mực xã hội và
truyền thông văn hóa dân tộc. Ngoài ra, một vài bạn dễ bị kích thích bởi cái mới mẻ
nhưng không chịu tìm tòi kĩ càng.
Nếu không có sự chọn lọc các thị hiếu mang tính tốt đẹp và tích cực, điều gì sẽ xảy
ra? Đầu tiên, xã hội văn minh bị ảnh hưởng bởi các trào lưu "độc hại". Điều này
kéo theo sự phát triển và gia tăng các giá trị thẩm mỹ, văn hóa "bẩn". Không chỉ
vậy, khi thị hiếu của thanh niên ngày càng có chiều hướng "sính ngoại", chúng ta 11
dễ dàng đánh mất đi bản sắc tốt đẹp của dân tộc và "hòa nhập thành hòa tan". Bên
cạnh đó, các bạn trẻ sẽ sa vào những tệ nạn, ứng xử ngày càng kém và đạo đức trở nên suy dồi.
Và để thị hiếu của sinh viên trở nên có định hướng đúng đắn hơn, mỗi người chúng
ta cần tự có ý thức trong việc lựa chọn và tiếp nhận các giá trị văn hóa, thẩm mỹ.
Mỗi cá nhân phải trang bị kiến thức, kỹ năng để hội nhập thời đại toàn cầu.
Ngoài ra, các đơn vị truyền thông, các nhà quản lý cần thường xuyên tổ chức các
chương trình giao lưu văn hóa nghệ thuật, chuyên đề tìm hiểu lịch sử, truyền thống
của mỗi dân tộc. Không chỉ vậy, những người làm giáo dục cần phối hợp với gia
đình để có phương pháp định hướng kiến thức về thị hiếu cho các bạn học sinh.
Như vậy, thị hiếu của thanh niên có ảnh hưởng rất lớn tới xã hội hiện nay. Là một
học sinh viên đang ngồi trên ghế nhà trường, ta nên cố gắng học tập, tìm hiểu và
chọn lọc những kiến thức bổ ích để chung tay xây dựng nước nhà và truyền bá bản
sắc tốt đẹp của dân tộc ra khắp năm châu bốn bể.
3.2.2. Nguyên nhân tạo nên thị hiếu của sinh viên hiện nay
Nguyên nhân biến đổi của thị hiếu thẩm mỹ cần phải có cái nhìn biện chứng. Quá
trình biến đổi cảm thụ thẩm mỹ là sự tác động của nhân tố kinh tế - xã hội, sự tác
động của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và sự tác động của xu thế toàn
cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế.
Internet là một nguyên nhân nổi bật làm biến đổi thị hiếu của thanh niên nói chung
và sinh viên Việt Nam nói riêng. Nó tác động mạnh mẽ đến suy nghĩ,cảm quan, tư
duy của con người thông qua những phim ảnh, báo chí,… có thể tốt xấu tuỳ vào
cách chọn lọc và nhận thức của mỗi sinh viên để tìm được hướng đi đúng đắn, phù
hợp và cũng như sự phát triển của cá nhân. 12
Giá trị văn hoá tinh thần truyền thống của dân tộc và thực tiễn sinh hoạt, văn hoá –
nghệ thuật đa dạng, phong phú, phức tạp với những tác động tích cực và tiêu cực
lên thị hiếu thẩm mỹ, ý thức thẩm mỹ của sinh viên. Nó cũng góp phần khá lớn đến
thẩm mỹ của sinh viên hiện nay.
Nguyên nhân khách quan cũng như chủ quan trong sự biến đổi của thị hiếu thẩm
mỹ của giới trẻ dẫn đến sự thành công hay thất bại trong hoạt động nghệ thuật của
họ và một trong những nguyên nhân đó là vấn đề nhận thức về lĩnh vực thị hiếu
nghệ thuật và được thể hiện rõ nét trong bài “Giáo dục thị hiếu nghệ thuật cho thế
hệ trẻ ở nước ta hiện nay” của Đỗ Huy được đăng trên tạp chí Triết học số 12 năm 2014.
3.2.3 Đánh giá biểu hiện:
Thanh niên ngày nay có nhiều cơ hội để trải nghiệm và thưởng thức cái đẹp và
nghệ thuật, ngoài việc được giáo dục và đào tạo về chuyên môn, thanh niên cũng
cần có. Những trải nghiệm thức tế để làm phong phú thêm thế giới quan tinh thần
của mình bằng cách trau dồi thị hiếu thẩm mỹ đa dạng và phong phú. Kích thích
nhu cầu hình thành thị hiếu thẩm mỹ chính đáng, phù hợp với các chuẩn mực xã
hội, sống có lý tưởng, tinh thần sẻ chia, tình cảm gia đình, yêu thiên nhiên, yêu
cuộc sống; đồng thời, đánh thức tiềm năng tiềm ẩn của bản thân, sống đúng, sống
đẹp, có đủ trình độ chuyên môn và nghiệp vụ vững vàng. Các kỹ năng để trở thành
những công dân trẻ tử tế, tự tin và năng động, những người luôn bảo vệ chính mình
trong mọi hoàn cảnh, giữa những yếu tố thẩm mỹ tích cực và tiêu cực. Có thể thấy,
giới trẻ Việt Nam ngày nay không chỉ thiết tha với các giá trị truyền thống mà còn
bắt kịp sự phát triển của nền văn minh hiện đại, vì vậy cốt lõi là các tổ chức giáo
dục và xã hội cần có góc nhìn khách quan và tương tác để tiếp biến các giá trị văn
hóa truyền thống . Ngược lại với mục tiêu và động lực phát triển của nền văn minh
hiện đại, sự phát triển bền vững của nền văn minh cũng cần quan tâm đến các giá 13
trị văn hóa. Thanh niên cần được sống trong một không gian văn hóa của sự tương
tác giữa các cá nhân, mỗi người cần có một bản sắc riêng với sự đa dạng về văn
hóa-một nguồn lực sáng tạo và cảm xúc góp phần phát triển xã hội.
3.2.4 Một số giải pháp nhằm nâng cao nhận thức và thị hiếu thẩm mỹ của sinh viên
Thứ nhất, nâng cao nhận thức và thị hiếu thẩm mỹ bằng văn hóa nghệ thuật. Không
có một hình thái tư tưởng nào có thể thay thế được nghệ thuật trong việc xây dựng
tình cảm lành mạnh, tác động sâu sắc vào việc đổi mới nếp nghĩ, nếp sống của
người Việt Nam. Nếu biết sử dụng các loại hình nghệ thuật chân chính, có định
hướng thị hiếu thẩm mỹ thì sẽ gây được cảm xúc lành mạnh, tự nó tạo ra cơ chế để
giữ gìn các giá trị văn hóa, hướng con người đến chân - thiện - mỹ.
Thứ hai, giáo dục tư tưởng và thẩm mỹ thông qua việc nêu gương người tốt việc
tốt. Đây là hình thức giáo dục tư tưởng theo sáng kiến đầu tiên của Chủ tịch Hồ Chí
Minh và trên thực tế đã phát huy hiệu quả to lớn. Giá trị văn hóa dân tộc được biểu
hiện một cách sinh động và cụ thể trong từng hành vi, từng cá nhân. Bởi người tốt,
việc tốt cũng là người đẹp, việc đẹp, đó là những con người sống phù hợp với đạo đức và thẩm mỹ.
Thứ ba giáo dục tư tưởng và thị hiếu thẩm mỹ phải thống nhất và kết hợp hài hòa
giữa gia đình, nhà trường và xã hội. Giáo dục thị hiếu thẩm mỹ là phương thức
quan trọng để bồi dưỡng cảm xúc, tình cảm của con người trước thiên nhiên, khi
sống trong xã hội và khi giao tiếp giữa con người với con người. Chỉ thông qua các
hoạt động xã hội thì trong mỗi cá nhân mới nảy sinh cái đẹp, cái tốt, cái thiện. Vì
vậy, nâng cao thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên luôn đòi hỏi phải kết hợp hài hòa của
3 yếu tố trên là giải pháp thiết thực và hiệu quả. 14
Trong quá trình hội nhập nhằm xây dựng đội ngũ tri thức tương lai của đất nước
đòi hỏi hơn bao giờ hết cần phải nâng cao thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên, đáp ứng
được nguồn nhân lực tốt cho xây dựng và phát triển đất nước.
3.3 Sự tác động của mối quan hệ biện chứng giữa nội dung và hình thức trong
phép biện chứng duy vật đến thẩm mỹ của sinh viên hiện nay
Trước khi đi sâu vào đề tài, hãy cùng nhìn lại mối quan hệ biện chứng giữa duy vật
nội dung và hình thức. Nội dung ( toàn bộ những mặt, những yếu tố …) và hình
thức ( phương thức tồn tại và phá triển của sự vật, là cơ sở gắn kết với nội dung )
gắn bó vô cùng chặt chẽ với nhau và có lẽ không thể tách rời. Song nội dung và
hình thức luôn luôn tác động lẫn nhau nhưng cùng một nội dung trong quá trình có
thể xuất hiện nhiều loại hình thức và ngược lại. Tuy vậy nhưng không có nghĩa là
hình thức luôn luôn bị động và tuân theo cái mà nội dung hướng đến, bởi hình thức
cũng có tính độc lập, nếu phù hợp với yêu cầu của nôi dung thì hình thức sẽ là bàn
đạp tạo điều kiện cho nội dung phát triển, còn nếu không thì hình thức sẽ cản trở và
kìm hãm sự phát triển của nội dung. Song cũng có hai luồng ý kiến trong suốt qua
trình tìm hiểu và học tập của nhiều người nói chung, sinh viên nói riêng: nội dung
quan trọng hơn hình thức hay hình thức quan trọng hơn nội dung.
Vậy hãy cùng tìm hiểu sâu vào vấn đề để xem rõ mối quan hệ giữa nội dung và hình thức:
Thứ nhất về đối tượng sinh viên xem nội dung là thứ cốt lỗi, thế nên luôn đặt nó lên
hàng đầu trong quá suốt quá trình hình thành và phát triển, ta có câu “tốt gỗ hơn tốt
nước sơn” họ luôn dùng câu nói đấy để biện minh cho cái sai của mình. Mặc dù
nhiều sinh viên hiểu rõ bản chất vấn đề nhưng khi tiếp cận đề tài của mình thì lại
dẫn đến một số hậu quả về cách trình bày thiếu khoa học, thiếu tính thẩm mỹ, thiếu 15
tính sáng tạo điều này vô hình chung lại là sự cản trở khá lớn đối với việc truyền
đạt vấn đề đến người đọc lẫn người nghe.
Thứ hai về những sinh viên luôn đặt hình thức lên hàng đầu, thiếu chăm chút về
mặt nội dung. Lúc này cái mà sinh viên muốn tới là ánh nhìn của những người
xung quanh nhưng lại không đạt yêu cầu về mặt nội dung dẫn đến bạn đọc sẽ
không đánh giá cao về mức độ hiểu biết vấn đề. Trong quá trình trao đổi và học tập
của sinh viên việc nêu ý kiến, trình bày quan điểm hay thuyết trình trước đám đông
là việc hết sức phổ biến nên đòi hỏi khả năng trình bày dễ hiểu, xúc tích nội dung
rõ ràng đầy đủ là việc tất yếu.
Vậy nên nội dung và hình thức luôn gắn bó, song hành cùng nhau trong quá trình
vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng và tuyệt đối không thể tách rời, để đạt
được hiệu quả cao nhất thì không thể thiếu một trong hai yếu tố đó là việc nắm bắt
được cặn kẽ bản chất vấn đề bên cạnh đó vừa sáng tạo phù hợp về mặt hình thức.
Ta cần phải biết rằng nội dung quyết định hình thức nên để đưa ra được quyết định
cải tạo sự vật, hiện tượng điều tối thiểu mà chúng ta cần căn cứ vào đó chính là nội
dung. Vì hình thức cũng có thể cản trở sự phát triển của nội dung nên cần xem xét
kỹ, theo dõi suốt quá trình vận động của chúng để kịp thời phát hiện và điều chỉnh
đồng thời để tránh các trường hợp hình thức “gây hại” lên nội dung làm cản trở quá
trình phát triển của sự vật, hiện tượng song cũng đẩy nhanh được tiến độ lẫn đạt
được phương hướng có lợi nhất.
Trong quá trình từng bước xây dựng con người hoàn thiện cần phát triển theo đủ
các phương diện: đức-trí-thể mỹ, đó là toàn bộ những yếu tố mà con người trên
toàn thế giới với nền giáo dục tiến bộ, hiện đại hướng đến. Song xã hội hiện nay
đang ngày một thay đổi phức tạp, không ngừng xuất hiện những điều mới và con
người cũng chạy theo cái gọi là vật chất thuần túy mà xem nhẹ những giá trị tinh
thần vốn có. Với những điều kiện biến đổi liên tục như thế thì con người chỉ có thể 16