Lý luận về nguyên nhân – kết quả của phép biện chứng duy vật Liên hệ thực tiễn.| Tiểu luận môn Triết học Mác – Lênin

Triết học là hệ luận thống lí chung nhất của con người về thế giới, về bản thân con người và vị trí của con người trong thế giới đó. Và cũng có quan niệm rằng Triết học là khoa học của các khoa học. Địa lí học là một khoa học, Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

Danh sách tham gia viết luận học kì 1 năm 2020-2021
Nhóm11 , thứ 7, tiết 1-4, Trường ĐH SPKT TPHCM
STT Họ và tên MSSV
1 Trần Nguyễn Nhật Trường
2 Nguyễn Công T
3 Nguyễn Thanh Khiêm 20147280
4 Nguyễn Công Lý
5 Trương Nguyễn Đình Sang 20147320
Lời nhận xét của giáo viên:
……………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………
Ngày Tháng 12 Năm 2020
Giáo viên chấm điểm
1
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
Đề tài: Lý luận về nguyên nhân – kết quả của phép biện chứng duy vật
Liên hệ thực tiễn
2
Mục lục :
Phần mở đầu
1. Lí do chọn đề tài
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3. Phương pháp nghiên cứu
Phần nội dung
CHƯƠNG 1– LÍ LUẬN CHUNG VỀ CẶP PHẠM TRÙ NGUYÊN NHÂN VÀ
KẾT QUẢ CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT
1.1. Khái niệm nguyên nhân và kết quả
1.2. Quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả
1.2.1. Nguyên nhân sinh ra kết quả, xuất hiện trước kết quả
1.2.2. Nguyên nhân và kết quả có thể thay đổi vị trí cho nhau
1.3. Tính chất
1.4. Ý nghĩa phương pháp luận
CHƯƠNG 2 LIÊN HỆ THỰC TIỄN
2.1. Tài nguyên rừng và nguyên nhân suy thoái rừng
2.1.1. Thực trạng rừng hiện nay
2.1.2. Nguyên nhân dẫn đến suy thoái rừng
2.1.3. Hậu quả của việc suy thoái rừng
3
2.2 Thực trạng của vấn đề tắc nghẽn giao thông Tp.HCM.
2.2.1. Một số nguyên nhân cơ bản.
2.2.2. Hậu quả của việc tắc nghẽn giao thông
Phần kết luận.
4
Phần mở đầu
1. Lí do chọn đề tài:
Triết học là hệ luận thống lí chung nhất của con người về thế giới, về
bản thân con người và vị trí của con người trong thế giới đó. Và cũng có quan
niệm rằng Triết học là khoa học của các khoa học. Địa lí học là một khoa học,
có thể nói vừa là khoa học tự nhiên vừa là khoa học xã hội. Nên triết học cũng
có mối quan hệ mật thiết và không thể tách rời khỏi chuyên ngành Địa lí.
Hiểu được mối liên hệ này và hiểu được sự thống nhất giữa lí luận, giữa
nguyên tắc phương pháp luận sẽ giúp cho chúng ta rất nhiều trong quá trình
học tập và nghiên cứu chuyên ngành Địa lí không những thế chúng ta còn vận
dụng tốt Triết học vào trong thực tiễn nghiên cứu và trong đời sống xã hội.
Với lí do nêu trên, chúng tôi đã đi đến quyết định chọn đề tài “Cặp phạm trù
nguyên nhân - kết quả của phép biện chứng duy vật”
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Việc nghiên cứu đề tài giúp chúng tôi có thêm điều kiện củng cố thêm kiến thức
bản thân, tìm hiểu thêm nhiều kiến thức về chuyên ngành và Triết học mà mình
chưa rõ và chưa biết đến. Đặc biệt, mục đích của đề tài là giúp chúng tôi tìm hiểu
được phần nào mối quan hệ giữa Triết học và Xã hội thông qua nội dung . Đồng
thời, qua tìm hiểu nội dung đề tài rất giúp ích cho việc học tập và thêm kiến thức
cho chúng tôi hiện tại và sau này.Chính vì vậy nhiệm vụ của bài tiểu luận tập trung
vào giải quyết các vấn đề chính. Trình bày những kiến thức cơ bản về một trong
5
những cặp phạm trù cơ bản của phép biện chứng duy vật thuộc bộ môn Triết học -
cặp phạm trù Nguyên nhân – kết quả.- Thông qua nội dung cặp phạm trù Nguyên
nhân - kết quả, liên hệ kiến thức thực tế của chuyên ngành để phân tích một vài vấn
đề liên quan đến cặp phạm trù này. Từ đó, có thể đánh giá, đề xuất, kiến nghị một
vài giải pháp để khắc phục những mặt tiêu cực, thúc đẩy nó phát triển theo chiều
hướng tốt hơn.
3. Phương pháp nghiên cứu.
- Phương pháp biện chứng duy vật
- Phương pháp so sánh
- Phương pháp thực nghiệm
- Phương pháp thống kê
6
Phần nội dung
CHƯƠNG 1 – LÍ LUẬN CHUNG VỀ CẶP PHẠM TRÙ NGUYÊNNHÂN VÀ
KẾT QUẢ CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT
1.1. Khái niệm nguyên nhân và kết quả
Phạm trù nguyên nhân và kết quả phản ánh mối quan hệ hình thành của các sự vật,
hiện tượng trong hiện thực khách quan.
Nguyên nhân là phạm trù chỉ sự tác động lẫn nhau giữa các mặt trong một sự vật
hoặc giữa các sự vật với nhau, gây ra một biến đổi nhất định nào đó. Còn kết quả là
phạm trù chỉ những biến đổi xuất hiện do tác động lẫn nhau giữa các mặt trong một
sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau gây ra.
Không nên hiểu nguyên nhân và kết quả nằm ở hai sự vật hoàn toàn khác nhau.
Chẳng hạn cho dòng điện là nguyên nhân của ánh sáng đèn; giai cấp vô sản là
nguyên nhân của cuộc cách mạng vô sản... Nếu hiểu nguyên nhân và kết quả như
vậy sẽ dẫn đến chỗ cho rằng nguyên nhân của một sự vật, hiện tượng nào đấy luôn
nằm ngoài sự vật, hiện tượng đó và cuối cùngnhất định sẽ phải thừa nhận rằng
nguyên nhân của thế giới vật chất nằm ngoài thế giới vật chất, tức nằm ở thế giới
tinh thần.
Cần phân biệt nguyên nhân với nguyên cớ và nguyên nhân với điều kiện. Nguyên
cớ và điều kiện không sinh ra kết quả, mặc dù nó xuất hiện cùng với nguyên nhân.
Thí dụ chất xúc tác chỉ là điều kiện để các chất hoá học tác động lẫn nhau tạo nên
phản ứng hoá học. Phép biện chứng duy vật khẳng định mối liên hệ nhân quả có
tính khách quan, tính phổ biến, tính tất yếu. Tính khách quan thể hiện ở chỗ: mối
liên hệ nhân quả là cái vốn có của bản thân sự vật, không phụ thuộc vào ý thức của
con người. Dù con người biết hay không biết, thì các sự vật vẫn tác động lẫn nhau
và sự tác động đó tất yếu gây nên biến đổi nhất định.
7
Con người chỉ phản ánh vào trong đầu óc mình những tác động vànhững biến đổi,
tức là mối liên hệ nhân quả của hiện thực, chứ không sáng tạora mối liên hệ nhân
quả của hiện thực từ trong đầu mình. Tính phổ biến thể hiện ở chỗ: mọi sự vật, hiện
tượng trong tự nhiên vàtrong xã hội đều có nguyên nhân nhất định gây ra. Không
có hiện tượng nào không có nguyên nhân, chỉ có điều là nguyên nhân đó đã được
nhận thức hay chưa mà thôi. Không nên đồng nhất vấn đề nhận thức của con người
về mối liên hệ nhân quả với vấn đề tồn tại của mối liên hệ đó trong hiện thực.Tính
tất yếu thể hiện ở chỗ: cùng một nguyên nhân nhất định, trong những điều kiện
giống nhau sẽ gây ra kết quả như nhau. Tuy nhiên trong thực tế không thể có sự vật
nào tồn tại trong những điều kiện, hoàn cảnh hoàn toàn giống nhau. Do vậy tính tất
yếu của mối liên hệ nhân quả trên thực tế phải được hiểu là: Nguyên nhân tác động
trong những điều kiện và hoàn cảnh càng ít khác nhau bao nhiêu thì kết quả do
chúng gây ra càng giống nhau bấy nhiêu.
1.2. Quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả
1.2.1. Nguyên nhân sinh ra kết quả, xuất hiện trước kết quả
Tuy nhiên không phải hai hiện tượng nào nối tiếp nhau về mặt thời giancũng là
quan hệ nhân quả. Thí dụ, ngày kế tiếp đêm, mùa hè kế tiếp mùa xuân, sấm kế
tiếp chớp, v.v., nhưng không phải đêm là nguyên nhân của ngày, mùa xuân là
nguyên nhân của mùa hè, chớp là nguyên nhân của sấm,v.v.. Cái phân biệt quan hệ
nhân quả với quan hệ kế tiếp về mặt thời gian là ở chỗ nguyên nhân và kết quả có
quan hệ sản sinh ra nhau. Nguyên nhân củangày và đêm là do sự quay của trái đất
quanh trục Bắc - Nam của nó, nên ánh sáng mặt trời chỉ chiếu sáng được phần bề
mặt trái đất hướng về phía mặt trời.Nguyên nhân của các mùa trong năm là do trái
đất, khi chuyển động trên quỹ đạo, trục của nó bao giờ cũng có độ nghiêng không
đổi và hướng về một phía,nên hai nửa cầu Bắc và Nam luân phiên chúc ngả về phía
mặt trời, sinh ra các mùa. Sấm và chớp đều do sự phóng điện giữa hai đám mây
8
tích điện trái dấusinh ra. Nhưng vì vận tốc ánh sáng truyền trong không gian nhanh
hơn vận tốc tiếng động, do vậy chúng ta thấy chớp trước khi nghe thấy tiếng sấm.
Nhưvậy không phải chớp sinh ra sấm.
Nguyên nhân sinh ra kết quả rất phức tạp, bởi vì nó còn phụ thuộc vào nhiều điều
kiện và hoàn cảnh khác nhau. Một kết quả có thể do nhiều nguyên nhân sinh ra. Thí
dụ,nguyên nhân của mất mùa có thể do hạn hán, có thể do lũlụt, có thể do sâu bệnh,
có thể do chăm bón không đúng kỹ thuật, v.v.. Mặt khác, một nguyên nhân trong
những điều kiện khác nhau cũng có thể sinh ra những kết quả khác nhau. Thí dụ,
chặt phá rừng có thể sẽ gây ra nhiều hậu quả như lũ lụt, hạn hán, thay đổi khí hậu
của cả một vùng, tiêu diệt một sốloài sinh vật, v.v., nếu nhiều nguyên nhân cùng tồn
tại và tác động cùng chiều trong một sự vật thì chúng sẽ gây ảnh hưởng cùng chiều
đến sự hình thành kết quả, làm cho kết quả xuất hiện nhanh hơn. Ngược lại nếu
những nguyên nhân tác động đồng thời theo các hướng khác nhau, thì sẽ cản trở tác
dụng của nhau, thậm chí triệt tiêu tác dụng của nhau. Điều đó sẽ ngăn cản sự xuất
hiện của kết quả. Do vậy trong hoạt động thực tiễn cần phải phân tích vai trò của
từng loại nguyên nhân, để có thể chủ động tạo ra điều kiện thuận lợi cho những
nguyên nhân quy định sự xuất hiện của kết quả (mà con người mong muốn) phát
huy tác dụng. Thí dụ, trong nền kinh tế nhiều thành phần, hoạt động theo cơ chế thị
trường, định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay,mỗi thành phần kinh tế đều
có vị trí nhất định đối với việc phát triển nền kinh tế chung. Các thành phần kinh tế
vừa tác động hỗ trợ nhau, vừa mâu thuẫn nhau, thậm chí còn cản trở nhau phát
triển. Muốn phát huy được tác dụng của các thành phần kinh tế để phát triển sản
xuất, làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, thì phải
tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế đều có điều kiện phát triển, trong đó thành
phần kinh tế nhà nướcphải đủ sức giữ vai trò chủ đạo, hướng các thành phần kinh
tế khác hoạt động theo định hướng xã hội chủ nghĩa; phải tăng cường vai trò quản
9
lý của Nhànước đối với nền kinh tế bằng luật pháp, chính sách, v.v. thích hợp. Nếu
không như vậy, nền kinh tế sẽ trở nên hỗn loạn và năng lực sản xuất của cácthành
phần kinh tế có thể triệt tiêu lẫn nhau. Do vậy phải tìm hiểu kỹ vị trí, vai trò của
từng nguyên nhân.
1.2.2. Nguyên nhân và kết quả có thể thay đổi vị trí cho nhau
Điều này có nghĩa là một sự vật, hiện tượng nào đó trong mối quan hệ này là
nguyên nhân, nhưng trong mối quan hệ khác lại là kết quả và ngược lại. Vì vậy,
Ph.Ăngghen nhận xét rằng: Nguyên nhân và kết quả là những khái niệm chỉ có ý
nghĩa là nguyên nhân và kết quả khi được áp dụng vào một trường hợp riêng biệt
nhất định. Nhưng một khi chúng ta nghiên cứu trường hợp riêng biệt ấy trong mối
liên hệ chung của nó với toàn bộ thế giới, thì những khái niệm ấy lại gắn với nhau
trong một khái niệm về sự tác động qua lại một cách phổ biến, trong đó nguyên
nhân và kết quả luôn thay đổi vị trí cho nhau. Chuỗi nhân quả là vô cùng, không có
bắt đầu và không có kết thúc. Một hiện tượng nào đấy được coi là nguyên nhân hay
kết quả bao giờ cũng ở trong một quan hệ xác định cụ thể. Trong những quan hệ
xác định, kết quả do nguyên nhân sinh ra, nhưng sau khi xuất hiện, kết quả lại có
ảnh hưởng trở lại đối với nguyên nhân. Sự ảnh hưởng đó có thể diễn ra theo hai
hướng: Thúc đẩy sự hoạt động củanguyên nhân (hướng tích cực), hoặc cản trở sự
hoạt động của nguyên nhân (hướng tiêu cực). Thí dụ, trình độ dân trí thấp do kinh
tế kém phát triển, ít đầu tư cho giáo dục. Nhưng dân trí thấp lại là nhân tố cản trở
việc áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, vì vậy lại kìm hãm sản xuất
phát triển. Ngược lại, trình độ dân trí cao là kết quả của chính sách phát triển kinh
tế và giáo dục đúng đắn. Đến lượt nó, dân trí cao lại tác động tích cực đến sự phát
triển kinh tế và giáo dục.
1.3 Tính chất
10
Phép biện chứng duy vật của triết học Marx-Lenin khẳng định mối liên hệ nhân quả
có tính khách quan, tính phổ biến, tính tất yếu.
Tính khách quan: mối liên hệ nhân quả là cái vốn có của bản thân sự vật, không
phụ thuộc vào ý thức của con người. Dù con người biết hay không biết, thì các sự
vật vẫn tác động lẫn nhau và sự tác động đó tất yếu gây nên biến đổi nhất định. Con
người chỉ phản ánh vào trong đầu óc mình những tác động và những biến đổi, tức
là mối liên hệ nhân quả của hiện thực, chứ không sáng tạo ra mối liên hệ nhân quả
của hiện thực từ trong đầu mình.
Tính phổ biến: mọi sự vật, hiện tượng trong tự nhiên và trong xã hội đều có nguyên
nhân nhất định gây ra. Không có hiện tượng nào không có nguyên nhân, chỉ có điều
là nguyên nhân đó đã được nhận thức hay chưa mà thôi. Không nên đồng nhất vấn
đề nhận thức của con người về mối liên hệ nhân quả với vấn đề tồn tại của mối liên
hệ đó trong hiện thực.
Tính tất yếu: cùng một nguyên nhân nhất định, trong những điều kiện giống nhau
sẽ gây ra kết quả như nhau. Tuy nhiên trong thực tế không thể có sự vật nào tồn tại
trong những điều kiện, hoàn cảnh hoàn toàn giống nhau. Do vậy tính tất yếu của
mối liên hệ nhân quả trên thực tế phải được hiểu là: Nguyên nhân tác động trong
những điều kiện và hoàn cảnh càng ít khác nhau bao nhiêu thì kết quả do chúng gây
ra càng giống nhau bấy nhiêu.
1.4 Ý nghĩa phương pháp luận
Từ việc phát hiện mối quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả, Triết học
Mác-Lenin nêu ra một số ý nghĩa phương pháp luận cho mối quan hệ này để ứng
dụng vào thực tiễn và tư duy, cụ thể là:
Mối liên hệ nhân quả có tính khách quan và tính phổ biến, nghĩa là không có sự
vật, hiện tượng nào trong thế giới vật chất lại không có nguyên nhân. Nhưng không
11
phải con người có thể nhận thức ngay được mọi nguyên nhân. Nhiệm vụ của nhận
thức khoa học là phải tìm ra nguyên nhân của những hiện tượng trong tự nhiên, xã
hội và tư duy để giải thích được những hiện tượng đó. Muốn tìm nguyên nhân phải
tìm trong thế giới hiện thực, trong bản thân các sự vật, hiện tượng tồn tại trong thế
giới vật chất chứ không được tưởng tượng ra từ trong đầu óc của con người, tách
rời thế giới hiện thực.
“Hoạt động của con người là hòn đá thử vàng của tính nhân quả”
Ph.Ăng-ghen—
Vì nguyên nhân luôn có trước kết quả nên muốn tìm nguyên nhân của một hiện
tượng nào đấy cần tìm trong những sự kiện những mối liên hệ xảy ra trước khi hiện
tượng đó xuất hiện.
Một kết quả có thể do nhiều nguyên nhân sinh ra. Những nguyên nhân này có vai
trò khác nhau đối với việc hình thành kết quả. Vì vậy trong hoạt động thực tiễn chủ
thể cần phân loại các nguyên nhân, tìm ra nguyên nhân cơ bản, nguyên nhân chủ
yếu, nguyên nhân bên trong, nguyên nhân bên ngoài, nguyên nhân chủ quan,
nguyên nhân khách quan... Đồng thời phải nắm được chiều hướng tác động của các
nguyên nhân, từ đó có biện pháp thích hợp tạo điều kiện cho nguyên nhân có tác
động tích cực đến hoạt động và hạn chế sự hoạt động của nguyên nhân có tác động
tiêu cực.
12
CHƯƠNG 2 LIÊN HỆ THỰC TIỄN
2.1. Tài nguyên rừng và nguyên nhân suy thoái rừng
2.1.1. Thực trạng rừng hiện nay
Thực trạng nạn chặt phá rừng ở Việt Nam hiện nay đang là vấn đề hết sức nghiêm
trọng. Thống kê của Tổng cục Lâm nghiệp (Bộ NN&PTNT), chỉ trong hơn 5 năm
từ 2012 – 2017, diện tích rừng tự nhiên đã bị mất do chặt phá rừng trái pháp luật
mất chiếm 11%, 89% còn lại là do chuyển mục đích sử dụng rừng tại những dự án
được duyệt.
Tính đến tháng 09/2017, diện tích rừng bị chặt phá là 155,68 ha và 5364,85 ha diện
tích rừng bị cháy.
Thực tế, diện tích rừng tự nhiên ở Việt Nam đang ngày càng suy giảm nhanh với
tốc độ chóng mặt. Nhất là độ che phủ rừng ở khu vực miền Trung. Độ che phủ rừng
ở nước ta hiện còn chưa đến 40%, diện tích rừng nguyên sinh còn khoảng 10%.
2.1.2. Nguyên nhân dẫn đến suy thoái rừng và hậu quả
Nguyên nhân thứ nhất chủ yếu nhất do ý thức của con người,khai thác
không đúng quy hoạch, con người khai thác một cách ạt nguồn tài nguyên
rừng bên cạnh đó một đại bộ phận người dân thiếu ý thức trong việc bảo vệ rừng
gây tình rạng cháy rừng nghiêm trọng.
Hoạt động quản nhà nước về rừng yếu kém. Nhà nước thực hiện khoán cho
người dân quản lý, bảo vệ rừng thu các nguồn lợi từ rừng tuy nhiên, do chi
phí khoán quá thấp trong khi công việc rất khó khăn vất vả, dẫn đến người
dân tâm lý căng thẳng muốn xin trả lại rừng không nhận khoán nữa.
Do tập tục du canh du cư, đốt nương làm rẫy của một số cộng đồng thiểu số
con dân tộc vùng cao.
Do quá trình chuyển hóa đất từ sản xuất lâm nghiệp sang sản xuất nông nghiệp
trang trại một cách ồ ạt không theo quy hoạch
13
Do xây dựng cơ bản như xây dựng đường giao thông, công trình thủy điện,…
2.1.3. Hậu quả
Chặt phá rừngnguyên nhân gây biến đổi khí hậu, hiệu ứng nhà kính làm trái đất
nóng lên; Diện tích rừng tự nhiên của nước ta đang suy giảm với tốc độ chóng mặt
độ che phủ của rừng khu vực miền Trung đã bị suy giảm nghiêm trọng. Hiện
nay độ che phủ của rừng chỉ còn chưa đầy 40%, trong đó diện tích rừng nguyên
sinh chỉ còn 10%
Tình trạng thiên tai, quét, sạt lở đất…, gây nguy hiểm cho cuộc sống của con
người. Hàng năm nước ta phải gánh chịu bao nhiêu là thiên tai nguy hiểm Đặc biệt
hiện tượng trượt lở đất, đá, lũ, quét thường xuyên xảy ra các tỉnh miền núi
gây tổn thất nghiêm trọng về người, tài sản và môi trường sinh thái.
Tình trạng hạn hán,xâm nhập mặn, thiếu nước sinh hoạt nghiêm trọng. Vùng ven
biển đồng bằng sông Hồng (ĐBSH) gồm 4 tỉnh Hải Phòng, Thái Bình, Nam Định,
Ninh Bình diện tích tự nhiên 6131 km2(tương đương với 7% diện tích lưu vực
sông Hồng thuộc lãnh thổ Việt Nam).
Trên đây một số hậu quả nghiêm trọng nguy hiểm do suy thoái nguồn tài
nguyên rừng gây ra, ngoài ra còn số hậu quả nữa như gây biến đổi khí hậu
toàn cầu, xâm nhập mặn..vv.
2.2 Thực trạng của vấn đề tắc nghẽn giao thông ở Tp.HCM
2.2.1 Một số nguyên nhân cơ bản.
Phải nói rằng nguyên nhân chính do dân sốTPHCM ngày càng gia tăng, nhu
cầu đi lại ngày càng lớn trong lúc sở hạ tầng giao thông của TPHCM vẫn còn
hạn chế.
Nguyên nhân chủ quan: Đó sự thiếu kiên quyết của chính quyền đối với việc
định hướng phương tiện đi lại của người dân thành phố. Trong khi hệ thống vận tải
khách công cộng không được chú ý đầu đúng mức thì phương tiện nhân lại
được thả nổi, tha hồ phát triển. Việc buông lỏng quản đô thị dẫn đến tình trạng
lấn chiến lòng lề đường làm nơi họp chợ, buôn bán, sản xuất, dịch vụ, để xe, chờ
đón học sinh tan trường
Và nguyên nhân quan trọng nhất dẫn đến tình trạng ùn tắc giao thông là do sự thiếu
ý thức tự giác của nhiều người dân. Những người buôn bán vẫn tranh nhau lấn
14
chiếm vỉa hè, lòng lề đường, và các nhà chức trách dẹp ở chỗ này lại đùn ra chỗ kia
nên đường phố vốn đã hẹp lại càng hẹp hơn. Đồng thời trên đường phố vẫn thường
xuyên xảy ra tình trạng đi ngược chiều, vượt đèn đỏ nếu không công an đứng
gác, chưa kể đến việc vượt Èu, tranh lấn đường ngược chiều, vượt đèn đỏ nếu
không có công an đứng gác, chưa kể đến việc vượt Èu, tranh lấn đường .
2.2.2 Hậu quả của việc tắc nghẽn giao thông
Tắc nghẽn giao thông ở các đô thị nhất TP. Hồ Chí Minh ngày càng trầm trọng,
theo thống thì tắc nghẽn giao thông đã làm tổn thất về kinh tế rất lớn. Thông
thường, khi tham gia giao thông nếu gặp phải tắc nghẽn trên đường, người tham gia
giao thông chỉ cảm thấy ngột ngạt, bực bội và khó chịu về cảm xúc, có chăng họ lo
lắng về sự chậm trễ khi đến quan, công sở, trường học thôi. Thế nhưng,
đứng trên góc độ kinh tế thì tắc nghẽn giao thông đã làm thiệt hại rất lớn về tiền
của, nếu như khắc phục được đồng nghĩa với hội sẽ thêm nhiều giá trị để
thực hiện được các mục đích khác trong đời sống xã hội.
Việt Nam, theo số liệu thống tính toán, mỗi năm tắc nghẽn giao thông đã
gây tổn thất bình quân 600 triệu USD (tương đương 13.200 tỷ đồng/năm), nếu giảm
được tắc nghẽn giao thông thì sẽ mang lại hiệu quả kinh tế rất đáng kể. Thời gian
qua, các quan nhà nước đã có nhiều dự án nhằm giảm bớt tắc nghẽn giao thông
nhưng hiệu quả của các giải pháp đó rất thấp, sự gia tăng nhanh chóng của phương
tiện nhân, nhất ô con đã làm cho sự tắc nghẽn trở nên càng ngày càng
nghiêm trọng hơn.
15
Phần kết luận
Tất cả các mối quan hệ phép biện chứng nêu lên đều là sự khái quát những đặc
trưng của những mối liên hệ cụ thể, trong những lĩnh vực cụ thể của thế giới vật
chất. Quan hệ về nhân - quả cũng như vậy, chúng tathể coi như quan hệ nhân -
quả kết quả của việc khái quát những hiện tượng từ một sự tác động này suy ra
một kết quả khác trong rất nhiều lĩnh vực: trong tự nhiên,trong hội, cả trong
vật lý, hóa học, cả trong đời sống xã hội như kinh tế, chính trị, văn hóa… Quan hệ
nhân - quả một trong những quan hệ tính phổ biến nhất trong thế giới hiện
thực. Đặc biệt,vai trò rất quan trọng đối với quá trình hình thành nhận thức
của chúng ta. Quá trình nhân - quả được lặp đi lặp lại nhiều lần sẽ làm cho duy
của con người phản ánh được những mối quan hệnhân - quả, đồng thời khi nghiên
cứu khía cạnh khác dẫn tới những kết luận về mặt phương pháp luận rất phong
phú. Vì vậy, trong những câu ngạn ngữ chúng ta cũng bắt gặp được sự tổng kết của
cha ông ta về quan hệ nhân - quả rất nhiều.dụ:“Mưa dầm thấm lâu, cày sâu
tốt lúa”“Ác giả ác báo”.“Gieo gió gặt bão”“Người đẹp lụa, lúa tốt
phân”“Thuận vợ thuận chồng tát bể Đông cũng cạn”…Tóm lại, mối quan hệ biện
chứng giữa nguyên nhân và kết quả là những cơ sở luận rất quan trọng giúp cho
chúng ta rút ra những bài học kinh nghiệmtrong quá trình hoạt động thực tiễn.
Những hoạt động thực tiễn sở để cho chúng ta nhận thức được về đặc trưng
của mối quan hệ nhân - quả những đặc trưng này với cách thành quả của
nhận thức lại sẽ tiếp tục chỉ đạo cho con người trong hoạt động thực tiễn để có thể
gặt hái được những thành công to lớn hơn.
16
17
| 1/17

Preview text:

Danh sách tham gia viết luận học kì 1 năm 2020-2021
Nhóm11 , thứ 7, tiết 1-4, Trường ĐH SPKT TPHCM STT Họ và tên MSSV 1
Trần Nguyễn Nhật Trường 2 Nguyễn Công Trí 3 Nguyễn Thanh Khiêm 20147280 4 Nguyễn Công Lý 5 Trương Nguyễn Đình Sang 20147320
Lời nhận xét của giáo viên:
……………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………… Ngày Tháng 12 Năm 2020 Giáo viên chấm điểm 1 TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
Đề tài: Lý luận về nguyên nhân – kết quả của phép biện chứng duy vật Liên hệ thực tiễn 2 Mục lục : Phần mở đầu 1. Lí do chọn đề tài
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3. Phương pháp nghiên cứu Phần nội dung
CHƯƠNG 1– LÍ LUẬN CHUNG VỀ CẶP PHẠM TRÙ NGUYÊN NHÂN VÀ
KẾT QUẢ CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT
1.1. Khái niệm nguyên nhân và kết quả
1.2. Quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả
1.2.1. Nguyên nhân sinh ra kết quả, xuất hiện trước kết quả
1.2.2. Nguyên nhân và kết quả có thể thay đổi vị trí cho nhau 1.3. Tính chất
1.4. Ý nghĩa phương pháp luận
CHƯƠNG 2 LIÊN HỆ THỰC TIỄN
2.1. Tài nguyên rừng và nguyên nhân suy thoái rừng
2.1.1. Thực trạng rừng hiện nay
2.1.2. Nguyên nhân dẫn đến suy thoái rừng
2.1.3. Hậu quả của việc suy thoái rừng 3
2.2 Thực trạng của vấn đề tắc nghẽn giao thông Tp.HCM.
2.2.1. Một số nguyên nhân cơ bản.
2.2.2. Hậu quả của việc tắc nghẽn giao thông Phần kết luận. 4
Phần mở đầu 1. Lí do chọn đề tài:
Triết học là hệ luận thống lí chung nhất của con người về thế giới, về
bản thân con người và vị trí của con người trong thế giới đó. Và cũng có quan
niệm rằng Triết học là khoa học của các khoa học. Địa lí học là một khoa học,
có thể nói vừa là khoa học tự nhiên vừa là khoa học xã hội. Nên triết học cũng
có mối quan hệ mật thiết và không thể tách rời khỏi chuyên ngành Địa lí.
Hiểu được mối liên hệ này và hiểu được sự thống nhất giữa lí luận, giữa
nguyên tắc phương pháp luận sẽ giúp cho chúng ta rất nhiều trong quá trình
học tập và nghiên cứu chuyên ngành Địa lí không những thế chúng ta còn vận
dụng tốt Triết học vào trong thực tiễn nghiên cứu và trong đời sống xã hội.
Với lí do nêu trên, chúng tôi đã đi đến quyết định chọn đề tài “Cặp phạm trù
nguyên nhân - kết quả của phép biện chứng duy vật”
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Việc nghiên cứu đề tài giúp chúng tôi có thêm điều kiện củng cố thêm kiến thức
bản thân, tìm hiểu thêm nhiều kiến thức về chuyên ngành và Triết học mà mình
chưa rõ và chưa biết đến. Đặc biệt, mục đích của đề tài là giúp chúng tôi tìm hiểu
được phần nào mối quan hệ giữa Triết học và Xã hội thông qua nội dung . Đồng
thời, qua tìm hiểu nội dung đề tài rất giúp ích cho việc học tập và thêm kiến thức
cho chúng tôi hiện tại và sau này.Chính vì vậy nhiệm vụ của bài tiểu luận tập trung
vào giải quyết các vấn đề chính. Trình bày những kiến thức cơ bản về một trong 5
những cặp phạm trù cơ bản của phép biện chứng duy vật thuộc bộ môn Triết học -
cặp phạm trù Nguyên nhân – kết quả.- Thông qua nội dung cặp phạm trù Nguyên
nhân - kết quả, liên hệ kiến thức thực tế của chuyên ngành để phân tích một vài vấn
đề liên quan đến cặp phạm trù này. Từ đó, có thể đánh giá, đề xuất, kiến nghị một
vài giải pháp để khắc phục những mặt tiêu cực, thúc đẩy nó phát triển theo chiều hướng tốt hơn.
3. Phương pháp nghiên cứu.
- Phương pháp biện chứng duy vật - Phương pháp so sánh
- Phương pháp thực nghiệm - Phương pháp thống kê 6
Phần nội dung
CHƯƠNG 1 – LÍ LUẬN CHUNG VỀ CẶP PHẠM TRÙ NGUYÊNNHÂN VÀ
KẾT QUẢ CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT
1.1. Khái niệm nguyên nhân và kết quả
Phạm trù nguyên nhân và kết quả phản ánh mối quan hệ hình thành của các sự vật,
hiện tượng trong hiện thực khách quan.
Nguyên nhân là phạm trù chỉ sự tác động lẫn nhau giữa các mặt trong một sự vật
hoặc giữa các sự vật với nhau, gây ra một biến đổi nhất định nào đó. Còn kết quả là
phạm trù chỉ những biến đổi xuất hiện do tác động lẫn nhau giữa các mặt trong một
sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau gây ra.
Không nên hiểu nguyên nhân và kết quả nằm ở hai sự vật hoàn toàn khác nhau.
Chẳng hạn cho dòng điện là nguyên nhân của ánh sáng đèn; giai cấp vô sản là
nguyên nhân của cuộc cách mạng vô sản... Nếu hiểu nguyên nhân và kết quả như
vậy sẽ dẫn đến chỗ cho rằng nguyên nhân của một sự vật, hiện tượng nào đấy luôn
nằm ngoài sự vật, hiện tượng đó và cuối cùngnhất định sẽ phải thừa nhận rằng
nguyên nhân của thế giới vật chất nằm ngoài thế giới vật chất, tức nằm ở thế giới tinh thần.
Cần phân biệt nguyên nhân với nguyên cớ và nguyên nhân với điều kiện. Nguyên
cớ và điều kiện không sinh ra kết quả, mặc dù nó xuất hiện cùng với nguyên nhân.
Thí dụ chất xúc tác chỉ là điều kiện để các chất hoá học tác động lẫn nhau tạo nên
phản ứng hoá học. Phép biện chứng duy vật khẳng định mối liên hệ nhân quả có
tính khách quan, tính phổ biến, tính tất yếu. Tính khách quan thể hiện ở chỗ: mối
liên hệ nhân quả là cái vốn có của bản thân sự vật, không phụ thuộc vào ý thức của
con người. Dù con người biết hay không biết, thì các sự vật vẫn tác động lẫn nhau
và sự tác động đó tất yếu gây nên biến đổi nhất định. 7
Con người chỉ phản ánh vào trong đầu óc mình những tác động vànhững biến đổi,
tức là mối liên hệ nhân quả của hiện thực, chứ không sáng tạora mối liên hệ nhân
quả của hiện thực từ trong đầu mình. Tính phổ biến thể hiện ở chỗ: mọi sự vật, hiện
tượng trong tự nhiên vàtrong xã hội đều có nguyên nhân nhất định gây ra. Không
có hiện tượng nào không có nguyên nhân, chỉ có điều là nguyên nhân đó đã được
nhận thức hay chưa mà thôi. Không nên đồng nhất vấn đề nhận thức của con người
về mối liên hệ nhân quả với vấn đề tồn tại của mối liên hệ đó trong hiện thực.Tính
tất yếu thể hiện ở chỗ: cùng một nguyên nhân nhất định, trong những điều kiện
giống nhau sẽ gây ra kết quả như nhau. Tuy nhiên trong thực tế không thể có sự vật
nào tồn tại trong những điều kiện, hoàn cảnh hoàn toàn giống nhau. Do vậy tính tất
yếu của mối liên hệ nhân quả trên thực tế phải được hiểu là: Nguyên nhân tác động
trong những điều kiện và hoàn cảnh càng ít khác nhau bao nhiêu thì kết quả do
chúng gây ra càng giống nhau bấy nhiêu.
1.2. Quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả
1.2.1. Nguyên nhân sinh ra kết quả, xuất hiện trước kết quả
Tuy nhiên không phải hai hiện tượng nào nối tiếp nhau về mặt thời giancũng là
quan hệ nhân quả. Thí dụ, ngày kế tiếp đêm, mùa hè kế tiếp mùa xuân, sấm kế
tiếp chớp, v.v., nhưng không phải đêm là nguyên nhân của ngày, mùa xuân là
nguyên nhân của mùa hè, chớp là nguyên nhân của sấm,v.v.. Cái phân biệt quan hệ
nhân quả với quan hệ kế tiếp về mặt thời gian là ở chỗ nguyên nhân và kết quả có
quan hệ sản sinh ra nhau. Nguyên nhân củangày và đêm là do sự quay của trái đất
quanh trục Bắc - Nam của nó, nên ánh sáng mặt trời chỉ chiếu sáng được phần bề
mặt trái đất hướng về phía mặt trời.Nguyên nhân của các mùa trong năm là do trái
đất, khi chuyển động trên quỹ đạo, trục của nó bao giờ cũng có độ nghiêng không
đổi và hướng về một phía,nên hai nửa cầu Bắc và Nam luân phiên chúc ngả về phía
mặt trời, sinh ra các mùa. Sấm và chớp đều do sự phóng điện giữa hai đám mây 8
tích điện trái dấusinh ra. Nhưng vì vận tốc ánh sáng truyền trong không gian nhanh
hơn vận tốc tiếng động, do vậy chúng ta thấy chớp trước khi nghe thấy tiếng sấm.
Nhưvậy không phải chớp sinh ra sấm.
Nguyên nhân sinh ra kết quả rất phức tạp, bởi vì nó còn phụ thuộc vào nhiều điều
kiện và hoàn cảnh khác nhau. Một kết quả có thể do nhiều nguyên nhân sinh ra. Thí
dụ,nguyên nhân của mất mùa có thể do hạn hán, có thể do lũlụt, có thể do sâu bệnh,
có thể do chăm bón không đúng kỹ thuật, v.v.. Mặt khác, một nguyên nhân trong
những điều kiện khác nhau cũng có thể sinh ra những kết quả khác nhau. Thí dụ,
chặt phá rừng có thể sẽ gây ra nhiều hậu quả như lũ lụt, hạn hán, thay đổi khí hậu
của cả một vùng, tiêu diệt một sốloài sinh vật, v.v., nếu nhiều nguyên nhân cùng tồn
tại và tác động cùng chiều trong một sự vật thì chúng sẽ gây ảnh hưởng cùng chiều
đến sự hình thành kết quả, làm cho kết quả xuất hiện nhanh hơn. Ngược lại nếu
những nguyên nhân tác động đồng thời theo các hướng khác nhau, thì sẽ cản trở tác
dụng của nhau, thậm chí triệt tiêu tác dụng của nhau. Điều đó sẽ ngăn cản sự xuất
hiện của kết quả. Do vậy trong hoạt động thực tiễn cần phải phân tích vai trò của
từng loại nguyên nhân, để có thể chủ động tạo ra điều kiện thuận lợi cho những
nguyên nhân quy định sự xuất hiện của kết quả (mà con người mong muốn) phát
huy tác dụng. Thí dụ, trong nền kinh tế nhiều thành phần, hoạt động theo cơ chế thị
trường, định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay,mỗi thành phần kinh tế đều
có vị trí nhất định đối với việc phát triển nền kinh tế chung. Các thành phần kinh tế
vừa tác động hỗ trợ nhau, vừa mâu thuẫn nhau, thậm chí còn cản trở nhau phát
triển. Muốn phát huy được tác dụng của các thành phần kinh tế để phát triển sản
xuất, làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, thì phải
tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế đều có điều kiện phát triển, trong đó thành
phần kinh tế nhà nướcphải đủ sức giữ vai trò chủ đạo, hướng các thành phần kinh
tế khác hoạt động theo định hướng xã hội chủ nghĩa; phải tăng cường vai trò quản 9
lý của Nhànước đối với nền kinh tế bằng luật pháp, chính sách, v.v. thích hợp. Nếu
không như vậy, nền kinh tế sẽ trở nên hỗn loạn và năng lực sản xuất của cácthành
phần kinh tế có thể triệt tiêu lẫn nhau. Do vậy phải tìm hiểu kỹ vị trí, vai trò của từng nguyên nhân.
1.2.2. Nguyên nhân và kết quả có thể thay đổi vị trí cho nhau
Điều này có nghĩa là một sự vật, hiện tượng nào đó trong mối quan hệ này là
nguyên nhân, nhưng trong mối quan hệ khác lại là kết quả và ngược lại. Vì vậy,
Ph.Ăngghen nhận xét rằng: Nguyên nhân và kết quả là những khái niệm chỉ có ý
nghĩa là nguyên nhân và kết quả khi được áp dụng vào một trường hợp riêng biệt
nhất định. Nhưng một khi chúng ta nghiên cứu trường hợp riêng biệt ấy trong mối
liên hệ chung của nó với toàn bộ thế giới, thì những khái niệm ấy lại gắn với nhau
trong một khái niệm về sự tác động qua lại một cách phổ biến, trong đó nguyên
nhân và kết quả luôn thay đổi vị trí cho nhau. Chuỗi nhân quả là vô cùng, không có
bắt đầu và không có kết thúc. Một hiện tượng nào đấy được coi là nguyên nhân hay
kết quả bao giờ cũng ở trong một quan hệ xác định cụ thể. Trong những quan hệ
xác định, kết quả do nguyên nhân sinh ra, nhưng sau khi xuất hiện, kết quả lại có
ảnh hưởng trở lại đối với nguyên nhân. Sự ảnh hưởng đó có thể diễn ra theo hai
hướng: Thúc đẩy sự hoạt động củanguyên nhân (hướng tích cực), hoặc cản trở sự
hoạt động của nguyên nhân (hướng tiêu cực). Thí dụ, trình độ dân trí thấp do kinh
tế kém phát triển, ít đầu tư cho giáo dục. Nhưng dân trí thấp lại là nhân tố cản trở
việc áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, vì vậy lại kìm hãm sản xuất
phát triển. Ngược lại, trình độ dân trí cao là kết quả của chính sách phát triển kinh
tế và giáo dục đúng đắn. Đến lượt nó, dân trí cao lại tác động tích cực đến sự phát
triển kinh tế và giáo dục. 1.3 Tính chất 10
Phép biện chứng duy vật của triết học Marx-Lenin khẳng định mối liên hệ nhân quả
có tính khách quan, tính phổ biến, tính tất yếu.
Tính khách quan: mối liên hệ nhân quả là cái vốn có của bản thân sự vật, không
phụ thuộc vào ý thức của con người. Dù con người biết hay không biết, thì các sự
vật vẫn tác động lẫn nhau và sự tác động đó tất yếu gây nên biến đổi nhất định. Con
người chỉ phản ánh vào trong đầu óc mình những tác động và những biến đổi, tức
là mối liên hệ nhân quả của hiện thực, chứ không sáng tạo ra mối liên hệ nhân quả
của hiện thực từ trong đầu mình.
Tính phổ biến: mọi sự vật, hiện tượng trong tự nhiên và trong xã hội đều có nguyên
nhân nhất định gây ra. Không có hiện tượng nào không có nguyên nhân, chỉ có điều
là nguyên nhân đó đã được nhận thức hay chưa mà thôi. Không nên đồng nhất vấn
đề nhận thức của con người về mối liên hệ nhân quả với vấn đề tồn tại của mối liên hệ đó trong hiện thực.
Tính tất yếu: cùng một nguyên nhân nhất định, trong những điều kiện giống nhau
sẽ gây ra kết quả như nhau. Tuy nhiên trong thực tế không thể có sự vật nào tồn tại
trong những điều kiện, hoàn cảnh hoàn toàn giống nhau. Do vậy tính tất yếu của
mối liên hệ nhân quả trên thực tế phải được hiểu là: Nguyên nhân tác động trong
những điều kiện và hoàn cảnh càng ít khác nhau bao nhiêu thì kết quả do chúng gây
ra càng giống nhau bấy nhiêu.
1.4 Ý nghĩa phương pháp luận
Từ việc phát hiện mối quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả, Triết học
Mác-Lenin nêu ra một số ý nghĩa phương pháp luận cho mối quan hệ này để ứng
dụng vào thực tiễn và tư duy, cụ thể là:
Mối liên hệ nhân quả có tính khách quan và tính phổ biến, nghĩa là không có sự
vật, hiện tượng nào trong thế giới vật chất lại không có nguyên nhân. Nhưng không 11
phải con người có thể nhận thức ngay được mọi nguyên nhân. Nhiệm vụ của nhận
thức khoa học là phải tìm ra nguyên nhân của những hiện tượng trong tự nhiên, xã
hội và tư duy để giải thích được những hiện tượng đó. Muốn tìm nguyên nhân phải
tìm trong thế giới hiện thực, trong bản thân các sự vật, hiện tượng tồn tại trong thế
giới vật chất chứ không được tưởng tượng ra từ trong đầu óc của con người, tách
rời thế giới hiện thực.
“Hoạt động của con người là hòn đá thử vàng của tính nhân quả” — Ph.Ăng-ghen—
Vì nguyên nhân luôn có trước kết quả nên muốn tìm nguyên nhân của một hiện
tượng nào đấy cần tìm trong những sự kiện những mối liên hệ xảy ra trước khi hiện tượng đó xuất hiện.
Một kết quả có thể do nhiều nguyên nhân sinh ra. Những nguyên nhân này có vai
trò khác nhau đối với việc hình thành kết quả. Vì vậy trong hoạt động thực tiễn chủ
thể cần phân loại các nguyên nhân, tìm ra nguyên nhân cơ bản, nguyên nhân chủ
yếu, nguyên nhân bên trong, nguyên nhân bên ngoài, nguyên nhân chủ quan,
nguyên nhân khách quan... Đồng thời phải nắm được chiều hướng tác động của các
nguyên nhân, từ đó có biện pháp thích hợp tạo điều kiện cho nguyên nhân có tác
động tích cực đến hoạt động và hạn chế sự hoạt động của nguyên nhân có tác động tiêu cực. 12
CHƯƠNG 2 LIÊN HỆ THỰC TIỄN
2.1. Tài nguyên rừng và nguyên nhân suy thoái rừng
2.1.1. Thực trạng rừng hiện nay
Thực trạng nạn chặt phá rừng ở Việt Nam hiện nay đang là vấn đề hết sức nghiêm
trọng. Thống kê của Tổng cục Lâm nghiệp (Bộ NN&PTNT), chỉ trong hơn 5 năm
từ 2012 – 2017, diện tích rừng tự nhiên đã bị mất do chặt phá rừng trái pháp luật
mất chiếm 11%, 89% còn lại là do chuyển mục đích sử dụng rừng tại những dự án được duyệt.
Tính đến tháng 09/2017, diện tích rừng bị chặt phá là 155,68 ha và 5364,85 ha diện tích rừng bị cháy.
Thực tế, diện tích rừng tự nhiên ở Việt Nam đang ngày càng suy giảm nhanh với
tốc độ chóng mặt. Nhất là độ che phủ rừng ở khu vực miền Trung. Độ che phủ rừng
ở nước ta hiện còn chưa đến 40%, diện tích rừng nguyên sinh còn khoảng 10%.
2.1.2. Nguyên nhân dẫn đến suy thoái rừng và hậu quả
Nguyên nhân thứ nhất và chủ yếu nhất là do ý thức của con người,khai thác
không đúng quy hoạch, con người khai thác một cách ồ ạt nguồn tài nguyên
rừng bên cạnh đó một đại bộ phận người dân thiếu ý thức trong việc bảo vệ rừng
gây tình rạng cháy rừng nghiêm trọng.
Hoạt động quản lý nhà nước về rừng yếu kém. Nhà nước thực hiện khoán cho
người dân quản lý, bảo vệ rừng và thu các nguồn lợi từ rừng tuy nhiên, do chi
phí khoán quá thấp trong khi công việc rất khó khăn và vất vả, dẫn đến người
dân tâm lý căng thẳng muốn xin trả lại rừng không nhận khoán nữa.
Do tập tục du canh du cư, đốt nương làm rẫy của một số cộng đồng thiểu số bà con dân tộc vùng cao.
Do quá trình chuyển hóa đất từ sản xuất lâm nghiệp sang sản xuất nông nghiệp
trang trại một cách ồ ạt không theo quy hoạch 13
Do xây dựng cơ bản như xây dựng đường giao thông, công trình thủy điện,… 2.1.3. Hậu quả
Chặt phá rừng là nguyên nhân gây biến đổi khí hậu, hiệu ứng nhà kính làm trái đất
nóng lên; Diện tích rừng tự nhiên của nước ta đang suy giảm với tốc độ chóng mặt
và độ che phủ của rừng ở khu vực miền Trung đã bị suy giảm nghiêm trọng. Hiện
nay độ che phủ của rừng chỉ còn chưa đầy 40%, trong đó diện tích rừng nguyên sinh chỉ còn 10%
Tình trạng thiên tai, lũ quét, sạt lở đất…, gây nguy hiểm cho cuộc sống của con
người. Hàng năm nước ta phải gánh chịu bao nhiêu là thiên tai nguy hiểm Đặc biệt
là hiện tượng trượt lở đất, đá, lũ, lũ quét thường xuyên xảy ra ở các tỉnh miền núi
gây tổn thất nghiêm trọng về người, tài sản và môi trường sinh thái.
Tình trạng hạn hán,xâm nhập mặn, thiếu nước sinh hoạt nghiêm trọng. Vùng ven
biển đồng bằng sông Hồng (ĐBSH) gồm 4 tỉnh Hải Phòng, Thái Bình, Nam Định,
Ninh Bình có diện tích tự nhiên 6131 km2(tương đương với 7% diện tích lưu vực
sông Hồng thuộc lãnh thổ Việt Nam).
Trên đây là một số hậu quả nghiêm trọng và nguy hiểm do suy thoái nguồn tài
nguyên rừng gây ra, ngoài ra còn có vô số hậu quả nữa như gây biến đổi khí hậu
toàn cầu, xâm nhập mặn..vv.
2.2 Thực trạng của vấn đề tắc nghẽn giao thông ở Tp.HCM
2.2.1 Một số nguyên nhân cơ bản.
Phải nói rằng nguyên nhân chính là do dân số ở TPHCM ngày càng gia tăng, nhu
cầu đi lại ngày càng lớn trong lúc cơ sở hạ tầng giao thông của TPHCM vẫn còn hạn chế.
Nguyên nhân chủ quan: Đó là sự thiếu kiên quyết của chính quyền đối với việc
định hướng phương tiện đi lại của người dân thành phố. Trong khi hệ thống vận tải
khách công cộng không được chú ý đầu tư đúng mức thì phương tiện cá nhân lại
được thả nổi, tha hồ phát triển. Việc buông lỏng quản lý đô thị dẫn đến tình trạng
lấn chiến lòng lề đường làm nơi họp chợ, buôn bán, sản xuất, dịch vụ, để xe, chờ đón học sinh tan trường
Và nguyên nhân quan trọng nhất dẫn đến tình trạng ùn tắc giao thông là do sự thiếu
ý thức tự giác của nhiều người dân. Những người buôn bán vẫn tranh nhau lấn 14
chiếm vỉa hè, lòng lề đường, và các nhà chức trách dẹp ở chỗ này lại đùn ra chỗ kia
nên đường phố vốn đã hẹp lại càng hẹp hơn. Đồng thời trên đường phố vẫn thường
xuyên xảy ra tình trạng đi ngược chiều, vượt đèn đỏ nếu không có công an đứng
gác, chưa kể đến việc vượt Èu, tranh lấn đường ngược chiều, vượt đèn đỏ nếu
không có công an đứng gác, chưa kể đến việc vượt Èu, tranh lấn đường .
2.2.2 Hậu quả của việc tắc nghẽn giao thông
Tắc nghẽn giao thông ở các đô thị nhất là TP. Hồ Chí Minh ngày càng trầm trọng,
theo thống kê thì tắc nghẽn giao thông đã làm tổn thất về kinh tế rất lớn. Thông
thường, khi tham gia giao thông nếu gặp phải tắc nghẽn trên đường, người tham gia
giao thông chỉ cảm thấy ngột ngạt, bực bội và khó chịu về cảm xúc, có chăng họ lo
lắng về sự chậm trễ khi đến cơ quan, công sở, trường học mà thôi. Thế nhưng,
đứng trên góc độ kinh tế thì tắc nghẽn giao thông đã làm thiệt hại rất lớn về tiền
của, nếu như khắc phục được nó đồng nghĩa với xã hội sẽ có thêm nhiều giá trị để
thực hiện được các mục đích khác trong đời sống xã hội.
Ở Việt Nam, theo số liệu thống kê và tính toán, mỗi năm tắc nghẽn giao thông đã
gây tổn thất bình quân 600 triệu USD (tương đương 13.200 tỷ đồng/năm), nếu giảm
được tắc nghẽn giao thông thì sẽ mang lại hiệu quả kinh tế rất đáng kể. Thời gian
qua, các cơ quan nhà nước đã có nhiều dự án nhằm giảm bớt tắc nghẽn giao thông
nhưng hiệu quả của các giải pháp đó rất thấp, sự gia tăng nhanh chóng của phương
tiện cá nhân, nhất là ô tô con đã làm cho sự tắc nghẽn trở nên càng ngày càng nghiêm trọng hơn. 15 Phần kết luận
Tất cả các mối quan hệ mà phép biện chứng nêu lên đều là sự khái quát những đặc
trưng của những mối liên hệ cụ thể, ở trong những lĩnh vực cụ thể của thế giới vật
chất. Quan hệ về nhân - quả cũng như vậy, chúng ta có thể coi như quan hệ nhân -
quả là kết quả của việc khái quát những hiện tượng từ một sự tác động này suy ra
một kết quả khác ở trong rất nhiều lĩnh vực: trong tự nhiên,trong xã hội, cả trong
vật lý, hóa học, cả trong đời sống xã hội như kinh tế, chính trị, văn hóa… Quan hệ
nhân - quả là một trong những quan hệ có tính phổ biến nhất ở trong thế giới hiện
thực. Đặc biệt, nó có vai trò rất quan trọng đối với quá trình hình thành nhận thức
của chúng ta. Quá trình nhân - quả được lặp đi lặp lại nhiều lần sẽ làm cho tư duy
của con người phản ánh được những mối quan hệnhân - quả, đồng thời khi nghiên
cứu ở khía cạnh khác dẫn tới những kết luận về mặt phương pháp luận rất phong
phú. Vì vậy, trong những câu ngạn ngữ chúng ta cũng bắt gặp được sự tổng kết của
cha ông ta về quan hệ nhân - quả là rất nhiều. Ví dụ:“Mưa dầm thấm lâu, cày sâu
tốt lúa”“Ác giả ác báo”.“Gieo gió gặt bão”“Người đẹp vì lụa, lúa tốt vì
phân”“Thuận vợ thuận chồng tát bể Đông cũng cạn”…Tóm lại, mối quan hệ biện
chứng giữa nguyên nhân và kết quả là những cơ sở lý luận rất quan trọng giúp cho
chúng ta rút ra những bài học kinh nghiệmtrong quá trình hoạt động thực tiễn.
Những hoạt động thực tiễn là cơ sở để cho chúng ta nhận thức được về đặc trưng
của mối quan hệ nhân - quả và những đặc trưng này với tư cách là thành quả của
nhận thức lại sẽ tiếp tục chỉ đạo cho con người trong hoạt động thực tiễn để có thể
gặt hái được những thành công to lớn hơn. 16 17