Lý thuyết Hiện đại hoá và sự vận dụng tại Hàn Quốc | Tiểu luận chính trị học phát triển
Lý thuyết Hiện đại hoá. Các giai đoạn của hiện đại hoá. Công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu trong giai đoạn (1953 – 1962). Công nghiệp hoá, hiện đại hoá giai đoạn 1962 – 1971: Quá độ chuyển từ công nghiệp hoá hướng nội sang công nghiệp hiện đại hướng ngoại. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!
Môn: Chính Trị Học
Trường: Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN KHOA CHÍNH TRỊ HỌC TIỂU LUẬN
CHÍNH TRỊ HỌC PHÁT TRIỂN
LÝ THUYẾT HIỆN ĐẠI HOÁ VÀ SỰ VẬN DỤNG TẠI HÀN QUỐC Họ và tên: Nguyễn Thuỳ Trang Mã sinh viên: 2155300060 Lớp hành chính: QLHĐTT-VH K41 Lớp tín chỉ: CT03064_K41.1 HÀ NỘI, 2024 1 MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..............................................................................................................3
1. Lý do chọn đề tài.............................................................................................3
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.................................................................3
3. Phương pháp nghiên cứu...............................................................................4
4. Kết cấu.............................................................................................................4
NỘI DUNG..........................................................................................................5
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN – LÝ THUYẾT HIỆN ĐẠI HOÁ...............5
1.1. Lý thuyết Hiện đại hoá................................................................................5
1.1.1. Khái niệm Lý thuyết Hiện đại hoá.......................................................5
1.1.2. Nội dung lý thuyết Hiện đại hoá..........................................................6
1.1.2.1. Theo cách tiếp cận xã hội học........................................................6
1.1.2.2. Theo cách tiếp cận kinh tế học.......................................................7
1.2. Các giai đoạn của hiện đại hoá...................................................................9
CHƯƠNG 2: SỰ VẬN DỤNG LÝ THUYẾT HIỆN ĐẠI HOÁ TẠI HÀN
QUỐC................................................................................................................12
2.1. Công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu trong giai đoạn (1953 – 1962). . .12
2.2. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá giai đoạn 1962 – 1971: Quá độ chuyển
từ công nghiệp hoá hướng nội sang công nghiệp hiện đại hướng ngoại......14
2.2.1. Bối cảnh kinh tế - xã hội.....................................................................14
2.2.2. Chính sách và giải pháp công nghiệp hoá, hiện đại hoá..................15
2.2.2.1. Về huy động vốn............................................................................15
2.2.2.2. Các chính sách Hàn Quốc đã áp dụng........................................17
2.2.2.2.1. Chính sách đầu tư phát triển....................................................17
2.2.2.2.2. Chính sách hỗ trợ công nghiệp và xuất khẩu..........................17
2.2.2.2.3. Chính sách phát triển nguồn nhân lực.....................................19
2.3. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá hướng ngoại ở Hàn Quốc giai đoạn 1972
– 1980.................................................................................................................20
2.3.1. Bối cảnh kinh tế - xã hội.....................................................................20
2.3.2. Chính sách và giải pháp công nghiệp hoá, hiện đại hoá giai đoạn
1972 – 1980.....................................................................................................21
2.3.2.1. Chính sách đầu tư công nghiệp...................................................21
2.3.2.2. Chính sách khoa học công nghệ..................................................22 2
2.3.2.3. Chính sách đa dạng hoá sản phẩm hướng về xuất khẩu...........23
2.3.2.4. Chính sách phát triển nguồn nhân lực........................................23
2.4. Giai đoạn điều chỉnh chiến lược và nâng cao công nghiệp....................24
2.4.1. Bối cảnh kinh tế - xã hội.....................................................................24
2.4.2. Chính sách và giải pháp công nghiệp hoá hiện đại..........................25
2.4.2.1. Chính sách điều chỉnh cơ cấu và nâng cấp công nghiệp...........25
2.4.2.2. Chính sách huy động vốn cho đầu tư phát triển và thực hiện tự
do hoá đầu tư..............................................................................................26
2.4.2.3. Khuyến khích phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ..................27
2.4.3.4. Chính sách khoa học công nghệ..................................................27
2.4.3.5. Chính sách nguồn nhân lực..........................................................28
CHƯƠNG 3: BÀI HỌC KINH NGHIỆM KHI ÁP DỤNG LÝ THUYẾT
HIỆN ĐẠI HOÁ TẠI HÀN QUỐC.................................................................29
3.1. Lựa chọn chiến lược công nghiệp hoá phù hợp để đẩy nhanh tăng
trưởng kinh tế...................................................................................................29
3.2. Chủ động nắm bắt và ứng dụng công nghệ mới vào quá trình công
nghiệp hoá.........................................................................................................30
3.3. Khai thác tối đa nguồn vốn cho phát triển..............................................33
3.4. Coi trọng phát triển nguồn nhân lực.......................................................34
KẾT LUẬN.......................................................................................................35
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................37 3 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài
Lý thuyết Hiện đại hoá là một trong những lý thuyết quan trọng, được vận
dụng trong thực tiễn tại nhiều quốc gia trên thế giới. Lý thuyết có ảnh hưởng
sâu sắc đến sự thành công của quá trình hiện đại hoá của nhiều quốc gia phát
triển như Mỹ, các quốc gia Tây Âu, Nhật Bản và trong đó có cả Hàn Quốc.
Hàn Quốc được ví như “con hổ của Đông Á” do tốc độ phát triển kinh tế -
xã hội ấn tượng khi từ một quốc gia nghèo đói sau chiến tranh, Hàn Quốc đã
vươn mình trở thành một trong những cường quốc kinh tế - công nghệ hàng đầu
thế giới chỉ trong vài thập kỷ. Hàn Quốc là nền kinh tế lớn thứ 10 thế giới và
lớn thứ 3 trong RCEP (chỉ sau Trung Quốc và Nhật Bản) với tổng GDP 2022
đạt 1.741 tỷ USD (theo Ngân hàng Thế giới, 2023). Trong một thập kỷ qua,
kinh tế của Hàn Quốc đã không ngừng phát triển với GDP tăng từ 1.339 tỷ USD
năm 2013 lên đến 1.741 tỷ USD vào năm 2022, tốc độ tăng trưởng GDP trung
bình của Hàn Quốc trong giai đoạn 2013-2022 đạt 2,7%/năm. Đằng sau sự
thành công của quốc gia này là một công cuộc, quá trình hiện đại hoá bài bản và
hiệu quả dựa trên lý thuyết hiện đại hoá – một trong những lý thuyết quan trọng
trong lĩnh vực chính trị, khoa học xã hội.
Nền văn hoá Hàn Quốc là một nền văn hoá Á Đông đặc trưng, với bối cảnh
lịch sử - chính trị phức tạp cùng với sự thành công rực rỡ của quá trình hiện đại
hoá là một ví dụ, tấm gương tiêu biểu cho nhiều quốc gia đang phát triển tại
Châu Á có thể học tập và làm theo. Việc phân tích một ví dụ tiêu biểu như Hàn
Quốc trong việc vận dụng lý thuyết hiện đại hoá của phương tây trong môi
trường văn hoá - xã hội Á Đông giúp củng cố thêm cơ sở thực tiễn của lý thuyết hiện đại hoá.
Với sự cấp thiết trên, em đã chọn đề tài “Lý thuyết Hiện đại hoá và sự vận
dụng tại Hàn Quốc” là đề tài tiểu luận kết thúc học phần môn Chính trị học phát triển của mình.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
2.1. Đối tượng nghiên cứu: Lý thuyết Hiện đại hoá và sự vận dụng lý
thuyết hiện đại hoá tại Hàn Quốc
2.2. Phạm vi nghiên cứu: 4
- Phạm vi không gian: Hàn Quốc
- Phạm vi thời gian: 1953 – nay (từ khi Hàn Quốc kết thúc chiến tranh với
Triều Tiên và bắt đầu tập trung khôi phục kinh tế và phát triển nhanh chóng)
3. Phương pháp nghiên cứu
- Tiểu luận thực hiện kết hợp các phương pháp khác nhau gồm: phương
pháp phân tích, phương pháp so sánh, phương pháp tổng hợp, phương pháp thu thập số liệu,… 4. Kết cấu
Tiểu luận có kết cấu gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận – Lý thuyết Hiện đại hoá
Chương 2: Sự vận dụng lý thuyết Hiện đại hoá tại Hàn Quốc
Chương 3: Bài học kinh nghiệm khi áp dụng lý thuyết Hiện đại hoá tại Hàn Quốc. 5 NỘI DUNG
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN – LÝ THUYẾT HIỆN ĐẠI HOÁ
1.1. Lý thuyết Hiện đại hoá
1.1.1. Khái niệm Lý thuyết Hiện đại hoá
Lý thuyết hiện đại hoá được hình thành bởi nhiều nhà tư tưởng, tiêu biểu
trong đó là W.Rostow, A.Organski (1923 – 1998), S.Hutington (1927-2008),
T.Parson (1902-1979), D.Landes (1924-2013)… Hiện đại hoá là khái niệm chỉ
quá trình chuyển đổi từ xã hội truyền thống (gắn với phương thức sản xuất nông
nghiệp, thủ công nghiệp) sang xã hội hiện đại (gắn với phương thức sản xuất
công nghiệp). Hiện đại hoá là quá trình phức tạp nhưng là con đường bắt buộc
phải đi qua để xã hội truyền thống trở thành xã hội hiện đại và phát triển.
Thế giới sau chiến tranh thế giới thứ II có ba đặc điểm lớn.
Thứ nhất, sau chiến tranh thế giới thứ II, các quốc gia phương Tây (như
Anh, Pháp, và Đức) đã bị suy yếu, các nước này cần thống nhất và khôi phục lại
nền kinh tế. Để làm được điều đó, trong những năm 1950, Mỹ đã nhận trách
nhiệm quản lý công việc của toàn thế giới và nước Mỹ trở thành một cường quốc lớn mạnh.
Thứ hai, các phong trào cộng sản thống nhất trên thế giới đã lớn mạnh và
ảnh hưởng sâu rộng không chỉ châu Âu mà con lan sang các quốc gia châu Á:
Trung Quốc và Triều Tiên. Sự ảnh hưởng ngày càng rộng lớn của chủ nghĩa xã
hội như Liên Xô (cũ) đã mở rộng ảnh hưởng sang Đông Âu và một số nước
châu Á, trong đó có Liên bang Đông Dương khi đó (Việt Nam, Lào, Campuchia)
Thứ ba, nhiều quốc gia mới được khai sinh tại châu Á, châu Phi và Mỹ
Latinh sau sự tan rã của đế quốc thực dân châu Âu. Các quốc gia mới còn đang
non trẻ, rất cần tìm kiếm một mô hình phát triển để thúc đẩy nền kinh tế phát
triển và độc lập chính trị của mình.
Trong bối cảnh đó, giới chuyên gia chính trị Mỹ đã khuyến khích các nhà
khoa học xã hội học của họ nghiên cứu từ nước thứ ba tiêu bang, để thúc đẩy
phát triển kinh tế và ổn định chính trị trong thế giới thứ ba. Với sự hỗ trợ từ Mỹ,
các nhà khoa học trẻ trong các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, xã hội học, tâm lý 6
học, nhà nhân chủng học và nhân khẩu học đã đi sâu nghiên cứu và cho ra đời
lý thuyết Hiện đại hoá (1950).
1.1.2. Nội dung lý thuyết Hiện đại hoá
1.1.2.1. Theo cách tiếp cận xã hội học
Quan niệm của Levy về xã hội hiện đại, ông đưa ra bốn câu hỏi và đi tìm câu trả lời cho nó.
Đầu tiên, xã hội hiện đại là gì?
Levy dựa vào trình độ của công cụ lao động và nguồn năng lượng, không
có xã hội hoàn toàn thiếu các công cụ và các nguồn năng lượng, không có xã
hội hoàn toàn thiếu các công cụ và các nguồn năng lượng vô tri vô giác. Do đó,
hiện đại hoá chỉ là một vấn đề trình độ. Dựa trên cơ sở trên, Levy phân biệt xã
hội tương đối hiện đại hoá và xã hội tương đối không hiện đại hoá. Levy xem
xét sự lớn mạnh của các nước Anh, sự hiện đại của Nhật Bản, và Hợp chủng
quốc Hoa Kỳ thống nhất để đại diện cho xã hội tương đối hiện đại hoá. Trung
Quốc, Ấn Độ, và quần đảo Trobriand được ví dụ của các xã hội tương đối
không hiện đại hoá. Levy thêm lập luận rằng tất cả các xã hội tương đối không
hiện đại hoá có nhiều điểm chung với nhau. Tất nhiên, Levy đang nói về: “mức
độ cực kỳ chung” của các so sánh.
Thứ hai, tại sao quá trình hiện đại hoá lại xảy ra?
Theo ông, quá trình hiện đại hoá diễn ra khi các nước lạc hậu thiết lập mối
quan quan hệ với các nước phát triển.
Thứ ba, sự khác biệt giữa một xã hội hiện đại với một xã hội lạc hậu là
như thế nào? 7 Xã hội lạc hậu Xã hội hiện đại Tính chuyên môn Thấp Cao hoá của các tổ chức Sự phụ thuộc lẫn Thấp Cao nhau của các tổ chức Nền tảng của mối
Truyền thống, cục bộ, đa Thực dung, phổ quát, quan hệ năng chuyên sâu Mức độ phân quyền Thấp Cao Tầm quan trọng của
trao đổi hàng hoá và thị Ít quan trọng Rất quan trọng trường Nguyên tắc và quan
Thiên về quan hệ gia đình Thiên về nguyên tắc hệ gia đình Quan hệ giữa thành Một chiều: Hai chiều: thị và nông thôn nông thôn thành thị Nông thôn Thành thị
Cuối cùng, triển vọng nào cho các nước đi sau trong nỗ lực hiện đại hoá đất nước?
Ông cho rằng, để các nước đi sau dược hiện đại hoá thì cần kế thừa những
thành quả của các nước đi trước và rút ra các bài học kinh nghiệm từ các sai lầm
của các nước đi trước gặp phải.
1.1.2.2. Theo cách tiếp cận kinh tế học
Theo W.Rostow (07/10/1916 – 13/02/2003), mỗi quốc gia đều phải trải
qua 5 giai đoạn phát triển.
Giai đoạn 1: Xã hội truyền thống
Trong xã hội truyền thống, nông nghiệp chiếm tỷ trọng lớn với các kiến
thức canh tác truyền thống. Dân cư chủ yếu sống ở khu vực nông thôn. Người
dân không khuyến khích hay chấp nhận các ý tưởng mới, không đầu tư cho
nghiên cứu và phát triển. Một xã hội cực kỳ bảo thủ. 8
Mức độ tích luỹ tài sản thấp, ít vốn tài chính, sử dụng tiền mặt là chủ yếu,
ít hoặc thậm chí không có đầu tư. Cơ sở hạ tầng bao gồm đường xã, hệ thống
thông tin ở mức thấp. Tổ chức chính phủ kém thể hiện việc sử dụng các nguồn
lực không hiệu quả. Trình độ giáo dục tại xã hội truyền thống thấp. Dễ bị tổn
thương bởi các thảm hoạ thiên nhiên. Tầm nhìn các quốc gia thấp. Cơ cấu các
ngành kinh tế là nông nghiệp thuần tuý.
Giai đoạn 2: Chuẩn bị cất cánh
Đây là thời kỳ quá độ giữa xã hội truyền thống và xã hội cất cánh với nội
dung cơ bản là chuẩn bị những điều kiện tiên quyết để cất cánh.
Khoa học – kỹ thuật được áp dụng trong sản xuất nông nghiệp và công
nghiệp. Giáo dục mở rộng và có cải tiến. Nhu cầu đầu tư tăng dẫn tới thúc đẩy
hoạt động của Ngân hàng cùng các tổ chức huy động vốn. Giao lưu hàng hoá
trong và ngoài nước thúc đẩy sự phát triển của giao thông vận tải. Cơ cấu ngành
kinh tế là nông nghiệp và công nghiệp.
Tuy nhiên, những hoạt động này chưa giúp xã hội vượt qua được phạm vi
giới hạn xã hội truyền thống năng suất thấp.
Giai đoạn 3: Giai đoạn cất cánh
Trong giai đoạn này, đất nước bước vào phát triển hiện đại và ổn định. Các
yếu tố đảm bảo cho sự cất cánh là: Huy động nguồn vốn đầu tư cần thiết; tỷ lệ
tiết kiệm tăng lên (chiếm ít nhất 10% thu nhập quốc dân); công nghiệp đóng vai
trò tên lửa dẫn đường, tăng trưởng nhanh, lợi nhuận lớn.
Cơ cấu ngành kinh tế là công nghiệp – nông nghiệp – dịch vụ. Giai đoạn
này có thể kéo dài từ 20-30 năm.
Giai đoạn 4: Giai đoạn trưởng thành (60 năm)
Trong giai đoạn này, tỷ lệ đầu tư liên tục chiếm tới 20% thu nhập quốc
dân. Khoa học – kỹ thuật áp dụng mọi mặt nền kinh tế. Sản xuất nông nghiệp
được cơ giới hoá, nhu cầu xuất khẩu tăng. Cơ cấu các ngành kinh tế là công
nghiệp – dịch vụ - nông nghiệp.
Giai đoạn 5: Giai đoạn tiêu dùng cao (dài 100 năm)
Thu nhập bình quân đầu người cao, dân cư giàu có, tiêu dùng hàng xa xỉ,
cao cấp. Cơ cấu lao động thay đổi, tăng tỷ lệ dân cư thành thị. Chính sách kinh 9
tế hướng vào phúc lợi xã hội. Cơ cấu ngành kinh tế thay đổi thành dịch vụ - công nghiệp.
Dựa theo mô hình 5 giai đoạn tăng trưởng của Rostow, ông đã tìm thấy
một giải pháp để có thể thúc đẩy hiện đại hoá các nước trên thế giới thé ba. Ông
chỉ ra, các nước thế giới thứ ba họ thiếu đầu tư sản xuất. Vì vậy, giải pháp cho
các nước này là cung cấp viện trợ cho các nước này dưới các hình thức công
nghệ, vốn và chuyên môn. Ông gợi ý Mỹ nên xem xét các chính sách để viện
trợ cho các nước này. Và sự viện trợ của Mỹ là cách tốt nhất để giúp đỡ các
nước thế giới thứ ba hiện đại hoá. Do đó, mỗi năm hàng triệu đô la và hàng triệu
người Mỹ đã được gửi đến các nước thế giới thứ ba để xây dựng cơ sở hạ tầng
và các ngành sản xuất nhằm giúp họ đạt được trong giai đoạn cất cánh.
1.2. Các giai đoạn của hiện đại hoá. NỬA ĐẦU VÀ TK 16-17: TK 18-19: GIỮA TK 20: HIỆN NAY: HĐH TIỀN CNH HĐH CNH GIAI HĐH CNH GIAI ĐOẠN ĐẦU HẬU HĐH ĐOẠN CUỐI
Thứ nhất, hiện đại hoá tiền công nghiệp hoá
Diễn ra vào thế kỷ XVI, XVII, chủ yếu ở Tây Âu: như Hà Lan, Tây Ban
Nha, Bồ Đào Nha và một số nước phương Tây khác.
Đây là quá trình chuyển từ nền kinh tế nông nghiệp tự túc tự cấp sang kinh
tế tư bản: công trường thủ công phát triển, thương mại tư bản chủ nghĩa trở
thành động lực chính của sự phátt riển kinh tế. Sự phát triển của thương mại gắn
liền với những khám phá của các vùng đất mới – thị trường nguyên liệu, tiêu
thụ và thị trường lao động: chính sách xâm lược, khai thác thuộc đại, di dân (tự
do và qua buôn bán nô lệ).
Chủ nghĩa trọng thương là lý thuyết kinh tế chi phối.
Hệ quả của văn hoá – xã hội: hình thành giai cấp mới gắn liền với phương
thức sản xuất tư bản chủ nghĩa: tư bản, tiểu tư sản thị dân, công nhân; đô thị với
tư cách là trung tâm kinh tế, thương mại; văn hoá đô thị; con người cá nhân.
Thứ hai, hiện đại hoá – công nghiệp hoá giai đoạn đầu 10
Diễn ra vào thế kỷ XVIII-XIX chủ yếu ở các nước Tây Âu và Bắc Mỹ (USA, Canada) .
Công nghiệp hoá là trung tâm của quá trình hiện đại hoá: sự xuất hiện của
các nhà máy, công xưởng; thay thế lao động thủ công bằng lao động cơ khí;
cách mạng về máy động lực, máy công tác.
Đặc điểm về kỹ thuật – công nghệ: cơ khí.
Công nghiệp và thương nghiệp thắng thế nông nghiệp.
Thành phố (tập trung dân cư, nhà máy, cửa hàng, trường học) trở thành
trung tâm kinh tế và xã hội.
Nhà nước dân tộc (tư sản) hình thành và bắt đầu thời kỳ xâm chiếm thuộc
địa quy mô lớn bằng quân đội chuyên nghiệp.
Tư sản và vô sản là hai giai cấp cơ bản, đông về số lượng và có mâu thuẫn
với nhau về mặt lợi ích.
Tầng lớp kỹ nghệ gia gắn với công nghiệp ra đời và ngày càng phát triển.
Thứ ba, hiện đại hoá công nghiệp hoá giai đoạn cuối
Diễn ra vàod dầu thế kỷ 20 đến những năm 1970 của thế kỷ 20, chủ yếu tại
các quốc gia Tây Âu, Bắc Mỹ, NICs
Sản xuất điện, cách mạng lĩnh vực thông tin (vô tuyến), cách mạng lĩnh
vực giao thông (hàng không…); sản xuất dây truyền phổ biến (kết quả của khoa
học hoá và hợp lý hoá); tri thức trở thành cơ sở trực tiếp của tăng trưởng kinh tế
(quá trình trí tuệ hoá lực lượng lao động quy mô lớn bắt đầu).
Chính trị - xã hội: sự xuất hiện của xã hội tiêu thụ và nhà nước phúc lợi ở
các nước tư bản phát triển (nhiều tác giả cho là kết quả của sản xuất đại trà được
tiêu chuẩn hoá; thế giới trở thành hệ thống liên kết chặt chẽ (hợp tác, phân công
lao động quốc tế phát triển, các quốc gia, các thị trường quan hệ chặt chẽ với
nhau…); dân chủ trở thành tiêu chí căn bản của xã hội phát triển.
Cách mạng công nghiệp kết thúc: Xã hội công nghiệp trở nên hoàn chỉnh:
tập trung hoá, chuyên môn hoá, đồng thời hoá, tiêu chuẩn hoá, tối đa hoá, tập
quyền hoá; biểu hiện của sự chấm dứt: từ những năm 70 của thế kỷ XX, tốc độ
tăng trưởng kinh tế chậm lại; các đòn bẩy kinh tế giảm hoặc không còn tác 11
dụng, xuất hiện với tần suất và quy mô ngày càng lớn của lạm phát, khủng
hoảng môi trường, khủng hoảng nguồn nhiên liệu, khủng hoảng đạo đức,…
Thứ tư, hậu hiện đại hoá
Diễn ra từ thập kỷ 1980 đến nay, ở tất các các nước phát triển. Kinh tế tri
thức là nền tảng của xã hội.
Cá nhân hoá quá trình lao động, nhu cầu của con người. Lao động trở
thành quá trình hoạt động sáng tạo và là phương tiện thể hiện phẩm chất của con
người. Do đó, kết quả của nó là sự nhân đạo hoá, dân chủ hoá các mặt của đời sống xã hội.
Về phương diện công nghệ - kỹ thuật: hướng đến những công nghệ - kỹ
thuật nhằm biến tri thức thành lực lượng sản xuất trực tiếp bằng quá trình trí tuệ
hoá toàn bộ hoạt động của con người (công nghệ thông tin, công nghệ khép kín,
tự động hoá…); hướng đến sản xuất các sản phẩm cá nhân hoá.
Về xã hội con người: nền dân chủ được nâng lên một bước mới về chất;
“con người kinh tế” (sản phẩm đặc hữu của giai đoạn công nghiệp hoá) được
thay bằng “con người đa diện” (con người có khả năng và điều kiện khẳng định
những sự “đa diện” những năng lực sáng tạo của con người; lao động và thoả
mãn các nhu cầu của con người trong xã hội hậu hiện đại hoá theo hướng được
cá thể hoá theo đặc điểm và nhu cầu của mỗi cá nhân); tái sản xuất sức lao động
và tái sản xuất con ngừoi có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong xã hội hậu hiện
đại hoá; giáo dục đào tạo trở thành lĩnh vực quyết định trực tiếp tăng trưởng
kinh tế, phát triển xã hội,.. 12
CHƯƠNG 2: SỰ VẬN DỤNG LÝ THUYẾT HIỆN ĐẠI HOÁ TẠI HÀN QUỐC
2.1. Công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu trong giai đoạn (1953 – 1962)
Sau chiến tranh 1953, Hàn Quốc phải dựa vào Hoa Kỳ về cả kinh tế lẫn
quân sự để tồn tại. Trong gần 1 thập kỷ, từ 1953 đến 1962, tổng số viện trợ kinh
tế của Hoa Kỳ là 2 tỷ USD, viện trợ quân sự là gần 1 tỷ USD. Trong thời gian
này, gần 70% kim ngạch nhập khẩu của hiện đại hoá là được tài trợ bằng khoản
viện trợ này và 77% số tư bản cố định mới cũng được hình thành từ đây. Tuy
viện trợ mà Hoa Kỳ dành cho Hàn Quốc là rất lớn, thế nhưng vẫn không thể đáp
ứng được các nhu cầu phát triển của Hàn Quốc. Vì thế, Hàn Quốc phải tìm cách
thoát ra khỏi những khó khăn về kinh tế và tăng thêm khả năng tự lực của mình để phát triển.
Công nghiệp hoá theo hướng thay thế nhập khẩu được triển khai rộng rãi
tại Hàn Quốc. Bước vào công nghiệp hoá, một quốc gia đi sau như Hàn Quốc
phải đứng trước thực tế - thị trường thế giới đã được các cường quốc và các
công ty lớn phân chia rõ ràng. Do khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế
còn yếu và vấn đề cấp bách là phải giải quyết nhu cầu hàng hoá tiêu dùng rất
cấp bách trong đời sống nhân dân và để giảm bớt sự lệ thuộc kinh tế vào các các
tư bản khi lực lượng tư sản dân tộc còn non yếu, do đó, Hàn Quốc, công nghiệp
hoá phải đi vào thị trường nội địa của nuớc mình, đến độ trưởng thành sẽ chờ
thời cơ đi vào thị trường thế giới. Điều đó có nghĩa là công nghiệp hoá hướng
vào phục vụ nhu cầu trong nước và thay thế nhập khẩu.
Trong giai đoạn 1953 – 1962, Hàn Quốc đã đi vào phục hồi, phát triển các
ngành công nghiệp nhẹ sản xuất hàng tiêu dùng và một số cơ sở công nghiệp
nặng để sản xuất các mặt hàng phục vụ sản xuất nông nghiệp như phân bón, hoá
chất với quy mô nhỏ. Do vậy, vào những năm 1960 – 1961, các mặt hàng nhu
yếu phẩm như lương thực, thực phẩm, vải vóc, quần áo chiếm gần 70% tổng số
sản phẩm hàng chế biến, chế tạo. 75% số hàng nhập khẩu của Hàn Quốc vẫn là
hàng tiêu dùng mà trong nước chưa sản xuất được hay còn thiếu.
Khi theo đuổi chiến lược công nghiệp hoá hướng nội, nhà nước Hàn Quốc
đã thi hành hàng loạt biện pháp bảo hộ thị trường nội địa để hỗ trợ cho nền công
nghiệp non trẻ. Trong lĩnh vực tiền tệ, từ 1953 – 1962, đồng ngoại tệ luôn giữ tỷ
giá cao so với đồng Won của Hàn Quốc. Chính phủ còn sử dụng cả biểu thuế
cao và hạn chế số lượng nhập khẩu để bảo vệ thị trường trong nước và khuyến 13
khích thay thế nhập khẩu, hệ thống giấy phép nhập khẩu đã được áp dụng. Tuy
đã có một số biện pháp giúp một số ngành công nghiệp trong nước tiến hành
xuất khẩu, nhưng về cơ bản những biện pháp hướng nội vẫn là chủ yếu.
Đứng trước hiện thực, Hàn Quốc nhận thấy kinh tế đất nước còn nhiều khó
khăn, nhà nước đã sớm ý thức được việc phải đầu tư vào giáo dục đào tạo để
đảm bảo phát triển nguồn nhân lực chất lượng cho đất nước. Chính phủ Hàn
Quốc đã thi hành phổ cập giáo dục trong toàn dân. Trong 4 năm (1952 – 1956),
số tiền chính phủ Hàn Quốc chi cho giáo dục đào tạo lên tới gần 100 triệu USD,
số tiền này được trích từ tiền viện trợ của Hoa Kỳ. Số tiền giành cho giáo dục
tăng nhanh qua các năm, năm 1954 là 375 triệu Won, năm 1957 là 3.217 triệu
Won và tới năm 1960 là 6.237 triệu Won, so với mức chi ngân sách nhà nước
thì chi phí giành cho giáo dục lần lượt đạt mức 4% - 9,2% và 14,9%. Việc huy
động sự đóng góp của các gia đình giành cho giáo dục đào tạo chiếm tới 2/3
tổng chi phí trực tiếp cho giáo dục. Thành tựu đạt được trong giáo dục đào tạo
mang nhiều ý nghĩa chính trị, bên cạnh đó còn tác động đến sản xuất vẫn còn đang gặp hạn chế.
Nhìn chung trong giai đoạn 1953 – 1962, kết quả mà Hàn Quốc đạt được
khi tiến hành công nghiệp hoá hướng nội còn ở mức độ thấp. Tốc độ tăng
trưởng kinh tế bình quân hàng năm đạt 3,7%. Xuất khẩu chỉ chiếm 1% tổng thu
nhập quốc dân. Vốn dùng cho phục hồi kinh tế và phát triển trong các ngành
công nghiệp mới tạo sản phẩm thay thế nhập khẩu chủ yếu dựa vào viện trợ từ
nước ngoài, trong đó Mỹ đóng vai trò chính. Kinh tế Hàn Quốc vẫn đứng trước
nhiều khó khăn. Thu nhập quốc dân bình quân đầu người thấp, năm 1953 là 65
USD, năm 1962 là 87 USD. Do vậy, vốn cho phát triển kinh tế huy động dựa
vào tiết kiệm trong nước rất hạn chế. Mục tiêu giai đoạn 1953 – 1962 của Hàn
Quốc là đáp ứng những nhu cầu tối thiểu và ổn định kinh tế xã hội đã không đạt được.
Nguyên nhân dẫn tới thực trạng kinh tế trên là do chiến lược công nghiệp
hoá chưa rõ ràng, trước hết là định hướng thị trường quá cứng nhắc do tập trung
hướng nội nên phần lớn các chính sách nhằm vào hỗ trợ cho các ngành công
nghiệp thay thế nhập khẩu và ít khuyến khích các ngành xuất khẩu hoặc các
hoạt động xuất khẩu. Do vậy, những ngành công nghiệp dân tộc non trẻ đã vấp
phải giới hạn của thị trường trong nước với đặc điểm thị trường nhỏ hẹp, sức
mua dân cư thấp vì thu nhập thấp và nhịp độ tăng trưởng kinh tế cũng giảm
xuống. Trong khi ấy, nhu cầu nhập khẩu máy móc công nghệ, nguyên liệu cho
công nghiệp trong nước vẫn tăng nhưng không có ngoại lệ. Có thể thấy, công 14
nghiệp hoá thay thế nhập khẩu đã bộc lộ những mẫu thuẫn trong việc phát triển.
Việc lựa chọn chiến lược công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu không chỉ không
phù hợp với điều kiện trong nước mà còn không phù hợp với tình hình kinh tế
quốc tế khi trật tự phân công lao động quốc tế đang hình thành, xu hướng liên
kết kinh tế đang diễn ra. Việc hướng công nghiệp hoá vào thị trường nội địa để
cung cấp nhu cầu thiết yếu cho người dân, giảm bớt mất cân đối về cung cầu,
thay thế nhập khẩu, tiết kiệm ngoại tệ và góp phần ổn định xã hội trong thời kỳ
nhất định, đặt trong hoàn cảnh cụ thể là cần thiết, Tuy nhiên, do những hạn chế
đã nêu trên nên càng về sau tốc độ tăng trưởng kinh tế Hàn Quốc càng giảm.
Đến năm 1960, tăng trưởng GDP của Hàn Quốc chỉ đạt 1,9%. Thực tế
công nghiệp hoá hướng nội không đạt được hiệu quả lao động do những “bóp
méo” mà sự can thiệp quá mức của nàh nước vào các thị trường khác nhau gây
ra. Chsnh sách thay thế nhập khẩu và bảo hộ cho tất cả các đối tượng đã cho
phép các công ty kém hiệu quả tổn tại và xuất khẩu lại bị kìm hãm. Điều này
khiến ngoại tệ thiếu lại càng thiếu hơn, tạo nên áp lực ngày càng lớn cho việc
hạn chế nhập khẩu. Tình hình ấy kéo theo những bất ổn về kinh tế - xã hội, thất
nghiệp và lạm phát tăng, tình hình chính trị rối loạn. Kết thúc giai đoạn phát
triển (1953 – 1962) mang tính thử nghiệp theo mô hình công nghiệp hoá thay
thế nhập khẩu là sự sụp đổ của chính phủ Lý Thừa Vãn (Lee Seung Man).
2.2. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá giai đoạn 1962 – 1971: Quá độ
chuyển từ công nghiệp hoá hướng nội sang công nghiệp hiện đại hướng ngoại
2.2.1. Bối cảnh kinh tế - xã hội
Từ năm 1962, Hàn Quốc khi đưa ra kế hoạch phát triển kinh tế 5 năm
(1962 – 1966) phải đứng trước hai lựa chọn chiến lược phát triển kinh tế. Một
là, chiến lược phát triển hướng nội với cốt lõi là thay thế nhập khẩu và hai là
hướng ngoại, coi trọng sự phát triển ngoại thương làm động lực thúc đẩy kinh tế
phát triển. Thực tế những năm đầu của kế hoạch 5 năm, Hàn Quốc chú trọng
chiến lược công nghiệp hoá hướng nội. Chiến lược công nghiệp hoá thay thế
nhập khẩu có một số tác động tích cực với tình hình kinh tế - xã hội khi đó. Việc
mở mang sản xuất đã tạo ra nhiều việc làm cho người lao động. Quá trình đô thị
hoá cũng bắt đầu diễn ra làm biến đổi nhanh chóng bộ mặt kinh tế của đất nước.
Những công ty sản xuất thay thế hàng nhập khẩu khi cọ sát với thường trường
ngoài việc tìm kiếm bạn hàng trong nước, họ đã mời tư bản nước ngoài vào liên
doanh, hợp doanh trong những lĩnh vực có công nghệ phức tạp và khó khăn về
tiêu thụ sản phẩm. Các doanh nghiệp trong nước đã tổ chức sản xuất theo kiểu 15
quan hệ trung tâm ngoại vi, nghĩa là duy trì một số ít cơ sở sản xuất những bộ
phận chủ yếu và một số mạng lưới nhỏ cơ sở chân rết (dưới hình thức tư nhân,
gia công tại nhà) để tạo ra những cấu kiện phụ. Khi sản phẩm cuối cùng được
lắp ráp có thể tiêu thụ ở trong nước hoặc ở nước ngoài thông qua vai trò trung
gian của những công ty ngoại quốc có quan hệ làm ăn với họ. Bằng cung cách
kinh doanh như vậy, một số công ty đã chủ động tạo ra những lợi thế cạnh tranh
tương đối cho đến khi họ tự đứng vững với tư cách là doanh nghiệp độc lập.
Chính từ những loại hình doanh nghiệp này, đã tạo dựng lên đội ngũ những nhà
doanh nghiệp giỏi sau này bước vào thương trường và có đủ khả năng ứng phó
với những biến động khi hưng thịnh cũng như khi suy thoái ở thị trường trong và ngoài nước.
Tuy vậy, do thiếu nguồn tài nguyên thiên nhiên cộng với thị trường trong
nước nhỏ bé, những năm cuối kế hoạch 5 năm này, Hàn Quốc đã chuyển dần
sang con đường phát triển thứ hai. Điều cốt lõi là thúc đẩy các ngành sản xuất,
chế biến xuất khẩu, sử dụng nhiều nhân công mà Hàn Quốc có lợi thế tương
đối. Để thực hiện chiến lược này, Hàn Quốc chú trọng khơi dậy động lực của
kinh tế thị trường. Tình hình chính trị trong nước giai đoạn 1962 – 1971 có
những thay đổi, chính phủ Hàn Quốc cũng lấy quan điểm hiện đại hoá nhanh
thay cho quan điểm phát triển tự lực và ổn định. Hiện đại hoá nhanh nhằm rút
ngắn khoảng cách với các nước tiên tiến và sẽ tạo ra sự ổn định xã hội. Đồng
thời, định hướng mới về chiến lược công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã mở đường
cho chính sách hướng ngoại nhằm khai thác các nguồn lực phát triển từ bên
ngoài. Như vậy về cơ bản, từ 1962 – 1971, quan điểm hướng nội, tự lực, tự
cường, kém hiệu quả đã thay thế được một cách dứt khoát cho phép Hàn Quốc
có thể nhanh chóng khai thác những lợi thế so sánh và tận dụng những cơ hội
thuận lợi để phát triển trong môi trường kinh tế quốc tế mới. Có thể nói vào
thập niên 60, Hàn Quốc tiến hành công nghiệp hoá trong bối cảnh tình hình kinh
tế quốc tế có rất nhiều thuận lợi. Đây là giai đoạn nền kinh tế thế giới được mở
rộng, mức tăng trưởng GDP toàn thế giới những năm 50 là 4,2%, những năm 60
là 5,2% Cũng trong thời gian ấy, tăng trưởng thương mại tăng từ 6,3% lên 8,4%.
2.2.2. Chính sách và giải pháp công nghiệp hoá, hiện đại hoá
2.2.2.1. Về huy động vốn
Bước vào công nghiệp hoá, hiện đại hoá, để giải quyết khó khăn về nguồn
vốn cho đầu tư phát triển, Hàn Quốc đã có chính sách huy động tối đa các
nguồn vốn trong nước, đồng thời chú trọng thu hút nguồn vốn nước ngoài. Sự 16
tăng trưởng nền kinh tế thế giới đã tạo điều kiện thuận lợi cho Hàn Quốc tìm
kiếm vay vốn nước ngoài. Ngay trong giai đoạn 1962 – 1971, trong công nghiệp
hoá, hiện đại hoá ở Hàn Quốc có vai trò rất quan trọng của đầu tư trực tiếp và
vay vốn từ nước ngoài. Hàn Quốc đã tiến hành cải cách hệ thống tỷ giá hối đoái
vào năm 1964, thay thế chế độ tỷ giá cố định bằng chế độ tỷ giá linh hoạt. Hệ
thống tỷ giá linh hoạt này đã làm cho đồng Won của Hàn Quốc thực sự gắn bó
với đồng Đô la Mỹ và bị chi phối bởi những quy định của IMF, đó là thuận lợi
để thu hút đầu tư từ bên ngoài. Để khuyến khích thu hút nguồn vốn nước ngoài
bổ sung cho phần tích luỹ trong nước còn thiếu, chính phủ Hàn Quốc đã ban
hành Đạo luật tổng hợp về thúc đẩy vốn đầu tư nước ngoài, trong đó cam kết
bảo hiểm rủi ro. Năm 1960, Hàn Quốc ban hành bộ luật đầu tư và sau hai năm
thì luật này được triển khai, dòng đầu tư nước ngoài bắt đâu chảy vào Hàn Quốc ngày một tăng lên.
Về huy động vốn trong nước, sau khi thử nghiệm chính sách “Đồng tiền
rẻ” (giữ lãi suất tiền vay và cho vay thấp) không thành công vì lạm phát cao làm
giảm lãi suất thực tế, nhiều khi âm nên không thu hút được nguồn tiết kiệm
trong dân cư. Do vậy, chính sách huy động vốn trong nước đã có những sự thay đổi.
Năm 1965, ngân hàng Hàn Quốc đã nâng lãi suất tiền gửi từ 12% lên
12,5%. Kết quả nguồn tiền tiết kiệm gửi vào ngân hàng thương mại tăng gấp đôi
mỗi năm. Tiền gửi tiết kiệm so với tổng thu nhập quốc dân tăng từ 3,8% năm
1965 lên 21,7% năm 1969. Thực tế cho thấy, khoảng 1/5 quỹ thu nhập dân cư
đã không chuyển sang quỹ tiêu dùng mà được tái đầu tư để công nghiệp hoá,
hiện đại hoá. Việc này khiến sức mua của thị trường nội địa giảm nhưng lại tác
động tích cực tới khu vực công nghiệp xuất khẩu, đồng thời tạo được niềm tin
cho thị trường nội địa sau này. Để có thị trường vốn lớn hơn, chính chính phủ
Hàn Quốc đa dạng hoá hệ thống tài chính. Ngoài các ngân hàng, nhà nước còn
cho phép thành lập các tổ chức tài chính phi ngân hàng như công ty bảo hiểm,
tổ chức uỷ thác, các công ty tài chính ngắn hạn và các thị trường chứng khoán.
Tổng giá trị các quỹ tăng 82 lần, từ 209 triệu USD năm 1965 lên 17.079 triệu
USD năm 1980. Trong khi đó cũng giai đoạn này, thu nhập quốc dân (GNP) chỉ
tăng 24 lần. Điều đáng lưu ý là tỷ lệ của các nguồn mới gửi vào ngân hàng đã
giảm, trong khi tỷ trọng gửi vào các nguồn phi ngân hàng lại tăng lên. Chứng tỏ,
các tổ chức phi ngân hàng có tầm quan trọng trong thị trường tài chính và chủ
trương đúng đắn của nàh nước với việc mở rộng kênh thu nhận tiền vốn tiết kiệm. 17
Song song với chính sách khuyến khích tiết kiệm, thuế cũng là một nguồn
thu cho ngân sách nhà nước. Thuế đánh vào thu nhập cá nhân của khu vực phi
công nghiệ năm 1965 là 1,28% trong tổng thu nhập quốc dân, năm 1970 là
3,51% trong tổng thu nhập quốc dân. Nhằm thu thập từ thuế nhiều hơn cho phát
triển công nghiệp, Nhà nước trong một giai đoạn nhất định đã cố gắng giảm bớt
chi phí cả trong lĩnh vực quân sự và dân sự để tập trung đầu tư cho phát triển
kinh tế. Với chủ trương huy động vốn bằng việc đẩy nhanh tích luỹ trong nước,
bằng những biện pháp trên, vốn tích luỹ từ các nguồn trong nước trong tổng số
đầu tư tăng từ 25% năm 1962 lên 60,9% năm 1971 và tỷ lệ đầu tư trong tổng
thu nhập quốc dân cũng trong thời gian ấy từ 15% lên 25%. Phần đầu tư từ viện
trợ nước ngoài trong tổng đầu tư giảm mạnh, từ 50% vào đầu những năm 1960
xuống 20% vào cuối thập kỷ này.
2.2.2.2. Các chính sách Hàn Quốc đã áp dụng
2.2.2.2.1. Chính sách đầu tư phát triển
Để đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Hàn Quốc đã khuyến khích
giới công thương trong nước kinh doanh phát triển công nghiệp. Các nhà doanh
nghiệp được vay vốn với lãi suất thấp, được phép chuyển đổi ngoại hối với tỷ
giá ưu đãi, được miễn hoặc giảm thuế nhập khẩu máy móc, thiết bị và nguyên
liệu cần thiết cho việc xây dựng các cơ sở công nghiệp mới, cho phép khấu hao
thiết bị nhanh. Nhà nước còn tạo điều kiện cho các doanh nghiệp mua đất công
với giá rẻ và được hưởng một phần cơ sở hạ tầng đặc biệt. Nhà nước đã áp dụng
chính sách bảo hộ mậu dịch nghiêm ngặt đối với một số sản phẩm nếu nhập từ
nước ngoài mà có thể cạnh tranh với hàng công nghiệp nội địa như hàng công
nghiệp nhẹ. Tư bản trong nước được ưu tiên những ngành, những lĩnh vực cần ít
vốn, quay vòng nhanh và có tỷ suất lợi nhuận cao như hàng lương thực, thực
phẩm, may mặc. Trong khi đó, nhà nước khuyến khích tư bản nước ngoài đầu tư
nhưng ở một số ngành, lĩnh vực nhất định như điện tử, sắt thép.
Thực hiện mục tiêu kinh tế là xây dựng những ngành công nghiệp cơ bản
và hạ tầng cơ sở quốc gia, phần đầu tư từ ngân sách vào khu vực kinh tế Nhà
nước tăng từ 4% GDP (1963 – 1965) lên 6% GDP những năm sau đó. Đến cuối
thập kỷ 60, Hàn Quốc đã có trên 100 doanh nghiệp quốc doanh, trong đó có
những doanh nghiệp có quy mo lớn như KEPCO, POSCO. Cũng vào thời gian
này, các doanh nghiệp nhà nước của Hàn Quốc chiếm tỷ trọng 30-35% vốn đầu tư. 18
2.2.2.2.2. Chính sách hỗ trợ công nghiệp và xuất khẩu
Dựa vào các mục tiêu của các kế hoạch 5 năm, nhà nước quyết định việc
phân bổ vốn đã và đang tích luỹ được để hỗ trợ cho công nghiệp và hoạt động
xuất khẩu. Ngân hàng Hàn Quốc với tư cách là ngân hàng trung tâm chịu trách
nhiệm chi phối hoạt động này, Hội đồng quản lý tiền tệ và tài chính do Bộ
trưởng Tài chính đứng đầu sẽ quyết định các khoản cho vay, định lãi suất, định
cung tiền và tín dụng theo kênh nhà nước. Ngân hàng đồng thời cũng có nhiệm
vụ chi phối hoạt động của các tổ chức phi ngân hàng bằng cách quy định lãi suất
của mình. Ngoài ngân hàng trung ương, nhà nước còn cho thành lập hàng loạt
ngân hàng chuyên doanh như ngân hàng phục vụ công nghiệp (1961), Ngân
hàng nhân dân (1963), Ngân hàng xây dựng nhà ở (1967)… Các khoản cho vay
từ chính phủ và Ngân hàng Hàn Quốc là nguồn vốn chủ yếu cho hoạt động của
các ngân hàng chuyên doanh. Nhìn chung các khoản tín dụng này đều nằm dưới
sự giám sát trực tiếp của Bộ Tài chính.
Từ cuối những năm 60, trợ cấp trực tiếp và các mức khuyến khích xuất
khẩu tăng rất cao. Các hình thức này bao gồm từ việc miễn thuế, giảm giá đối
với việc sử dụng phương tiện công cộng tới đơn giản hoá thủ tục thuế quan và
cấp giấy phép nhanh. Hệ thống công cụ khuyến khích còn bao gồm cả việc giảm
hạn chế với việc vay tín dụng, giảm nhẹ thuế với lãi của các công ty mới, đảm
bảo cho vay tín dụng nước ngoài và cấp tín dụng cho marketing ở thị trường
ngoài nước.Tất cả hoạt động khuyến khích xuất khẩu nhằm tăng cường mối
quan hệ lợi ích giữa nhà nước và tư nhân, tăng cường khuyến khích giới kinh
doanh và cộng đồng nói chung. Điều đó chứng tỏ sự can thiệp của nhà nước vào
hoạt động tài chính ngân hàng nhằm định hướng vào các mục tiêu chiến lược
quốc gia chứ không phải lấy chính sách kinh doanh tiền tệ tìm kiếm lợi nhuận là chủ yếu.
Bên cạnh đó, nhằm tăng khả năng cạnh tranh cho hàng xuất khẩu, chính
phủ Hàn Quốc còn cho thực thi chế độ tiền lương thấp, đã giữ giá lương thực
thấp để hỗ trợ công nghiệp. Tuy nhiên, để đạt được mục đích này không phải là
biện pháp tốt vì sự hy sinh của nông nghiệp cho công nghiệp đã dẫn tới tình
trạng giảm sút sản lượng lúa gạo. Do vậy, năm 1968, Hàn Quốc đã phải thay đổi
chính sách này. Năm 1969, nhà nước thực hiện chính sách mua của nông dân
với giá cao hơn, nhưng bán cho người tiêu dùng với giá hạ hơn.
Trong khi thực hiện công nghiệp hoá hướng ngoại, Hàn Quốc cũng rất
quyết tâm bảo vệ thị trường trong nước. Chính phủ Hàn Quốc cho rằng, khi
trong nước không thể sản xuất một loại sản phẩm đủ sức cạnh tranh với bên 19
ngoài thì mới cho phép nhập khẩu. Điều này giúp cho việc nhập khẩu các loại
hàng hoá cần thiết với chi phí sản xuất thấp hơn trong nước. Tuy nhiên, từ cuối
những năm 1960, trong khi tập trung khuyến khích xuất khẩu, Chính phủ Hàn
Quốc cũng vẫn chú trọng thay thế nhập khẩu trong những ngành chiến lược.
Năm 1967, Nhà nước ban hành luật khuyến khích ngành chế tạo máy, đóng tàu.
Năm 1969, luật khuyến khích các ngành điện tử, thép, hoá dầu. Những luật này
ban hành những biện pháp khác nhau, chẳng hạn như ưu đãi thuế, giúp đỡ và hỗ
trợ chính phủ để nội địa hoá phụ tùng và các chi tiết máy móc.
Bằng những nỗ lực nói trên, Hàn Quốc đã đạt một số thành tựu bước đầu
hình thành một số ngành công nghiệp quan trọng để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng
trong nước, đồng thời tăng dần tỷ lệ nội địa hoá các phụ tùng và các chi tiết máy
móc. Điều đó đã góp phần vào việc sản xuất xe ô tô trong nước Huyndai, KIA...
Để thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá, chính phủ Hàn Quốc đã chú trọng xây
dựng các công trình hạ tầng cơ sở cho các hoạt động nghiên cứu và triển khai
mà biểu hiện cụ thể là sự xuất hiện và hoạt động khá hiệu quả của hàng loạt các
viện nghiên cứu công nghệ trong các lĩnh vực hẹp như phần mềm máy tính,
động cơ diezen, lĩnh vực điện tử bán dẫn v.v.. Hoạt động nghiên cứu còn vươn
tới các lĩnh vực rộng như lập dự án quốc gia về nghiên cứu triển khai, sử dụng
có hiệu quả những nguồn tài nguyên rừng, biển, hay năng lượng nguyên tử v.v.. .
2.2.2.2.3. Chính sách phát triển nguồn nhân lực
Trước năm 1962, trong giai đoạn khôi phục kinh tế sau chiến tranh, Hàn
Quốc rất chú trọng đến giáo dục với việc thi hành phổ cập giáo dục trong quần
chúng. Điều đó xuất phát từ những vấn đề bất cập về nguồn nhân lực cho công
nghiệp hoá, hiện đại hoá. Khi bước vào thực hiện kế hoạch 5 năm lần 1 và 2,
Hàn Quốc bắt đầu xuất hiện tình trạng thiếu công nhân lành nghề và các chuyên
gia kỹ thuật trong nhiều lĩnh vực. Để đáp ứng nguồn nhân lực cho công nghiệp
hoá phục vụ tăng trưởng kinh tế theo các kế hoạch, Hàn Quốc đã xây dựng hệ
thống dạy nghề nhà nước. Năm 1967, Hàn Quốc đã ban hành đạo luật dạy nghề.
Năm 1968, viện dạy nghề trung ương được thành lập để đào tạo hướng dẫn viên
dạy nghề có sự hỗ trợ và giúp đỡ của ngân hàng tái thiết và phát triển quốc tế
(IBRD) và tổ chức lao động quốc tế (ILO). Đồng thời, Chính phủ đã xây dựng
các trung tâm dạy nghề với sự trợ giúp của các tổ chức quốc tế và các nước phát
triển. Phần lớn các cơ sở này được trang bị phương tiện hiện đại theo tiêu chuẩn
các nước phát triển. Vào những năm 1970, chính phủ Hàn Quốc đã đưa ra
những chương trình đầy tham vọng về phát triển kinh tế. Do tình trạng thiếu