Lý thuyết môn Lịch sử Đảng Chương 3. Kiến thức vận dụng & kết luận | Trường Đại học sư phạm kỹ thuật TP Hồ Chí Minh
Nhận thức rõ tầm quan trọng của việc xây dựng và phát huy giá trị văn hóa, Đảng và Nhà nước ta đã luôn quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh, triển khai nhiều chủ trương và đường lối đúng đắn, phù hợp qua các thời kỳ. Ngay từ khi mới ra đời, Đảng đã xác định mục tiêu của cách mạng là giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người, Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Lịch sử Đảng (LLCT220514)
Trường: Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
4.3 Chương 3. Kiến thức vận dung
4.3.1.Thực trạng xây dựng và phát huy giá trị văn hóa ở nước ta hiện nay
4.3.1.1. Sự lãnh đạo của Đảng trong việc xây dựng và phát huy vai trò
của văn hóa trong phát triển đất nước
Nhận thức rõ tầm quan trọng của việc xây dựng và phát huy giá trị văn
hóa, Đảng và Nhà nước ta đã luôn quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh, triển
khai nhiều chủ trương và đường lối đúng đắn, phù hợp qua các thời kỳ.
Ngay từ khi mới ra đời, Đảng đã xác định mục tiêu của cách mạng là giải
phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người, gắn liền với
việc xây dựng một nền văn hóa dân tộc. Cách mạng giải phóng dân tộc
không chỉ làm hồi sinh các giá trị văn hóa mà còn thúc đẩy văn hóa dân
tộc phát triển, hướng đến một nền văn hóa yêu nước, tiến bộ và giàu giá
trị nhân văn, văn hóa vì con người.
Đại hội VI (1986) - khởi đầu thời kỳ đổi mới - đã đánh dấu bước đột phá
trong quan điểm của Đảng về văn hóa, khẳng định tầm quan trọng của
văn hóa trong việc xây dựng nhân cách và lối sống con người. Yếu tố tinh
thần của văn hóa được nhấn mạnh, với hạt nhân là rèn luyện đạo đức cách
mạng. Đảng cụ thể hóa quan điểm này bằng hàng loạt nghị quyết và chỉ
thị định hướng cho việc phát huy vai trò của văn hóa trong phát triển đất nước.
Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII (1998) ra Nghị quyết xây dựng và phát
triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, tạo điều
kiện thuận lợi cho văn hóa phát triển sâu rộng và hiệu quả, đóng góp
nhiều hơn vào sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước ổn định. Văn
hóa trở thành nhân tố quyết định để nâng cao chất lượng cuộc sống, xây
dựng đất nước theo mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Tại Đại hội X, vai trò của văn hóa được xác định là nền tảng tinh thần của
xã hội, có chức năng định hình các giá trị và chuẩn mực trong đời sống xã
hội. Vai trò này của văn hóa dưới sự lãnh đạo của Đảng sẽ phát huy hiệu
quả hơn trong nhận thức và hành động của các tổ chức và cá nhân vì mục tiêu tiến bộ xã hội.
Đại hội XI và XII tiếp tục khẳng định vai trò quan trọng của văn hóa
trong củng cố và xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, phong phú, đa
dạng, đồng thời định hướng xây dựng nếp sống văn minh và gia đình Việt
Nam. Đặc biệt, Đại hội XIII nhấn mạnh phát triển văn hóa là nền tảng
tinh thần, nguồn lực nội sinh và động lực đột phá cho phát triển kinh tế -
xã hội và hội nhập quốc tế.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và cách mạng công nghiệp lần thứ tư, Đảng
chỉ ra rằng cần tập trung vào các giải pháp phát triển văn hóa thực sự là
nền tảng tinh thần, nguồn lực nội sinh và động lực đột phá cho phát triển
kinh tế xã hội. Sự gắn kết giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa và
thực hiện công bằng xã hội, nâng cao đời sống nhân dân, là nhiệm vụ
quan trọng. Đảng và Nhà nước luôn tôn trọng, đảm bảo quyền tự do sáng
tạo của văn nghệ sĩ, trí thức và đánh giá cao sự đóng góp của họ cho sự
nghiệp văn hóa dân tộc. Báo chí, truyền thông là vũ khí tư tưởng và văn
hóa sắc bén, góp phần nâng cao đời sống văn hóa, tinh thần của nhân dân.
Việc xây dựng văn hóa trong chính trị và kinh tế được triển khai gắn với
việc đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí
Minh, tạo bước đổi mới trong nhận thức và hành động về văn hóa doanh
nghiệp và văn hóa kinh doanh. Một số ngành công nghiệp văn hóa như
điện ảnh, âm nhạc, quảng cáo, thủ công mỹ nghệ, thời trang, và du lịch
văn hóa có bước phát triển mới, góp phần quảng bá hình ảnh đất nước và
con người Việt Nam với bạn bè thế giới, thúc đẩy hội nhập, giao lưu quốc tế về văn hóa. 4.3.1.2. Về thành tựu
Nhờ vào những chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước, công cuộc
xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, giàu bản sắc dân
tộc đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể.
Hiện tại, cả nước có hơn 40.000 di tích văn hóa được xếp hạng, bao gồm
3.491 di tích cấp quốc gia, 105 di tích quốc gia đặc biệt, 8 di sản văn hóa
và thiên nhiên thế giới, cùng với 12 di sản văn hóa phi vật thể, và 7 di sản
tư liệu được UNESCO công nhận. Đặc biệt, có 145/288 di sản văn hóa
phi vật thể của các dân tộc thiểu số đã được đưa vào danh mục di sản văn
hóa phi vật thể quốc gia; nhiều lễ hội, sự kiện văn hóa trong và ngoài
nước được tổ chức, trong đó có các liên hoan nghệ thuật truyền thống của các dân tộc thiểu số.
Hệ thống bảo tàng được mở rộng và ngày càng đổi mới, đóng vai trò
quan trọng trong công tác giáo dục truyền thống, nâng cao giá trị văn hóa
và khoa học cho người dân, đặc biệt là thế hệ trẻ. Các thiết chế văn hóa
được chú trọng xây dựng và hiện đại hóa, phát triển từ trung ương đến
cấp xã, bao gồm 21.084 thư viện, phòng đọc và hơn 26.000 thư viện của
các cơ quan nhà nước, lực lượng vũ trang, hệ thống giáo dục quốc dân và thư viện chuyên ngành.
Ngoài ra, các trung tâm văn hóa, nhà văn hóa không chỉ được phát triển
ở một số quốc gia mà còn lan rộng đến các thôn, bản trong nước; vai trò
của gia đình, nhà trường và xã hội trong việc xây dựng con người mới,
gia đình hạnh phúc và môi trường văn hóa lành mạnh luôn được đề cao.
Đầu tư cho sự nghiệp văn hóa không chỉ từ nguồn ngân sách nhà nước
mà còn thu hút mạnh mẽ từ nguồn xã hội hóa; Đội ngũ cán bộ làm công
tác văn hóa ngày càng lớn mạnh, bao gồm cả văn hóa quần chúng, nghệ
nhân và văn hóa đỉnh cao. Phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời
sống văn hóa được đẩy mạnh và đi vào chiều sâu, tạo nên sự chuyển biến
tích cực về tư tưởng, đạo đức, lối sống cho nhân dân. Hệ thống thông tin,
báo chí, xuất bản phát triển rộng khắp, đáp ứng nhu cầu thông tin trong
nước và quốc tế của người dân, cùng với các lĩnh vực văn hóa khác, góp
phần thu hẹp khoảng cách hưởng thụ văn hóa giữa các vùng miền. Trong
thời đại công nghệ thông tin và mạng xã hội phát triển mạnh mẽ, Việt
Nam đặc biệt chú trọng việc bảo vệ và gìn giữ văn hóa truyền thống, đấu
tranh chống lại các sản phẩm phi văn hóa và thông tin sai lệch, thù địch.
Bên cạnh đó, các lĩnh vực về quyền tác giả, quyền liên quan, công nghiệp
văn hóa được xác định với tầm nhìn đến năm 2030, bao gồm 12 ngành
chính; hội nhập quốc tế về văn hóa, thực hiện các điều ước quốc tế song
phương và đa phương, thông tin đối ngoại và hợp tác quốc tế về văn hóa
tiếp tục được đẩy mạnh. Đại hội Đảng lần thứ XIII đã nhấn mạnh: "Nhận
thức về văn hóa, xã hội, con người ngày càng toàn diện và sâu sắc hơn.
Các lĩnh vực, loại hình và sản phẩm văn hóa phát triển đa dạng, đáp ứng
nhu cầu đa dạng của đời sống xã hội. Nhiều giá trị văn hóa truyền thống
và di sản văn hóa được kế thừa, bảo tồn và phát huy. Văn hóa trong chính
trị và văn hóa trong kinh tế bắt đầu được coi trọng và phát huy hiệu quả,
thiết thực. Hoạt động giao lưu, hợp tác và hội nhập quốc tế về văn hóa có
nhiều khởi sắc. Phát triển toàn diện con người Việt Nam từng bước trở
thành trung tâm của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Việc phê phán,
đấu tranh, đẩy lùi cái xấu, cái ác, cái lạc hậu, chống lại các quan điểm và
hành vi sai trái gây hại đến văn hóa và lối sống của con người được chú trọng." 4.3.1.3. Về hạn chế
Về mặt hạn chế, quá trình xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc ở Việt Nam vẫn còn gặp nhiều khó khăn và tồn
tại. Vai trò và tiềm năng của văn hóa trong việc đóng góp vào sự phát
triển của đất nước chưa được khai thác tối đa. Ở một số khu vực, văn hóa
chưa được xem là ngang hàng với kinh tế và xã hội. Công tác tổ chức và
thực hiện các chủ trương, quan điểm về phát triển văn hóa ở nhiều lĩnh
vực và địa phương còn nhiều hạn chế, cơ chế chính sách chưa phù hợp và
đầu tư chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển. Một số thiết chế văn hóa
chưa được sử dụng hiệu quả. Việc thu hẹp khoảng cách hưởng thụ văn
hóa giữa các vùng miền, đặc biệt là ở những nơi khó khăn, còn chậm. Số
lượng tác phẩm văn hóa có giá trị cao về tư tưởng và nghệ thuật vẫn chưa
đủ đáp ứng yêu cầu, trong khi còn nhiều tác phẩm chạy theo thị hiếu tầm
thường, chất lượng thấp. Những hạn chế này xuất phát từ nhiều nguyên
nhân cả chủ quan và khách quan. Tình hình trong nước và quốc tế có
nhiều biến đổi, một số lĩnh vực chưa dự đoán được tác động của tàn dư
văn hóa cũ, lạc hậu, của mặt trái cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế.
Nhận thức và việc cụ thể hóa chủ trương, quan điểm của Đảng và Nhà
nước về văn hóa ở một số địa phương, lĩnh vực chưa đáp ứng yêu cầu
phát triển. Điều kiện kinh tế và xã hội của Việt Nam còn nhiều khó khăn,
dẫn đến việc đầu tư cho phát triển văn hóa còn hạn chế.
4.3.1.4. Một số giải pháp khắc phục hạn chế
Để khắc phục những hạn chế trong việc phát triển nền văn hóa tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc, cần nâng cao nhận thức của toàn xã hội về vai trò
và vị trí của văn hóa. Xác định rằng phát triển văn hóa là sự nghiệp của
toàn dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, với Nhân
dân là chủ thể sáng tạo và đội ngũ trí thức đóng vai trò quan trọng. Cần
xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, tạo điều kiện thuận lợi cho sự
phát triển văn hóa và con người Việt Nam. Môi trường văn hóa lành
mạnh, từ gia đình, nhà trường đến xã hội, sẽ là nơi hình thành, nuôi
dưỡng và phát triển nhân cách, văn hóa, và giáo dục lối sống cho con
người. Điều này giúp bảo vệ và nhân rộng những giá trị tốt đẹp, lên án và
loại trừ những hành vi tiêu cực.
Để văn hóa thấm sâu và liên kết chặt chẽ vào toàn bộ đời sống xã hội, cần
chú trọng xây dựng đời sống văn hóa cơ sở, đầu tư vào văn hóa tinh hoa,
và tạo điều kiện cho cá nhân và cộng đồng tham gia sáng tạo và hưởng
thụ văn hóa. Cần phát huy sứ mệnh của văn học nghệ thuật và vai trò của
văn nghệ sĩ trong việc xây dựng đạo đức và văn hóa ứng xử. Đầu tư xứng
đáng cho văn hóa, đặc biệt là nguồn nhân lực, là yếu tố then chốt. Ngoài
ra, tăng cường hội nhập văn hóa, tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân
loại và đồng thời quảng bá văn hóa Việt Nam ra thế giới cũng là những giải pháp cần thiết.
4.3.2. Liên hệ trách nhiệm bản thân trong việc xây dựng, phát huy giá trị văn hóa
Mỗi cá nhân, mỗi người dân cần đồng lòng cùng Đảng và Nhà nước để
xây dựng và phát huy những giá trị văn hóa. Đặc biệt đối với thế hệ trẻ,
nhiệm vụ này càng trở nên quan trọng hơn bởi họ là "người chủ tương lai
của đất nước"; là cầu nối giữa các thế hệ – "người tiếp sức cách mạng cho
thế hệ đi trước, đồng thời là người dìu dắt thế hệ sau". Vì vậy, chúng ta,
thế hệ trẻ, cần có trách nhiệm và nghiêm túc trong việc xây dựng và phát
huy giá trị văn hóa. Trước hết, chúng ta cần nhận thức rõ bổn phận và
trách nhiệm của mình trong việc này, hiểu rằng đây không chỉ là trách
nhiệm của cấp ủy Đảng hay cơ quan tuyên giáo mà còn là trách nhiệm của từng cá nhân.
Là sinh viên, chúng ta phải tự mình phấn đấu, rèn luyện và trau dồi bản
thân để trở thành những người có văn hóa, vì lợi ích chung của cộng đồng
và sự phát triển cá nhân. Quan trọng hơn, chúng ta cần xây dựng bản lĩnh
văn hóa, tìm hiểu và tiếp thu một cách rõ ràng về những phong tục,
truyền thống quý báu của dân tộc, sẵn sàng đấu tranh với những hoạt
động và sản phẩm văn hóa không lành mạnh. Trong trường học, lớp học
và cả những lúc rảnh rỗi, cần nghiêm túc chăm chỉ, tìm hiểu và học hỏi
văn hóa Việt Nam thông qua các môn học, các tác phẩm văn học và các sự kiện lịch sử.
Tích cực tham gia các chương trình quảng bá giá trị di sản văn hóa dân
tộc, qua đó giúp bạn bè quốc tế hiểu hơn về vẻ đẹp của đất nước và con
người Việt Nam. Chúng ta cần tự hào, giữ gìn và phát huy bản sắc dân
tộc, không ngừng sáng tạo những giá trị văn hóa mới để văn hóa Việt
Nam vừa giữ được “cốt cách” dân tộc, vừa theo kịp bước tiến chung của nhân loại. KẾT LUẬN
Qua những nội dung đã trình bày, có thể khẳng định rằng tư tưởng Hồ
Chí Minh về văn hóa là sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình xây dựng và phát
triển nền văn hóa Việt Nam. Người là một trong những nhân vật tiêu biểu
trong lịch sử nhân loại, có đóng góp lớn vào việc phát huy vai trò của văn
hóa đối với sự phát triển xã hội. Sự nghiệp của Người gắn liền với việc
xây dựng một nền văn hóa mà trong đó các giá trị được biểu đạt và tác
động mạnh mẽ đến những khát vọng tốt đẹp nhất của con người toàn
nhân loại và các dân tộc trên thế giới.
Do đó, quá trình cách mạng Việt Nam, đặc biệt là qua 35 năm đổi mới
toàn diện, bao gồm cả lĩnh vực văn hóa, đã đạt được nhiều kết quả quan
trọng. Những kết quả này là sự hiện thực hóa quan điểm văn hóa là nền
tảng tinh thần, là mục tiêu và động lực của sự phát triển đất nước từ khi
Đảng ta lãnh đạo cách mạng đến nay.
Chúng ta tin tưởng rằng những giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh về vai
trò của văn hóa sẽ tiếp tục được Đảng phát huy trong sự nghiệp xây dựng
và phát triển văn hóa ở Việt Nam. Để phát huy mạnh mẽ hơn nữa vai trò
của văn hóa đối với các mục tiêu mà Đảng đề ra cũng như đối với sự phát
triển của đất nước, đòi hỏi Đảng và Nhà nước phải kiên trì chiến lược xây
dựng và phát triển nền văn hóa theo triết lý phát triển của Hồ Chí Minh.
Đồng thời, mỗi cá nhân, đặc biệt là thế hệ trẻ, cần phát huy tối đa vai trò
của mình. Chỉ có như vậy, Đảng và Nhà nước mới có thể thực hiện mục
tiêu: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo (7/2021), GiáotrìnhtưtưởngHồChíMinh,
Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
2. Hội đồng Lý luận Trung ương chỉ đạo biên soạn (2004, 2011), Giáo
trìnhtưtưởngHồChíMinh, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
3. https://vietnamnet.vn/van-hoa-la-dong-luc-muc-tieu-cua-su-nghiep-
cach-mang-viet-nam-823719.html
4. https://vass.gov.vn/bao-ve-nen-tang-tu-tuong-cua-dang/Xay-dung-va-
phat-trien-van-hoa-con-nguoi-Viet-Nam-55
5. https://congan.com.vn/tin-chinh/bai-2-van-hoa-la-muc-tieu-la-dong-
luc-phat-trien-la-nguon-luc-noi-sinh_144202.html
6. https://dangcongsan.vn/tu-tuong-van-hoa/xay-dung-nen-van-hoa-viet-
nam-tien-tien-dam-da-ban-sac-dan-toc-208817.html