Lý thuyết môn Triết học Mác - Lênin về Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng vàkiến trúc thượng tầng | Trường Đại học sư phạm kỹ thuật TP Hồ Chí Minh

Gồm 4 phần: Khái niệm của CSHT và KTTT (phần 1), mối quan hệ biện chứng giữa CSHT và KTTT (phần 2), ý nghĩa trong đời sống xã hội (phần 3) và vận dụng của CSHT và KTTT ở Việt Nam hiện nay (phần 4) Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng vàkiến trúc thượng tầng
Gồm 4 phần: Khái niệm của CSHT và KTTT (phần 1), mối quan hệ biện chứng giữa
CSHT và KTTT (phần 2), ý nghĩa trong đời sống xã hội (phần 3) và vận dụng của
CSHT và KTTT ở Việt Nam hiện nay (phần 4)
I. Khái niệm:
1. Cơ sở hạ tầng:
• Với tư cách là của chủ nghĩa duy vật lịch sử: “khái niệm Cở sở hạ tầng là toàn
bộ những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế của một xã hội nhất định”.
CSHT ở đây là một phạm trù triết học, cần phân biệt với thuật ngữ cơ sở hạ tầng trong
ngành xây dựng (điện, đường, trường, trạm).
• Về mặt gồm có: kết cấu cơ sở hạ tầng quan hệ sản xuất thống trị, những quan
hệ sản xuất tàn dư của thế hệ trước đó, những quan hệ sản xuất là nền móng của
xã hội sau. Trong đó quan hệ sản xuất thống trị giữ địa vị chi phối, có vai trò chủ đạo
quyết định tính chất của một cơ sở hạ tầng nhất định. Tuy nhiên, hai kiểu quan hệ sản
xuất còn lại cũng có vai trò nhất định
• Nếu xét trong nội bộ phương thức sản xuất, quan hệ sản xuất là hình thức phát
triển của lực lượng sản xuất. Còn nếu xét trong tổng thể các quan hệ xã hội, các quan
hệ sản xuất hợp thành cơ sở kinh tế của xã hội đó. Đây là cơ sở hiện thực để con
người dựng nên kiến trúc thượng tầng tương ứng.
2. Kiến trúc thượng tầng:
• Với tư cách là khái niệm của chủ nghĩa duy vật lịch sử, “Kiến trúc thượng tầng là
toàn bộ những quan điểm, tư tưởng xã hội, những tiết chế tương ứng, và những
quan hệ nội tại của chúng được hình thành trên một cơ sở hạ tầng nhất định”.
• Về mặt gồm: (về chính trị,kết cấu KTTT những quan điểm, tư tưởng của xã hội
pháp quyền, đạo đức, tôn giáo,…) và (nhà nước, những thiết chế xã hội tương ứng
đảng phái, giáo hội và những đoàn thể xã hội khác).
• Mỗi yếu tố của kiến trúc thượng tầng có đặc điểm riêng, có quy luật vận động phát
triển riêng, nhưng chúng liên hệ với nhau, tác động qua lại lẫn nhau và đều hình thành
trên cơ sở hạ tầng. Song, mỗi yếu tố khác nhau có quan hệ khác nhau đối với cơ sở hạ
tầng. Có những yếu tố như chính trị, pháp luật có quan hệ trực tiếp với cơ sở hạ tầng;
còn những yếu tố như triết học, tôn giáo, nghệ thuật chỉ quan hệ gián tiếp với nó.
II. Mối quan hệ biện chứng giữa CSHT và KTTT:
Mỗi một xã hội đều có cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của nó, đây là hai
mặt của đời sống xã hội và được hình thành một cách khách quan, gắn liền với những
điều kiện lịch sử xã hội cụ thể. Không như các quan niệm duy tâm giải thích sự vận
động của các quan hệ kinh tế bằng những nguyên nhân thuộc về ý thức, tư tưởng hay
thuộc về vai trò của nhà nước và pháp quyền, trong Lời tựa tác phẩm “Góp phần phê
phán khoa kinh tế chính trị”, C.Mác đã khẳng định: “không thể lấy bản thân những
quan hệ pháp quyền cũng như những hình thái nhà nước, hay lấy cái gọi là sự phát
triển chung của tinh thần của con người, để giải thích những quan hệ và hình thái đó,
mà trái lại, phải thấy rằng những quan hệ và hình thái đó bắt nguồn từ những điều kiện
sinh hoạt vật chất”.
- Thứ nhất vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng thể
hiện qua:
+ Mỗi cơ sở hạ tầng sẽ hình thành nên một kiến trúc thượng tầng tương ứng với
nó. Tính chất của kiến trúc thượng tầng là do tính chất của cơ sở hạ tầng quyết định.
Trong xã hội có giai cấp, giai cấp nào thống trị về kinh tế thì cũng chiếm địa vị thống
trị về mặt chính trị và đời sống tinh thần của xã hội. Các mâu thuẫn trong kinh tế, xét
đến cùng, quyết định các mâu thuẫn trong lĩnh vực chính trị tư tưởng; cuộc đấu tranh
giai cấp về chính trị tư tưởng là biểu hiện những đối kháng trong đời sống kinh tế. Tất
cả các yếu tố của kiến trúc thượng tầng như nhà nước, pháp quyền, triết học, tôn giáo,
… đều trực tiếp hay gián tiếp phụ thuộc vào cơ sở hạ tầng, do cơ sở hạ tầng quyết
định.
VD: Trước đây, vào khoảng từ 2000-4000 năm tcn, trên thế giới có xuất hiện hình thái
kinh tế chiếm hữu nô lệ: quan hệ sản xuất chiếm hữu nô lệ, đất đai và các tư liệu sản
xuất khác hầu hết thuộc sở hữu tư nhân của các chủ nô, kể cả nô lệ, từ đó hình thành
nên kiểu nhà nước chủ nô. Cơ sở kinh tế xã hội (hay CSHT) của nhà nước chủ nô là
nhân tố quyết định bản chất, chức năng, bộ máy, hình thức nhà nước (hay KTTT) cũng
như quá trình tồn tại, phát triển của nhà nước chủ nô. Nô lệ có địa vị vô cùng thấp
kém, họ bị coi là tài sản thuộc sở hữu của chủ nô, chủ nô có quyền tuyệt đối đối với
nô lệ, khai thác bóc lột sức lao động, đánh đập, đem bán, tặng cho, bỏ đói hay giết
chết.
+ Khi cơ sở hạ tầng thay đổi kéo theo kiến trúc thượng tầng cũng thay đổi theo.
Quá trình thay đổi diễn ra không chỉ trong giai đoạn thay đổi từ hình thái kinh tế –
xã hội này sang hình thái kinh tế – xã hội khác, mà còn diễn ra ngay trong bản
thân mỗi hình thái kinh tế – xã hội. Sự thay đổi cơ sở hạ tầng dẫn đến làm thay đổi
kiến trúc thượng tầng diễn rất phức tạp. Trong đó, có những yếu tố của kiến trúc
thượng tầng thay đổi nhanh chóng cùng với sự thay đổi cơ sở hạ tầng như chính trị,
phápluật.
VD:
+ Thay đổi từ HT KT-XH này sang HT-KT XH khác: Nhà nước phong kiến là nhà
nước của giai cấp địa chủ phong kiến, cơ sở hình thành của nhà nước là quan hệ sản
xuất phong kiến mà đặc trưng là chế độ chiếm hữu ruộng đất của giai cấp này. Các địa
chủ phong kiến nắm trong tay đủ mọi quyền lực, còn nông dân chỉ có quyền sở hữu
nhỏ phụ thuộc vào địa chủ và hầu như không có quyền gì. Khi nền kinh tế hàng hóa
thị trường phát triển (tức sự thay đổi trong CSHT), sự tập trung tư liệu sản xuất và xã
hội hóa lao động đòi hỏi con người phải có quyền tự do bình đẳng, hội họp kinh doanh
và đảm bảo quyền sở hữu tài sản. Chế độ phong kiến hà khắc đã không còn phù hợp
với quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. Vì thế các cuộc cách mạng dân chủ tư sản liên
tiếp nổ ra dưới sự lãnh đạo của giai cấp tư sản, lật đổ nhà nước phong kiến, thiết lập
nhà nước tư sản, mở đường cho nền kinh tế tư bản chủ nghĩa phát triển.
+ Diễn ra ngay trong bản thân các HT KT-XH: thời bao cấp, VN ta có nền kinh tế
nhà nước chỉ huy, tức là các thương nghiệp tư nhân bị loại bỏ.
Tuy nhiên dần dần cho tới hiện nay, VN đang phát triển kinh tế theo nền kinh tế
thị trường, có sự tham gia của rất nhiều doanh nghiệp tư nhân. Các doanh nghiệp được
tạo điều kiện để phát triển. Sự thay đổi này diễn ra ngay trong hình thái KT-XH
XHCN
- Thứ hai tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng:
+ Tất cả các yếu tố cấu thành kiến trúc thượng tầng đều có tác động đến cơ sở hạ
tầng. Tuy nhiên, mỗi yếu tố khác nhau có vai trò khác nhau, có cách thức tác động
khác nhau.
+ Sự tác động của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng diễn ra theo hai
chiều. Nếu kiến trúc thượng tầng tác động phù hợp với các quy luật kinh tế khách
quan thì nó là động lực mạnh mẽ thúc đẩy kinh tế phát triển; nếu tác động ngược lại,
nó sẽ kìm hãm phát triển kinh tế, kìm hãm phát triển xã hội.
+ Tuy kiến trúc thượng tầng có tác động mạnh mẽ đối với sự phát triểnkinh tế,
nhưng không làm thay đổi được tiến trình phát triển khách quan của xã hội.
III. Ý nghĩa trong đời sống xã hội:
- Quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
là cơ sở khoa học cho việc nhận thức một cách đúng đắn mối quan hệ giữa kinh tế
và chính trị.
- Kinh tế và chính trị tác động biện chứng, trong đó kinh tế tác động chính trị,
chính trị tác động trở lại to lớn, mạnh mẽ đối với kinh tế. Thực chất của vai trò kiến
trúc thượng tầng là vai trò hoạt động tự giác tích cực của các giai cấp, đảng phái vì lợi
ích kinh tế sống còn của mình. Sự tác động của kiến thức thượng tầng đối với cơ sở hạ
tầng trước hết và chủ yếu thông qua đường lối, chính sách của đảng, nhà nước. Chính
vì vậy Lenin viết: “Chính trị là biểu hiện của sự tập trung kinh tế… Chính trị không
thể không chiếm vị trí hàng đầu so với kinh tế”.
- Trong nhận thức và thực tiễn, nếu tách rời hoặc tuyệt đối hóa một yếu tố nào
giữa kinh tế và chính trị đều là sai lầm. Bởi:
+ Tuyệt đối hóa kinh tế, hạ thấp hoặc phủ nhận yếu tố chính trị là rơi vào quan
điểm duy vật tầm thường, duy vật kinh tế sẽ dẫn đến vô chính phủ, bất chấp kỷ cương,
pháp luật và không tránh khỏi thất bại, đổ vỡ.
+ Còn nếu tuyệt đối hóa về chính trị, hạ thấp hoặc phủ định vai trò của kinh tế sẽ
dẫn đến duy tâm, duy ý chí, nôn nóng, chủ quan, đốt cháy giai đoạn và cũng không
tránh khỏi thất bại.
- Có thể thấy, trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã
rất quan tâm đến nhận thức và vận dụng quy luật này. Điều đó thể hiện ở chỗ:
trong thời kỳ đổi mới đất nước, ĐCS Việt Nam chủ trương đổi mới toàn diện cả kinh
tế và chính trị, trong đó đổi mới kinh tế là trung tâm, đồng thời đổi mới chính trị từng
bước thận trọng vững chắc bằng những hình thức, bước đi thích hợp; giải quyết tốt
mối quan hệ giữa đổi mới - ổn định – phát triển, giữ vững định hướng XHCN.
IV. Sự vận dụng của CSHT và KTTT ở nước ta hiện nay:
Trước đổi mới (1986): đề cao thái quá vai trò của kiến trúc thượng tầng, chính trị là
thống soái, Nhà nước, cơ quan quản lí can thiệp thô bạo vào kinh tế bằng những mệnh
lệnh chủ quan; vi phạm các quy luật kinh tế khách quan => khủng hoảng kinh tế, xã
hội.
▪ Từ 1986 đến nay: thực hiện đổi mới toàn diện (kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội),
lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, từng bước đổi mới về chính trị, trước hết là đổi mới
tư duy về kinh tế; giải quyết tốt mốiquan hệ giữa đổi mới - ổn định – phát triển, giữ
vững định hướng xã hội chủ nghĩa.
=> Kinh tế quyết định chính trị, nhưng chính trị tác động mạnh mẽ qua lại với kinh tế.
• Thực trạng cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng ở nước ta hiện nay:
Về sơ sở hạ tầng:
- Nền kinh tế đã đạt tốc độ tăng trưởng khá cao và phát triển tương đối toàn diện. Đất
nước đã có sự thay đổi cơ bản và toàn diện, đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội.
Kinh tế tăng trưởng khá nhanh, sự nghiệp công nghiệp hoá – hiện đại hoá, phát triển
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được đẩy mạnh. Đời sống nhân dân
được cải thiện rõ rệt.
=> Tuy nhiên, tăng trưởng kinh tế chưa tương xứng với khả năng; chất lượng, hiệu
quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn kém; cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm. Nguy
cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới vẫn còn
tồn tại.
Về kiến trúc thượng tầng:
- Qua 25 năm đổi mới: “Nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đilên chủ nghĩa
xã hội ngày càng sáng tỏ hơn; hệ thống quan điểm lý luận về công cuộc đổi mới, về xã
hội xã hội chủ nghĩa và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã hình thành
trên những nét cơbản”
- Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại một số vấn đề:
+ Tư duy của Đảng trên một số lĩnh vực chậm đổi mới; một số vấn đềở tầm quan
điểm, chủ trương lớn chưa được làm rõ nên chưa đạt được sự thống nhất cao về nhận
thức và thiếu dứt khoát trong hoạch định chính sách, chỉ đạo điều hành.
- Một bộ phận cán bộ, đảng viên, kể cả một số cán bộ chủ chốt các cấp yếu kém về
phẩm chất và năng lực, vừa thiếu tính tiên phong, gương mẫu vừa không đủ trình độ,
năng lực hoàn thành nhiệm vụ.
- Sự phân định giữa vai trò lãnh đạo của Đảng với chức năng quản lý của Nhà nước
có lúc có nơi chưa rõ ràng, chồng chéo, buông lỏng.
- Ý thức chấp hành PL của cán bộ, nhân dân còn yếu, hệ thống PL chưa đồng bộ,
hoàn chỉnh; đạo đức lối sống sa sút đáng lo ngại, bản chất văn hóa dân tộc bị sói mòn,
tội phạm, tệ nạn XH có xu hướng gia tăng; sự tấn công của các mặt trái cơ chế thị
trường cũng như những âm mưu chống phá của các thế lực thù địch với VN càng ngày
càng lộ rõ và gia tăng.
- Tệ quan liêu tham nhũng vẫn còn diễn ra nghiêm trọng.
• Sự vận dụng của Đảng CSVN trong việc xây dựng và phát triển nền kinh tế xã
hội ở Việt Nam hiện nay:
Về CSHT:
- Phát triển kinh tế, công nghiệp hoá – hiện đại hoá đất nước gắn với phát triển kinh
tế tri thức là nhiệm vụ trọng tâm.
+ Tranh thủ các cơ hội thuận lợi do bối cảnh quốc tế tạo ra và tiềm năng, lợi thế
của nước ta để rút ngắn quá trình công nghiệp hoá – hiện đại hoá đất nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa gắn với phát triển kinh tế tri thức, phát triển mạnh các ngành
kinh tế và các sản phẩm kinh tế có giá trị tăng cao dựa nhiều vào tri thức.
+ Đẩy mạnh hơn nữa công nghiệp hoá – hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn,
giải quyết đồng bộ các vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân.
- Đa dạng hoá các thành phần kinh tế, các kiểu QHSX gắn liền với các hình thức sở
hữu và bước đi thích hợp làm cho QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX.
+ Phát triển kinh tế nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh
tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế Nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng
trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân.
+ Nâng cao vai trò và hiệu lực quản lý của Nhà nước: Nhà nước làm tốt các chức
năng định hướng sự phát triển bằng các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và cơ chế;
chính sách trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc của thị trường. Thực hiện quản lý Nhà
nước bằng hệ thống pháp luật, giảm tối đa sự can thiệp hành chính vào hoạt động của
thị trường và doanh nghiệp…
+ Phát triển đồng bộ và quản lý có hiệu quả sự vận hành các loại thị trường cơ bản
theo cơ chế cạnh tranh lành mạnh.
- Xác lập, củng cố và nâng cao địa vị làm chủ của người lao động trongnền sản xuất
xã hội, thực hiện công bằng ngày một tốt hơn. Thực hiện nhiều hình thức phân phối,
khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xoá đói giảm nghèo.
- Giữ vững độc lập, chủ quyền và bảo vệ lợi ích quốc gia, độc lập dân tộc, quan hệ
kinh tế với nước ngoài.
Về KTTT:
- Nâng cao bản lĩnh và trình độ trí tuệ của Đảng:
+ Kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh trong hoạt động của Đảng.
+ Đảm bảo sự lãnh đạo toàn diện của Đảng cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước,
coi xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt.
+ Thường xuyên tổng kết thực tiễn, bổ sung phát triển lý luận, tiếp tục làm sáng tỏ
những vấn đề về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta.
- Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa:
+ Xây dựng hệ thống chính trị XHCN vừa đảm bảo tính quốc tế, tính giai cấp, tính
dân tộc, tính nhân dân; trong đó quyền lực cao nhất thuộc về nhân dân.
+ Xây dựng hệ thống pháp luật đồng bộ phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội để
quản lý mọi mặt của xã hội văn minh hiện đại.
+ Cải cách nền hành chính quốc gia, hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Nhà
nước, phát huy dân chủ tăng cường pháp chế XHCN.
+ Phân định rõ chức năng, quyền hạn, trách nhiệm của Đảng, chính quyền, các ban
ngành, các tổ chức quần chúng từ trung ương đến địa phương.
- Phát triển các lĩnh vực khoa học, giáo dục, công nghệ nhằm nâng cao dân trí, đào
tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, phát triển văn hóa tiến bộ mang đậm bản sắc dân
tộc, giải quyết tốt vấn đề tiến bộ và công bằng xã hội.
- Tăng cường củng cố sức mạnh của lực lượng vũ trang, nâng cao cảnh giác cách
mạng, sẵn sàng đập tan mọi âm mưu phá hoại nền kinh tế và lật đổ chế độ.
| 1/6

Preview text:

Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng vàkiến trúc thượng tầng
Gồm 4 phần: Khái niệm của CSHT và KTTT (phần 1), mối quan hệ biện chứng giữa
CSHT và KTTT (phần 2), ý nghĩa trong đời sống xã hội (phần 3) và vận dụng của
CSHT và KTTT ở Việt Nam hiện nay (phần 4) I. Khái niệm:
1. Cơ sở hạ tầng:
• Với tư cách là khái niệm của chủ nghĩa duy vật lịch sử: “Cở sở hạ tầng là toàn
bộ những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế của một xã hội nhất định
”.
CSHT ở đây là một phạm trù triết học, cần phân biệt với thuật ngữ cơ sở hạ tầng trong
ngành xây dựng (điện, đường, trường, trạm).
• Về mặt kết cấu cơ sở hạ tầng gồm có: quan hệ sản xuất thống trị, những quan
hệ sản xuất tàn dư của thế hệ trước đó, những quan hệ sản xuất là nền móng của
xã hội sau
. Trong đó quan hệ sản xuất thống trị giữ địa vị chi phối, có vai trò chủ đạo
quyết định tính chất của một cơ sở hạ tầng nhất định. Tuy nhiên, hai kiểu quan hệ sản
xuất còn lại cũng có vai trò nhất định
• Nếu xét trong nội bộ phương thức sản xuất, quan hệ sản xuất là hình thức phát
triển của lực lượng sản xuất. Còn nếu xét trong tổng thể các quan hệ xã hội, các quan
hệ sản xuất hợp thành cơ sở kinh tế của xã hội đó. Đây là cơ sở hiện thực để con
người dựng nên kiến trúc thượng tầng tương ứng.
2. Kiến trúc thượng tầng:
• Với tư cách là khái niệm của chủ nghĩa duy vật lịch sử, “Kiến trúc thượng tầng là
toàn bộ những quan điểm, tư tưởng xã hội, những tiết chế tương ứng, và những
quan hệ nội tại của chúng được hình thành trên một cơ sở hạ tầng nhất định
”.
• Về mặt kết cấu KTTT gồm: những quan điểm, tư tưởng của xã hội (về chính trị,
pháp quyền, đạo đức, tôn giáo,…) và những thiết chế xã hội tương ứng (nhà nước,
đảng phái, giáo hội và những đoàn thể xã hội khác).
• Mỗi yếu tố của kiến trúc thượng tầng có đặc điểm riêng, có quy luật vận động phát
triển riêng, nhưng chúng liên hệ với nhau, tác động qua lại lẫn nhau và đều hình thành
trên cơ sở hạ tầng. Song, mỗi yếu tố khác nhau có quan hệ khác nhau đối với cơ sở hạ
tầng. Có những yếu tố như chính trị, pháp luật có quan hệ trực tiếp với cơ sở hạ tầng;
còn những yếu tố như triết học, tôn giáo, nghệ thuật chỉ quan hệ gián tiếp với nó.
II. Mối quan hệ biện chứng giữa CSHT và KTTT:
Mỗi một xã hội đều có cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của nó, đây là hai
mặt của đời sống xã hội và được hình thành một cách khách quan, gắn liền với những
điều kiện lịch sử xã hội cụ thể. Không như các quan niệm duy tâm giải thích sự vận
động của các quan hệ kinh tế bằng những nguyên nhân thuộc về ý thức, tư tưởng hay
thuộc về vai trò của nhà nước và pháp quyền, trong Lời tựa tác phẩm “Góp phần phê
phán khoa kinh tế chính trị”, C.Mác đã khẳng định: “không thể lấy bản thân những
quan hệ pháp quyền cũng như những hình thái nhà nước, hay lấy cái gọi là sự phát
triển chung của tinh thần của con người, để giải thích những quan hệ và hình thái đó,
mà trái lại, phải thấy rằng những quan hệ và hình thái đó bắt nguồn từ những điều kiện sinh hoạt vật chất”.
- Thứ nhất vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng thể hiện qua:
+ Mỗi cơ sở hạ tầng sẽ hình thành nên một kiến trúc thượng tầng tương ứng với
nó.
Tính chất của kiến trúc thượng tầng là do tính chất của cơ sở hạ tầng quyết định.
Trong xã hội có giai cấp, giai cấp nào thống trị về kinh tế thì cũng chiếm địa vị thống
trị về mặt chính trị và đời sống tinh thần của xã hội. Các mâu thuẫn trong kinh tế, xét
đến cùng, quyết định các mâu thuẫn trong lĩnh vực chính trị tư tưởng; cuộc đấu tranh
giai cấp về chính trị tư tưởng là biểu hiện những đối kháng trong đời sống kinh tế. Tất
cả các yếu tố của kiến trúc thượng tầng như nhà nước, pháp quyền, triết học, tôn giáo,
… đều trực tiếp hay gián tiếp phụ thuộc vào cơ sở hạ tầng, do cơ sở hạ tầng quyết định.
VD: Trước đây, vào khoảng từ 2000-4000 năm tcn, trên thế giới có xuất hiện hình thái
kinh tế chiếm hữu nô lệ: quan hệ sản xuất chiếm hữu nô lệ, đất đai và các tư liệu sản
xuất khác hầu hết thuộc sở hữu tư nhân của các chủ nô, kể cả nô lệ, từ đó hình thành
nên kiểu nhà nước chủ nô. Cơ sở kinh tế xã hội (hay CSHT) của nhà nước chủ nô là
nhân tố quyết định bản chất, chức năng, bộ máy, hình thức nhà nước (hay KTTT) cũng
như quá trình tồn tại, phát triển của nhà nước chủ nô. Nô lệ có địa vị vô cùng thấp
kém, họ bị coi là tài sản thuộc sở hữu của chủ nô, chủ nô có quyền tuyệt đối đối với
nô lệ, khai thác bóc lột sức lao động, đánh đập, đem bán, tặng cho, bỏ đói hay giết chết.
+ Khi cơ sở hạ tầng thay đổi kéo theo kiến trúc thượng tầng cũng thay đổi theo.
Quá trình thay đổi diễn ra không chỉ trong giai đoạn thay đổi từ hình thái kinh tế –
xã hội này sang hình thái kinh tế – xã hội khác, mà còn diễn ra ngay trong bản
thân mỗi hình thái kinh tế – xã hội.
Sự thay đổi cơ sở hạ tầng dẫn đến làm thay đổi
kiến trúc thượng tầng diễn rất phức tạp. Trong đó, có những yếu tố của kiến trúc
thượng tầng thay đổi nhanh chóng cùng với sự thay đổi cơ sở hạ tầng như chính trị, phápluật. VD:
+ Thay đổi từ HT KT-XH này sang HT-KT XH khác: Nhà nước phong kiến là nhà
nước của giai cấp địa chủ phong kiến, cơ sở hình thành của nhà nước là quan hệ sản
xuất phong kiến mà đặc trưng là chế độ chiếm hữu ruộng đất của giai cấp này. Các địa
chủ phong kiến nắm trong tay đủ mọi quyền lực, còn nông dân chỉ có quyền sở hữu
nhỏ phụ thuộc vào địa chủ và hầu như không có quyền gì. Khi nền kinh tế hàng hóa
thị trường phát triển (tức sự thay đổi trong CSHT), sự tập trung tư liệu sản xuất và xã
hội hóa lao động đòi hỏi con người phải có quyền tự do bình đẳng, hội họp kinh doanh
và đảm bảo quyền sở hữu tài sản. Chế độ phong kiến hà khắc đã không còn phù hợp
với quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. Vì thế các cuộc cách mạng dân chủ tư sản liên
tiếp nổ ra dưới sự lãnh đạo của giai cấp tư sản, lật đổ nhà nước phong kiến, thiết lập
nhà nước tư sản, mở đường cho nền kinh tế tư bản chủ nghĩa phát triển.
+ Diễn ra ngay trong bản thân các HT KT-XH: thời bao cấp, VN ta có nền kinh tế
nhà nước chỉ huy, tức là các thương nghiệp tư nhân bị loại bỏ.
⁕ Tuy nhiên dần dần cho tới hiện nay, VN đang phát triển kinh tế theo nền kinh tế
thị trường, có sự tham gia của rất nhiều doanh nghiệp tư nhân. Các doanh nghiệp được
tạo điều kiện để phát triển. Sự thay đổi này diễn ra ngay trong hình thái KT-XH XHCN
- Thứ hai tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng:
+ Tất cả các yếu tố cấu thành kiến trúc thượng tầng đều có tác động đến cơ sở hạ
tầng. Tuy nhiên, mỗi yếu tố khác nhau có vai trò khác nhau, có cách thức tác động khác nhau.
+ Sự tác động của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng diễn ra theo hai
chiều. Nếu kiến trúc thượng tầng tác động phù hợp với các quy luật kinh tế khách
quan thì nó là động lực mạnh mẽ thúc đẩy kinh tế phát triển; nếu tác động ngược lại,
nó sẽ kìm hãm phát triển kinh tế, kìm hãm phát triển xã hội.
+ Tuy kiến trúc thượng tầng có tác động mạnh mẽ đối với sự phát triểnkinh tế,
nhưng không làm thay đổi được tiến trình phát triển khách quan của xã hội.
III. Ý nghĩa trong đời sống xã hội:
- Quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
là cơ sở khoa học cho việc nhận thức một cách đúng đắn mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị.

- Kinh tế và chính trị tác động biện chứng, trong đó kinh tế tác động chính trị,
chính trị tác động trở lại to lớn, mạnh mẽ đối với kinh tế.
Thực chất của vai trò kiến
trúc thượng tầng là vai trò hoạt động tự giác tích cực của các giai cấp, đảng phái vì lợi
ích kinh tế sống còn của mình. Sự tác động của kiến thức thượng tầng đối với cơ sở hạ
tầng trước hết và chủ yếu thông qua đường lối, chính sách của đảng, nhà nước. Chính
vì vậy Lenin viết: “Chính trị là biểu hiện của sự tập trung kinh tế… Chính trị không
thể không chiếm vị trí hàng đầu so với kinh tế”.
- Trong nhận thức và thực tiễn, nếu tách rời hoặc tuyệt đối hóa một yếu tố nào
giữa kinh tế và chính trị đều là sai lầm.
Bởi:
+ Tuyệt đối hóa kinh tế, hạ thấp hoặc phủ nhận yếu tố chính trị là rơi vào quan
điểm duy vật tầm thường, duy vật kinh tế sẽ dẫn đến vô chính phủ, bất chấp kỷ cương,
pháp luật và không tránh khỏi thất bại, đổ vỡ.
+ Còn nếu tuyệt đối hóa về chính trị, hạ thấp hoặc phủ định vai trò của kinh tế sẽ
dẫn đến duy tâm, duy ý chí, nôn nóng, chủ quan, đốt cháy giai đoạn và cũng không tránh khỏi thất bại.
- Có thể thấy, trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã
rất quan tâm đến nhận thức và vận dụng quy luật này.
Điều đó thể hiện ở chỗ:
trong thời kỳ đổi mới đất nước, ĐCS Việt Nam chủ trương đổi mới toàn diện cả kinh
tế và chính trị, trong đó đổi mới kinh tế là trung tâm, đồng thời đổi mới chính trị từng
bước thận trọng vững chắc bằng những hình thức, bước đi thích hợp; giải quyết tốt
mối quan hệ giữa đổi mới - ổn định – phát triển, giữ vững định hướng XHCN.
IV. Sự vận dụng của CSHT và KTTT ở nước ta hiện nay: ▪ T
rước đổi mới (1986): đề cao thái quá vai trò của kiến trúc thượng tầng, chính trị là
thống soái, Nhà nước, cơ quan quản lí can thiệp thô bạo vào kinh tế bằng những mệnh
lệnh chủ quan; vi phạm các quy luật kinh tế khách quan => khủng hoảng kinh tế, xã hội.
▪ Từ 1986 đến nay: thực hiện đổi mới toàn diện (kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội),
lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, từng bước đổi mới về chính trị, trước hết là đổi mới
tư duy về kinh tế; giải quyết tốt mốiquan hệ giữa đổi mới - ổn định – phát triển, giữ
vững định hướng xã hội chủ nghĩa.
=> Kinh tế quyết định chính trị, nhưng chính trị tác động mạnh mẽ qua lại với kinh tế.
• Thực trạng cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng ở nước ta hiện nay:
Về sơ sở hạ tầng:
- Nền kinh tế đã đạt tốc độ tăng trưởng khá cao và phát triển tương đối toàn diện. Đất
nước đã có sự thay đổi cơ bản và toàn diện, đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội.
Kinh tế tăng trưởng khá nhanh, sự nghiệp công nghiệp hoá – hiện đại hoá, phát triển
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được đẩy mạnh. Đời sống nhân dân
được cải thiện rõ rệt.
=> Tuy nhiên, tăng trưởng kinh tế chưa tương xứng với khả năng; chất lượng, hiệu
quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn kém; cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm. Nguy
cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới vẫn còn tồn tại.
Về kiến trúc thượng tầng:
- Qua 25 năm đổi mới: “Nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đilên chủ nghĩa
xã hội ngày càng sáng tỏ hơn; hệ thống quan điểm lý luận về công cuộc đổi mới, về xã
hội xã hội chủ nghĩa và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã hình thành trên những nét cơbản”
- Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại một số vấn đề:
+ Tư duy của Đảng trên một số lĩnh vực chậm đổi mới; một số vấn đềở tầm quan
điểm, chủ trương lớn chưa được làm rõ nên chưa đạt được sự thống nhất cao về nhận
thức và thiếu dứt khoát trong hoạch định chính sách, chỉ đạo điều hành.
- Một bộ phận cán bộ, đảng viên, kể cả một số cán bộ chủ chốt các cấp yếu kém về
phẩm chất và năng lực, vừa thiếu tính tiên phong, gương mẫu vừa không đủ trình độ,
năng lực hoàn thành nhiệm vụ.
- Sự phân định giữa vai trò lãnh đạo của Đảng với chức năng quản lý của Nhà nước
có lúc có nơi chưa rõ ràng, chồng chéo, buông lỏng.
- Ý thức chấp hành PL của cán bộ, nhân dân còn yếu, hệ thống PL chưa đồng bộ,
hoàn chỉnh; đạo đức lối sống sa sút đáng lo ngại, bản chất văn hóa dân tộc bị sói mòn,
tội phạm, tệ nạn XH có xu hướng gia tăng; sự tấn công của các mặt trái cơ chế thị
trường cũng như những âm mưu chống phá của các thế lực thù địch với VN càng ngày càng lộ rõ và gia tăng.
- Tệ quan liêu tham nhũng vẫn còn diễn ra nghiêm trọng.
• Sự vận dụng của Đảng CSVN trong việc xây dựng và phát triển nền kinh tế xã
hội ở Việt Nam hiện nay:
Về CSHT:
- Phát triển kinh tế, công nghiệp hoá – hiện đại hoá đất nước gắn với phát triển kinh
tế tri thức là nhiệm vụ trọng tâm.

+ Tranh thủ các cơ hội thuận lợi do bối cảnh quốc tế tạo ra và tiềm năng, lợi thế
của nước ta để rút ngắn quá trình công nghiệp hoá – hiện đại hoá đất nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa gắn với phát triển kinh tế tri thức, phát triển mạnh các ngành
kinh tế và các sản phẩm kinh tế có giá trị tăng cao dựa nhiều vào tri thức.
+ Đẩy mạnh hơn nữa công nghiệp hoá – hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn,
giải quyết đồng bộ các vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân.
- Đa dạng hoá các thành phần kinh tế, các kiểu QHSX gắn liền với các hình thức sở
hữu và bước đi thích hợp làm cho QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX.

+ Phát triển kinh tế nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh
tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế Nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng
trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân.
+ Nâng cao vai trò và hiệu lực quản lý của Nhà nước: Nhà nước làm tốt các chức
năng định hướng sự phát triển bằng các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và cơ chế;
chính sách trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc của thị trường. Thực hiện quản lý Nhà
nước bằng hệ thống pháp luật, giảm tối đa sự can thiệp hành chính vào hoạt động của
thị trường và doanh nghiệp…
+ Phát triển đồng bộ và quản lý có hiệu quả sự vận hành các loại thị trường cơ bản
theo cơ chế cạnh tranh lành mạnh.
- Xác lập, củng cố và nâng cao địa vị làm chủ của người lao động trongnền sản xuất
xã hội, thực hiện công bằng ngày một tốt hơn. Thực hiện nhiều hình thức phân phối,
khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xoá đói giảm nghèo.

- Giữ vững độc lập, chủ quyền và bảo vệ lợi ích quốc gia, độc lập dân tộc, quan hệ
kinh tế với nước ngoài.
Về KTTT:
- Nâng cao bản lĩnh và trình độ trí tuệ của Đảng:
+ Kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh trong hoạt động của Đảng.
+ Đảm bảo sự lãnh đạo toàn diện của Đảng cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước,
coi xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt.
+ Thường xuyên tổng kết thực tiễn, bổ sung phát triển lý luận, tiếp tục làm sáng tỏ
những vấn đề về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta.
- Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa:
+ Xây dựng hệ thống chính trị XHCN vừa đảm bảo tính quốc tế, tính giai cấp, tính
dân tộc, tính nhân dân; trong đó quyền lực cao nhất thuộc về nhân dân.
+ Xây dựng hệ thống pháp luật đồng bộ phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội để
quản lý mọi mặt của xã hội văn minh hiện đại.
+ Cải cách nền hành chính quốc gia, hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Nhà
nước, phát huy dân chủ tăng cường pháp chế XHCN.
+ Phân định rõ chức năng, quyền hạn, trách nhiệm của Đảng, chính quyền, các ban
ngành, các tổ chức quần chúng từ trung ương đến địa phương.
- Phát triển các lĩnh vực khoa học, giáo dục, công nghệ nhằm nâng cao dân trí, đào
tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, phát triển văn hóa tiến bộ mang đậm bản sắc dân
tộc, giải quyết tốt vấn đề tiến bộ và công bằng xã hội.

- Tăng cường củng cố sức mạnh của lực lượng vũ trang, nâng cao cảnh giác cách
mạng, sẵn sàng đập tan mọi âm mưu phá hoại nền kinh tế và lật đổ chế độ.