Lý thuyết môn Triết học Mác - Lênin về Những nguyên tắc cơ bản trong giải quyết vấn đề dân tộc theo chủ nghĩa Mác – Lênin | Trường Đại học sư phạm kỹ thuật TP Hồ Chí Minh
Thứ nhất: các dân tộc hoàn toàn bình đẳng: + Quyền bình đẳng giữa các dân tộc cần phải được coi là quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm. Bất kể cộng đồng dân tộc nào (cho dù đó là cộng đồng có đông người hay ít người; Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Triết học Mác - Lenin (LLCT130105)
Trường: Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
NHỮNG NGUYÊN TẮC CƠ BẢN TRONG GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ DÂN TỘC THEO CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN
Th nhấất ,các dấn t ứ c hoàn toàn bình đ ộ ng: ẳ
+ Quyền bình đẳng giữa các dân tộc cần phải được coi là quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm. Bất
kể cộng đồng dân tộc nào (cho dù đó là cộng đồng có đông người hay ít người; có trình độ phát
triển cao hay thấp;…) cũng đều có quyền lợi và nghĩa vụ như nhau; không thể có đặc quyền đặc lợi
cho riêng một dân tộc nào về các mặt: kinh tế, chính trị, văn hoá, ngôn ngữ….
+ Trong phạm vi một quốc gia có nhiều dân tộc, quyền bình đẳng giữa các dân tộc cần phải được
nhà nước bảo vệ bằng pháp luật; đồng thời nhà nước cần phải có chính sách phù hợp trong việc
khắc phục sự chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội giữa các dân tộc, tạo nên sự
phát triển hài hoà giữa các dân tộc.
+ Trong phạm vi quan hệ giữa các quốc gia – dân tộc trên thế giới, quyền bình đẳng dân tộc cần
phải được gắn kết với cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, chủ nghĩa bá quyền
nước lớn; chống sự áp bức, bóc lột của các nước tư bản phát triển đối với các nước lạc hậu, chậm
phát triển về kinh tế nhằm đạt được sự bình đẳng giữa các quốc gia – dân tộc trên phạm vi quốc tế. Th hai, các dấn t ứ c đ ộ c quyề ượ ền t quyềất. ự
+ Quyền tự quyết của các dân tộc là nói đến quyền làm chủ của mỗi dân tộc mà trước hết và cơ bản
là quyền các dân tộc có thể tự mình quyết định con đường phát triển kinh tế, chính trị – xã hội của
dân tộc mình, không chịu sự ràng buộc, cưỡng bức của dân tộc khác.
+ Quyền tự quyết của các dân tộc bao gồm: quyền tự do phân tách, hình thành nên cộng đồng quốc
gia – dân tộc độc lập vì lợi ích chính đáng của các dân tộc và quyền liên hiệp các dân tộc trên cơ sở
tự nguyện và bình đẳng của các dân tộc. Th ba, liền hi ứ
p công nhấn tấất c ệ các dấn t ả c ộ
+ Liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc là một nội dung cơ bản trong cương lĩnh dân tộc của V.I.
Lênin; nó thể hiện bản chất quốc tế của giai cấp công nhân và phản ánh mối quan hệ chặt chẽ giữa
sự nghiệp giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp; phản ánh tính thống nhất biện chứng giữa chủ
nghĩa yêu nước chân chính và chủ nghĩa quốc tế vô sản trong sáng.
+ Liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc là một quan điểm có tính nguyên tác trong việc giải quyết
các vấn đề dân tộc trong tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa; quan điểm này có ý nghĩa đặc biệt
quan trọng đối với việc giải quyết các vấn đề thuộc quyền bình đẳng giữa các dân tộc và quyền tự quyết của các dân tộc.
Nước ta có 54 dân tộc anh em.Dân tộc Kinh chiếm 87% dân số, 53 dân tộc còn lại
chiếm 13% dân số, phân bố rải rác trên phạm vi cả nước.Có 10 dân tộc có số dân từ
dưới 1 triệu đến 100 ngàn người, 20 dân tộc có số dân dưới 100 ngàn người; 16 dân
tộc có số dân từ dưới 10 ngàn người đến 1 ngàn người; 6 dân tộc có số dân dưới 1 ngàn người.
Đăc trưng nổi bật trong quan hệ giữa các dân tộc ở nước ta là sự cố kết dân tộc,
hòa hợp dân tộc trong một cộng đồng thống nhất đã trở thành truyền thống, thành sức
mạnh và đã được thử thách trong cuộc đấu tranh chống xâm lược, bảo vệ Tổ quốc, xây
dựng đất nước qua mấy ngàn năm lịch sử cho đến ngày nay. Do những yếu tố đặc thù
của nền kinh tế trồng lúa nước, một kết cấu nông thôn bền chặt sớm xuất hiện. Trải qua
lịch sử chống giặc ngoại xâm, dân tộc ta đã hình thành rất sớm và trở thành một quốc
gia dân tộc thống nhất ngay dưới chế độ phong kiến. Đoàn kết là xu hướng khách quan
cố kết các dân tộc trên cơ sở có chung lợi ích, có chung vận mệnh lịch sử, chung một
tương lai tiền đồ. Tuy vậy, bên cạnh những mặt tích cực thì có nơi có lúc cũng xảy ra
hiện tượng tiêu cực trong quan hệ dân tộc. Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch
lại luôn luôn dùng mọi thủ đoạn để chia rẽ dân tộc và can thiệp vào nội bộ của nước ta.
Do đó, phát huy truyền thống đoàn kết, xóa bỏ thành kiến, nghi kị dân tộc và kiên quyết
đập tan âm mưu chia rẽ dân tộc của kẻ thù là nhiệm vụ trọng yếu của nhân dân ta trong
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa hiện nay.
Hình thái cư trú xen kẽ giữa các dân tộc ngày càng tăng, tuy trong từng khu vực
nhất định có những dân tộc sống tương đối tập trung, nhưng không thành địa bàn riêng
biệt. Do đó, các dân tộc nước ta không có lãnh thổ riêng, không có nền kinh tế riêng và
sự thống nhất hữu cơ giữa các dân tộc và quốc gia trên mọi mặt của đời sống xã hội
ngày càng được củng cố.
Tình hình chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế,văn hóa...giữa các dân tộc,
giữa các vùng dân cư là một đặc trưng cần được quan tâm nhằm khắc phục dần sự
chênh lệch để thực hiện bình đẳng, đoàn kết dân tộc ở nước ta.nhiều dân tộc có trình
độ rất thấp, chủ yếu dựa vào khai thác tự nhiên. Đời sống vật chất của bà con dân tộc
thiểu số còn thiếu thốn, tình trạng nghèo đói kéo dài, thuốc chữa bệnh khan hiếm, nạn
mù chữ và tái mù chữ còn xuất hiện ở nhiều nơi.Đường giao thông và phương tiện đi
lại còn khó khăn, điện và nước phục vụ cho đời sống còn rất khan hiếm, thông tin, bưu
điện còn chua đáp ứng được nhu cầu của người dân ở nhiều nơi nhất là ở những vùng
xa xôi, hẻo lánh...Do điều kiện tự nhiên, xã hội,hậu quả của các chế độ áp bức bóc lột
trong lịch sử nên các dân tộc mới có sự chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế, văn hóa....
Cùng với nền văn hóa cộng đồng, mỗi dân tộc trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam
đều có đời sống văn hóa mang bản sắc riêng rất phong phú. Bởi vì bất cứ dân tộc nào
dù nhiều người hay ít người, đều có nền văn hóa riêng, phản ánh truyền thống lịch sử,
đời sống tinh thần, niềm tự hào dân tộc bằng những bản sắc văn hóa độc đáo.Đặc
trưng của sắc thái văn hóa dân tộc bao gồm ngôn ngữ, tiếng nói, văn hóa, nghệ thuật,
tình cảm dân tộc, y phục, phong tục tập quán, quan hệ gia đình dòng họ.... dân tộc có
chữ viết riêng :Thái , Chăm, Mông, Giarai,...Một số dân tộc thiểu số gắn với một vài tôn
giáo truyền thống như: đạo Phật, Bàlamôn, đạo Tin Lành, đạo Thiên Chúa ...Vì vậy
Đảng và Nhà nước ta luôn luôn tôn trọng bản sắc văn hóa riêng và tôn trọng tự do tín
ngưỡng của mỗi dân tộc. Sự phát triển đa dạng mang bản sắc văn hóa của từng dân
tộc càng làm phong phú thêm nền văn hóa của cộng đồng.Các dân tộc thiểu số tuy chỉ
chiếm 13% dân số cả nước nhưng lại cư trú trên các địa bàn có vị trí chiến lược quan
trọng về chính trị, kinh tế, quốc phòng, an ninh và giao lưu quốc tế, đó là các vùng biên
giới, các vùng núi cao, hải đảo...nhiều vùng đồng bào dân tộc thiểu số trước đây là căn
cứ cách mạng và kháng chiến. Một số dân tộc có quan hệ dòng tộc với các dân tộc ở
các nước láng giềng và khu vực.